Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

Nguyên nhân của đầu tư quốc tế

Đầu tư quốc tế là một tất yếu khách quan do sự khách nhau về nhu cầu và khả năng tích lũy vốn của các
quốc gia, do việc tìm địa điểm kinh doanh có lợi của các doanh nghiệp, do việc gặp gỡ lợi ích giữa các
bên, do việc tránh các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng như nguyên nhân chính trị và kinh tế,
xã hội khác. Các nguyên nhân của đầu tư quốc tế có thể nhóm thành những vấn đề sau:

- Trình độ phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất và phân bố không đều giữa các yếu
tố sản xuất. Các yếu tố cơ bản của sản xuất như vốn, công nghệ, lao động và đất đai không được
phân bố đều giữa các quốc gia, các nước phát triển thì có lợi về lao động, tài nguyên thiên nhiên
được khai thác không hiệu quả, chính vì vậy đầu tư quốc tế là đường hướng hữu hiệu để kết hợp
tối ưu giữa các nguồn lực của các quốc gia và có thể giảm thiểu được chi phí sản xuất. Các quốc
gia mạnh như Mỹ, Nhật Bản, Nga cũng không thể tự coi là có đầy đủ các yếu tố sản xuất phục vụ
cho nhu cầu sản xuất của họ nên họ cũng phải trao đối với các quốc gia khác. Đầu tư quốc tế có
thể làm giảm chi phí sản xuất và tăng hiệu quả sử dụng vốn.
- Quá trình toàn cầu hóa càng ngày càng phát triển mạnh mẽ tạo nên môi trường thuận lợi cho sự
di chuyển các nguồn lực, trong đó có sự đầu tư giữa các nước. Quá trình toàn cầu hóa đã tác
động mạnh mẽ tới hoạt động đầu tư quốc tế như trên phương diện kĩ thuật mạng lưới viễn
thông, thông tin liên lạc rất phát triển làm cho thế giới thu nhỏ lại, các nhà đầu tư tiếp cận tới
những thông tin về vốn được nhiều hơn, nhanh hơn trước, do vậy, họ có thể đưa ra quyết định
đầu tư hiệu quả hơn. Ví dụ: việc thay đổi lãi suất của Cục dữ trữ liên bang Mỹ thì có thể tác động
tới thị trường chứng khoán ở Nhật Bản, châu Âu và tác động lan tỏa ra xung quanh. Trên phương
diện kinh tế, xu hướng tự do hóa đầu tư, quá trình toàn cầu hóa trong lĩnh vực đầu tư thể hiện
rất rõ, trước kia các nhà đầu tư quốc tế khi đầu tư ra nước ngoài lo ngại nhất là chính sách quốc
hữu hóa, tịch thu tài sản nhưng giờ đây các quốc gia đều cam kết không quốc hữu hóa, không
trưng thu tài sản và đưa ra những ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư (giảm thuế, kí kết các hiệp
định để phát triển hoạt động đầu tư). Trên bình diện khu vực có những hiệp định đầu tư ở các
khu vực như ở các nước Đông Nam Á thì có khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area –
AIA). Trên cấp độ toàn cầu, quá trình dầu tư ngày càng thuận lợi bởi những quy định quốc tế như
Hiệp định Đầu tư liên quan đến thương mại – TRIMS (Trade Related Investment Measures) của
WTO.
- Do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạnh khoa học kĩ thuật. Tác động của cách mạng khoa học
kĩ thuật được thể hiện trên hai phương diện: (i) Yêu cầu đầu tư cho khoa học kĩ thuật ngày càng
lớn như trong lĩnh vực viễn thông, hàng không luôn có sự hợp tác quốc tế; (ii) Vòng đời công
nghệ ngày càng ngắn. Ở các nước phát triển có những công nghệ cũ vẫn sử dụng được nhưng họ
vẫn liên tục phát minh ra các công nghệ mới, do vậy, họ mang những công nghệ cũ ra các nước
đang phát triển để tiến hành đầu tư, góp vốn bằng những công nghệ cũ, có điều khiện cơ cấu lại
nền kinh tế của mình, các nước đang phát triển khắc phực được khó khăn về việc thiếu công
nghệ trước mắt – Mô hình phát triển “Đàn sếu bay” ở các nước châu Á cũng thể hiện cơ cấu đó.
- Đầu tư quốc tế để tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, bành
trướng sức mạnh của các công ti xuyên quốc gia (TNCs). Để xuất khẩu được hàng hóa ra thị
trường nước ngoài là một vấn đề khó khăn, các doanh nghiệp phải đối mặt với một loạt các hàng
rào, rào cản bảo hộ (rào cản thuế quan, phi thuế quan), vậy, để tránh các khó khăn đó, các doanh
nghiệp có thể xây dựng các trung tâm, căn cứ, cơ sở kinh doanh ngay trong lòng thị trường nội
địa.
- Đầu tư quốc tế là một hình thức quan trọng nhằm nâng cao uy tín quốc tế và thực hiện các mục
đích chính trị – xã hội. Mỗi nước tùy theo ưu tiên của mình có thể có những chiếm lược để đầu
tư vào các địa bàn, quốc gia khác nhau, như trong khu vực châu Á có Nhật Bản là nước đầu tư
lớn trực tiếp ra các nước trong khu vực châu Á lớn nhất – Nhật Bản muốn tận dụng các nguồn
nguyên liệu đầu vảo ổn định ở khu vực, muốn mở rộng ảnh hưởng chính trị của Nhật Bản (nhằm
khắc phục hình ảnh xấu sau Chiến trang thế giới thứ II), muốn tăng cường tiếng nói của mình
trên chính trường quốc tế. Ở khu vực châu Mỹ Latinh thì Mỹ là nước có ảnh hưởng lớn, ở khu
vực châu Phi thì có Pháp (bởi trước kia Pháp có nhiều nước thuộc địa ở châu lục này).
- Đầu tư ra nước ngoài nhàm hạn chế rủi ro. Tuân theo nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh là
“không bỏ tất cả trứng vào một giỏ” – đa dạng hóa các địa bàn đầu tư thì rủi ro sẽ giảm đi, khi có
biến động xảy ra ở một khu vực thì chỉ những chi nhánh ở khu vực đó bị ảnh hưởng mà thôi, còn
ở các khu vực khác thì không bị ảnh hưởng. Ví dụ: khi giá dầu mỏ tăng thì sẽ gây thiệt hại cho các
nước công nghiệp vì đây là các nước sử dụng nhiều dầu, nhiên liệu – nhưng lại có lợi cho các
nước xuất khẩu dầu mỏ.
- Tận dụng chính sách thuế. Nhà đầu tư sẽ chọn địa bàn mà có mức thuế ưu đãi của họ, đồng thời
họ sẽ tiến hành tối thiểu hóa toàn bộ số thuế trên toàn bộ tập đoàn. Ví dụ: một công ti xuyên
quốc gia có rất nhiều công ti con, để giảm tối thiểu mức thuế của toàn bộ những công ti con trên
thế giới thì họ thực hiện phương thức “chuyển giá” giữa những công ti con trong công ti quốc gia
- Một công ti ở một nước có thuế thu nhập doanh nghiệp là rất cao, công ti đó nhập hàng từ một
công ti cũng trong cùng tập đoàn mà mức thuế thu nhập doanh nghiệp rất thấp; vậy, khi nhập lô
hàng đó họ sẽ có xu hướng tăng giá hàng nhập dẫn đến lợi nhuận của công ti ở nước có thuế thu
nhập cao sẽ bị giảm, còn công ti xuất khẩu hàng ở nước có thuế thu nhập thấp, khi thổi phồng
giá bán của lô hàng thì lợi nhuận của công ti sẽ tăng lên. Phần lợi nhuận tăng lên của phía công ti
xuất hàng so với phần lợi nhuận giảm đi ở phía công ti nhập hàng sẽ vẫn còn lãi, cộng lại mức
thuế phải đóng của toàn bộ tập đoàn đó trên phạm vị thế giới sẽ thấp nhất.

You might also like