Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 23

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Câu 1: Thế nào là văn hóa? Phân biệt văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật?
Văn hóa là giá trị vật chất tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử và trở thành chuẩn mực xã hội được kế thừa, phát huy giao lưu tiếp biến,
là thước đo trình độ phát triển và là bản sắc của mỗi dân tộc.
Phân biệt văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật.
Văn minh là khái niệm có nguồn gốc từ phương Tây, dùng để chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa nhưng thiên về phương diện

các giá trị vật chất kĩ thuật. Văn minh chỉ cho ta biết trình độ phát triển của văn hóa, nó là đặc trưng của một thời đại và có tính quốc tế, đặc trưng
cho một khu vực rộng lớn và cả nhân loại. Một dân tộc có trình độ văn minh cao song trình độ văn hóa có khi lại rất nghèo nàn. Ngược lại một dân
tộc còn lạc hậu có khi lại có nền văn hóa phong phú.
Văn hiến là một khái niệm của phương Đông. Văn là vẻ đẹp. hiến là người hiến tài. Văn hiến là khái niệm thiên về chỉ các giá trị tinh

thần.
Văn vật là khái niệm của bộ phận văn hóa, chỉ khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị. Văn vật là truyền thống văn hóa thiên về các giá trị

văn hóa vật chất ở một vùng đất biểu hiện ở việc có nhiều nhân tài, nhiều di tích, công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử.

1
Câu 2. Phân tích các chức năng xã hội cơ bản của văn hóa?
- Chức năng giáo dục; Là chức năng một văn hóa thông qua các hoạt động, các sản phẩmcủa mình nhằm tác động một cách có hệ thống
đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người. làm cho con người dần dần có hệ thống phẩm chất và năng lực theo những chuẩn mực xã hội đề
ra. Văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định là truyền thống văn hóa mà còn bằng cả những giá trị đang hình
thành. Các giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ vậy, văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành
nhân cách ở con người, trong việc trồng người. Với chức năng giáo dục, văn hóa tạo nên sự phát triển bản sắc dân tộc và là cầu nối hữu nghị gắn bó
các dân tộc., gắn kết các thế hệ trong mục tiêu hướng đến cái chân, thiện, mĩ. Văn háo là gen xã hội di truyền phẩm chất cộng đồng người để lại cho
các thế hệ sau.
- Chức năng nhận thức: Là chức năng đầu tiên, tồn tại trong mọi hoạt động văn hóa. Bởi con người không có nhận thức này thì không thể
có bất cứ một hành động văn hóa nào. Nhưng nhận thức này của con người trong các hoạt độnglại được thông qua đặc trưng, đặc thù của văn hóa.
Nâng cao trình độ nhận thức của con người chính là phát huy những tiềm năng của con người.
- Chức năng thẩm mỹ: Cùng với nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng thụ, hướng tới cái đẹp. Văn hóa là sự sáng tạo của
con người theo quy luật cái đẹp, trong đó văn học nghệ thuật là bieur hiện tập trung nhất sự sáng tạo ấy. Với tư cách là khách thể của nền văn hóa ,
con người tiếp nhận chức năng này của văn hóa và thanh lọc mình theo hướng vươn tới cái đẹp và khắc phục cái xấu trong mỗi người.
- Chức năng giải trí: Trong cuộc sống, ngoài hoạt động lao động và sáng tạo, con người còn có nhu cầu giải trí. Các hoạt động văn hóa:
câu lạc bộ, bảo tàng, lễ hội, ca nhạc… sẽ đáp ứng được các nhu cầu ấy. Như vậy sự giải trí bằng các hoạt động văn hóa là bổ ích, cần thiết góp phần
giúp con người lao động sáng tạo có hiệu quả hơn và giúp con người phát triển toàn diện.

2
Câu 3: Đặc trưng của văn hoá Đông Sơn. Phân tích vị trí của nền văn hoá Đông Sơn trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam.
Văn hóa Đông Sơn được phát hiện từ trước cách mạng tháng Tám, cho đến nay đã tìm được trên 100 địa điểm phân bố hầu khắp các tỉnh miền bắc
cho tới Hà Tĩnh Quảng Bình. Đống Sơn có tầng văn hóa dày, hiện vật cực kỳ phong phú. Địa điểm phân bố rộng rãi và mỗi văn hóa địa phương tuy
có sắc thái riêng nhưng đều có các đặc trưng gần nhau.
1. Văn hóa Đông Sơn mang những đặc trưng cơ bản:
* Về phương thức sản xuất:
- Trồng trọt và chăn nuôi phát triển, trong đó sản xuất lúa nước đóng vai trò chủ đạo.
- Cùng với sản xuất nông nghiệp, họ đã biết chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà… Chăn nuôi đã có vị trí quan trọng, vật nuôi được dùng để lấy sức kéo, ăn
thịt, săn thú.
- Các loại hình nông cụ của cư dân Đông Sơn khá đa dạng với cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt là lưỡi cày đồng. Trên trống đồng Đông Sơn
người ta thấy khắc hoa văn hình bò, một số di chỉ khảo cổ còn tìm thấy hình gà.
- Nghề thủ công đã có sự phát triển vượt bậc, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu:
+ Nghề luyện kim màu: Đạt đến trình độ kỹ thuật cao, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, nhiều chủng loại. Trong đó, trình độ luyện kim đồng đã đạt
đến đỉnh cao, có thể đúc được những vật lớn, hoa văn phong phú. Cư dân Đông Sơn cũng đã biết luyện sắt và đúc sắt làm công cụ sản xuất, chiến
đấu (tuy đồ sắt được phát hiện trong văn hóa Đông Sơn không nhiều).
+ Đồ gốm Đông Sơn mỗi vùng có phong cách riêng, có sự tiến bộ về sử dụng chất liệu, kỹ thuật tạo hình, tạo dáng và trang trí.
+ Một số nghề thủ công khác cũng khá phát triển: nghề làm thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt…
* Về văn hóa sinh hoạt vật chất:
- Mô hình bữa ăn của cư dân Đông Sơn là: Cơm – Rau – Cá (cơm và rau là chủ đạo) => sự hiểu biết và tận dụng môi trường tự nhiên của người
Đông Sơn.
- Đồ dùng sinh hoạt được chế tác bằng 3 chất liệu chủ yếu: đồ gốm, đồ đồng và đồ gỗ. Một số loại đồ dùng sinh hoạt tiêu biểu như: nồi, chõ, mâm,
chậu, âu, bình, thố, thạp…
- Nhà ở:
+ Vật liệu: Chủ yếu sử dụng các vật liệu thực vật: gỗ, tre, nứa, lá…
+ Dựa theo hình khắc trên mặt trống đồng, người ta thấy 2 mô hình kiến trúc: nhà sàn mái cong và nhà sàn mái khum. Trong đó nhà sàn mái cong
hình thuyền là loại hình kiến trúc phổ biến, chứng tỏ sự gắn bó và cách ứng xử thông minh của người Việt cổ với môi trường tự nhiên sông nước.
- Trang phục, trang sức: Có những nét riêng, độc đáo:
+ Phụ nữ vặc váy và yếm. Nam giới đóng khố, cởi trần. Ngày hội trang phục cầu kỳ hơn: nam và nữ đều dùng áo liền váy, chất liệu bằng lông vũ
hoặc lá cây, đầu đội mũ lông chim. Thời kỳ này đã xuất hiện trang phục của giới quý tộc.
+ Về trang sức: Nhuộm răng đen, xăm mình. Ngoài ra còn đeo vòng tai hạt, chuỗi, nhẫn, và phổ biến là vòng chân.
- Phương tiện đi lại: Chủ yếu là thuyền bè, đường vận chuyển chủ yếu là đường sông, ven biển. Thuyền có loại thuyền độc mộc và thuyền vá n
ghép.
* Về văn hóa sinh hoạt tinh thần:
- Về tư duy và nhận thức:
+ Người Việt cổ đã biết phân loại sự vật theo chức năng như: công cụ sản xuất (cuốc, cày, thuổng…); công cụ sinh hoạt (dao, bình); công cụ chiến
đấu (cung, nỏ, giáo, mác…).
+ Tư duy toán học: Đạt đến trình độ nhất định như: tư duy đối xứng gương, đối xứng trục ( đồ gốm có cai đối xứng, trống đồng có chia tỉ lệ,...).
Trong nhận thức về thế giới, người Việt thời kỳ này đã có sự nhận thức thế giới và nhận thức chính mình bằng tư duy lưỡng phân: đàn ông – đàn bà,
núi – biển, trời – đất…
- Về tín ngưỡng tôn giáo:
+ Tín ngưỡng bái vật giáo, tín ngưỡng phồn thực: Có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh con người.
+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Cũng ra đời trong thời kỳ này.
- Về phong tục: Đã xuất hiện tục nhuộm răng, ăn trầu, phong tục cưới xin, ma chay, phong tục lễ hội. Đặc biệt lễ hội thời kỳ này khá phong phú như
hội mùa, hội cầu nước…

3
- Về văn hóa nghệ thuật: Nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạc tượng, nghệ thuật kiến trúc đã hình thành. Đặc biệt trống đồng Đông Sơn là sự phát
triển vượt bậc, là một biểu tượng văn hóa, cũng là một giá trị nghệ thuật đặc sắc.
- Chữ viết:
+ Nghiên cứu một số hiện vật đồng thau thuộc văn hóa Đông Sơn, các nhà khảo cổ đã chứng minh về sự tồn tại của chữ viết thời Đông Sơn, có thể
gọi là chữ viết Đông Sơn. Các loại chữ viết này được chạm khắc trên công cụ, vũ khí bằng đồng thau, các đường nét còn sơ lược nhưng khúc triết,
rõ ràng.
+ Ngoài ra, còn tìm thấy các dạng văn tự khác viết trên đồ đá, đồ xương, đồ gốm. Trong đó, có loại hình văn tự thắt nút (dùng một số sợi dây có
màu sắc khác nhau buộc lại thành các nút khác nhau, để trao đổi thông tin và biểu đạt suy nghĩ, tư duy).
- Kỹ thuật quân sự:
+ Vũ khí: Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng về loại hình, độc đáo về hình dáng, phong phú về số lượng. Những cuộc khai quật ở thành Cổ
Loa (huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) đã phát hiện ra kho chứa hàng vạn mũi tên đồng.
+ Thành quách: Thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống giặc ngoại xâm. Với các bức
thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, bảo vệ triều đình và kinh đô.
2. Vị trí của văn hóa Đông Sơn trong tiến trình hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam:
- Văn hóa Đông Sơn được coi là cốt lõi/gốc/bản địa/có tính chất bản lề của người Việt cổ. Cùng với văn hóa Óc Eo ( văn hóa Sa Huỳnh) và Phù
Nam (Đồng Nai), tạo thành “tam giác văn hóa” của người Việt Nam -> Đồng Nai & Sa Huỳnh: tiếp thu Ấn Độ, Chăm >< nền vh ĐS bản địa, sẵn có
-> sau này có sự phản kháng nhất định, không tiếp thu toàn bộ như ĐN và SH (như tờ giấy trắng, tiếp thu toàn bộ)
=> NỀN VH ĐA DẠNG TRONG THỐNG NHẤT/THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG
- Đây cũng là một thành tựu văn hóa có ý nghĩa lớn lao trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
- Tạo nền tảng để văn hóa Việt Nam giao lưu tiếp biến với các nền văn hóa khác như: Trung Hoa, Ấn Độ, Đông Nam Á trong thiên niên kỷ đầu CN
mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc -> tạo nên sức mạnh nội sinh trong qtrinh vh khác; và sau này là mẫu gốc của bản sắc vh VN ngày ngay
- Những thành quả của văn hóa Đông Sơn mở ra một thời kỳ phát triển mới trong văn hóa Việt Nam, tạo thành những nét bản sắc văn hóa riêng biệt
của văn hóa Việt Nam.

4
Câu 4: Trình bày tóm tắt các cuộc giao lưu và tiếp biến của văn hoá Việt Nam trong lịch sử. Phân tích cuộc giao lưu tiếp biến văn hoá Việt
Hán
1. Khái niệm “giao lưu và tiếp biến văn hóa”
- Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự gặp gỡ, thâm nhập và học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung,
tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hoá.
2. Kể tên các cuộc giao lưu trong lịch sử
- Giao lưu tiếp biến văn hóa với Đông Nam Á
- Giao lưu tiếp biến văn hóa với văn hóa Trung Hoa
- Giao lưu tiếp biến văn hóa với văn hóa Ấn Độ.
- Giao lưu tiếp biến văn hóa với văn hóa Phương Tây.
3. Phân tích cuộc giao lưu tiếp biến với Trung Hoa.
- Khái quát:
- Giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự giao lưu, tiếp biến liên tục qua nhiều thời kỳ của lịch sử. Trung Hoa là
một trong những trung tâm văn hóa lớn ở phương Đông, có nền văn hóa lâu đời và phát triển rực rỡ
- Văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa nông nghiệp xuất phát từ nông nghiệp trồng khô (trồng kê và lúa mạch) trên đất hoàng thổ của vùng trung du
Hoàng Hà. Do nằm trên ngã ba đường của các luồng giao lưu kinh tế - văn hóa Đông - Tây, Nam - Bắc trong đại lục Châu Á và miền bình nguyên
Âu - Á, nền văn hóa Trung Hoa vừa mang những đặc điểm văn hóa du mục của các cư dân phương Bắc và Tây Bắc, vừa thâu hóa nhiều tinh hoa
của văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước của các cư dân phương Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Trung Hoa gắn liền với lịch sử
mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chinh phạt về mặt quân sự và truyền bá văn hóa của tổ tiên người Trung Hoa từ phía Tây lưu vực sông Hoàng Hà
theo hướng từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Cùng với sự bành trướng về phương Nam của các triều đại phong kiến Trung Hoa, đã diễn ra
quá trình Trung Hoa thâu hóa văn hóa phương Nam, Hán hóa các nền văn hóa phương Nam. Vị trí địa lý và những diễn biến của lịch sử đã tạo các
điều kiện gặp gỡ và tiếp xúc thường xuyên giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Ngày nay, không thể phủ nhận ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là rất lớn.
* Tính chất của quá trình giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Việt và văn hóa Trung Hoa
-Giao lưu cưỡng bức
Suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, các đế chế phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hoá về phương diện văn hoá nhằm biến
nước ta trở thành một quận, huyện của Trung Hoa
Là giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt. Trong số các kẻ thù từ phương Bắc, giặc Minh là kẻ thù tàn bạo nhất đối với văn hóa Đại Việt. Minh
Thành tổ ban lệnh cho viên tướng Trương Phụ chỉ huy binh lính vào xâm lược Việt Nam: "Binh lính vào Việt Nam, trừ sách vở và bản in đạo Phật,
đạo Lão thì không thiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở khác, văn tự cho đến ca lý dân gian hay sách dạy trẻ nhỏ ... một mảnh, một chữ đều phải
đốt hết. Khắp trong nước, phàm những bia do người Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá
hủy tất cả, một chữ chớ để còn".
- Giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện
Là dạng thức thứ hai của quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Trước thời kỳ Bắc thuộc đã từng diễn ra giao lưu tự nhiên giữa tộc
người Hán với cư dân Bách Việt. Nghiên cứu lịch sử văn minh Trung Hoa người ta thấy có nhiều yếu tố văn hóa phương Nam đã được người Hán
tiếp nhận từ thời cổ đại, những yếu tố này nhập sâu vào văn hóa Hán, được hệ thống hóa, nâng cao "chữ nghĩa hóa" rồi truyền bá trở lại phương
Nam dưới dáng vẻ mới. Có thể nói, đó là sự giao lưu tiếp xúc hai chiều học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Hiện nay đã phát hiện được trống
đồng và nhiều đồ đồng Đông Sơn trên đất Trung Hoa, đồng thời cũng phát hiện nhiều vật phẩm mang dấu ấn Trung Hoa trong các di chỉ khảo cổ
học ở Việt Nam. Trong nền văn hóa Đông Sơn, người ta đã nhận thấy khá nhiều di vật của văn hóa phương Bắc nằm cạnh những hiện vật của văn
hóa Đông Sơn. Chẳng hạn những đồng tiền thời Tần Hán, tiền Ngũ thù đời Hán, các dụng cụ sinh hoạt của quý tộc Hán như gương đồng, ấm
đồng .v.v.. Có thể những sản phẩm ấy là kết quả của sự trao đổi, thông thương giữa hai nước.
- Áo dài: sườn xám + quần của trang phục dạ hội Pháp
- Chữ Nôm:
- Sd phân bón (phân Bắc, xanh, chuồng): tăng năng suất cây trồng, mùa vụ

5
- Sd trâu bò làm sức kéo
- Đắp đê phòng lụt = đá hộc ở biển -> sx tốt, năng suất cao -> đs tinh thần dễ chịu, thoải mái, phtr
- Xây đền hùa nhà cửa bằng đất đá # kè bằng tre nứa, gỗ
Ở thời kỳ độc lập tự chủ, nhà nước quân chủ Đại Việt được mô phỏng theo mô hình nhà nước phong kiến Trung Hoa. Nhà Lý, nhà Trần về tổ chức
chính trị xã hội lấy cơ chế Nho giáo làm gốc tuy vẫn chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật giáo. Đến nhà Lê đã hoàn toàn tự nguyện và chịu ảnh hưởng
của Nho giáo sâu sắc.
* Cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức và tự nguyện giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Trung Hoa đều là nhân tố
cho sự vận động của văn hóa Việt Nam trong diễn trình lịch sử
- Người Việt luôn có ý thức vượt lên, thâu hóa những giá trị văn hóa Trung Hoa để làm giàu cho văn hóa dân tộc và đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Hoa
- Người Việt tiếp nhận một số kỹ thuật trong sản xuất như: kỹ thuật rèn đúc sắt gang để làm ra công cụ sản xuất và sinh hoạt, kỹ thuật dùng phân
bón để tăng độ màu mỡ cho đất, kỹ thuật xây cất nơi ở bằng gạch ngói. Người Việt còn học hỏi kinh nghiệm dùng đá đắp đê ngăn sóng biển, biết
cải tiến kỹ thuật làm đồ gốm (gốm tráng men)…
- Việt Nam tiếp nhận ngôn ngữ của người Trung Hoa (cả từ vựng và chữ viết), tiếp thu hệ tư tưởng Trung Hoa cổ đại (Nho gia, Đạo gia) trên tinh
thần hỗn dung, hòa hợp với tín ngưỡng bản địa và các hệ tư tưởng khác, mô phỏng hệ thống giáo dục theo tinh thần Nho giáo, tiếp nhận một số
phong tục lễ Tết, lễ hội .v.v..

6
Câu 5: Phân tích ảnh hưởng của cá hệ phái tư tưởng triết học trung quốc đối với văn hóa việt nam.
Câu 6: Phân tích ảnh hưởng của tôn giáo Ấn Độ đối với Việt Nam
- Ấn Độ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của khu vực phương Đông và thế giới. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á và trên
nhiều bình diện có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức.
- Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình. Các thương gia, các nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam với mục
đích thương mại, truyền bá, văn hóa, tôn giáo.
- Ở thiên niên kỷ đầu Công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: Văn hóa cùng châu thổ Bắc bộ, văn hóa Chăm Pa và văn
hóa Óc Eo. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến ba vùng văn hóa này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ khá toàn
diện. Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa, các đạo sĩ Bà la môn đến từ Ấn Độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình của Ấn Độ ở
tất cả các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị, giao thông cùng với việc truyền bá các thành tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn
giáo .v.v.
- Người Chăm đã tiếp nhận mô hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng và phát triển các thành tố văn hóa. Họ đã rất
linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ để tạo dựng nên nền văn hóa Chăm Pa với những sắc thái văn hóa đan xen giữa Ấn Độ, Đông Nam Á và
văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Điều này thể hiện trên các lĩnh vực, đặc biệt là chữ viết, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật.
* Nghiên cứu giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ cần chú ý những đặc điểm sau:
+ Người Việt đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và đặc biệt là đạo Phật trên tinh thần cơ bản là hỗn dung tôn giáo
Trước khi tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, văn hóa của người Việt đã định hình và phát triển. Dưới thời Bắc thuộc, người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ
vừa trực tiếp qua các thương gia, các nhà sư từ Ấn Độ sang và vừa gián tiếp qua Trung Hoa. Những thế kỷ đầu Công nguyên, người Việt tiếp nhận
văn hóa Ấn Độ trong hoàn cảnh đặc biệt: nước mất và phải đối mặt với văn hóa Hán. Bởi vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ chỉ diễn ra trong tầng
lớp dân chúng nhưng lại có sức phát triển lớn. Vùng châu thổ Bắc Bộ trở thành địa bàn trung chuyển văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là tôn giáo. Giao
Châu trở thành trung tâm Phật giáo lớn ở Đông Nam Á. Người Việt tiếp nhận Phật giáo một cách dung dị bởi đạo Phật ở một số nội dung giáo lý
phù hợp với tín ngưỡng bản địa Việt Nam.
+ Phật giáo Ấn Độ đến Giao Châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà còn là một hiện tượng văn hóa. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc
ngay với tín ngưỡng bản địa của dân tộc và đã chung sống với chúng. Từ tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên, thờ nữ thần nông nghiệp, tín
ngưỡng phồn thực của văn hóa bản địa, người Việt đã thâu thái những yếu tố của đạo Phật và tạo nên một dòng Phật giáo dân gian thờ Tứ Pháp hết
sức đặc sắc .v.v..
+ Tiếp nhận văn hóa Ấn Độ ở thời kỳ Bắc thuộc có thể xem là một đối trọng với ảnh hưởng của văn hóa Hán, thể hiện tinh thần chống đồng hóa văn
hoá của người Việt
Cùng với đạo Phật, một tổng thể văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên như: ngôn ngữ, âm nhạc, vũ đạo, nghệ
thuật .v.v..Cũng hình thành ở Việt Nam những công trình văn hóa, nghệ thuật có giá trị: hệ thống chùa, tháp …

7
Câu 7: Phân tích diện mạo văn hoá Đại Việt thời Lý Trần
1. Giới thiệu chung
- Nhà Lý (1009-1225) trải qua các triều đại: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý cao
Tông, Lý Huệ Tông, Lý Chiêu Hoàng.
- Nhà Trần (1225-1400): Trải qua các triều vua: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ
Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông…
Văn hoá Lý - Trần mở đầu cho thời kỳ văn hoá dv, diễn ra sau khi đất nước thoát khỏi ách Bắc thuộc. Thời kỳ Lý - Trần tồn tại trong khoảng từ thế
kỷ X đến hết thế kỷ XIV là thời kỳ đạt được nhiều thành tựu cơ bản, góp phần khẳng định bản sắc văn hoá dân tộc.
2. Đặc trưng văn hoá
2.1. Văn hoá vật chất
* Xây dựng, kiến trúc:
- Sau khi dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều thành luỹ, đền đài. Lớn nhất là thành Thăng Long.
- Kiến trúc thời Lý phát triển mạnh và để lại nhiều di tích đến ngày nay, như: Chùa Một Cột, Tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn, tháp Sùng Thiện…
Đặc điểm của các kiến trúc này là có quy mô lớn, hòa hợp với cảnh quan thiên nhiên xung quanh.
* Các nghề thủ công, mỹ nghệ: Khá phát triển:
- Nghề dệt: đạt nhiều thành tựu.
Các nghệ nhân thời Lý đã dệt những loại gấm vóc, các loại vải lụa vừa đẹp vừa quý, không thua kém hàng cổ truyền Trung Quốc.
Năm 1040: Vua Lý Thái Tông cho lập xưởng dệt trong hoàng thành, cho cung nữ học nghề dệt gấm vóc.
Sang đời Trần, nghề dệt tiếp tục phát triển. Các trung tâm dệt nổi tiếng thời Lý - Trần có thể kể đến như: Thăng Long, Phú Xuân, Quảng Nam, Tân
Châu…
- Nghề gốm: Phát triển đạt trình độ cao.
+ Ngoài đồ sành sứ thông dụng, đã sản xuất được nhiều đồ gốm mỹ thuật phủ men ngọc, men hoa nâu, men hoa lam…
+ Các trung tâm gốm thời kỳ Lý - Trần: Bát Tràng, Hương Canh, Thổ Hà, Chu Đậu, Biên Hoà, Ninh Thuận…
- Nghề luyện kim và rèn đúc kim loại: Cho ra đời những thành phẩm cực lớn như: Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng phật
chùa Quỳnh Lâm được coi là “An Nam tứ đại khí”, tất cả đều được đúc bằng đồng.
Nghề thủ công phát triển hình thành các làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định, đặc biệt ở thời nhà Trần.
2.2. Văn hoá tinh thần
* Hệ tư tưởng:
- Văn hoá thời kỳ Lý - Trần là sự dung hoà tam giáo Nho - Phật - Đạo (còn gọi là chính sách tam giáo đồng nguyên) và có ảnh hưởng của văn hoá
Chămpa.
+ Đạo Phật: Thời kỳ này để lại những dấu ấn sâu đậm. Triều Lý, vua và dân chúng đều sùng mộ đạo Phật.
Ở giữa triều đình, Phật giáo được coi như Quốc giáo. Các cao tăng tham gia vào chính sự, trở thành cố vấn đối nội, đối ngoại cho các ông vua.
Nhiều vua quan quý tộc đi tu.
Đặc điểm của đạo Phật thời kỳ này là có xu hướng nhập thế, dung hợp với tín ngưỡng dân gian là một yếu tố góp phần làm nên một đạo Phật Việt
hoá.
Thời kỳ này đạo Phật có sự phát triển cả số lượng, chất lượng. Năm 1031, triều Lý cho xây dựng 950 ngôi chùa. Năm 1129, mở hội khánh thành
84000 toà Bảo tháp.
+ Nho giáo: So với đạo Phật, Nho giáo thời kỳ này chưa ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người Việt. Ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống
tinh thần người Việt thời kỳ này biểu hiện rõ qua chế độ giáo dục và thi cử.
+ Đạo giáo: Du nhập vào nước ta và dần thích ứng, pha trộn với tín ngưỡng dân gian để tồn tại.
* Chế độ giáo dục, thi cử:
Nhà Lý bắt đầu xây dựng nền giáo dục thi cử theo tinh thần Nho giáo. Nhà Lý rất quan tâm đến việc việc học hành, thi cử để đào tạo nhân tài, tuyển
lựa quan lại cho bộ máy hành chính.

8
Năm 1070 nhà Lý cho dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám - trường học dành cho các hoàng tử và con em quan lại trong triều đình. Năm 1076, triều
đình mở khoa thi đầu tiên để lựa chọn nhân tài.
Đến đời Trần, vương triều đã chính quy hóa việc học hành thi cử, mở Quốc học viện và Giảng Võ đường dành cho con em quý tộc và cả con em thứ
dân cũng được học.
Từ cách thi cử này mà Nho giáo ảnh hưởng và có địa vị trong xã hội, Nho giáo dần phát triển và lấn át Phật giáo, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống
xã hội, trong văn hóa, ứng xử, quan niệm, giáo dục đạo đức luân lý... của người Việt, góp phần làm giàu cho văn hóa Việt.
* Một số loại hình văn hóa nghệ thuật:
- Văn chương nghệ thuật:
+ Nền văn học viết bằng chữ Hán, sau đó là văn học viết bằng chữ Nôm được hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Trong đó, văn
học viết bằng chữ Hán đặc biệt đạt nhiều thành tựu với đội ngũ đông đảo tác giả tham gia và có một số lượng lớn tác phẩm.
Lực lượng sáng tác thời kỳ này chủ yếu là các trí thức Phật giáo, sau đó là Nho giáo. Nội dung thơ văn thời kỳ Lý Trần chủ yếu thể hiện tinh thần
yêu nước, tự hào dân tộc, đặc biệt thời Lý còn mang quan niệm Phật giáo, mang tính Thiền.
Một số các tác phẩm tiêu biểu như: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn)…
+ Dòng văn học chữ Nôm cũng được hình thành với tên tuổi của một số tác giả như: Trần Nhân Tông, Nguyễn Sỹ Cố…
Có thể thấy, đặt trong diễn trình lịch sử văn hoá dân tộc, sự xuất hiện của một nền văn học dưới cả 2 hình thức viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, đã
đánh dấu sự phát triển cả về lượng và về chất của một nền văn hoá.
- Nghệ thuật điêu khắc:
Nghệ thuật điêu khắc dưới thời Lý Trần phát triển và đạt đến độ ngày càng tinh xảo, phát triển hơn rất nhiều so với thời kỳ thiên niên kỷ đầu CN.
Nghệ thụât điêu khắc thời kỳ này chủ yếu thể hiện trên đá, gốm, trong kiến trúc của các ngôi chùa.
Thời Lý nghệ thuật điêu khắc chú ý đến những đường nét chạm trổ tinh tế, mềm mại, thanh thoát. Thời Trần mang tính chất phóng khoáng, khoẻ
khắn và gần thực tế hơn.
VD: Hình tượng con Rồng:
Rồng thời Lý: Rồng chỉ có ở kiến trúc cung đình. Được chạm khắc là nhưng con rồng thân tròn lẳng, khá dài, không có vẩy, uốn khúc mềm mại và
thon dài từ đầu đến chân, rất nhẹ nhàng và thanh thoát.
Rồng thời Trần: Thân vẫn giữ dáng dấp như rồng thời Lý, nhưng được chạm khắc thêm nhiều vẩy ở lưng và có thêm sự xuất hiện chi tiết cặp sừng
và đôi tay. Rồng thời Lý mềm mại, thanh thoát thì Rồng Trần uốn lượn thoải mái, động tác dứt khoát, mạnh mẽ, tư thế vươn về phía trước.
- Ngoài văn học, điêu khắc, các ngành nghệ thuật sân khấu dân gian như: ca, múa, nhạc, chèo tuồng, múa rối nước… cũng ra đời và phát triển.
* Bên cạnh những thành tựu về chữ viết, về văn học nghệ thuật, văn hoá thời kỳ Lý Trần còn cho thấy những kinh nghiệm, những thành quả nghiên
cứu thuộc nhiều ngành có liên quan mật thiết đến việc giữ gìn độc lập, xây dựng và phát triển đất nước như: thiên văn, lịch pháp, y dược, quân
sự…
Về quân sự, do đặc điểm thời kỳ này phải đối phó với giặc ngoại xâm, nên quân sự phát triển.
Nhà Lý đã đề ra và nhà Trần tiếp tục thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”. “Ngụ binh ư nông” là việc kết hợp hài hòa giữa việc quân sự và nông
nghiệp, giữa kinh tế và quân sự, chuyển hóa nhanh từ thời bình sang thời chiến khi cần.
Thời Lý - Trần đặc biệt coi trọng giáo dục tướng sĩ và binh lính lòng yêu nước, thương dân, tinh thần đoàn kết chiến đấu, lòng tự hào dân tộc và
lòng căm thù giặc. Lý Thường Kiệt có Nam quốc sơn hà, Trần Quốc Tuấn có Hịch tướng sĩ, các vua thường ra các chiếu, dụ gửi tướng hiệu và quân
sĩ.
Nhà Trần chuộng võ, khuyến khích coi trọng vũ thuật của trai tráng là lối sống của nam nhi từ quý tộc tới nô tỳ. Năm 1253, Trần Thái Tông lập ra
Giảng Võ đường để các quan võ tập trung học binh pháp và rèn luyện võ nghệ. Đây chính là trường cao cấp quân sự đào tạo các võ quan.
Trần Quốc Tuấn đã soạn bộ Vạn Kiếp tông bí truyền thư và Binh thư diệu lý yếu lược. Ông đã tìm hiểu và tổng kết kinh nghiệm chiến tranh của
Trung Quốc cổ từ thời Xuân Thu đến tận Tống, Nguyên đương thời.
Tóm lại, những đặc trưng văn hóa thời Lý - Trần đã thể hiện văn hoá Việt Nam thời kỳ này phát triển phong phú và đa dạng. Mặc dù đây là thời kỳ
xây dựng đất nước sau khi dân tộc ta thoát khỏi ách đô hộ của các đế chế phương Bắc nhưng nó đã đạt được những thành tựu nổi bật. Văn hoá Đại
Việt thời Lý - Trần là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển văn hoá ở những triều đại sau.

9
Câu 8: Trình bày những biến đổi của văn hoá Việt Nam trong quá trình giao lưu với văn hoá Pháp
- Giao lưu với văn hóa phương Tây đã từng diễn ra rất sớm trong lịch sử
- Trong lịch sử mấy ngàn năm, các cuộc giao lưu và tiếp biến với các nền văn hóa trong khu vực chỉ làm đổi thay về phương diện yếu tố của văn
hóa Việt Nam
- Về phía người Pháp, sau khi đã lập được ách đô hộ ở Việt Nam, họ rất có ý thức dùng văn hóa như một công cụ để cai trị. Vì tinh thần yêu nước và
lòng tự trọng dân tộc, thái độ trước hết của người Việt Nam là chống trả quyết liệt cả về phương diện chính trị và văn hóa. Có thể thấy thái độ ấy ở
các nhà nho yêu nước ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực... Trong hoàn cảnh mất nước,
người Việt có ý thức chống lại văn hóa mà đội quân xâm lược định áp đặt cho họ: thái độ không học tiếng Tây, không mặc đồ Tây, không dùng
hàng Tây... Tuy nhiên, bằng thái độ mềm dẻo, cởi mở, dần dần họ đã tiếp nhận những giá trị văn hóa mới để phát triển văn hóa dân tộc, sử dụng
chúng trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc.
- Lần đầu tiên trong lịch sử, quá trình tiếp xúc toàn diện với văn hóa phương Tây giai đoạn 1858 - 1945 đã khiến người Việt cấu trúc lại nền văn hóa
của mình, đi vào vòng quay của văn minh công nghiệp phương Tây. Diện mạo văn hóa Việt Nam thay đổi trên các phương diện:
* Diện mạo văn hóa Việt Nam
+ Thứ nhất là chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ viết dùng trong nội bộ một tôn giáo được dùng như chữ viết của một nền văn hóa
+ Thứ hai là sự xuất hiện của các phương tiện văn hóa như nhà in, máy in ở Việt Nam ...
+ Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà xuất bản.
+ Thứ tư là sự xuất hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ mới như tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội họa ...

10
Câu 9: Phân tích những nét đặc sắc trong văn hoá ẩm thực truyền thống của người Việt. Vai trò ý nghĩa của nó với ngành du lịch hiện nay
Những nét đặc sắc trong văn hoá ẩm thực truyền thồng của người Việt:
Mô hình bữa ăn điển hình là: Cơm- rau- cá, thạo chế biến thức ăn từ nguyên liệu là hạt gạo, rau, cá. Tiêu biểu là các thứ bánh trái đc chế

biến từ gạo, hay là nước mắm làm từ cá và các loại thủy hải sản…
Bữa ăn của người Việt đặc biệt coi trọng tinh thần cộng cảm, nghĩa là được ngồi ăn chung mâm, được chăm sóc nhau trong bữa ăn. “Ăn

một mình đau tức, làm một mình cực thân”.
Người việt đề cao sự khoái khẩu trong bữa ăn. Không chỉ thức ăn ngon mà cách bầy biện cũng phải sao cho “ngon mắt”, người ngồi ăn

cùng bàn phải tâm đầu hợp ý, chỗ ngồi ăn hợp với thời tiết. Ng Việt thích trò chuyện trong bữa ăn, và có những món phải cầm tay ăn mới ngon,
không lấy tiêu chuẩn vệ sinh để xem xét bữa ăn như Phương tây.
Người việt sử dụng các khuynh hướng cân bằng âm dương phù hợp với thể trạng của con người: Nhiệt, hàn, ôn, bình (nóng, lạnh, mát,

ấm).
Miếng ăn miếng uống nhiều khi trở thành thước đo tình cảm giữa người này với người khác, có khi được đồng nhất với địa vị, ngôi thứ

trong làng xã.
Xét rộng ra, có 2 loại ẩm thực là ẩm thực cung đình và ẩm thực bình dân.

- Ẩm thực cung đình là những món ăn hiếm hoi, khó kiếm đươc gọi là cao lương mĩ vị. Nhưng ẩm thực cung đình lại không đủ tư cách đại
diện cho nền văn hóa ẩm thực dân tộc.
- Ẩm thực bình dân là những thức ăn quê, thức quà bình dân khắp mọi miền đất nước. Thể hiện sự đa dạng, giàu có của sản vật nước ta,
đồng thời thể hiện tài khéo léo, sự tinh tế, tấm lòng yêu mến quê hương của người Việt, Chính vì thế, ẩm thực bình dân lại là đại diện cho nền văn
hóa ẩm thực dân tộc.
Các dụng cụ dùng để chế biến, ăn uống, các nguyên liệu, các món ăn đã trở thành biểu tượng tinh thần trong văn hóa VN với nhiều ý

nghĩa phong phú và thú vị.
Vai trò ý nghĩa của nó với ngành du lịch hiện nay:
Văn hóa ẩm thực là một yếu tố cấu thành của hoạt động tuyên truyền để thu hút khách du lịch, tạo cơ hội cho khách du lịch được trải

nghiệm những khía cạnh văn hóa đời sống và từ đó kích thích nhu cầu đi du lịch của họ.
Văn hóa ẩm thực góp phần đa dạng hóa, tăng sức hấp dẫn cho hoạt động xúc tiến du lịch. Du khách được trải nghiệm thông qua hình

thức tham gia chế biến và thưởng thức các món ăn truyền thống dân tộc, từ đó thêm yêu những địa danh và ghi nhớ cho những lần quay trở lại.
Văn hóa ẩm thực truyền thống là một nội dung thông tin quan trọng. Hoạt động xúc tiến du lịch không chỉ là việc cung cấp thông tin

đơn thuần mà cần phải có nhiều nội dung khác nhau để tạo ra một hệ thống các hoạt động mang tính tổng hợp tác động đến tâm lý, kích thích tính tò
mò và kích cầu khách du lịch tiềm năng. Vì vậy thông tin về vấn đề ăn uống không kém phần quan trọng vì nhiều khách du lịch rất quan tâm đến
vấn đề này.

11
Câu 10: Trình bày tổng quát hệ thống tín ngưỡng của người Việt và phân tích tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình truyền thống
1. Khái niệm tín ngưỡng
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng.
2. Nêu hệ thống tín ngưỡng: 5 nhóm
- Tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên và động thực vật
- Tín ngưỡng phồn thực
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
- Tín ngưỡng thờ thành hoàng
- Tín ngưỡng thờ Mẫu
3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Nguồn gốc
Có thể thấy hai nguồn gốc tiêu biểu của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đều xuất phát từ ý thức, đạo hiếu, lối sống đạo đức của người Viêt:
- Thờ cúng tổ tiên ở người Việt bắt nguồn từ kinh tế nông nghiệp gia đình phụ quyền
- Khi Nho giáo du nhập vào nước ta, con người coi trọng chữ Hiếu. nội dung chữ Hiếu được truyền bá răn dạy con cái trong các gia đình phong kiến
Việt Nam.
Hình thức và các nghi lễ của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
- Hình thức tín ngưỡng: thờ và cúng:
*Thờ: Là hoạt động thường xuyên của người sống đối với đối tượng thờ cúng, thể hiện ở những không gian thờ cúng nhất định
-Đối tượng thờ:
+ Thờ người mới mất
+ Thờ gia tiên
+ Thờ thủy tổ
+ Thờ gia thần
+ Thờ Quốc tổ
*Không gian thờ
+ Một phần trong không gian kiến trúc nhà (thường là chính giữa Nhà hoặc lầu trên, lầu cao nhất)
+ Nhà thờ họ, cành, chi, phái
+ Không gian thờ gia thần
*Đồ thờ thường là
+ Bài vị
+ Bát hương
+ Ngũ quả
+ Chân đèn
+ Nhà sang giả thì có Ngai, khám, hoành phi câu đối
* Cúng: Là hoạt động không thường xuyên, diễn ra vào những dịp nhất định, do người sống tiến hành tại nơi thờ tự hoặc nơi khác, nhằm biểu đạt
sự giao tiếp đối với tổ tiên
+Cúng người mới mất
+Cúng đám ma: Có nhập liệm, phát tang, thiết linh, an táng
+Cúng 3 ngày
+Cúng thất thất lai tuần
+Cúng Tứ cửu (49 ngày)
+Cúng Bách Nhật (100 ngày)
+Giỗ đầu (Tiểu tường)
+Giỗ hai năm (Đại tường)

12
+Giỗ ba năm (Đoạn tang hay Từ Phục)
+ Những việc kiêng
+Cúng gia tiên
+ Nhân dịp húy kị tổ tiên
+ Cúng rằm tháng 7 để cầu siêu (Lễ Vu Lan)
+ Cúng vào những dịp cưới hỏi, làm nhà…
+Cúng Thủy tổ
+Thủy tổ là tổ cao nhất của dòng họ, hoặc là người khai địa lập ấp
+Việc cúng thủy tổ cũng vào ngày húy kị, do Cành cả hoặc bô lão trong làng đứng ra. Thường là 2 năm một lần
Người ta còn coi trọng chăm nom phần mộ tổ tiên, và bàn thờ tổ tiên. Người Việt đặt bàn thờ tổ tiên ở nơi trang trọng trong nhà. Các dòng họ có từ
đường, đó là nơi không gian thiêng liêng, nơi tổ tiên đi về theo quan niệm của dân gian. Trong từ đường có bày biện bàn thờ với các đồ thờ tự quý
của dòng họ, có các hình nhà cửa, hài nón gương lược, quần áo, hia kiếm…làm bằng vàng mã.
*Bàn thờ tổ tiên: là nơi để tổ tiên về hưởng giỗ chạp, được đặt ở gian giữa nhà. Nếu là nhà thờ tổ (từ đường) cũng phải đặt giữa nhà thờ họ và do
tộc trưởng trông nom; nhiều thì hàng ngày thắp nhang, không thì cũng phải các ngày giỗ chính cùng là sóc vọng, tết nhất, hay những việc đột xuất
khác như hiếu hỉ, khao vọng
- Trên bàn thờ bày những đồ thờ nhang đèn như đỉnh trầm, cây nến, mâm bồng, có khi thêm cặp hạc và bình bông, Nhưng quan trọng hơn cả là bài
vị của tổ tiên (còn gọi là linh vị, thần chủ). Ngũ đại mai thần chủ (năm đời thì chôn bài vị) tức là trên bàn thờ đến đời thứ tư . Riêng ở nhà thờ tổ thì
thờ từ vị tổ khai sáng, (hay vị thủy tổ), cho nên đã thấy ở Trung Quốc những nhà thờ họ mà bài vị xếp từ dưới lên cao dày đặc như mái ngói . Còn ở
Việt Nam vì chiến tranh nhiều, cuộc sống bấp bênh nên ít có tình trạng nhà thờ tổ bền vững được hàng nghìn năm .
- Bàn thờ là chỗ thiêng liêng của gia đình cho nên nghèo thì bàn thờ mộc, giàu thì bàn thờ sơn son thếp vàng, các đồ thờ bằng đồng . Tuy nghèo
nhưng so ra thì luôn luôn phải hơn những vật dụng khác trong nhà . Bàn thờ là biểu tượng cho nguồn cội của gia đình mình, cho nên trong xã hội cũ
mà vì hoàn cảnh làm ăn nghèo túng, Tết nhất, giỗ chạp không có được mâm cơm cúng, người ta khổ sở và tủi hổ vô cùng . Chúng ta ngày nay
không hiểu được vì sao con nợ ngày xưa phải bằng mọi cách trước tết đi chuộc bát hương về để bày bàn thờ cúng gia tiên .- Việc cúng giỗ chính là
biểu lộ sự đối xử của con cháu với tổ tiên đã khuất như khi còn sống . Người ta cụ thể hoá câu của Khổng Tử sự tử như sự sinh. Trước cúng, sau ăn .
Cỗ lớn thì tổ tiên mừng cho con cháu thành đạt; cỗ nhỏ, chén cơm quả trứng, tổ tiên biết lòng thành của con cháu nghèo nàn mà giúp đỡ.
- Các nghi lễ thờ cúng thường được tổ chức vào các ngày sóc vọng trong tháng, ngày mất của tổ tiên. Ngoài ra khi gia đình có những việc trọng đại
hiêu hỉ thì người ta đều tổ chức nghi lễ thờ cúng tổ tiên hoặc bất kỳ lúc nào cần được gia tiên phù hộ như: sinh con, đẻ cái, kết hôn, làm nhà, lập
nghiệp, có trục trặc về sức khỏe. Đây là cách để thể hiện đạo lý Uống nước nhớ nguồn. Nghi lễ với hai loại thức cúng là cỗ chay hoặc cỗ mặn.
-Việc thắp hương trên bàn thờ bao giờ cũng phải thắp theo số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9, 11. Người ta quan niệm rằng, số lẻ là dương nên nó phù hợp hơn với
tổ tiên(người dương thắp cho người âm).
Khi thắp hương, người ta phải để hương sao cho thật thẳng, tránh để hương bị nghiêng, méo hay siêu đổ khiến đốm lửa giữa các nén hương không
đều nhau, làm hương bị tắt lửa, hương tàn xuống có thể gây cháy những đồ lễ vật trên bàn thờ hoặc gây hỏa hoạn
Ý nghĩa thiêng liêng của việc thờ cúng tổ tiên
- Duy trì ý thức hướng về cội nguồn. Việc thờ cúng ông bà tổ tiên thể hiện nếp sống đạo đức, uống nước nhớ nguồn,con cháu nhớ về tổ tông, ông bà
cha mẹ đã gây dựng nên cho mình cuộc đời cả về thể xác lẫn tinh thần. Sự thiêng liêng ấy là tỏ lòng thành kính dâng lễ vật cúng tế vong hồn người
đã khuất. Việc chu đáo trong lễ lạt cúng bái tổ tiên khiến cho lòng người thanh thản.
- Thể hiện lòng hiếu thảo nhân nghĩa của người sống đối với người đã khuất. Con cháu coi các vị tổ tiên là những vị thần hộ mệnh, phù hộ che chở
cho con cháu trong suốt những tháng ngày làm ăn sinh sống. Việc chôn dồ tùy táng hay đốt vàng mã ngày nay, thể hiện niềm tin vào sự tồn tại của
một cõi âm. Mồ yên mả đẹp luôn là ước vọng của con cháu đối với các vị tổ tiên gia đình dòng họ. Con cháu nào cũng muốn xây lăng mộ cho dòng
họ mình thật đẹp để tỏ lòng thành kính
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng có tính chất giáo dục cao, tạo điều kiện để duy trì những không gian văn hóa truyền thống

13
Câu 11: Phân tích vai trò của văn hóa phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam?
Sau những biến động của lịch sử nhân loại, Phật giáo vẫn đứng vững và giáo lý của Phật giáo đã hướng con người tìm đến sự thanh thản trong tâm
hồn khi mà thế giới ngày nay đang biến động với một tốc độ nhanh chưa từng có. Những “tham, sân, si” đã làm tâm hồn con người ngày càng mệt
mỏi, làm xói mòn sự trong sáng trong mối quan hệ giữa con người với con người. Đâu đâu ta cũng thấy sự dối trá, ích kỷ, mưu lợi ích riêng. Từ đó,
con người tìm đến tôn giáo như mong muốn tìm được sự giải thoát.
Vì sao Phật giáo luôn luôn tìm thấy một đồng điểm ở nơi nó truyền bá. Trước đạo Phật đến với tinh thần con người nhờ những lý luận mang tính
dung hòa của nó. Đạo Phật quan niệm vạn vật đồng nhất thể, nên bản thể vũ trụ cũng tiềm ẩn trong mỗi con người. Bởi vậy khi làm cho bản thể
trong mỗi cá nhân hoà đồng với bản thể vũ trụ, thì ta và thế giới hoà làm một. Muốn đạt được điều đó thì phải có trí tuệ hay Phật học gọi là Bát
Nhã. Nhưng để đi đến cái đó, mỗi người phải tự khai mở tâm mình. Điểm này khiến người Việt trong cuộc sống đề cao cái tâm, lối sống tình
cảm. Nó giúp con người tìm thấy lối thoát sau những khó khăn, vất vả của cuộc đời.
Phật giáo nêu lên hình ảnh “nhân nào, quả nấy”, “gieo gió, gặp bão”, “ở hiền gặp lành”....Từ đó, đánh thẳng vào tâm lý của con người. Vậy là họ tin
tưởng một triết lý bất di bất dịch “gieo nhân nào thì gặt quả nấy.
Giai cấp thống trị vì lợi ích giai cấp, muốn thống nhất tín ngưỡng, thống nhất nhân tâm nhằm phục vụ việc cai trị. Nhà Lý – Trần cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Nhưng với sự giao thoa giữa tinh thần dân tộc với giáo lý Phật giáo đã thật sự hòa hợp làm một. Các vua nhà Lý tiếp thu giáo lý
đạo Phật: những tư tưởng về bác ái, tu thân, nhập thế, xuất thế. Từ đó, đưa ra những chính sách cai trị đem lại hạnh phúc và ấm no cho dân
chúng. Như sách Đại Việt sử kí toàn thư chép “Trước kia, trong nước việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc
nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót sai trung thư sửa định luật lệnh châm trước cho thích dụng với thời bây giờ, chia ra môn loại,
biên ra nhiều khoản làm sách hình luật của một triều đại”. Đối với những người vi phạm vào các quy định của nhà nước vua Lý thường lấy lòng
khoan dung mà tha thứ. Năm 1028, Lý Thái Tông lên ngôi đã tha tội làm phản cho Đông Chinh Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương. Luật
pháp triều Lý đặc biệt chú ý tới người già, trẻ nhỏ, coi trọng công tác giáo dục, ngăn ngừa. Pháp luật triều Lý quy định những người trong độ tuổi từ
70 đến 80, trẻ nhỏ từ 15 đến 10 tuổi nếu phạm tội thì cho phép dùng tiền để chuộc tội. Điều đó, chứng tỏ lòng bác của vua nhà Lý, chính là sự ảnh
hưởng của tư tưởng bác ái, thương yêu nhân loại của đạo Phật.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý- Trần, được coi như một Quốc giáo. Hầu hết các vua Lý – vua Trần rất tôn sùng Phật, sai
dựng chùa tháp, tô tượng đúc chuông, dịch kinh Phật, soạn sách Phật. Thời Lý - Trần, có rất nhiều vị sư tăng nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và
địa vị chính trị- xã hội. Có thể kể các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông. Đạo Phật thời Lý - Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của
Nhà nước (chính sách thân dân, khoan dung), là đối trọng tư tưởng của Nho giáo, tạo nên thế cân bằng tôn giáo.
Phật giáo đối với sự tiếp nhận của nhân dân lúc bấy giờ vẫn còn là đề tài đang nghiên cứu. Theo tôi, bất cứ tôn giáo nào cũng vậy. Khi nó được
truyền bá sang một nơi nào đó, thì người dân chính người tiếp nhận đầu tiên. Tôn giáo có ý nghĩa lớn lao đối với đời sống tinh thần của con người.
Những đau khổ, mất mát trong cuộc sống, những gì con người không làm được thì họ tìm đến tôn giáo như một lối đi cho tinh thần của mình. Tôn
giáo giang đôi tay che chở cho những tín đồ của mình và giải thích bằng những lý lẽ riêng của nó. Cư dân Đại Việt lúc bấy giờ, sống dựa vào nông
nghiệp là chính. Những thiên tai, hạn hán, dịch bệnh đe dọa đến mạng sống nhỏ nhoi của họ. Vậy là Phật giáo đã đến với họ một cách tự nhiên bằng
những giáo lý phù hợp với tích cách, con người Đại Việt. Từ đó, tinh thần của cư dân Đại Việt lại được khơi nguồn sống mới. Điều đó thể hiện qua
nền văn học Phật giáo thời Lý – Trần. Nội dung văn học Phật giáo không chỉ hạn chế trong yêu cầu phổ biến giáo lý và truyền đạo mà còn chứa
đựng những truyền thống tốt đẹp của văn học dân tộc như tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tôc, lòng khát khao hòa bình và niềm say mê thiên
nhiên ... Văn học Phật giáo trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần rèn luyện nhân cách bản lĩnh con người Đại Việt. Tư tưởng Phật giáo ảnh hưởng đến
toàn bộ nền văn học thời kỳ này, góp phần vào sự phát triển chung của văn học đương thời. Và Phật giáo đời Lý - Trần đã tìm thấy sức sống vững
bền trong lòng dân tộc và đã phát huy vai trò của mình trên nhiều mặt của đời sống xã hội.
Nhà Lý - Trần đã chủ trương một chính sách khoan dung hòa hợp và chung sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo như tín ngưỡng dân gian,
Phật, Đạo, Nho. Đó chính là hiện tượng Tam giáo đồng nguyên. Theo Phan Huy Chú, “thời Lý - Trần, dù là chính đạo hay dị đoan đều được tôn
chuộng, không phân biệt”. Đó là điều đặc trưng của thời Lý – Trần. Vì các tôn giáo hầu như không tồn tại song song với nhau được, nếu như nó
không tìm được đồng điểm chung. Như Islam giáo, Thiên chúa giáo không thể hòa hợp. Và hiện nay, điều đau lòng cho cả nhân loại khi cuộc chiến
sắc tộc - tôn giáo đang diễn ra ở một số nơi trên thế giới.
Tóm lại, sự có mặt của Phật giáo ở Việt Nam có một vai trò, một vị trí quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc. Nhất là Phật giáo Lý – Trần đã thể
hiện trí tuệ và từ bi sâu. Chính sách an dân trị nước của các vua Lý – Trần khiến nhân dân khâm phục. Vì thế cả hai triều đại Lý – Trần đều tồn tại

14
khá lâu. Triều Lý hơn 200 năm (1010 – 1225) và triều Trần gần 200 năm (1226 – 1400). Đây cũng là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Việt Nam mà
cũng là thời đại đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước nhà. Khi vua dân đồng lòng cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lòng khoan dung của
các vua nhà Lý. Hào khí Đông A soi rọi trái tim anh dũng của nhân dân ta, giúp chúng ta có sức mạnh vũ bão chống lại bọn xâm lược hung tàn. Đức
trị thay pháp trị, yêu thương dân chúng bằng trái tim Phật.

15
Câu 12: Trình bày tổng quát những đặc điểm chính của làng Việt truyền thống và đi sâu phân tích một đặc điểm mà anh chị hiểu biết sâu
sắc nhât
1.Nêu khái niệm
+ Làng là đơn vị cộng cư: Đơn vị cùng chung sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt văn hóa của một cộng đồng dân cư. Vì thực tế ở làng ngoài bộ
phận chính những người làm nghề nông nghiệp, còn có một bộ phận dân cư sinh sống bằng các nghề khác nữa như: làm gốm, làm mộc, làm nề, làm
dệt, làm lụa, làm chiếu…
+ Vùng đất chung xác định, bao gồm: đất cư trú để người dân sinh sống; đất trồng trọt, thâm canh, người ta có chung sở hữu về tài nguyên thiên
nhiên như: nguồn nước, ruộng đồng, sông ngòi, đê điều, bãi cỏ…
+ Làng có chung một tổ chức xã hội nông nghiệp vì cư dân sống chủ yếu ở làng là cư dân nông nghiệp, nền kinh tế chủ yếu ở làng là nền kinh tế
nông nghiệp. Và tổ chức xã hội nông nghiệp ấy phải thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình, với dòng họ.
Khái niệm này chủ yếu gắn với làng quê truyền thống ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, với khoảng thời gian hình thành hàng nghìn năm; còn ở Nam Bộ
chưa hẳn đã vậy.
+ Làng được hình thành, tổ chức dựa vào hai nguyên lý cơ bản:
- Nguyên lý cùng huyết thống:
Người trong làng đều có họ, đều có quan hệ máu mủ, huyết thống với nhau. Nguyên lý cùng huyết thống này xuất hiện chủ yếu ở thời công xã thị
tộc. Lúc đầu làng là nơi ở của 1 họ, về sau có nhiều dòng họ cùng cư trú, trong đó thường có 2-3 dòng họ lớn. Có nhiều làng là nơi ở của một họ mà
cho đến nay người ta vẫn còn tìm thấy dấu vết qua hệ thống các tên gọi của làng như: Làng Đặng Xá, Ngô Xá, Nguyễn Xá, Lê Xá… Vì thế dân
gian có câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
- Nguyên lý cùng nơi chốn
Khi công xã thị tộc tan rã, công xã nông thôn xuất hiện, các thành viên trong làng còn gắn bó với nhau bằng quan hệ sản xuất để đối phó với môi
trường tự nhiên, môi trường xã hội. Vì thế, bên cạnh câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã còn có câu Bán anh em xa mua láng giềng gần. Hai câu
tục ngữ, hai cách ứng xử tưởng như mâu thuẫn nhưng thực chất lại là một cách kết hợp độc đáo cùa làng Việt Nam.
Cơ cấu dân cư và tổ chức hành chính
+ Làng gồm 3 loại người:
- Kỳ mục (Hội đồng kỳ mục. Miền Nam gọi là Hội tề): Gồm Tiên chỉ, Thứ chỉ… có trách nhiệm bàn bạc tập thể và quyết định các công việc của
làng xã. (cơ quan lập pháp).
- Kỳ dịch (Lý dịch): Gồm Lý trưởng, xã trưởng, Hương trưởng, Trương tuần, Cai lệ... Do Hội đồng kỳ mục cử ra, trực tiếp thi hành các quyết định
của Kỳ mục, trực tiếp tổ chức, quản lý đời sống của dân làng. (cơ quan hành pháp).
- Cộng đồng dân cư: Chiếm số lượng đông đảo nhất, góp phần tạo nên diện mạo văn hoá của mỗi làng. Gồm có: Dân chính cư (dân gốc ở làng);
Dân ngụ cư (dân từ nơi khác đến trú ngụ).
+ Đặc trưng cơ bản của làng Việt
Tính cộng đồng:
- Biểu hiện của tính cộng đồng:
- Là đặc trưng số một của làng truyền thống Việt Nam. Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, vì vậy người dân phải liên kết với nhau,
dưa vào nhau mà sống. Chính điều đó đã tạo nên tính cộng đồng.
Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất, tạo nên những tính cách tốt đẹp của người Việt Nam:
+ Luôn sẵn sàng đoàn kết, giúp đỡ nhau, coi mọi người như anh em trong nhà: Lá lành đùm lá rách; Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Thương người
như thể thương thân…
VD: Một người đi xa lâu ngày trở về làng, cả làng đến hỏi thăm; có ấm nước chè tươi, ngon, cả làng đến uống; một người lên đường nhập ngũ, cả
làng đến hỏi thăm, chia tay, động viên…
+ Tạo nên tính tập thể cao, mang đến sức mạnh to lớn cho dân tộc, đặc biệt là trong những trường hợp cần thiết như chống thiên tai, lũ lụt, chống
giặc ngoại xâm...
+ Ý thức cá nhân bị thủ tiêu, hoà tan vào các mối quan hệ xã hội, giải quyết xung đột theo lối “hoà cả làng” (khác phương Tây: Con người được rèn
luyện ý thức cá nhân ngay từ nhỏ).

16
+ Tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể, tư tưởng an phận thủ thường, cả nể, làm việc gì cũng sợ rút dây động rừng: Nước trôi thì bèo trôi, nước nổi
thì bèo nổi; Cha chung không ai khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa… Những hệ luỵ này vẫn còn ảnh hưởng trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc
sống hôm nay.
Ví dụ: Việc sử dụng các thiết bị cơ sở vật chất chung như: điện, điện thoại, máy tính… ở một số người còn bừa bãi, thiếu ý thức tiết kiệm.
+ Thói cào bằng, đố kị (không muốn cho ai hơn mình, muốn để cho tất cả đều đồng nhất giống nhau): Xấu đều hơn tốt lỏi; Chết một đống hơn sống
một người…
Tính tự trị, tự quản
- Biểu hiện
- Tính cộng đồng nhấn mạnh vào cái chung thì tính tự trị nhấn mạnh vào nét khác biệt của cộng đồng làng này so với cộng đồng làng kia. Mỗi làng
có thể coi như một “vương quốc” nhỏ khép kín với những tập quán riêng biệt.
- Tính tự trị được biểu hiện qua các hương ước của làng. Hương ước do những người có chức sắc và những người đàn ông trong làng bàn soạn để
rang buộc từng cá nhân vào cộng đồng làng xã. Hương ước quy định một số nhiệm vụ và điều cấm đoán mà mọi người dân phải tuân thủ, như: quy
định về sản xuất, về kinh tế, về phong hóa, địa lý, về an ninh, tế tự, về học hành khoa cử… Tất cả những điều này đều có thưởng phạt cụ thể. Hương
ước có tác dụng điều hành cuộc sống của dân làng. Nhưng cũng không ít trường hợp những điều lệ của hương ước lại chỉ phục vụ cho quyền lợi của
giai cấp thống trị.
- Ý nghĩa
+ Tạo nên nét riêng, mang bản sắc văn hoá của mỗi làng. Có khi hai làng ở gần nhau nhưng lại không hề giống nhau.
+ Tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng, nếp sống tự cấp tự túc: mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi việc; mỗi làng, mỗi nhà có thể tự đáp ứng
lấy nhu cầu cuộc sống của mình. Vì thế người Việt Nam có truyền thống cần cù, chịu thương chịu khó, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng
cho trời…
- Mặt trái của tính tự trị, tự quản
+ Tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, làng nào biết làng ấy, chỉ biết lo vun vén cho địa phương mình: Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng
nào làng ấy thờ… Đặc điểm này còn lan truyền đến cả tính cách của mỗi cá nhân: ích kỷ, khôn lỏi, chỉ biết nghĩ đến mình, cho được việc mình: Ai
có thân người ấy lo, ai có bò người ấy liệu; Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu..
+Lòng tự tôn thái quá nhiều khi trở thành tự thị, gia trưởng, áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lý: Sống lâu lên
lão làng; Áo mặc không qua khỏi đầu…
- Hai đặc trưng đối lập, trái ngược này dẫn đến sự hình thành tính cách nước đôi của người Việt:
+ Vừa có tinh thần đoàn kết, vừa có tư tưởng tư hữu, ích kỷ
+ Vừa có tinh thần tập thể, vừa có óc bè phái, địa phương
+ Vừa có nếp sống dân chủ, bình đẳng, vừa có óc gia trưởng
+ Vừa có đức tính cần cù, vừa có thói dựa dẫm, ỉ lại

17
Câu 13: Phân tích vai trò và phẩm chất của người phụ nữ trong gia đình người Việt truyền thống. Liên hệ với tình hình xây dựng gia đình
văn hóa hiện nay ở nước ta.
1. Phân tích vai trò và phẩm chất của người phụ nữ trong gia đình người Việt truyền thống
* Xã hội truyền thống Việt Nam do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Trung Quốc nên mang tính chất phụ quyền sâu sắc. Nhưng ảnh hưởng đó chỉ
mang tính tương đối “vỏ Tàu lõi Việt”. Còn trong thực tế xã hội Việt Nam rất đề cao vai trò người phụ nữ. Nguyên nhân:
* Biểu hiện của vai trò và phẩm chất người phụ nữ trong gia đình người Việt truyền thống:
- Trong mối quan hệ với các thành viên trong gia đình:
Là người vợ họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia đình, hay nói cách khác họ là người giữ lửa cho gia đình lúc nào

cũng tràn đầy ấm áp, yêu thương; họ luôn hiểu chồng, sẵn sàng chia sẻ công việc gia đình và những vui buồn cùng chồng trong cuộc sống, khiến
người chồng luôn cảm thấy yên tâm, từ đó họ có thể đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Không chỉ chăm sóc giúp đỡ chồng trong gia đình, người vợ
còn là chỗ dựa tinh thần là nguồn động viên an ủi giúp đỡ, đóng góp vào thành công trong sự nghiệp của chồng.
Là người mẹ họ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện chức năng sinh đẻ duy trì nòi giống và nuôi dạy con cái không chỉ lúc

trong bụng mẹ, đến lúc sinh ra, mà ngay cả lúc trưởng thành. Phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái chủ yếu, là nguồn sữa để nuôi con khôn
lớn, là chỗ dựa tinh thần to lớn đối với mỗi chúng ta. Ngoài ra thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức, nhân cách của người mẹ đã tác động ảnh hưởng to
lớn đến sự hình thành thể lực, trí lực, phẩm chất, nhân cách của những đứa con.
Là người nội trợ, người phụ nữ đã thể hiện vai trò đảm đang trong quán xuyến công việc gia đình, từ việc đi chợ, lo cơm nước đảm bảo

sức khỏe cho các thành viên trong gia đình, đến việc sắp xếp công việc chung và công việc cho các thành viên trong gia đình hợp lý, hằng ngày thu
xếp, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp để giữ ổn định trong gia đình. Ngày nay mặc dù khoa học phát triển, đời đống vật chất tinh thần ngày càng
cao đã tạo điều kiện giải phóng phụ nữ khỏi công việc nội trợ gia đình để tham gia hoạt động xã hội, tuy nhiên vai trò nội trợ của người phụ nữ
không vì thế mà mất đi, ngược lại nó được quan tâm nhiều hơn nữa, yêu cầu cao hơn nữa, đặc biệt người phụ nữ cần có kế hoạch sắp xếp tổ chức
cuộc sống gia đình thật vui vẻ, đầm ấm phù hợp với sở thích của các thành viên trong gia đình với những bữa cơm ngon, thân mật để các thành viên
trong gia đình có đủ sức khỏe để học tập và công tác tốt.
- Trong kinh tế, lao động, sản xuất: Là người người lao động tham gia lao động, sản xuất tạo thu nhập cho gia đình. Người phụ nữ cũng là một thành
phần lao động chính, tham gia vào mọi khâu trong quá trình sản xuất, cũng như hoạt động buôn bán trong xã hội. đóng vai trò tay hòm chìa khóa, có
tác dụng quyết định đến việc chi tiêu trong gia đình. Vai trò của người phụ nữ hiện đại trong việc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc là hết
sức nặng nề. Người phụ nữ phải là người khéo léo sắp xếp để làm sao tất cả mọi người trong gia đình đều thấy được trách nhiệm của mình tham gia
lao động tạo thu nhập đối với gia đình; Đồng thời chi tiêu một cách hợp lý phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế của gia đình và xã hội.
- Trong đời sống tín ngưỡng, tâm linh: người phụ nữ còn có vai trò là người giữ gìn, phát huy những gia trị truyền thống của gia đình, góp phần xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mà trước hết đó là xây dựng gia đình văn hóa.
2. Liên hệ
+ Vai trò người phụ nữ trong gia đình thời hiện đại?
Ngày nay trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của gia đình là điều rất
cần được coi trọng; trong đó phụ nữ giữ vai trò chủ đạo, vai trò của phụ nữ là cơ sở “hậu phương” vững chắc. Ảnh hưởng của người phụ nữ tác
động sâu sắc đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống gia đình.
+ Người phụ nữ cần có những phẩm chất nào trong xã hội hiện đại?
Người phụ nữ của một gia đình hiện đại ngày nay biết tự nâng tầm nhận thức của mình, ý thức được vai trò của mình trong gia đình và biết tự bảo
vệ hạnh phúc của chính mình, có khả năng giải phóng cho chính mình, cân bằng công việc xã hội và công việc gia đình được coi là một phẩm chất
cần thiết để hoàn thiện gia đình.
+ Người phụ nữ cần có những phẩm chất gì để duy trì được cuộc sống gia đình hạnh phúc?
Người phụ nữ phải biết “giữ lửa”, “truyền lửa” hâm nóng bầu không khí gia đình “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Giữ gìn và thực hiện thiên chức
của mình càng làm cho hình ảnh người phụ nữ truyền thống trở nên dịu dàng, hiền thục với đức tính“Công, dung, ngôn, hạnh” hơn nhưng vẫn
không làm giảm đi sự mạnh mẽ, quyết liệt và cao thượng rất hiện đại, điều đó được chứng minh rất sinh động trong cuộc sống ngày nay có rất nhiều

18
những người phụ nữ thành đạt trên nhiều lĩnh vực khác nhau do đó tin tưởng rằng những nguy cơ trên khó có thể đánh bại được ý chí của người phụ
nữ trong vai trò xây dựng gia đình văn hóa hạnh phúc.

19
Câu 14: Phân tích ý nghĩa văn hoá của lễ hội truyền thống Việt Nam. Liên hệ với thực tế lễ hội hiện nay ở nước ta.
1. Đặc điểm của lễ hội:
Tính thiêng
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang tính "thiêng" nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã
xuống mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một
bờ sông, nơi có một xác người chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân vớt lên, chôn cất, thờ phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ
hình thành nhằm ngày sinh, ngày mất của một người có công với làng với nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác (có người chữa bệnh, có người
dạy nghề, có người đào mương, có người trị thủy, có người đánh giặc... ). Song, những người đó bao giờ cũng được "thiêng hóa" và đã trở thành
"Thần thánh" trong tâm trí của người dân.
Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có thể phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa
bệnh, làm nghề, sản xuất, đánh giặc... mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống.
Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều
tốt đẹp sẽ đến.
Tính "cộng đồng"
Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn.
Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước.
Tính địa phương
Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế lễ hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội
chính là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không
chỉ ở nội dung lễ hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật
dâng cúng...
Tính cung đình
Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của người Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Bởi
thế những nghi thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu... đều mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách
bài trí, trang phục, động tác đi lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người
tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng của người dân.
Tính đương đại
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử, cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới,
những cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm, micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ
hội được thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu mới.
Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép
tùy tiện, vô lý...
2. Phân tích ý nghĩa văn hóa của lễ hội truyền thống Việt Nam:
- Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình
lịch sử. Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”.
- Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc.
- Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người.
- Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết
để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
- Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo
dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết
hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí...
- Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua
những thử thách đến với ngày mai tươi sáng hơn.

20
3. Liên hệ với thực tế lễ hội hiện nay ở nước ta
+ Lễ hội ngày nay được tổ chức theo quy trình:
Thông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau:
- Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn
bị cho mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ
hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục)
cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần...
- Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là
toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày
hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này.
- Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích.
Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết
trời ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải
+ Những điểm tích cực của lễ hội ngày nay? Những mặt còn hạn chế?
Tích cực:

Công tác tổ chức và quản lý lễ hội chuyển biến; việc ban hành và thực thi các văn bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra lễ

hội cho đến việc phục hồi và phát huy có hiệu quả nhiều lễ hội dân gian, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân
tộc, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Hầu hết các lễ hội đều được tổ chức các nghi thức cúng lễ trang trọng, linh thiêng và thành kính. Chương trình tham gia phần hội phong

phú hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc theo xu hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm, tổ chức các hoạt động
văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian, dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc để quảng bá, giới thiệu những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt
Nam.
Tổ chức lễ hội dân gian đã kết hợp gắn kết các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh đất

nước, con người Việt Nam và mỹ tục truyền thống văn hoá lâu đời tốt đẹp, độc đáo của dân tộc ta.
Do phát huy vai trò chủ thể của người dân, hoạt động lễ hội đã được xã hội hoá rộng rãi, huy động được nguồn lực lớn từ nhân dân,

nguồn tài trợ, cung tiến ngày càng tăng, nguồn thu qua công đức, lệ phí, dịch vụ phần lớn đã được sử dụng cho trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử
văn hoá, tổ chức lễ hội đã và đang góp phần bảo tồn các phong tục, tập quán truyền thống và hoạt động phúc lợi công cộng.
Thông qua lễ hội, đã và đang tạo lập môi trường thuận lợi để nhân dân thực sự là chủ thể của hoạt động lễ hội, chủ động sáng tạo, cùng

tham gia tổ chức, đóng góp sức người sức của cho các lễ hội truyền thống, nâng cao trách nhiệm của tổ chức cá nhân và cộng đồng trong tham gia
hoạt động lễ hội, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nhu cầu tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân.
Tiêu cực:

Đơn điệu hoá lễ hội:
Mỗi lễ hội đều có cốt cách, sắc thái riêng, cuốn hút khách thập phương đến với lễ hội làng mình. Tuy nhiên, ngày nay, lễ hội đang đứng

trước nguy cơ nhất thể hoá, đơn điệu hoá, hội làng nào, vùng nào cũng na ná như nhau, làm thui chột đi tính đa dạng của lễ hội, du khách thập
phương sau một vài lần dự hội thì cảm thấy nhàm chán và không còn hứng thú đi chơi hội nữa.
Trần tục hoá lễ hội:

21
Trong phục hồi và phát triển lễ hội, do chưa nắm được ý nghĩa thiêng liêng, đặc biệt là cách diễn đạt theo cách “biểu trưng”, “biểu

tượng” của người xưa, nên lễ hội đang bị trần tục hoá, tức nó không còn giữ được tính thiêng, tính thăng hoa và ngôn ngữ biểu tượng của lễ hội và
như vậy lễ hội không còn là lễ hội đích thực nữa.
Quan phương hoá lễ hội:
Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn lễ hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ

hội với du lịch…đây đó và ở những mức độ khác nhau đang diễn ra xu hướng quan phương hoá, áp đặt một số mô hình định sẵn, làm cho tính chủ
động, sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí họ còn bị gạt ra ngoài sinh hoạt văn hoá mà vốn xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính xu hướng
này khiến cho lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, “giả tạo”, mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hoá, vừa khiến cho du
khách hiểu sai lệch về nền văn hoá dân tộc.
Thương mại hoá lễ hội:
Cùng với xu hướng phục hồi và phát triển lễ hội hiện nay, thì không ít các hoạt động mang tính “thương mại hoá”, lợi dụng lễ hội để thu

lợi bất chính, ép buộc, bắt chẹt người đi trẩy hội, đặc biệt là lợi dụng tín ngưỡng trong lễ hội để “buôn thần bán thánh” theo kiểu “đặt lễ thuê”,
“khấn vái thuê”, bói toán, đặt các “hòm công đức” tràn lan, tạo dựng các “di tích mới” để thu tiền như trong lễ hội Chùa Hương, Bà Chúa Kho...
Cũng không phải không có một số “tổ chức” mệnh danh là quản lý lễ hội, hoạt động du lịch để bán vé thu tiền bất chính khách trẩy hội. Những hoạt
động thương mại này đi ngược lại tính linh thiêng, văn hoá của lễ hội, đẩy lễ hội rớt xuống mức thấp nhất của đời sống trần tục.
+ Cần phải làm gì để gìn giữ được những nét đẹp văn hóa của lễ hội?
Khi phục dựng lễ hội, nhất thiết phải xác định các giá trị gốc, tiêu chí nhận dạng cũng như những biểu hiện đặc trưng của lễ hội, tránh làm sai

lệch lễ hội mỗi lần khai thác.
Công tác tổ chức và quản lý lễ hội hiện nay đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ mối quan hệ giữa kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Ngăn chặn xử lí các tệ nạn xã hội diễn ra trong lễ hội.

Đào tạo những người làm công tác quản lý, tổ chức văn hóa nói chung, cũng như những người hoạt động trong lĩnh vực quản lý lễ hội nói

riêng
Cần tập trung nhiều thời gian cho việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cộng đồng

22
Câu 15: Trình bày hệ thống lễ tết của Việt Nam. Phân tích ý nghĩa văn hóa cuả lễ tết Nguyên Đán trong văn hóa Việt Nam.
Khái niệm: TẾT - là những ngày lễ được phân bổ thời gian trong năm, đan xem giữa các khoảng trống thời vụ
=> LỄ TẾT: là hoạt động văn hóa cộng đồng được tổ chức với các nghi thức khác nhau vào các khoảng thời gian cố định trong năm, thể hiện sắc
thái văn hóa và quan niệm riêng về lịch pháp của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
+ Hệ thống lễ tết của Việt Nam:
- Tết Nguyên Đán - Tết thanh minh
- Lễ trừ tịch - Tết hàn thực
- Lễ động thổ - Tết đoan ngọ
- Lễ Khai hạ - Tết trung nguyên (rằm tháng 7)
- Lễ thần nông - Tết trung thu
- Lễ tịch điền - Tết hạ nguyên (tết cơm mới)
- Lễ khai ấn - Tết trùng thập
- Tết nguyên tiêu - Tết táo quân
+ Ý nghĩa văn hóa của tết Nguyên Đán:
- Tết ở Việt Nam là những ngày lễ hội lớn cho cả nước. Những ngày ấy mọi xóm làng, nhà nhà, ai ai cũng nghỉ làm việc và vui vầy đoàn
tụ. Ngày tết có tính thiêng liêng và là một dịp làm mới lại mọi việc.
- Chính thức Tết là ngày lễ gồm ba ngày đầu tiên của năm mới âm lịch. Giây phút thiêng liêng nhất là đêm giao thừa, là lúc 0 giờ bắt đầu
bước qua năm mới.
- Người Việt ăn mừng Tết với niềm tin thiêng liêng Tết là ngày đoàn tụ, là ngày làm mới, là ngày tạ ơn và là ngày của hy vọng.
- Ngày Đoàn Tụ - Tết luôn luôn là ngày đoàn tụ của mọi gia đình. Dù ai buôn bán, làm việc hay đi học ở xa, họ thường cố gắng dành tiền
và thời giờ để về ăn Tết với gia đình. Đó là nỗi mong mỏi của tất cả mọi người, người đi xa cũng như người ở nhà đều mong dịp Tết gặp mặt và
quây quần đoàn tụ.
- Tết cũng là ngày đoàn tụ với cả những người đã mất. Từ bữa cơm tối đêm 30, trước giao thừa, các gia đình theo Phật giáo đã thắp hương
mời hương linh ông bà và tổ tiên đã qua đời về ăn cơm vui Tết với các con các cháu.
- Ngày Tết người ta cũng hay thực hiện những nghi lễ, để dâng hương lên các vị thần ban phúc cho gia đình được nhiều sức khỏe, nhiều
tiền tài, nhiều may mắn và an vui hạnh phúc trong năm.
- Ngày Làm Mới - Tết là ngày đầu tiên trong năm mới, mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và làm mới mọi việc. Việc làm mới có thể
về hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa trang trí lại nhà cửa. Hoặc làm mới lại về phần tình cảm và tinh thần của con người, để mối liên hệ với
người thân được cảm thông hơn hoặc để tinh thần mình thoải mái, thanh thản hơn. Sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh bóng.
Bàn ghế tủ giường được lau chùi phủi bụi. Người lớn cũng như trẻ con đều tắm rửa gội đầu sạch sẽ, mặc quần áo mới may bảnh bao. Bao nhiêu mối
nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui hay để tạo một sự tín nhiệm nơi người chủ nợ. Với mỗi người, những buồn
phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối liên
hệ được tốt đẹp. Người Việt tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm sẽ báo hiệu một năm mới tốt đẹp sắp tới.
- Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Người
lớn có tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ và các cụ già để chúc các cháu hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn, học giỏi, còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ
để con cháu được nhờ phúc.
- Ngày của lạc quan và hy vọng - Năm cũ đã qua mang theo mọi xui xẻo và năm tới sắp đến mang theo đầy niềm tin lạc quan. Nếu năm cũ
khá may mắn, thì tin sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau.
- Ngày Tết người ta múa rồng múa lân sư tử khắp mọi nơi, nhất là những cửa hàng buôn bán để rước may mắn thịnh vượng về.
- Mùa Tết cũng là mùa cưới hỏi. Các cặp trai gái thích làm đám cưới vào dịp đầu năm, mùa xuân đất trời đang đẹp và đang mùa hy vọng.
Họ hy vọng cho một cuộc đời mới vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau và sẽ có đàn con ngoan.
- Ngày Tạ Ơn - Người Việt chọn ngày Tết làm cơ hội để tạ ơn ân nghĩa mình đã được hưởng năm vừa qua. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ
tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, cấp chỉ huy cũng cám ơn nhân viên qua những buổi tiệc đãi hoặc quà thưởng để ăn tết

23

You might also like