Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

Phương Pháp Khám Bệnh Bằng Máy Đo Áp Huyết Thay Cho Bắt Mạch Của Đông Y để biết Khí-Huyết

Hư-Thực,
Hàn-Nhiệt, Biểu-Lý một cách chính xác nhất của Ngành Y Học Bổ Sung-Khí Công Y Đạo Việt Nam.

Trước hết nhân loại phải cảm ơn nhà khoa học nào đã có sáng kiến chế tạo ra máy đo áp huyết để kiểm soát sức khỏe con người. Máy tuy đơn
giản, ít ai để ý sâu sắc về lý thuyết mà người chế tạo máy đã suy nghĩ như thế nào để thực hiện nó, tây y chỉ biết cách áp dụng trong thực nghiệm
lâm sàng, rồi thống kê thấy rằng áp huyết từ 95-140/65-90mmHg mạch nhịp tim đâp từ 60-80 là áp huyết của tim mạch tốt. Nếu cao hơn và thấp
hơn mới cho là có bệnh, và có bệnh thì phải uống thuốc chữa bệnh cao áp huyết suốt đời, dẫn đến biến chứng thành nhiều bệnh khác, ngoài ý
muốn.

Còn đông y trước kia, muốn khám bệnh cần phải có thầy giỏi biết bắt mạch để xem Khí-Huyết, Hư-Thực, Hàn-Nhiệt, Biều-Lý thì ngày nay chức
năng của máy đo áp huyết cũng có thể thay thế cho việc khám bệnh bằng mạch lại tiện lợi và có con số chính xác, khi biết cách sử dụng nó theo lý
thuyết đông y.

I-Cách sử dụng máy đo áp huyết theo tây y :

Tây y thường đo áp huyết bên tay trái. Máy cho ra 4 trường hợp :

1-Chức năng của máy là bơm ép khí đè nén trên mạch máu, tạo ra áp lực khí, nếu cơ thể có khí lực vừa đủ, tạo ra cân bằng áp lực, áp lực khí của
máy sẽ hạ và cho ra kết qủa, là áp huyết trung bình (tốt) so với tiêu chuẩn thống kê..

Sau khi đo xong, máy cho ra 3 con số : Số đầu, tây y gọi là số tâm thu từ 90-140 theo tây y là tốt. Số thứ hai, tây y gọi là số tâm trương, từ 65-90
theo tây y là tốt. Số thứ ba, tây y gọi là mạch nhịp tim đập từ 60-90 là tốt.

2-Nếu cơ thể có nhiều khí lực dư thừa, khiến máy phải bơm ép khí nhiều hơn mới cân bằng được, máy đo sẽ cho ra kết qủa là áp huyết cao hơn
một người bình thường theo thống kê tiêu chuẩn, gọi là áp huyết cao..

3-Nếu cơ thể thiếu khí, nên khí của máy ép vào mạch, không có lực chống đối, máy bơm lên rất ít rồi hạ xuống, cho ra kết qủa áp huyết thấp so
với tiêu chuẩn..
4-Nếu máy đang bơm ép khí vào mạch, tự nhiên máy ngưng, phải bơm lại tiếp, chứng tỏ trong lúc đang bơm ép khí đẩy máu trong ống mạch di
chuyển, nhưng trong ống mạch có khối mỡ kết tủa hay huyết khối tắc làm nghẽn mạch khiến khí ép của máy không ép được mạch, khiến nó phải
bơm tiếp, điều đó chứng tỏ có cholesterol kết tủa trong ống động mạch hay tĩnh mạch tích lũy từ lâu, chứ không phải lượng cholesterol có trong
chất lỏng của máu, nên thử cholesterol trong máu không phát hiện được, mà phải chụp hình, làm scan. Như vậy máy đo áp huyết vô tình phát hiện
ra sớm bệnh tắc nghẽn động mạch tim.

Đối với tây y chỉ biết đo áp huyết ở tay trái để tìm kết qủa trong 3 trường hợp 1,2,và 3, chứ không để ý đến trường hợp 4. Vì trường hợp 4, áp
huyết thay đổi, mặc dù máy bơm nhồi 2,3,4 lần sẽ cho ra kết qủa là áp huyết cao, nhưng khi khối cholesterol kết tủa trôi đi chỗ khác do mỗi lần
máy ép khí, nếu khí đi thông suốt bình thường, máy không bị nhồi, thì áp huyết lại xuống thấp hay cho ra kết qủa bình thường.

Nhiều bệnh nhân khi sử dụng máy, tưởng rằng máy đo áp huyết bị hư hỏng, đã mua máy mới để đo, cũng gặp lại trường hợp này, mà không hiểu
tại sao, hỏi bác sĩ cũng không giải thích được.

II-Cách sử dụng máy đo áp huyết theo phương pháp Khí Công Y Đạo :

Đối với đông y, chính nhờ máy đo áp huyết, đã làm sáng tỏ lý thuyết Âm-Dương, Khí-Huyết, Hàn-Nhiệt, Hư-Thực và Ngũ Hành Tạng Phủ bằng
những kết qủa cụ thể của máy đo trong mỗi trường hợp .

Qua kinh nghiệm nghiên cứu về áp huyết và cách sử dụng máy đo áp huyết trên lâm sàng trong 30 năm nay, môn Khí Công Y Đạo mới khám phá
ra cái hay của máy và cái hay của lý thuyết đông y ở những điểm sau :

1-Kết qủa về Khí và Huyết :

Theo Khí Công Y Đạo, không những dùng máy đo để biết áp huyết như tây y, nhưng chỉ theo kết qủa của tây y mà không biết nguyên nhân nào đã
làm áp huyết thay đổi, thì không thể nào có cách chữa đúng vào gốc bệnh được.

Cho nên Khí Công Y Đạo đặt giả thuyết số thứ nhất là số chỉ về khí, số thứ hai chỉ về sự đàn hồi của van tim, số thứ 3 chỉ về huyết.

Số thứ 2 là số lệ thuộc vào cơ co bóp của tim tối đa và tối thiểu để tim hoạt động bình thường, nó điều khiển cả khí và huyết tuần hoàn khắp cơ
thể, nên KCYĐ gọi là số chỉ sự đàn hồi của van tim
Theo một định đề khác của đông y, chỗ nào có máu chạy đến thì chỗ đó nóng ấm, chỗ nào máu không chạy đến đủ thì chỗ đó lạnh.

Khi quan sát và theo dõi những bệnh nhân đang nằm trong khoa cấp cứu tại bệnh viện. Khi máu nhiễm trùng hay bệnh nhân đang bị sốt, con số
thứ ba lên cao trên 120, khi chữa cho hết sốt, nhiệt độ giảm xuống thì số thừ ba trở lại bình thường 70-80. Như vậy số thú ba có liên quan đến
máu, KCYĐ gọi là số chỉ huyết.

2-Kết qủa về Hàn-Nhiệt :

Thực hành trên lâm sàng nhiều, khi bệnh nhân bình thường chân tay ấm áp, không nóng không lạnh, số thứ ba nằm ở khoảng 70-80 nhịp trong 1
phút, đối với nguời lớn tuổi.

Thông thường trên 90 đông y bắt được mạch Sác gọi là nhiệt, 100 là qúa nhiệt như cảm nắng, từ 120 trở lên là sốt do nhiễm trùng hay có virus
trong máu.

Thông thường dưới 70 đông y bắt được mạch Trì, gọi là hàn, dưới 60 thì đầu các ngón chân tay lạnh, dưới 50 là sốt rét lạnh.

Trường hợp 5 đầu ngón tay tê không có cảm giác là do thần kinh ngoại biên bị co thắt, thì không thuộc trường hợp hàn-nhiệt, mà theo một lý
thuyết khác của khí công : Khi thần kinh ngoại biên bị co thắt sẽ làm tăng áp huyết, hay ngược lại khi áp huyết cao thì thần kinh ngoại biên bị co
thắt. Như vậy, có người bị tê tay nào là bên tay ấy bị cao áp huyết.

3-Phân loại áp huyết tốt đúng tiêu chuẩn theo lứa tuổi theo kinh nghiệm của Khí Công Y Đạo :

Kiểm chứng bằng bắt mạch thuộc loại mạch Hòa Hoãn, có số đo như sau :

95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 6 tuổi-12 tuổi)

100-105/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)

110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)

120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

Nếu những ai ở độ tuổi tương ứng, mà có áp huyết cao hơn tiêu chuẩn gọi là áp huyết cao, chứ không phải theo tây y trên 140 mới là áp huyết
cao. Thí dụ trẻ 12 tuổi có áp huyết 130 là áp huyết ở tuổi trung niên, đối với tuổi thiếu nhi là bị bệnh áp huyết cao, chính điều này đã giải thích
được tại sao trẻ em sẽ có hậu qủa như chảy máu cam, sốt tê liệt, động kinh, bại não, tăng nhãn áp làm mắt trợn ngược.

Nếu người trong hạn tuổi trung niên hay lão niên, có áp huyết thấp hơn tiêu chuẩn qúa nhiều, chỉ bằng thiếu niên hay thiếu nhi, tây y cho là tốt,
đối với đông y, khi khám bệnh bằng bắt mạch vẫn cho là.thiếu khí huyết, cho là thầy đông y nói sai, tây y khám vẫn bảo áp huyết tốt. Hậu qủa áp
huyết thấp so với tuổi dẫn đến cơ thể suy nhược từ từ, thiếu máu đi nuôi khắp cơ thể sinh ra bệnh đau nhức, thiếu máu nuôi xương cốt sinh thoái
hóa khớp, đĩa đệm, thiếu khí huyết lên đầu sinh chóng mặt, hay quên, mắt mờ, tai lãng, kém ăn, mất ngủ là những bệnh thông thường của bệnh
áp huyết thấp chứ không riêng gì của tuổi già. Nặng hơn nữa, giống như một cây lớn không đủ nước nuôi cây, cây sẽ khô héo, lá cành không đủ
nhựa, lá rụng, cành gẫy, nhựa cây khô tắc khiến cây có nhiều cục u, trong cây rỗng, con người cũng vậy, cơ thể có những bướu nội tạng do khí
huyết tắc nghẽn, nếu tắc nghẽn trên đầu do thiếu khí huyết gọi là bệnh thiên đầu thống (migrain) hay bướu trên dầu, tây y gọi là bướu não, nghĩa
là nửa đầu do khí huyết tắc không lên đầu, đau nhức bên trong đầu, dùng ngón tay gõ bên ngoài bệnh nhân không có cảm giác đau, còn nửa đầu
bên kia khí huyết thông không bị đau, khi gõ vào da đầu có cảm giác, (khác với trường hợp cao áp huyết bị nhức đầu khi gõ vào da đầu cảm thấy
đau), nếu có bướu trong nội tạng gọi là ung thư như ung thư bao tử, gan, lá lách, phổi, ruột, thận, xương, hạch…, nếu ung thư toàn thân gọi là ung
thư máu…

Theo tây y, nhiều người ở tuổi trung niên trở lên, có áp huyết ở mức 100-110 tây y đều cho là thật tốt, qúa lý tưởng, có biết đâu rằng nó chính là
thủ phạm gây ra đau nhức mỏi như phong thấp, còn trong cơ thể có những bệnh do hậu qủa của áp huyết thấp kể trên tây y lại xem là chuyện
khác không liên hệ gì với áp huyết.

4-Tìm ra được Khí-Huyết liên quan đến tạng phủ.

Đông y khi khám bệnh, đều phải bắt mạch xem khí huyết của tạng phủ, như vậy, không phải khí huyết nào cũng là khí huyết của tim mạch khi
dùng máy đo áp huyết. Cũng nhờ ý tưởng này, Khí Công Y Đạo áp dụng máy đo áp huyết, gọi là máy đo khí huyết, đo khí huyết ở 2 tay, thấy có
sự khác biệt. Để giải thích tại sao có sự khác biệt ấy, chúng ta mới thấy được lý thuyết của đông y đã tìm ra nguyên nhân của bệnh cao áp huyết
do tạng phủ nào.
A-Áp huyết liên quan đến bao tử do ăn uống.

Theo Khí Công Y Đạo, nếu đo áp huyết bên tay trái, thì kết qủa số đo áp huyết lệ thuộc vào bao tử, mặc dù có uống thuốc điều trị kiểm soát áp
huyết mỗi ngày, nhưng ít ai để ý đến đo áp huyết trước khi ăn và sau khi ăn, hai kết qủa áp huyết khác nhau rất nhiều. Có 3 trường hợp xảy ra
như sau, được chia thành ba nguyên nhân do Tinh hoặc do Khí hay do cả Tinh và Khí làm ra bệnh:

a-Trước khi ăn, lúc đói áp huyết cao, sau khi ăn 30 phút đo lại thấy áp huyết thấp :

Không phải do uống thuốc điều trị bệnh áp huyết, mà do 2 nguyên nhân, nguyên nhân thứ nhất do chức năng bao tử hư không chuyển hóa, đông y
gọi là không có vị khí, là khí lực dùng để co bóp bao tử xay nghiền thức ăn thành dưỡng trấp, đó là nguyên nhân do Khí, nguyên nhân thứ hai vị
khí tốt xay nghiền thức ăn thành dưỡng trấp, nhưng trong thức ăn đó có loại thức ăn chứa một dược chất tương đương với thuốc làm hạ áp huyết,
như chanh, cà chua, cần tây, canh chua, đu đủ, đậu trắng, tỏi, hoặc như món ăn làm hạ áp huyết bằng súp đậu thận trắng…đó là nguyên nhân do
Tinh..

b-Trước khi ăn áp huyết thấp, sau khi ăn 30 phút, đo lại, thấy áp huyết cao :

Mặc dù bệnh nhân đã uống thuốc điều trị áp huyết vào buổi sáng, và đo trước khi ăn, áp huyết thấp, sau khi ăn không để ý đến áp huyết nữa,
nhưng có biết đâu rằng, mỗi lần sau khi ăn thấy mệt, buồn ngủ, nhức đầu, chính là do áp huyết tăng cao mà không ngờ, khi đó áp huyết có thể
cao lên đến 190/95mmHg mạch 90. Áp huyết tăng do hai nguyên nhân, nguyên nhân thứ nhất, thuộc Tinh, do bệnh nhân có ăn những chất làm
tăng áp huyết như nhiều gia vị cay, nóng, ngọt, bia rượu, nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng, mít, ổi, măng cụt, cam thảo, khô mực, coca, cà
phê,... và đã có nhiều người sau khi ăn gục xuống bàn chết, hay đi dự tiệc hội hè tối hôm trước, ngủ một đêm sáng dậy tê liệt hay chết, đó là
nguyên nhân do Tinh. Nguyên nhân thứ hai do ăn nhiều bội thực làm tăng vị khí đưa hơi lên tim, như trong bệnh trào ngược thực quản, đó là
nguyên nhân do Khí..

c-Trước khi ăn áp huyết thấp, sau khi ăn bữa sáng áp huyết cao, sau khi ăn bữa chiều áp huyết tăng cao nữa.

Thông thường người khỏe mạnh không có bệnh áp huyết, trước khi ăn, áp huyết thấp, sau khi ăn áp huyết cao, đến bữa ăn chiều trước khi ăn áp
huyết thấp trở lại, sau khi ăn áp huyết cao vẫn nằm trong tiêu chuẩn tốt.
Còn bệnh nhân càng ăn, áp huyết càng cao thêm là bệnh nhân đã có thêm bệnh bao tử, như vị khí thực, vị khí nhiệt, nếu cơ thể phải uống thêm
nhiều loại thuốc chữa bệnh theo cách chữa vào chứng là chữa ngọn, bao tử sẽ là thùng rác chứa nhiều vị thuốc trở thành một hỗn hợp tương phản,
sẽ không còn công hiệu trong điều trị mà trở thành độc tố, chỉ làm cho bao tử thực nhiệt thành bệnh loét bao tử, ung thư bao tử, đông y gọi là
bệnh phiên vị, lúc đó áp huyết sẽ cao thường xuyên mặc dù có uống thuốc điều trị áp huyết, đó là nguyên nhân vừa do Tinh vừa do Khí..

B- Áp huyết liên quan đến gan do tiêu hóa :

Theo Khí Công Y Đạo, nếu đo áp huyết bên tay phải thì kết qủa áp huyết liên quan đến gan.

Người bình thường không bệnh tật, đo áp huyết ở hai tay giống nhau, nằm trong tiêu chuẩn tốt.

Nhưng nếu một người có bệnh cao áp huyết đang dùng thuốc, sẽ có 5 trường hợp xảy ra sau đây :

a-Áp huyết tay trái thấp, tay phải cao.

Áp huyết tay trái thấp nhờ thuốc giãn mạch, khi tâm thu do tim bóp đẩy máu ra khỏi tim, nếu ống mạch căng cứng làm áp huyết tăng sẽ vỡ mạch,
nên tây y cho dùng thuốc giãn mạch là tác động vào cơ học làm giảm áp. Nếu đo áp huyết tay phải không chênh lệch nhiều là bệnh nhân mới dùng
thuốc điều trị cao áp huyết. Ngược lại nếu đã dùng lâu năm, mạch bên trái càng giãn thì mạch bên phải càng co lại, do phản ứng tự nhiên của cơ
thể để bảo vệ tim, có hai trường hợp xảy ra. Trường hợp thứ nhất, khi máu về tim do chức năng tâm trương, qủa tim mở lớn kéo hút máu về, cũng
theo tính chất cơ học, ống máu phải hẹp lại đẩy máu về tim là thuận lý. Trường hợp thứ hai, nếu mạch máu bên phải cũng bị thuốc giãn mạch làm
giãn nở, tim không đủ lực hút máu về, phải làm việc tối đa, khiến van tim bị hở, lại trở thành bệnh cao áp huyết mãn tính bên tay phải, do hậu qủa
của thuốc, vì thế việc uống thuốc suốt đời cần phải nghiên cứu lại, nguyên nhân gây ra bệnh này đông y xếp vào loại do Tinh, là do ăn uống hay
dùng thuốc men sai.

b- Áp huyết tay phải thấp hơn tay trái :

Theo đông y, khi can khí hư, can âm hư, can huyết hư, can dương hưlàm áp huyết tay phải thấp. Bốn tên gọi theo chức năng khác nhau, can khí là
chức năng co bóp của gan, can âm là cơ sở của lá gan tốt xấu, to nhỏ, lành lặn hay hư hỏng, can huyết là lượng máu chứa trong gan, can dương
nôm na là oxy chứa trong gan để bảo quản thành phần máu oxyde sắt tam Fe2O3 trong kho chứa của gan, nếu trong gan thiếu oxy, máu đỏ sẽ
biến thành máu bầm đen Fe2O2 hoặc thiếu Oxy nữa nên gan chứa nhiều chất sắt, khiến da mặt xanh đen, nguyên nhân gây ra bệnh này đông y
xếp loại do Khí và do Tinh (thiếu khí và thiếu máu ở gan).

c-Trước khi ăn áp huyết tay phải cao hơn tay trái :

Trước khi ăn áp huyết tay phải cao hơn tay trái là chức năng gan đang làm việc tạo men gan, chuẩn bị giúp cho bao tử khi ăn sẽ hấp thụ và chuyển
hóa thức ăn nhanh và hấp thụ chất bổ, đó là áp huyết bình thưòng vẫn nằm trong tiêu chuẩn.

d-Sau khi ăn áp huyết bên tay phải thấp hơn tay trái :

Sau khi ăn áp huyết bên tay phải thấp hơn tay trái cũng là bình thường, vì chức năng gan đã chuyển men gan sang giúp bao tử hoạt động xong.

e-Sau khi ăn áp huyết bên tay phải cao hơn tay trái.

Sau khi ăn áp huyết bên tay phải cao hơn tay trái, là chức năng gan hoạt động không bình thường, bệnh nhân không biết đói, và sau khi ăn xong,
cảm thây mệt, vì không có men gan giúp chuyển hóa, khi bao tử ăn vào, gan mới nhận tín hiệu sản xuất men gan để tống thức ăn ra ngoài, không
hấp thụ thành chất bổ được, vì can vị bất hòa, không hoạt động đồng bộ.

C- Áp huyết liên quan đến huyệt chức năng :

Ngoài cách đo áp huyết ở 2 tay bình thường, nhưng khi dùng tay bấm vào huyệt chức năng như chức năng của Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận, Vị, Tiểu
Trường, Đại Trường, hay bất kỳ một đại huyệt hay giao hội huyệt nào, áp huyết đều thay đổi khác nhau, có huyệt làm cho áp huyết xuống rất
thấp, có huyệt làm cho áp huyết lên rất cao, có huyệt tăng hàn, có huyệt tăng nhiệt, có huyệt làm tăng nhịp tim đập, có huyệt làm hạ nhịp tim …
mặc dù máy đo áp huyết vẫn để ở tay. Điều đó chứng tỏ dùng huyệt cũng có thể chỉnh được áp huyết trở lại bình thường, hay muốn chỉnh riêng
từng số, tâm thu, tâm trương, nhịp mạch theo ý muốn, tương đương với hiệu qủa của thuốc, từ đó chúng ta mới biết cổ nhân gọi các huyệt là nội
dược, khi bấm vào, nó tạo là một dẫn truyền qua hệ thần kinh giao cảm tác động lên não, hệ thần kinh trung ương ra lệnh tạo ra một phản xạ đối
kháng làm cơ thể tự tiết ra một loại hormon như endorphine để điều chỉnh cân bằng âm dương, Như tác động vào huyệt kích thích tăng âm bằng
một lực nào đó, cơ thể sẽ phản xạ điều tiết ra một loại hormon dương với lực tương đương, hay ngược lại. Do đó các thầy thuốc đông y hay châm
cứu day bấm huyệt biết sử dụng huyệt theo ngũ hành và theo chức năng đúng sẽ có hiệu qủa tương đương như ngoại dược mà không có phản ứng
phụ có hại cho cơ thể.
D- Áp huyết liên quan đến Ngũ Hành Tạng Phủ.

Theo tây y, áp huyết là bệnh của tim mạch, chia làm hai loại : Loại bệnh thuộc chức năng, không tổn thương tim mạch, loại do tổn thương tim
mạch, như tắc nghẽn do cholesterol, do tim to, tim nhỏ, hẹp van, hở van, vách thành tim dầy, mỏng, do màng mỡ bao tim...

Theo đông y những nguyên nhân đó là những nguyên nhân trực tiếp, còn những nguyên nhân tại sao lại bị như thế, thì tây y giải thích do ăn uống
như ăn nhiều chất béo, kém vận động, bẩm sinh... để giải thích cho trường hợp bệnh tim mạch có tổn thương thực thể, còn loại không tổn thương
thưc thể không giải thích được nguyên nhân, chỉ giải thích được hiện tượng.

Còn đông y giải thích theo sự khí hóa ngũ hành tạng phủ, dùng quy ước ngũ hành đặt cho 5 tạng, thuộc âm, chứa nhiều huyết, như Tâm gọi là
hỏa, hỏa sinh thổ đặt cho Tỳ, thổ sinh kim đặt cho Phế, kim sinh thủy đặt cho Thận, thủy sinh mộc đặt cho Can. Phủ là dương, chứa nhiều khí, giúp
cho tạng cùng hành hoạt động tốt

Như vậy bệnh của tim do nhiều yếu tố xét theo ngũ hành sinh khắc, để sắp xếp theo chứng bệnh thuộc hư chứng hay thực chứng. Hư chứng chỉ do
ảnh hưởng ngũ hành mẹ-con như tim hư gọi là hỏa hư, do mẹ nó là mộc không sinh hỏa, như vậy là tại gan, hỏa hư hay tim hư cũng do con nó là
thổ lấy nhiều năng lượng hỏa của nó để sinh thổ, như vậy là do tỳ vị ăn nhiều chất hàn lạnh làm ngưng đọng sự tuần hoàn khí huyết, nên đã lấy đi
của mẹ là tim nhiều hỏa giúp cho nó hấp thụ chuyển hóa thức ăn. Do đó, khi đo áp huyết trước khi ăn và sau khi ăn sẽ khác nhau rất nhiều.

Ngoài ra, khi tim bị bệnh thực chứng do bệnh chứng truyền kinh, thì bất kỳ hành nào cũng có thể truyền bệnh làm hại cho tim được, cũng theo quy
luật ngũ hành sau đây :

a-Nguyên nhân do thủy khắc hỏa, thận truyền kinh làm hại tim:

Như thủy là thận khắc hỏa là tim, như trong trường hợp suy thận phải đi lọc thận, nếu chúng ta có người thân phải đi lọc thận, muốn biết kết qủa
lọc thận của họ tốt hay xấu, chúng ta đo áp huyết trước khi đi lọc và sau khi lọc, xa hơn nữa, kiểm soát theo dõi áp huyết thường xuyên từ năm
trước so sánh với áp huyết hiện tại. Có hai trường hợp xảy ra để biết phưong pháp chữa lọc thận là đúng hay sai :

Phương pháp lọc thận có kết qủa khi áp huyết thấp, sau khi lọc thận một thời gian, áp huyết tăng dần đến bình thường. Hoặc ngược lại, trước khi
lọc thận áp huyết qúa cao, sau một thời gian lọc thận, áp huyết xuống thấp trở lại bình thường. Khi áp huyết trở lại bình thường, bệnh nhân cảm
thấy khỏe thì nên ngưng lọc thận, trường hợp này là chức năng tâm-thận đã giao hòa (thủy hỏa ký tế)
Phương pháp lọc thận không có kết qủa khi áp huyết thấp, sau khi lọc một thời gian, hỏa càng ít, thủy càng tăng, chân tay, mặt sưng phù nước, áp
huyết áp càng xuống thấp cho đến khi sắp lìa đời mà không biết nguyên nhân. Khi xuống đến 70/65mmHg mạch 60 thì bệnh nhân co cứng người,
tim ngừng đập, tắt thở. Nếu không đo áp huyết kiểm chứng, chúng ta không thể nào biết nguyên nhân chết là thủy dập tắt tâm hỏa. Do đó, đa số
những bệnh nhân đi lọc thận mà không kiểm chứng bằng máy đo áp huyết để biết phương pháp lọc làm cho sức khỏe mình tốt hơn hay xấu hơn,
để tự quyết định tiếp tục điều trị hay ngưng điều trị, để tránh đi trên con đường dẫn đến cửa tử thần.

b-Nguyên nhân do kim thừa khắc hỏa, phổi bệnh làm hại tim :

Theo ngũ hành, thay vì hỏa khắc kim, nhưng ngược lại kim thừa khắc hỏa do phổi bị bệnh như hen suyễn làm rối loạn nhịp thở, rối loạn tim mạch
khiến áp huyết thay đổi.

c-Nguyên nhân do thổ lấn hỏa, con lấn mẹ, tỳ vị thực đưa khí lên hại tim.

Theo ngũ hành, thay vì hỏa sinh thổ, ngược lại thổ dư thừa khí huyết đưa trả về tim, làm thay đổi rối loạn áp huyết.

d-Nguyên nhân do mộc là gan hay thổ là tỳ vị, hư hay thực đều có ảnh hưởng đến tim mạch rối loạn làm áp huyết cao hay thấp.

E- Áp huyết Giả và áp huyết Thực:

Muốn phân biệt được áp huyết giả và áp huyết thực, có nghĩa là đo áp huyết tự nhiên ở hai tay theo tây y, chưa áp dụng phương pháp điều chỉnh
bằng hơi thở hay bằng huyệt, kết qủa áp huyết đo được là áp huyết giả. Thí dụ áp huyết đo ở tay trái là 165/92mmHg, mạch 80, tay phải là
148/88mmHg mạch 73.

Theo định nghĩa của khí công, áp huyết tay trái cao do ảnh hưởng của bao tử, do khí huyết ngưng tụ nhiều ở bao tử đưa lên tim làm áp huyết tim
mạch xáo trộn. Nếu không biết điều chỉnh theo nguyên nhân dựa vào lý thuyết đông y khí công, thì áp huyết này vẫn được xem như là áp huyết
thực, cần phải uống thuốc làm hạ áp huyết cho xuống, đến khi ăn áp huyết lại cao, cứ vòng luẩn quẩn ấy mà không kiểm soát được cho áp huyết
ổn định, nên đó cũng là lý do phải uống thuốc chữa bệnh áp huyết suốt đời.

Tuy nhiên, theo Khí Công Y Đạo, công dụng của máy đo áp huyết là đo khí và huyết, để biết khí hay huyết thừa hay thiếu, cao hay thấp so với tiêu
chuẩn khí công.Từ đó chúng ta có thể điều chỉnh lại khí và huyết bằng 3 cách :
Điều chỉnh Khí bằng hơi thở, điều chỉnh khí bằng huyệt ngũ hành theo tạng phủ, điều chỉnh Huyết thuộc Tinh là điều chỉnh những thức ăn phù hợp,
những loại làm tăng hay những loại làm hạ áp huyết theo quy luật âm dương ngũ hành tạng phủ để điều chỉnh áp huyết trở lại bình thường theo
tiêu chuẩn..

a-Cách điều chỉnh bằng Khí làm cho áp huyết thấp:

Khi áp huyết cao là trong cơ thể áp lực khí dư thừa, bằng cách nào đó cho khí dư thừa mất đi mà không ảnh hưởng đến nhịp mạch tim đập, người
khỏe mạnh dùng phương pháp chủ động, có thể thổi hơi ra như tập thổi chong chóng, tập thổi bếp lửa 5 phút, khi đo lại áp huyết sẽ xuống thấp
một cách tự nhiên. Đối với người già lớn tuổi, khí trong phổi không đủ hơi thổi ra, trong khi áp lực khí từ bao tử đẩy lên tim làm cao áp huyết, hoặc
răng móm không tập thổi được, chúng ta sẽ làm cho khí thoát ra tự nhiên bằng miệng, dùng phương pháp thụ động, bằng cách lấy bông gòn nhét
vào hai lỗ mũi, nằm nghỉ ngơi tự nhiên, cơ thể tự điều chỉnh cách thở bằng miêng, để máy đo áp huyết ở tay thường xuyên, cứ sau 5 phút bấm
máy đo một lần, thấy áp huyết xuống dần từ từ, lúc đầu áp huyết cao là áp huyết giả do Tinh-Khí-Thần không hòa hợp, nhịp mạch rối loạn không
ổn định, khi nghỉ ngơi, thở tự nhiên bằng miệng, đến khi mạch hòa hoãn, áp huyết xuống thấp tự nhiên đó mới là áp huyết thực.

Có trưòng hợp áp huyết tăng do khủng hoảng thần kinh, lo sợ vô cớ, do tập thiền sai nên bị bệnh mất ngủ... là nguyên nhân do Thần. Đã có một
nữ sinh viên y khoa học chuyên khoa tâm thần, tên Natali, đã dùng đủ loại thuốc an thần, các loại vitamines, mà tâm thần vẫn khủng hoảng lo sợ,
phát khóc vô cớ, khi đến gặp tôi, đo áp huyết bên tay trái trung bình, tay phải cao, trán nóng, tai đỏ, chảy nước mắt, cô nói cô bị bệnh do nhiều
émotions (sự xúc động, nhiều cảm xúc) tôi hướng dẫn cô thở làm hạ áp huyết, nhưng cô không thở được, tâm không kiểm soát được hơi thở, vì
đầu óc cô suy nghĩ lung tung, không tập trung vào hơi thở, tự nhiên ngưng thở như bị chặn hơi ở ngực, rồi bật ra tiếng khóc, giống như người
không biết bơi mà bị ngã xuống nước, hốt hoảng sợ hãi khi ngụp lặn trong nước, cũng như thế, thỉnh thoảng cô bị nghẹt thở, cô nói cô không thể
tập thở được, lúc đó máy đo áp huyết vẫn để ở tay phải, khi bấm máy đo lại áp huyết là 160/90mmhg mạch 92 so với lứa tuổi thanh niên là áp
huyết cao. Sau đó tôi đề nghị cô nhét bông gòn vào hai lỗ mũi, để miệng thở tự nhiên, không cần để ý đến hơi thở, cô cứ thả lỏng người, như một
em bé đang ngủ, khi tâm thần cô bình thản, bấm máy đo, áp huyết xuống 142/90mmHg mạch 88, hai phút sau đo lại xuống 124/80mmHg mạch
75, hai phút sau đo lại xuống 112/70mmHg mạch 70, thế là cô cảm thấy người bớt căng thẳng, cô mỉm cười cảm thấy thích thú tự tin theo phương
pháp không cần luyện thở này cô gọi nó gọi là phương pháp thần kỳ.
Chúng ta có thể phối hợp theo 2 cách, vừa nhét bông gòn vào mũi, vừa thổi hơi ra bằng miệng đều trong điều kiện nằm nghỉ ngơi, áp huyết thật sẽ
thấp.

Tuy nhiên hãy coi chừng những bệnh nhân lớn tuổi, khi nằm ngủ, hay khi nằm trên giường bệnh, miệng càng ngày càng há to, vô tình làm mất khí,
áp huyết xuống thấp dần, thấp dần đến ngưỡng cửa tử thần 70/60mmHg mạch 55-60 người lạnh, sau một đêm ngủ an lành sáng hôm sau đã ra
người thiên cổ, vì không ai chịu để ý đến áp huyết theo tiêu chuẩn. Trường hợp này muốn giữ khí để áp huyết đừng hạ thấp, miệng phải ngậm lại.

b-Cách điều chỉnh áp huyết thấp thành cao tạm thời.

Nhưng hãy cẩn thận, phương pháp của Khí Công Y Đạo không sợ bệnh áp huyết cao, là tình trạng khí huyết dư thừa tạm thời tạo ra áp huyết giả,
sẽ tập thở bằng miệng, hay nhét bông gòn vào hai lỗ mũi, thở tự nhiên bằng miệng, cho áp huyết giả xuống, để trở lại áp huyết thật.

Nhưng nếu chúng ta có Áp Huyết Thật rất thấp là do khí huyết thiếu hụt trầm trọng, cứu không kịp, áp lực khí không đủ đẩy máu lên nuôi não làm
nhũn não gây tử vong nhanh chóng. Chúng ta chỉ cứu được tạm thời bằng cách tăng cường thêm khí, chứ cơ thể thiếu máu, thì không thể tăng
cường máu có kết qủa nhanh được, cần phải mất thời gian lâu điều chỉnh ăn uống thêm những chất bổ máu, những chất tăng dương tăng nhiệt..

Có hai cách để cấp cứu khi áp huyết thấp bên lề cửa tử 70-80/60-65mmHg,(mạch trầm) khi cơ thể thoát dương thì mạch nhanh 90-100 (mạch sác)
làm nhiệt hay khi cơ thể hàn, gân cơ co quắp, cứng họng cứng lưỡi có mạch 50-60 (mạch trì), vừa tăng khí bằng vuốt huyệt, vừa tăng huyết bằng
thuốc bổ máu sirop Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin), cho ngay 2-4 muổng canh pha với nước gừng nóng đổ vào miệng bệnh nhân. Theo ngũ hành
gừng có vị cay ấm, liễm khí, vào bao tử bổ thổ để dưỡng mẹ là tâm hỏa, vừa khắc chế thủy làm mất hàn, sau đó vuốt huyệt từ Can Du lên Tâm Du
36 lần, dùng gan mộc sinh tâm hỏa, lúc đó thận thủy dư thừa thay vì khắc hỏa dập tắt tâm hỏa, nay phải nuôi con nó là gan đã mất đi năng lượng
nuôi tâm, nên 3 hành thủy mộc hỏa được điều hòa cân bằng không sinh không khắc, hay bấm giữ hai huyệt Ế Phong sau tai để duy trì oxy khí
huyết trên não, bệnh nhân sẽ thoát được cái chết do áp huyết tụt thấp, nhất là trong trường hợp bệnh nhân sau khi đi lọc thận về, đã có nhiều
bệnh nhân qua khỏi thời kỳ nguy hiểm do người thân biết áp dụng môn khí công y đạo, cứu người bằng phương pháp này làm cho áp huyết của
bệnh nhân tăng lên vượt qua được thời kỳ nguy hiểm 90-110/70-80mmHg mạch 70-80, do đó, yêu cầu bệnh nhân phải xét lại có nên lọc thận tiếp
tục theo tây y hay không trong trường hợp chưa phục hồi được áp huyết bình thường theo tiêu chuẩn.

F- Áp huyết liên quan đến Hàn giả Nhiệt, Nhiệt giả Hàn :
Những bệnh nan y, tây y và đông y khó chẩn đoán, nên đông y có môn học Thương Hàn Luận. Từ lý thuyết còn xa với thực tế lâm sàng, nếu không
có máy đo áp huyết cho ra con số chính xác.

Thí dụ trong trường hợp chảy máu cam hay thổ huyết, có dấu hiệu lâm sàng như môi khô, người nóng, rêu lưỡi khô vàng nứt, đắp chăn, bệnh nhân
sợ uống nước nóng, ăn thức ăn nóng. Đã có nhiều thầy thuốc nhiều năm hành nghề, chẩn đoán là nhiệt chứng, cho thuốc hàn, bệnh nhân càng thổ
huyết nhiều hơn. Khi ba bốn thầy hội chẩn, cũng cho là nhiệt chứng, nhưng nghĩ rằng vì cho liều lượng chữa hàn ít qúa, cần phải tăng thêm, nhưng
bệnh nhân càng thổ huyết nhiều gấp đôi. Còn những thầy đã có kinh nghiệm, biết bệnh chứng là hàn giả nhiệt, chữa vào gốc bệnh làm tăng tâm
hỏa, cho dùng quế tâm nhiều, bệnh nhân vừa uống xong, cảm thấy khỏe, không thổ huyết, còn khen thuốc mát qúa, chứ không phải chê thuốc
nóng qúa.

Đa số những bệnh nan y khó chữa, nếu thầy không có kinh nghiệm dễ bị chữa sai lầm khiến bệnh hư càng thêm hư, thực càng thêm thực. Muốn
tránh được tình trạng này, ngày nay nhờ máy đo áp huyết, chúng ta biết ngay được hàn giả nhiệt hay nhiệt giả hàn, mà không cần tranh cãi lý
thuyết, hoặc áp dụng cách chữa sai lầm như trên nữa, bằng cách trước khi chữa, đo áp huyết ở hai tay, lấy cả 3 số, rồi so sánh kết quả sau khi
chữa.

a-Số đo áp huyết chỉ Hư-Nhiệt :

Hư chỉ về Khí là số đầu của máy đo, Nhiệt là số thứ ba chỉ mạch tim đập, thí dụ một bệnh nhân có số đo áp huyết rất thấp so với tiêu chuẩn như
85/65mmHg mạch 120, số 85 là Hư, số 120 là Nhiệt, đo nhiệt độ, đầu trán, chân tay nóng, da khô, lưỡi khô, sắc mặt đỏ bầm tối. Nguyên nhân vừa
thiếu khí vừa thiếu huyết, cần phải bổ khí và huyết.

b-Hư Nhiệt giả Hàn :

Nếu bệnh nhân có số đo áp huyết như trên(85/65mmHg mạch 120), nhưng mặt trắng xanh, môi lưỡi khô, tay chân lạnh, đắp chăn, mặc áo ấm,
nếu không phải thầy giỏi không thể biết được chứng nghịch với mạch là nhiệt gỉa hàn, nhưng nhờ máy đo áp huyết chỉ nhịp mạch 120 là nhiệt,
trong khi bệnh nhân lạnh là giả hàn, chữa sai lầm, bệnh nhân có thể chết ngay sau khi chữa.

Theo tây y, khi khám tìm ra bệnh ung thư của một bệnh nhân, các bác sĩ không chữa theo cách đối chứng trị liệu lâm sàng như đông y, là tùy vào
tình trạng sức khỏe của bệnh nhân để diều trị, mà chỉ chữa theo bài bản định sẵn cho cách điều trị bệnh ung thư, nên ban đầu trước khi chữa, áp
huyết của bệnh nhân 115/75mmHg mạch 120. Theo kinh nghiệm của Khí Công Y Đạo, nếu mạch 120 chân tay nóng là bệnh Hư-Nhiệt do thiếu
máu, nếu chân tay lạnh là Hư Nhiệt giả Hàn, vừa thiếu máu vừa thiếu khí, muốn biết khí lực thực trong cơ thể bệnh nhân, lấy mạch 120 trừ cho
tiêu chuẩn 75, mạch đã phải đập nhanh hơn 45 lần, lấy số đo khí 115 trừ 45, áp huyết thực sẽ là áp huyết bên lề cửa tử 70/75mmHg mạch 75.
Cho nên ngày hôm trước sau khi hóa trị liệu lần thứ nhất áp huyết tụt xuống còn 90, ngày hôm sau áp huyết tụt còn 70, mẹ của bệnh nhân yêu
cầu ngưng không được lấy máu thử nghiệm và tiếp tục hóa trị nữa, mà cần phải truyền thêm máu cho áp huyết của con bà đừng xuống thấp, vì khí
huyết trong cơ thể mất dần, bệnh nhân đã kiệt sức. Bác sĩ cứ điều trị tiếp tục, khi vừa mới rút máu để thử nghiệm lần thứ ba, bệnh nhân thở hắt
hơi ra đi qua bên kia thế giới sau một tích tắc, mà trước đó 1 tuần ở nhà còn đi đứng ăn uống được. Như vậy tây y chữa bệnh ung thư không căn
cứ vào thể lực kiểm chứng bằng máy đo áp huyết mới xảy ra hậu qủa thương tâm này.

Trường hợp bệnh ung thư nặng khó chữa nhất của chứng Hư-Nhiệt giả Hàn là bệnh ung thư máu cấp tính. Nhưng nếu biết cách khám bằng máy đo
áp huyết, thì số đo áp huyết từ lúc còn nhỏ tuổi đến lớn tuổi, áp huyết lúc nào cũng thấp so với tiêu chuẩn, thí dụ ở tuổi thanh niên có số đo áp
huyết của thiếu niên, lớn tuổi đến trung niên, cũng có số đo áp huyết của thiếu niên, lên đến 60 tuổi trở lên cũng có số đo áp huyết của tuổi thiếu
niên, số đo áp huyết chênh lệch càng cách biệt nhiều, đó là dấu hiệu báo trước của một căn bệnh nan y tiềm ẩn, mà không có vi trùng virus nào
làm ra bệnh, thì đó là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư.

c-Số đo áp huyết chỉ Hư-Hàn :

Thí dụ số đo áp huyết của một người là 90/75mmHg mạch 60, chân tay mát hay hơi lạnh, đối với tây y, họ là người không có bệnh, sau khi thử
máu, khám tổng quát, vẫn cho là tốt. Nhưng thật ra khí huyết không đủ nuôi khắp cơ thể, nếu khí huyết không lên đầu sinh chóng mặt, hay quên,
tóc rụng, tây y tìm không ra nguyên nhân, nếu khí huyết không nuôi cơ quan tạng phủ nào thì cơ quan tạng phủ đó sẽ bị bệnh. Khi người có áp
huyết thấp mà tuổi càng cao, chân tay yếu, tây y vẫn chưa tìm ra bệnh. Đã có một cô tuổi gần 60, hãnh diện là áp huyết lúc nào cũng khoảng 100,
bác sĩ bảo là tốt, cô bảo cô không có bệnh tật gì. Nhưng một hôm cô đi trong nhà, chân yếu, quỵ chân xuống ngã ngồi, đầu không va đụng vào
đâu hết, nằm bất tỉnh. Khi người con đi làm về, chở dến nhà thương, cô tỉnh lại, bác sĩ báo cho biết cô bị ung thư não, cần phải chữa trị, một tuần
sau cô chết, cũng vì áp huyết tục xuống dưới 70mmHg.

Những trường hợp áp huyết chỉ hư hàn đa số là mầm mống ung thư loại mãn tính như ung thư máu mãn tính. Qua xét nghiệm máu, kết qủa cũng
nằm trong tiêu chuẩn, nhưng để ý theo dõi kết qủa từng kỳ về hồng cầu, lần thứ nhất kết qủa nằm trong tiêu chuẩn bên tối đa, dần dần nằm trong
tiêu chuẩn tối thiểu, khi nào lọt ra ngoài dưới tiêu chuẩn, tây y mới kết luận là tủy bất sản, tế bào tủy không sinh sản ra hồng cầu, lúc đó qúa
muộn để chữa trị.

d-Hư Hàn giả Nhiệt :

Thí dụ áp huyết 88/65mmHg mạch 55, số 88 chỉ Hư, mạch 55 chỉ Hàn, nhưng bệnh nhân chân tay nóng đổ mồ hôi dầm dề, người cảm thấy mệt
mỏi mất sức, chân tay vô lực, nói không ra hơi, không nhấc tay chân cử động được. Trường hợp này theo đông y gọi là thoát dương, cho uống
Đương Quy Tửu pha với ngước gừng nóng vừa bổ khí, vừa bổ huyết, liễm dương, cầm mồ hôi, người mát trở lại.

e-Số đo Áp huyết chỉ Hư giả Thực, Thực giả Hư :

Có một bệnh nhân đang nằm bệnh viện trong phòng cấp cứu, do tai biến mạch máu não nhẹ, sau khi chữa tỉnh, cho ra nằm phòng hồi sức, và tập
vật lý trị liệu. Nhưng kết qủa là không tập được, ví có khi chân tay mạnh, có khi người đổ mồ hôi hàn, mất sức, mệt tim, lại không tập được, vì áp
huyết không ổn định, khi qúa cao khi qúa thấp, kéo dài trong một tháng điều trị để điều chỉnh mà không có kết qủa.

Thân nhân mời tôi vào bệnh viện để giúp cho bệnh nhân, khi đo áp huyết, tay phải cao 220/140mmHg mạch 44, tay trái 160/120mmHg mạch 120.

Theo kinh nghiệm của Khí Công Y Đạo, áp huyết tay phải là Thực và Hàn, tay trái là Thực và Nhiệt. Áp huyết tay phải liên quan đến gan, tay trái
kiên quan đến bao tử, như vậy thuộc chứng mộc thổ bất hòa, hàn nhiệt tương tranh.

Cả hai bên đều thực, áp huyết tăng cao vẫn có nguy hiểm đút mạch máu não gây biến chứng tai biến mạch máu não lần thứ hai, tôi châm nặn
máu thập tuyên và thập nhị tĩnh huyệt, điều chỉnh áp huyết bấm huyệt Trung Quản điều chỉnh trung tiêu, hướng dẫn cho bệnh thở ở huyệt Trung
Quản, đo áp huyết hai tay xuống 140/95mmHg nhưng mạch không ổn định, lúc 90 lúc 60, thuộc loại rối loạn áp huyết. tôi đề nghị cho uống súp tự
chế : 100g đậu thận trắng (white kidney bean) với 100g tép tỏi, nấu với 2 lít nước, cạn còn 1 lít, vớt vỏ tỏi ra rồi tất cả bỏ vào máy xay sinh tố xay
thành bột, uống hết 1-2 lần trong ngày, uống mỗi ngày khi đo áp huyết xuống 130/80mmHg mạch 75 thì ngưng. Một tuần sau tôi vào tái khám,
bệnh nhân có số đo áp huyết lý tưởng, đang đi lại trong bệnh viện như người bình thường, anh cho biết, các bác sĩ ở đây ngạc nhiên không hiểu tại
sao tôi lại khỏe và áp huyết ổn định, họ nghi ngờ chắc mình ăn cái gì đó, hôm nay y tá lấy trong tủ lạnh chén súp tôi còn cất ở trong đó đem thử
nghiệm và để ở trước bàn, chắc có lẽ lát nữa bác sĩ sẽ hỏi là tôi ăn cái gì, tôi sẽ phải trả lời ra sao. Tôi nói : Anh cứ bảo là súp Việt Nam, chiều hôm
đó anh được xuất viện, anh vẫn tập khí công và theo dõi áp huyết và tự biết cách điều chỉnh để ổn định áp huyết mỗi ngày.
G-Áp huyết liên quan đến Biểu-Lý :

Có một bệnh nhân hơn 50 tuổi bị đau vai và cánh tay phải không nâng tay lên được, đầu tay tê, đến phòng mạch của tôi để chữa. Khi nằm trên
giường khám, tôi cầm máy đo áp huyết để khám, ông bực mình, chắc tự ái nghề nghiệp, ông cho biết ông là một bác sĩ đang làm ở bệnh viện gần
đây, ông kiểm soát áp huyết thường xuyên mỗi ngày, lúc nào cũng ổng định ở mức 120. Tôi nói : Ông hãy chờ xem. Khi đo tay trái 120/82mmHg
mạch 75, ông bảo, đấy tôi nói có sai đâu. Tôi lại trả lời, ông chờ xem. Tôi đo bên tay phải, có số đo 170/88mmHg mạch 75. Tôi hỏi lại ông, ông giải
thích cho tôi biết tại sao áp huyết tay này lại cao không ? Ông cãi : Không thể nào. Ông yêu cầu tôi đo tay trái. Tôi trả lời, tay trái nếu đo lại cũng
120, nếu đo lại tay phải cũng 170. Cuối cùng đo lại cả hai tay vẫn có kết qủa tương tự tay phải cao hơn tay trái. Ông hỏi tại sao lại như thế, lần
đầu tiên tôi mới thấy đo áp huyết tay phải.

Tôi giải thích cho ông quy luật của khí công, khi thần kinh ngoại biên của tay nào bị co thắt thì tay bên đó có áp huyết cao, nên ông bị đau tai vai
bên áp huyết cao. Ông hỏi, chữa làm sao. tôi trả lời tôi không chữa đau tay vai, chỉ cần làm hạ áp huyết ở tay phải thì ông hết đau tay vai, tôi
châm nặn máu 6 tĩnh huyệt tay, và 5 huyệt thập tuyên đầu ngón tay nặn ra máu ứ bầm tắc nghẽn, do lại áp huyết xuống 126/80mmHg mạch 75,
rồi bảo ông cử động tay vai xem còn đau không, ông trả lời hết đau rồi, sau 10 phút ông đã khỏi bệnh.

Trường hợp này là bệnh còn ở biểu, chưa vào lý làm tổn thương gan khi đo áp huyết bên tay phải. Ngược lại một bệnh nhân không đau tay vai, mà
chai gan, sưng gan, áp huyết tay phải rất cao, đó là áp huyết liên quan đến lý, có trường hợp Hư Nhiệt áp huyết thấp mạch cao. Hư Hàn áp huyết
thấp mạch thấp. Thực Nhiệt áp huyết cao mạch cao. Thực Hàn áp huyết cao mạch thấp. Bệnh nan y là hư giả thực, thực gỉa hư, hàn giả nhiệt,
nhiệt giả hàn.

H- Áp huyết liên quan đến Tinh-Khí-Thần.

Nguyên nhân gây bệnh đều do 3 yều tố Tinh-Khí-Thần không hóa hợp gây ra, nên cách tìm bệnh hay chữa bệnh cũng dùng đối chứng lâm sàng
dùng Tinh-Khi-Thần để điều chỉnh lại cho khỏi bệnh, đó là phương pháp của Khí Công Y Đạo.

a-Tinh :

Trong những dẫn chứng kể trên, áp huyết đang thấp, chỉ thay đổi món ăn thức uống hay thuốc men, đông y gọi chung là Tinh, sẽ làm thay đổi áp
huyết tốt thành xấu, xấu thành tốt. Như áp huyết thấp dùng Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin), áp huyết cao dùng Súp Đạu Thận Trắng với 100g tép
tỏi. Và phải biết ăn uống kiêng cữ cho phù hợp với bệnh để tránh tình trạng hư làm thêm hư, thực làm thêm thực.Muốn biết kết qủa ăn món ăn nào
lợi, món nào hại, ngay cả những phương pháp dinh dưỡng đặc biệt của Oshawa hay của tây phương, đều phải kiểm chứng bằng máy đo áp huyết,
máy đo áp huyết chính là bác sĩ gia đình giỏi nhất. Ngay cả bệnh tiểu đường, nhiều người cho rằng ăn món này đường xuống, ăn món này đường
lên. Không nên tin ai cả, phải thử nghiệm bằng máy móc là máy đo áp huyết và máy đo đường. Thực nghiệm trên bản thân, trước khi ăn tôi đo
đường 6.0mmol/l, sau khi tôi ăn bánh mì cà phê buổi sáng, đo đường lên 12.0mmol/l là bình thường, tôi ăn thêm một cái bánh bao thập cẩm, hy
vọng đường sẽ cao lên 18.0mmol/l để còn uống thử nghiệm thuốc chữa tiểu đường như sữa Hạnh Nhân, Lá Dứa..., nhưng sau khi vừa ăn xong, thử
lại đường xuống còn 6.0, đừng thắc mắc, tranh cãi đúng sai, tin hay không tin, chỉ có thực nghiệm lâm sàng, kiểm soát bằng máy móc trên cơ thể
mình mới là kết qủa chính xác, các món ăn tùy hợp hay không hợp với mỗi người khác nhau.

b-Khí :

Có hai loại khí tự động và chủ động, khí có thăng, giáng, có thủy hỏa, có liễm xuất, có âm có dương, có hàn nhiệt...

Như dẫn chứng trên, muốn làm hạ áp huyết tự động, chỉ cần nhét bông gòn vào hai lỗ mũi, thở tự nhiên bằng miệng, đó là tự động, không phải
chủ động.

Còn chủ động do tập luyện theo các bài tập thể dục động công, chọn những bài thích hợp để chữa bệnh, và đo kiểm chứng áp huyết trước và sau
khi tập.

Có nhiếu loại khí công ai cũng nói là khí công chữa bệnh, như Tài Chi, Dưỡng Sinh, Càn Khôn Thập Linh, Nhân Điện, Năng Lượng, Vô Vi, Thần
Quyền....mỗi môn phái có cái hay riêng, nhưng dùng để chữa bệnh, cần phải đo áp huyết trước và sau khi tập xem áp huyết từ xấu thành tốt thì
nên tập. Còn các môn phái muốn áp dụng để trở thành môn chữa bệnh, phân ra từng bài, kiểm chứng bài nào có giá trị làm tăng áp huyết để dạy
cho người áp huyết thấp, bài nào có giá trị làm hạ áp huyết để dạy cho những người áp huyết cao, bài nào có thể chữa làm hạ đường, cholesterol,
chữa bệnh mất ngủ do hư chứng hay thực chứng....mới trở thành hữu dụng một cách thực tiễn giúp cho những người bệnh.

c-Thần :

Khí Công Y Đạo có phương pháp thở thiền làm tăng áp huyết, hạ áp huyết, thiếu khí, dư khí, chữa hàn nhiệt, chữa đường, mỡ máu, mất ngủ hư
chứng, thực chứng, chữa vào lục phủ ngũ tạng tùy theo hư chứng hay thực chứng, phát triển trí não và phát triểm tâm linh...
Tóm lại :

Phương pháp chữa bệnh của Khí Công Y Đạo hướng dẫn mọi người cách sử dụng máy đo áp huyết để Khám Bệnh, lý luận Định Bệnh theo ngũ hành
tạng phủ, tự Chữa Bệnh bàng cách điều chỉnh Tinh (ăn uống thuốc men), điều chỉnh Khí do tập thể dục khí công, điều chỉnh Thần do thập thở
thiền, giúp cho cơ thể tự động điều chỉnh Âm-Dương, Khí-Huyết được quân bình, cơ thể khỏe mạnh, tăng cường thể lực phòng chống bệnh tật,
sống vui khỏe yêu đời, không lo đến bệnh tật đúng theo phương châm : Ăn được ngủ được là tiên.

Khí Công Y Đạo xuất hiện đầu tiên trên thế giới là một phương pháp mới liên kết giữa đông tây y, hy vọng mọi ngưới áp dụng như là một phương
pháp tự chữa bệnh của Ngành Y Học Bổ Sung mà hiện nay mọi người đang tìm kiếm

Căn cứ vào kết qủa số đo áp huyết có những trường hợp sau đây, lấy theo lứa tuổi trung niên:

Trường hợp 1, bình thường khỏe mạnh : 130/70-90mmHg mạch 70-80

A-Những trường hợp áp huyết cao thuộc thực chứng :

Trường hợp 2 : 160/70-90mmHg mạch 80 . Kết luận : Cao áp huyết đơn thuần, không có bệnh tim mạch.

Trường hợp 3 : 160/100mmHg mạch 80. Kết luận : Cao áp huyết hở van tim.

B-Những trưòng hợp áp huyết cao::

Trường hợp 4 :Thực chứng và thực nhiệt :

160/100mmHg 100 người nóng do nhịp tim nhanh, cao áp huyết, hở van tim.

Trường hợp 5 : Thực chứng và thực hàn :

160/70-90mmHg mạch 50-60, nhịp tim chậm nên người lạnh, hơi thở ngắn gấp mới bị cao áp huyết, giống như suyễn hàn.
Trường hợp 6 : 170/60mmHg mạch 65, người thực hàn, thiếu máu, áp huyết cao do tâm hư, thận thủy thực, hẹp van tim thỉnh thoảng bị ngộp thở
hoặc hụt hơi. Tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mền Bụng cho áp huyết xuống, nhịp tim tăng lên.

C-Những trường hợp áp huyết thấp thuộc hư chứng :

Trường hợp 7: 130/60mmHg mạch 50 người lạnh, đủ khí thiếu huyết, do tim nhỏ..

Trường hợp 8 : 90/60mmHg mạch 50 người lạnh, thiếu khí thiếu huyết, do tim nhỏ.

D-Những trường hợp áp huyết thấp thuộc thực chứng :

Trường hợp 9 : 80/55mmHg mạch 120 thiếu khí, và thiếu máu, đang nóng sốt do máu nhiễm trùng, cơ tim co bóp chặt làm đau nhói ngực. Trường
hợp này rất nguy hiểm, nếu hạ nhiệt cho nhịp tim xuống thì áp huyết xuống theo, cơ thể lạnh, đi vào hôn mê chết sau khi ngủ. Nếu cơ thể còn sức
đề kháng, thì cơ thễ vẫn giữ nhiệt cao, tim đập nhanh để giữ áp huyết không bị tụt thấp. Áp huyết này ở bên bờ cửa tử. Do đó cần phải bổ máu,
nhịp tim sẽ châm lại mà áp huyết không bị tụt thấp.

E-Những trường hợp bệnh nan y có áp huyết giả:

Trường hợp 10 : hàn giả nhiệt : 90/60mmHg mạch 50, thiếu khí huyết, ngưòi nóng, dấu hiệu ung thư, cần phải uống thuốc bổ máu một thời gian 2
tháng cho áp huyết lên.

Trường hợp 11 : nhiệt gỉa hàn : 80/55mmHg mạch 120 thiếu khí người lạnh, trường hợp ung thư cấp tính, không nên đụng đến, áp huyết này cũng
bên bờ cửa tử.

Trường hợp 12 : 130/65mmHg mạch 120 nếu người lạnh là do thiếu khí.và huyết, cần uống thuốc bổ máu cho máu đủ thì nhịp tim sẽ đập chậm lại
và số tâm thu sẽ xuống..

Trường hợp 13 : 160/100mmHg 110 người lạnh. Nhiệt gỉa hàn, tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, áp huyết sẽ trở lại bình thường, thân
nhiệt đều, vì van tim mở lớn làm ứ khí huyết không thông.

F-Những trường hợp liên quan đến van tim đóng chặt :
Trường hợp 14 : 130/60mmHg mạch 70, có dấu hiệu thỉnh thoảng ho, khí công gọi là tiếng ho cứu mạng làm van tim bật ra, nếu không van tim
bóp chặt không mở làm nhịp tim bị nhẩy mất nhịp.

Trường hợp 15 : 130/60mmHg mạch 120 người nóng, do van tim bóp chặt, máu không trao đổi được oxy, nên trong máu nhiều CO2 tạo nên máu
nhiệt.

Trường hợp 16 : 130/60Hg mạch 120 người lạnh, van tim đóng chặt, do uống nhiều nước làm mất nhiệt của tâm hỏa.

Trường hop 17 : 130/60Hg mạnh 50 người nóng, hàn giả nhiệt, hẹp van tim, khí đủ, thiếu máu thực chứng, cần bổ máu và tập bài Kéo Ép Gối Thở
Ra Làm Mềm Bụng 100 lần thông khí toàn thân để điều hòa thân nhiệt.

Trường hợp 18 : 90/60mmHg mạch 55, giống trường hợp 7, nhưng người nóng không do sốt nhiễm trùng, hẹp van tim, vừa thiếu khí, vừa thiếu
huyết. Cần bổ máu, và tập Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực.

G-Những trường hợp van tim hở, mở lớn :

Trường hợp 19 : 180/100-120mmHg mạch 75 , do giãn mạch, tim thòng, do uống thuốc giãn mạch, nên mạch bình thường. Nếu đưa áp huyết
xuống bệnh nhân lại bị mệt do nhịp tim rối loạn qúa cao hoặc qúa thấp.

Trường hợp 20 : 130/100-120mmHg mạch 120, van tim mở lớn, tim to, hẹp ống mạch quanh màng bao tim, nên nhịp tim nhanh nếu cơ thể không
bị nhiệt, không cao áp huyết.

Trường hợp 21 : 90/100-120mmHg mạch 55, thiếu khí huyết và tim lớn bẩm sinh, người lạnh, mặt phù., cần tập bài Nạp Khí Trung tiêu thông khí
toàn thân, và làm van tim thu hẹp lại.

Trường hợp 22 : 80/100-120mmHg mạch 120, áp huyết thấp, mạch nhanh nhưng người không nóng, hở van tim do uống nhiều nước, đáy tim nở
lớn, làm mệt, mặt phù nề.

H-Những trường hợp khi đo áp huyết máy bơm nhồi 2-3 lần mới cho ra kết qủa.

Trường hợp 23 : 130/120mmHg mạch 75, hở van tim do cholesterol , thân nhiệt bình thường.
Trường hợp 24 : 190/120mmHg mạch 95, hở van tim do ăn nhiều chất béo, cay, nóng, trán nóng, người có bụng mập. Châm nặn máu huyệt
Thương Dương làm thông tim.

Trường hợp 25 : 120/60mmHg mạch 70 áp huyết bình thường, nhưng hẹp van tim do cholesterol đóng cục chặn nơi van khi van tim co lại làm nhói
tim ngực. Cần tập bài Đứng Hát Kéo GốI Lên Ngực. làm mở van tim.

I-Những trường hợp đo kết qủa hai bên tay chênh lệch :

a-Bên tay trái cao hơn bên phải :

Trường hợp 26, Bên trái cao hơn tiêu chuẩn, bên phải đúng tiêu chuẩn:

Trái :160/80mmHg mạch 90, Phải : 130/80mmHg mạch 80 đo ăn nhiều không tiêu.

Trường hợp 27, bên trái cao hơn bên phải, cả hai cao hơn tiêu chuẩn :

Trái 180/80mmHg mạch 95, Phải 160/80mmHg mạch 85, người dư khí huyết do ăn nhiều chất bổ mà lườI tập thể dục.

Trường hợp 28, bên trái cao hơn tiêu chuẩn, bên phải thấp hơn tiêu chuẩn :

Trái 170/80mmHg mạch 90, Phài 115/80mmHg mạch 75. Áp huyết hai bên chênh lạch nhiều, bên cao bên thấp, do ăn thiếu máu, làm đau nửa đầu
bên phải, thoái hóa xương cổ, vẹo cổ hay vẹo cột sống, rối loạn tiền đình

Trường hợp 29 : bên trái cao hơn bên phải nhưng cả hai dưới tiêu chuẩn :

Trái 110/78mmHg mạch 70, Phải 90/68mmHg mạch 65. Gan thiếu máu, cơ thể thiếu khí, do ăn nhiều chất chua, ngườI ốm gầy, đau nhức gân
xương, ngườI lạnh, đau nửa đầu, khó thở, van tim hai bên không đều, hẫng nhịp tim. Cần uống thuốc bổ máu. tập bài Đứng Hát Kéo GốI Lên
Ngực, Cúi Ngửa 4 Nhịp, và uống trà gừng mật ong.

Trường hợp 30 : bên trái cao hơn bên phải, cả hai dưới tiêu chuẩn nhưng mạch nhanh :
Trái 110/78mmHg mạch 110, Phải 90/68mmHg mạch 110. Bệnh gan thiếu máu, có dấu hiệu chai gan, thoái hóa xương cổ, lưng, liệt dây thần kinh
mặt, đầu chân tay tê, để lâu không chữa bổ máu, dẫn đến bệnh ung thư nội tạng.

Trường hợp 31 : bên trái cao hơn bên phải, cả hai dưới tiêu chuẩn nhưng mạch chậm :

Trái 110/78mmHg mạch 55, Phải 90/68mmHg mạch 50. Gan thiếu máu bẩm sinh, đau nửa đầu, đau cổ gáy tay vai do không đủ máu tuần hoàn
nuôi các khớp. Cần bổ máu, uống trà gừng, Thở Đan Điền Thần.

b-Bên tay phải cao hơn bên trái :

Trường hợp 32, Bên phải cao hơn tiêu chuẩn, bên trái đúng tiêu chuẩn :

Phải :160/80mmHg mạch 90, Trái : 130/80mmHg mạch 80, do chức năng gan thực, gan hơi nhiệt .

Trường hợp 33, bên phải cao hơn bên trái, cả hai cao hơn tiêu chuẩn :

Phải 180/80mmHg mạch 95, Trái 160/80mmHg mạch 85, tâm nhiệt, vì mẹ của tâm và con của tâm nhiệt, do ăn uống những thức ăn nhiệt gây táo
bón. Tập Kéo Ép Gối Làm Mềm Bụng và dùng Phan Tả Diệp làm hạ áp huyết, xổ nhiệt độc cho gan.

Trường hợp 34, bên phải cao hơn tiêu chuẩn, bên trái thấp hơn tiêu chuẩn :

Phải 170/80mmHg mạch 90, Trái 115/80mmHg mạch 75, rối loạn tiền đình, tây y thường cho là virus trong tai. Bấm huyệt Ế Phong, bổ bên trái
thấp, tả bên phải cao cho áp huyết hai bên quân bình.

Trường hợp 35 : bên phải cao hơn bên trái nhưng cả hai dưới tiêu chuẩn :

Phải 110/78mmHg mạch 70, Trái 90/68mmHg mạch 65, có dấu hiệu đau nửa đầu bên trái nhiều năm dẫn đến bệnh bướu não bên trái. Bấm bổ É
Phong bên trái, tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực và Cúi Ngửa 4 Nhịp để cung cấp máu nuôi não, và uống thuốc bổ máu.

Trường hợp 36 : bên phải cao hơn bên trái, cả hai dưới tiêu chuẩn nhưng mạch nhanh :
Phải 110/78mmHg mạch 110, trái 90/68mmHg mạch 110, là bệnh ung thư cấp tính do thiều khí huyết. Cần bổ huyết để mạch tim chậm lại. Tập
thở Đan Điền Thần để duy trì áp huyết.

Trường hợp 37 : bên trái thấp hơn bên phải, cả hai dưới tiêu chuẩn nhưng mạch chậm :

Phải 110/78mmHg mạch 55, Trái 90/68mmHg mạch 50, do ăn những chất không bổ máu, những chất hàn lạnh, làm cơ thể thiếu máu, ăn không
tiêu, đau bụng, bụng có hòn cục người thiếu khí suy nhược, phổi bị hàn đàm làm suyễn, tiêu chảy làm ra bệnh đường ruột, dẫn đến ung thư bao
tử, ruột, bướu ổ bụng. Chỉnh lại cách ăn uống bổ máu, uống trà gừng mật ong, tập bài Nạp Khí Trung Tiêu, Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực.

K- Đo áp huyết riêng của Tạng Phủ trên các huyệt liên quan :

Trong 37 trường hợp trên cũng có thể xảy ra tương tự, khi máy đo áp huyết vẫn để trên tay, nhưng bấm trên huyệt khác nhau để tìm bệnh khí-
huyết của từng tạng phủ sẽ cho ra kết qủa khác nhau như :

a-Tìm bệnh khí-huyết ở phổi :

Bấm huyệt Vân Môn hay Trung Phủ bên trái thì đo áp huyết bên tay trái, bấm huyệt bên phải thì đo áp huyết bên tay phải, để biết phổi bên nào hư
hay thực, hàn hay nhiệt.

b- Tìm bệnh khí-huyết của chức năng thận dương :

Bấm huyệt Khí Hải, đặt máy bên trái để biết tỳ khí và thận khí. Đặt máy bên tay phải đẻ biết can khí và thận khí.

Bấm huyệt Âm Giao đẻ biết chức năng thận thủy của thận trái, đặt máy bên tay trái, của thận phải, đặt máy bên tay phải.

c-Tìm bệnh khí-huyết của riêng tạng gan

Bấm huyệt Kỳ Môn bên phải thuộc gan tỳ. Bấm huyệt Chương Môn bên phải thuộc chức năng gan-tỳ và để máy đo áp huyết bên tay phải. Bấm
huyệt Nhật Nguyệt phải để biết chức năng hoạt động của túi mật, máy đo đặt bên tay phải.

d-Tìm bệnh khí-huyết của tim :


Bấm huyệt Cưu Vĩ để biết bệnh tim bên trái qủa tim, để máy đo bên tay trái. Bên phải qủa tim, để máy đo bên tay phải.

Còn để máy đo bình thường, không bấm huyệt nào, là đo bệnh tim do ảnh hưởng ăn uống, đặt máy đo bên tay trái. Đặt máy do bên tay phải là đo
tim do chức năng của gan.

e-Tìm bệnh khí-huyết ở bao tử :

Bấm huyệt Trung Quản, xem bệnh riêng của bao tử, về hư-thực, hàn-nhiệt, để máy đo áp huyết ở tay trái.

Nếu cũng bấm huyệt Trung Quản mà để máy đo áp huyết bên tay phải để xem chức năng gan ảnh hưởng đến bao tử để chuyển hóa thức ăn tốt
hay xấu.

f-Tìm bệnh khí-huyết của riêng tạng tỳ :

Bấm huyệt Chu Vinh trái, đo máy bên tay trái, biết bệnh thuộc chức năng tỳ vị hư-thực, hàn-nhiệt..

Bấm huyệt Thiên Khê trái, để máy đo bên tay trái, sẽ biết bệnh liên quan đến phế-vị-tỳ.

L- Đo áp huyết dưới cổ chân trong nơi huyệt Tam Âm Giao :

Theo tiêu chuẩn khí công, số đầu của áp huyết tâm thu ở dưới chân chỉ khí lực ở chân, cao hơn ở tay 10mmHg là đúng tiêu chuẩn.

a-Nếu cao hơn tiêu chuẩn nhiều thì chân bị sưng, ứ tắc, nặng, tê, đau.

b-Nếu thấp hơn tiêu chuẩn nhiều là chân yếu không có sức, teo chân, liệt chân.

Số thứ hai tâm trương, chỉ ống động mạch và tĩnh mạch ở chân :

a-Nếu cao hơn tiêu chuẩn là có dấu hiệu ống mạch chân bị trương căng phình do ứ nước, mạch lươn, phình tĩnh mạch, nguyên nhân do uống nhiều
nước làm bụng dưới to nặng đè chặn nơi động mạch háng.

b-Nếu thấp hơn tiêu chuẩn là mạch máu ở chân bị teo, do thiếu máu, có dấu hiệu gân chân và dây thần kinh bị co rút đau nhức, tê, chứng tỏ thận
thiếu nước, khô xương, thoái hóa cột sống lưng, đĩa đệm bị chèn ép gọi là bệnh gai cột sống, năm ngón chân tê cứng mất cảm giác.
Số thứ ba nhịp mạch đập :

a-Mạch đập chậm hơn tiêu chuẩn là thiếu máu, và chân lạnh, co rút đau.

b-Mạch đập nhanh hơn tiêu chuẩn, chân nóng, thận nhiệt, sưng đau nhức.

Cả hai chân cả 3 số cao hơn tiêu chuẩn, có dấu hiệu bệnh viêm sưng tuyến tiền liệt, bệnh đường tiết niệu, ung thư tử cung, sa tử cung dây chằng.

Bên qúa cao, bên bình thường, bí tiểu, chân lạnh là có dấu hiệu đau lưng một bên xuyên ra phía rốn liên quan đến sạn thận.

Hai bên đều thấp dưới tiêu chuẩn là chân vô lực, có dấu hiệu liệt chân, teo chân.

Lưu ý :

1-Những thầy chữa không nên đụng vào cơ thể người bệnh trong những trường hợp áp huyết của người lớn tuổi đang bị ung thư có số đo dưới 90,
chỉ hướng dẫn họ hay người nhà tự chữa bằng cách bấm huyệt Ế Phong làm tăng áp huyết, uống thuốc bổ máu, tập thở Đan Điền Thần hay thở
trên 3 huyệt Thượng-Hạ Uyển. Cấm kỵ dùng Phan Tả Diệp khi áp huyết thấp làm tụt áp huyết thêm sẽ làm mất sức dễ bị tử vong.

2-Những trường hợp áp huyết qúa cao, cũng không nên đụng vào cơ thể bệnh nhân, chỉ hướng dẫn người nhà châm nặn máu 10 đầu ngón tay
chân, và nằm thở ở Khí Hải với một cây bút hay đầu đũa ấn đè vào huyệt Khí Hải sâu 3cm, há miệng thổi hơi ra nhẹ nhàng, từ từ, trong 30 phút,
nếu áp huyết xuống dần thì có kết qủa. Trường hợp này có thể dùng Phan Tả Diệp.

3-Trên đây là những trường hợp khám bệnh bằng máy đo áp huyết để biết tình trạng khí-huyết trong cơ thể thay cho cách bắt ba bộ mạch ở cổ tay
của bệnh nhân theo phương pháp đông y là 3 bộ vị thốn-quan-xích, mục đích để tìm hư-thực, hàn-nhiệt, biểu-lý ở mỗi tạng hay phủ khác nhau.

Nhưng ưu điểm của máy đo áp huyết chính là máy đo khí huyết biết ngay được những yếu tố cần thiết để tìm ra bệnh về khí, về huyết của từng
tạng phủ, cho ra con số chính xác về hư thực, hàn nhiệt.

Từ dó áp dụng quy luật lý luận ngũ hành tìm ra gốc bệnh để chữa bằng cách điều chỉnh Tinh-Khí-Thần, sau đó kiểm chứng lại bằng máy đo áp
huyết để biết kết qủa xem chữa đúng hay sai.

You might also like