1. ĐỀ CƯƠNG KTCT

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

CÂU 1: ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ TỒN TẠI CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA?

ƯU THẾ CỦA
SẢN XUẤT HÀNG HÓA?
Trả lời:
1. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ TỒN TẠI CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Sản xuất hàng hóa khác biệt so với sản xuất tự cung tự cấp căn bản nhất ở mục đích sản xuất. Mục
đích của việc sản xuất hàng hóa là tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người khác thông qua trao đổi,
mua bán; khác với mục đích đáp ứng nhu cầu sản xuất để tiêu dùng của sản xuất tự cung tự cấp.
Có hai điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
Thứ nhất – đk cần, có sự phân công lao động trong xã hội. Đó là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân
chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các lần phân công lao động xã
hội: lần 1 từ trồng trọt -> chăn nuôi, lần 2 từ nông nghiệp -> tiểu thủ công nghiệp, lần 3 từ công nghiệp -
> thương nghiệp => nâng cao năng lực sản xuất xã hội và tạo quan hệ cung – cầu. PCLĐXH được chia
thành phân công trong những ngành lớn -> PCLĐ chung, từ ngành lớn chia thành những ngành nhỏ hơn
-> PCLĐ đặc thù. Sự phân công lao động trong xã hội có tác động lớn tới nền kinh tế, thúc đẩy sự trao
đổi hàng hóa được diễn ra.
Tuy nhiên, thách thức đó là sự phụ thuộc giữa các chủ thể kinh tế. Nếu chỉ có pcldxh thì sản xuất
hàng hóa chưa thể ra đời.
Điều kiện thứ hai – đk đủ, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Người sản
xuất độc lập với nhau trên phương diện kinh tế trong quá trình sản xuất, mỗi chủ thể sản xuất quyết định
toàn bộ việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, hao phí bao nhiêu lao động trong quá trình sản xuất.
Vd: chủ của hãng A và B có sự tách biệt tương đối nhau về kinh tế, công nhân hãng A và B không có sự
tách biệt về kinh tế. Nguyên nhân là do: sự tư hữu về TLSX => tự quyết định các khía cạnh về mặt sản
xuất, VD: có đất thì sẽ tự tiến hành kinh doanh trên mặt đất đó; quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử
dụng TLSX tách khỏi quyền sở hữu pháp lý, VD: 3 ng thuê đất là những người sở hữu độc lập: quyền
chiếm hữu thực tế + sử dụng thuộc về 3 người khác nhau → có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế.
Ở Việt Nam, có sự tách biệt này còn do sự tách biệt giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu trong hình
thức sở hữu nhà nước. Trong xã hội có sự đa dạng hóa sở hữu, thừa nhận sở hữu tư nhân. Tuy nhiên
nhà nước nắm giữ quyền sở hữu còn trao quyền sử dụng cho doanh nghiệp để doanh nghiệp được độc
lập sản xuất và phân phối sản phẩm.
Vậy, sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một trong hai điều
kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá.
2. ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Những ưu thế của sản xuất hàng hóa là: giúp khai thác hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy ứng dụng
KHCN và sự năng động của người sản xuất, đồng thời giúp nâng cao mức sống. Đây là một bước tiến
vượt bậc của văn minh loài người
CÂU 2: HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA? LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA VÀ CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA?
Trả lời:
1. HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người thông
qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có hai thuộc tính:
Một là, giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa để thỏa
mãn một nhu cầu nào đó của con người. Giá trị sử dụng của hàng hóa có các đặc điểm sau. Thứ nhất, là
phạm trù vĩnh viễn. Thứ hai, phát triển cùng sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. VD: dầu mỏ,
khi còn lạc hậu ngta ko biết dầu mỏ để làm gì, không có giá trị sử dụng, nhưng khi công nghệ kỹ thuật
và lực lượng sản xuất xã hội phát triển, dầu mỏ trở thành thứ có giá trị vô cùng to lớn. Thứ ba, thể hiện
đầy đủ thông qua quá trình tiêu dùng hàng hóa. VD: khi xem TV thấy quảng cáo thuốc chữa bệnh, đấy
chỉ là giá trị tiềm năng sp có thể làm đc, tuy nhiên chỉ khi thực sự dùng thì mới có thể biết giá trị thực
của nó → việc thực hiện đc giá trị sử dụng là đk trong quá trình tiêu dùng. Thứ tư, gtsd của hàng hóa là
giá trị sử dụng xã hội, do xã hội đánh giá, để phục vụ xã hội.
Hai là, giá trị hàng hóa. Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ
về số lượng giữa những hàng hóa được trao đổi cho nhau. VD: 1m2 vải đổi lấy 5kg thóc. Khi hai sản
phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào
đó. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hoá làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao
đổi. Giá trị của hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hóa. Đây là một phạm trù lịch sử, bởi chỉ xuất hiện trong sản xuất hàng hóa (trong sản xuất tự cung tự
caaso không tính hao phí lao động của mình), đồng thời, thay đổi theo không gian và thời gian. VD:
cùng sx lúa nhưng sx trong lúc chính vụ thời tiết thuận lợi thì hp lđ thấp >< sx ở thời tiết trái vụ thì hp lđ
cùng sx 1 lượng hàng hoá thì mất nhiều hơn. Giá trị của hàng hóa biểu thị mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa.
Hàng hóa có 2 thuộc tính là do tính chất 2 mặt của sản xuất hàng hóa: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử
dụng, lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
2. LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
Lượng giá trị hàng hóa chính là lượng hao phí lao động, được tính qua thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra hàng hóa. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản
xuất ra một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ
trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình
trong xã hội đó. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt
của người sản xuất hàng hoá nào cung cấp đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường.
Tất cả những yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng đến lượng giá
trị của hàng hóa. Thứ nhất là năng suất lao động. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, nsld tỷ lệ
nghịch với lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa. VD: 8h A sản xuất ra 16 sản phẩm, vì tăng nsld (áp dụng
công nghệ, tăng tay nghề) nên 8h A sxuat dc 20 sản phẩm. Thứ hai là cường độ lao động. Cường độ lao
động là mức độ hao phí lao động trong 1 đơn vị thời gian -> Tăng cường độ lao động giống như kéo dài
thời gian lao động, vì vậy, tăng cường độ lao động không làm thay đổi lượng giá trị của 1 đơn vị hàng
hóa nhưng làm tăng tổng giá trị của các hàng hóa.
CÂU 3: BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ?
Trả lời:
BẢN CHẤT
Tiền xuất hiện là kết quả của sự phát triển từ hình thái giá trị giản đơn đến hình thái tiền do quá trình
phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá quyết định. VD: Trước khi có tiền sự trao đổi hàng hoá là sự
trao đổi trực tiếp giữa cái này với cái khác: 1m2 = 5kg thóc → có vai trờ khác nhau. \
Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt. Tiền là sản phẩm của lao động và đáp ứng được nhu cầu của con
người và được trao đổi mua bán. Sự đặc biệt của tiền đó là: tiền là vật ngang giá chung cho toàn bộ thế
giới kinh tế. Tất cả hàng hóa trong nền kinh tế đều sử dụng tiền để thể hiện giá trị của nó. Đồng thời,
thông qua tiền, thể hiện mối quan hệ giữa người sản xuất và người sản xuất: sự sản xuất hàng hóa thúc
đẩy và tạo ra tiền, tiền lại đồng thời thúc đẩy và mở rộng sự sản xuất hàng hóa.
CHỨC NĂNG
Nói về các chức năng của tiền tệ. Thứ nhất, tiền có chức năng là thước đo giá trị. Tiền có thể được
dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng hóa. Giá cả của hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền
của giá trị hàng hóa, giá cả bám sát xung quanh trục giá trị. Tiền phải có giá trị, ví dụ: vàng. Đây là chức
năng quan trọng nhất, bởi đây là nền tảng thể hiện các chức năng tiếp theo. Đây chính là lí do thế giới
cần tiền: đo giá trị các loại hàng hóa, muốn thực hiện được hành vi trao đổi thì phải biết được giá trị của
hàng hóa muốn trao đổi, nếu không thể trao đổi được thì sẽ không thúc đẩy được lưu thông.
Thứ hai, tiền là phương tiện lưu thông. Tiền được sử dụng làm trung gian môi giới của quá trình trao
đổi mua bán với vai trò là vật ngang giá chung. Công thức lưu thông hàng hóa: Hàng- Tiền – Hàng (H-
T-H). Có thể gây ra nguy cơ khủng hoảng kinh tế, lạm phát: nhận ra có thể dùng tiền giấy, séc, tiền điện
tử để thay thế lượng giá trị nằm trong vàng → sự vđộng của tiền và sự vđộng của hàng hoá bị tách rời.
Thứ ba, tiền là phương tiện cất trữ. Cất trữ tiền tức rút lui giá trị ra khỏi lưu thông, dự trữ cho lưu
thông tiền tệ sau này. Tiền rút khỏi lưu thông dưới hình thái vàng, bạc.
Thứ tư, tiền là phương tiện thanh toán. Tiền được dùng để chi trả sau khi việc giao dịch đã hoàn
thành. Khi xuất hiện việc mua bán nợ/ mua chịu hàng hóa thì tiền chính là phương thức thanh toán trả
nợ.
Thứ năm, chức năng tiền tệ thế giới. Tiền làm công cụ mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước →
giúp các hđ thanh toán trên phạm vi thế giới đc diễn ra. Tuy nhiên, tiền phải có đủ giá trị, phải là tiền
vàng hoặc những đồng tiền được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Lý do VNĐ chưa phải là
tiền tệ thế giới, vì nền sản xuất hàng hóa chưa phát triển đủ mức, quy mô xuất nhập khẩu rất hạn chế.
Những chức năng này ra đời cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Các chức
năng có quan hệ mật thiết với nhau, và thông thường, tiền làm nhiều chức năng cùng một lúc.
CÂU 4: NỘI DUNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ?
Trả lời:
Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị xã hội của nó, tức
là trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong sản xuất, mỗi người sản xuất tự quyết định hao
phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá được quyết định bởi hao phí lao động xã hội
cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều
chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được,
hao phí lao động cá biệt =< hpldxhct. Trong trao đổi, trao đổi theo nguyên tắc ngang giá – ngang giá
trị, dựa trên cơ sở hpldxhct.
Cơ chế tác động của quy luật giá trị: sự vận động của giá cả xung quanh trục giá trị. Vì giá trị là cơ
sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ
cao và ngược lại. Quy luật giá trị làm giá cả thay đổi, thông qua biến số của giá cả xoay xung quanh giá
trị thì thị trường được điều tiết và hành vi của người sản xuất được thay đổi. VD: giá cả < giá trị, khi này
giá cả thị trường tương đối rẻ, thay đổi hành vi: người mua mua nhiều (được lợi), người bán rút lui khỏi
thị trường (do bị thiệt) => thay đổi giá cả thị trường => giá cả > giá trị, khi này giá cả thị trường đắt
tương đối, thay đổi hành vi: người mua thu hẹp sự tiêu dùng, người bán tiếp tục mở rộng sản xuất => thị
trường thay đổi => quan hệ giá cả - giá trị thay đổi. Giá cả hàng hóa xoay quanh trục giá trị hàng hóa, có
thể dựa vào tương quan giá cả - giá trị để dự đoán xu thế thay đổi cung – cầu.
Quy luật giá trị có các tác động sau.
Một là, quy luật giá trị điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Sự vận động của giá cả xung quanh
giá trị sẽ làm mở rộng hoặc thu hẹp quy mô sản xuất, tạo ra sự lưu thông hàng hóa từ nơi hàng hóa có
giá cả thấp đến nơi hàng hóa có giá cả cao. VD: người buôn bán chuyển nông sản từ nông thôn (5k/kg)
sang bán ở thành phố (20k/kg) => giá cả tăng, thu lợi nhuận; bán nông sản sang TQ => bán được nhiều
hơn, giá cao hơn (lưu thông hàng hóa). Giá cả khẩu trang, dụng cụ y tế tăng lên => nhiều người tham gia
sản xuất mặt hàng này nhiều hơn (sản xuất hh).
Hai là, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm. Quy luật giá trị yêu cầu người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt thấp hơn hoặc bằng
hao phí lao động xã hội cần thiết, chính vì vậy người sản xuất phải lao vào cuộc đua cải tiến kỹ thuật,
tăng năng suất lao động. Kỹ thuật áp dụng vào sản xuất => tăng năng suất lao động => hao phí lao động
xã hội cthiet giảm => giá trị hàng hóa giảm => hạ giá thành.
Ba là, phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo. Những người sản xuất nào đáp
ứng được yêu cầu của quy luật giá trị, hao phí lao động cá biệt < hao phí lao động xã hội cần thiết =>
quy mô sản xuất mở rộng phát triển, trở nên giàu có. Ngược lại, những người sản xuất không đáp ứng
được yêu cầu của quy luật giá trị (1 trong 2 yêu cầu) , quy mô sản xuất thu hẹp, trở nên nghèo đi tương
đối, thậm chí có thể nghèo đi tuyệt đối (mất việc).
Quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Tích cực ở chỗ giúp tăng năng
suất lao động, công nghệ kỹ thuật phát triển, sản lượng và chất lượng sản phẩm tăng lên. Trái lại, làm
tăng sự phân hóa giàu nghèo. Cần có những chính sách, giải pháp thích hợp để phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của QLGT.
CÂU 5: CÔNG THỨC CHUNG CỦA TƯ BẢN VÀ MÂU THUẪN CỦA CÔNG THỨC
CHUNG? ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG?
Trả lời:
Công thức chung của tư bản là: T – H – T’, trong đó T’ là tiền thu về lớn hơn T là tiền ban đầu:
T’=T+m, trong đó, m được gọi là GTTD, T- tư bản – là giá trị mang lại GTTD. Mọi tư bản đều vận động
theo công thức chung này, vận động không ngừng, bỏ tiền ra để lấy một lượng tiền mang về, nhằm mục
đích mang lại GTTD. Công thức chung này là minh chứng điển hình cho trừu tượng hóa khoa học, nhìn
thấy được bản chất của CNTB, thấy được sự thống nhất và mâu thuẫn trong CNTB.
Nhìn vào công thức chung: chỉ có mua và bán (T – H – T’). Trao đổi ngang giá hoặc không ngang giá
đều không làm tăng thêm giá trị: trao đổi ngang giá T = H = T’ => không có giá trị tăng thêm; nếu trao
đổi không ngang giá thì cái được lợi của người bán là cái thiệt của người mua, trên phạm vi xã hội cũng
không xuất hiện giá trị mới tăng thêm. Vậy, GTTD m không sinh ra trong lưu thông. Nhưng nhìn ngoài
lưu thông: không có sự trao đổi, hàng hóa đứng im, tiền bất động => không có giá trị tăng thêm, vậy,
GTTD cũng không được sinh ra ngoài lưu thông. Mâu thuẫn của công thức chung chính là: tư bản
không thể xuất hiện trong lưu thông và cũng không thể xuất hiện bên ngoài lưu thông, nó phải xuất hiện
đồng thời trong lưu thông và ngoài lưu thông.
Viết lại công thức: T – H1 – H2 – … – T’. H(H1, H2,…) không thể là 1 hàng hóa, mà giữa H1 H2 có
sự tăng thêm giá trị, tức có thêm hao phí lao động => Sức lao động chính là chìa khóa để giải thích công
thức chung.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong 1 con người
đang sống, và được người đó đem ra vận động mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Có 2 điều
kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể. Người
lao động phải được sở hữu chính sức lao động của mình, từ đó tạo điều kiện cho việc bán sức lao động
có thể thực hiện được. VD: Trong xã hội nô lệ thì sức lao động của nô lệ không phải là hàng hóa vì bản
thân anh ta đã thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức lao động. Thứ hai, người lao
động không có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để tự sản xuất hàng hóa. Khi đó, buộc người lao động phải
bán sức lao động. VD: người thợ thủ công có TLSX cần thiết, sản xuất hàng hóa tự cung tự cấp nuôi
sống chứ chưa cần bán sức lao động, sức lao động không phải hàng hóa. Vậy, để sức lao động trở thành
hàng hóa cần có 2 điều kiện, và chỉ đến TBCN thì sức lao động mới là một loại hàng hóa.
Hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Thứ nhất, giá trị hàng hoá sức lao
động là lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động kết tinh trong người lao
động. Giá trị của hàng hoá sức lao động không phải do sản phẩm lao động của người đó quyết định, tức
không là giá trị do sức lao động của người lao động tạo ra. Giá trị hàng hóa sức lao động gồm: giá trị
TLSH cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động của bản thân người lao động, chi phí đào tạo người lao
động ở một trình độ nhất định, giá trị TLSH cần thiết để nuôi sống con cái người lao động. Biểu hiện là
giá cả sức lao động (tiền công) dao động xung quanh giá trị sức lao động. Thứ hai, giá trị sử dụng của
hàng hóa sức lao động là công dụng của sức lao động, là tình hữu ích thể hiện ở chỗ có thể thoả mãn
nhu cầu của người mua là sử dụng vào quá trình lao động. Biểu hiện trong quá trình tiêu dùng sức lao
động, hay quá trình sản xuất. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có các đặc trưng: không hao
mòn và mất đi và tạo ra lượng giá trị mới vượt cả giá trị của chính nó – nhà tư bản chỉ thuê công nhân có
giá trị sử dụng này, đây chính là chìa khóa để giải quyết nguồn gốc của GTTD: giá trị dôi ra do lao động
không công của người lao động.
CÂU 6: QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ? HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ? GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH?
1. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GTTD
a.Định nghĩa: Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn. 3 quá
trình: sản xuất giá trị sử dụng, sản xuất giá trị và sản xuất giá trị thặng dư (mục đích tuyệt đối hóa của
chủ nghĩa tư bản)
b.Đặc điểm: Sản xuất TBCN có các đặc điểm: một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà
tư bản; hai là, sản phẩm người lao động tạo ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của người
lào động.
Cả 2 đặc điểm trên đều trái với tự nhiên nhưng xã hội lại coi là 1 lẽ bình thường
(1): sự lao động của con ng thể hiện sự sáng tạo, nhu cầu lao động, ý chí của người lao động. Nhưng trong mô hình đặc
biệt này công nhân không làm việc theo ý chí của mình, mà theo ý chí nhà tư bản, tạo ra sản phẩm do nhà tư bản nghĩ ra,
mong muốn, yêu cầu -> người lao động không còn là chủ của quá trình lao động.
(2): sản phẩm làm ra chứa đựng hao phí lao động, theo lẽ tự nhiên phải thuộc về người bỏ ra hao phí lao động, trong sản
phẩm đó không chứa bất kì hpld nào của tư bản nhưng vẫn thuộc sở hữu của tư bản.
c.Ví dụ: Giả định nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư là trao đổi ngang giá và điều kiện
sản xuất thuộc mức trung bình trong xã hội. Chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản làm ví
dụ.
Để sản xuất sợi, chủ tư bản cần phải mua các yếu tố đầu vào: cần 10kg bông (TLSX) giá là 10$, khấu
hao máy móc để chuyển 10kg bông sang dạng sợi là 2$, giá trị sức lao động trong một ngày là 3$. Giả
định nhà tư bản mua, bán đúng giá trị; công nhân mất 4 giờ kéo 10kg bông thành 1kg sợi (trong 4h công
nhân tạo ra giá trị mới bằng giá trị sức lao động là 3$).

Trong 4h đầu: TB ứng ra $15 Kết quả sau 4h lao động: Nhà TB có 1kg sợi
+ TLSX: $12 $15 bao gồm:
Bông (10kg) $10 + Giá trị cũ (TLSX) $12
Khấu hao máy $2 + Giá trị mới tạo ra: $3
+ Sức lao động: $3
Trong 4h sau: TB ứng ra $12 Kết quả sau 4h lao động: Nhà TB có 1kg sợi
+ TLSX: $12 $15 bao gồm:
Bông (10kg) $10 + Giá trị cũ (TLSX) $12
Khấu hao máy $2 + Giá trị mới tạo ra: $3
+ Sức lao động đã có sẵn: $0
Kết luận: Sau 8h lao động, TB ứng ra $27, trong đó: $24 cho TLSX và $3 cho sức lao động. Kết quả
sau 8h lao động, TB có $30, chứa $24 (giá trị cũ) và $6 (giá trị mới tạo ra). Phần giá trị mới – giá trị
SLĐ = $3 dôi ra chính là GTTD mà TB đạt được => Giá trị thặng dư chính là một phần giá trị mới dôi
ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất GTTD là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi điểm mà tại đó đã tạo ra một lượng
giá trị mới ngang bằng giá trị sức lao động, đây vừa là quá trình lao động, vừa là quá trình tạo ra và làm
tăng giá trị.
Qua nghiên cứu quá trình sản xuất GTTD, rút ra 3 kết luận.
Một là, giá trị sản phẩm có hai phần: giá trị cũ (TLSX) và giá trị mới (giá trị do sức lao động tạo ra),
giá trị sản phẩm bằng tổng giá trị cũ và giá trị mới.
Hai là, ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần: thời gian lao động người công nhân tạo
ra một lượng giá trị đúng bằng giá trị sức lao động (v) của mình (tgian lao động cần thiết) và thời gian
lao động mà người lao động tạo ra giá trị thặng dư (m) (thời gian lao động thặng dư). Vậy, quá trình sản
xuất giá trị thặng dư là quá trình sản xuất được kéo dài quá thời gian lao động cần thiết.
Ba là, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Trong lưu thông, nhà tư bản
mua được một loại hàng hóa đặc biệt là sức lao động. Sau đó nhà tư bản đem hàng hóa đặc biệt vào sản
xuất, tức là ngoài lưu thông, để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó mà tiền của nhà tư bản
chuyển thành tư bản.
2. HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GTTD
Có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị
thặng dư tương đối.
a. GTTD tuyệt đối là GTTD thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất
yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi. Cách
thức thực hiện phương pháp sản xuất GTTD tuyệt đối là kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động
hoặc cùng lúc áp dụng cả hai cách. Giới hạn thực hiện của phương pháp này là giới hạn sinh lý của công
nhân và giới hạn tinh thần của người lao động. Cơ sở thực hiện của phương pháp này là dựa vào việc
tăng cường độ lao động, thích hợp với thời kỳ đầu của CNTB, nsld còn thấp.
b. GTTD tương đối là GTTD thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu, từ đó kéo dài thời gian
lao động thặng dư trong khi thời gian lao động không đổi (thậm chí rút ngắn). Cách thực hiện pp sản
xuất GTTD tương đối là rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ dài ngày lao động và
cường độ lao động không đổi, chiếm ưu thế trong thời kỳ TB đã phát triển cao, msld tăng nhanh. PP này
không có giới hạn vì nsld có thể tăng vô hạn.
c.Kết luận: Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp
với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của
công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản xuất làm
cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho
cường độ lao động cơ bắp.
3. GTTD SIÊU NGẠCH
GTTD siêu ngạch là phần GTTD thu được trội hơn GTTD bình thường do giá trị cá biệt của hàng
hóa thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa. Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng
dư tương đối thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được.
GTTD tương đối thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp công nhân
làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số các nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được, nó
không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan
hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Nhà tư bản sẽ tiếp tục thu được GTTD siêu ngạch nếu năng suất lao động xã hội vẫn chưa tăng lên.
Đối với từng đơn vị sản xuất, giá trị thặng dư siêu ngạch mang tính chất tạm thời nhưng xét toàn bộ xã
hội thì giá trị siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là
khát vọng của mọi nhà tư bản và là động lực mạnh nhất để kích thích nhà tư bản phát triển khoa học kĩ
thuật, nâng cao năng suất lao động cá biệt, nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường. GTTD siêu ngạch là
hình thức biến tướng của GTTD tương đối.
CÂU 7: TÍCH LŨY TƯ BẢN? QUY LUẬT CHUNG CỦA TÍCH LŨY?
Trả lời:
1. TÍCH LŨY TƯ BẢN
Tích lũy tư bản là việc chuyển hóa một phần GTTD trở lại thành tư bản. Nguồn gốc của tích lũy tư
bản chính là GTTD, toàn bộ của cải của giai cấp tư sản đều do lao động của giai cấp công nhân tạo ra.
Thực chất việc tích lũy tư bản chủ nghĩa chính là tư bản hóa một phần GTTD. Động lực thúc đẩy tích
lũy tư bản là quy luật GTTD và cạnh tranh, dùng chính GTTD để bóc lột GTTD.
2. QUY LUẬT CHUNG CỦA TÍCH LŨY
Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản (c/v) – cấu tạo giá trị được quyết định bởi
cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Tỉ lệ phân chia tư bản thành tư
bản bất biến và tư bản khả biến sao cho TLSX được sử dụng hết công suất và sức lao động được sử
dụng hết năng lực => c/v ngày càng tăng trong qtrinh tích lũy tư bản.
Thứ hai, tích lũy tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản. Tích luỹ tư bản là sự tăng thêm quy mô
tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá GTTD; tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản cá biệt lớn.
Thứ ba, quá trình tích luỹ tư bản làm tăng chênh lệch giữa thu nhập của nhà tư bản với thu nhập của
người lao động làm thuê cả tuyệt đối và tương đối, dẫn đến bần cùng hoá giai cấp vô sản, phân hoá giàu
nghèo ngày càng sâu sắc hơn.

CÂU 8: LỢI NHUẬN? TỶ SUẤT LỢI NHUẬN? CẠNH TRANH TRONG NỘI BỘ NGÀNH?
CẠNH TRANH GIỮA CÁC NGÀNH?
Trả lời:
1. LỢI NHUẬN
Lợi nhuận (p) là phần dôi ra ngoài chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sau khi bán hàng hóa theo giá cả
thị trường. Lợi nhuận (p) = Doanh thu (c+v+m) – Chi phí sản xuất (c+v) = m.
Lợi nhuận là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư nhưng nó phản ánh sai lệch bản chất quan
hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê. Về chất, GTTD thể hiện mối quan hệ bóc lột sức lao
động của tư bản với công nhân, lợi nhuận không phản ánh sự bóc lột này, nó làm cho người ta hiểu lầm
rằng GTTD không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra, che lấp đi bản chất bóc lột. Về lượng, nếu tư
bản bán giá cả > giá trị -> lợi nhuận > GTTD; nếu giá cả < giá trị -> lợi nhuận < GTTD; nếu giá cả = giá
trị -> lợi nhuận = GTTD. Tuy nhiên, xét trên toàn XH, thời gian dài thì tổng giá cả = tổng giá trị. Mối
quan hệ giữa lợi nhuận và GTTD thực chất là mối quan hệ giữa giá cả và giá trị. Lợi nhuận là hình thức
biến tướng của GTTD.
2. TỶ SUẤT LỢI NHUẬN
Tỷ suất lợi nhuận (p’) là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng lợi nhuận thu được so với toàn bộ chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Công thức tính: p’ = p/K * 100%. Tỷ suất lợi nhuận phản ánh hiệu quả của
công việc đầu tư tư bản ( mức doanh lợi, sinh lời của việc đầu tư).
Những nhân tố ảnh hưởng đến TSLN.
Một là, tỷ suất GTTD: m’ có tỉ lệ thuận với p’, m’ càng lớn thì p’ càng lớn và ngược lại. VD: m’1 =
100% => 80c + 20v + 20m => p’ = 20%; m’2 = 200% => 80c + 20v + 40m => p’ = 40.
Hai là, cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v): tỷ lệ nghịch với tsln (trong đk gttd không đổi). VD: m’ =
100% => 80c + 20v + 20m => p’ = 20%; m’ = 100% => 70c + 30v + 30m => p’ = 30.
Ba là, tốc độ chu chuyển tư bản: càng nhanh thì tỷ suất lợi nhuận càng cao. Sau mỗi 1 vòng cctb, nhà
tư bản thu đc giá trị thặng dư = tỉ lệ của lợi nhuận → mỗi 1 vòng cctb nhà tư bản đã thu đc 1 lượng lợi
nhuận nhất định → trong khoảng tg khoảng 1 năm, tốc độ cctb càng nhanh thì số lượng lợi nhuận thu về
càng nhiều.
Bốn là, tiết kiệm tư bản bất biến: làm cho chi phí sản xuất (K) giảm thì tỷ suất lợi nhuận (p’) tăng.
3. CẠNH TRANH TRONG NỘI BỘ NGÀNH (hình thành giá trị thị trường)
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa những người sản xuât cũng 1 mặt hàng để giành
những điều kiện sản xuất tốt nhất, bán hàng tốt nhất, thu được lợi mức lợi ích vật chất cao hơn, mục đích
là để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến hình thái giá trị thị trường
và lợi nhuận ngành và tỷ suất lợi nhuận ngành. VD: các hãng sản xuất máy tính như apple, hp, dell, …
đang cạnh tranh trên thị trường hàng hóa máy tính.
Để cạnh tranh trong nội bộ ngành, các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kĩ thuật, nâng cao nsld, làm
cho giá trị cá biệt của hàng hóa sản xuất ra thấp hơn giá trị hàng hóa. Kết quả, cá nhân thu được nhiều
lợi nhuận hơn, GTTD siêu ngạch tăng, trong xã hội hình thành nên giá trị thị trường (giá trị xã hội) của
từng loại hàng hóa.
4. CẠNH TRANH GIỮA CÁC NGÀNH (hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân)
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh trong các ngành sản
xuất khác nhau, nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn bằng cách di chuyển tư bản bao gồm tư liệu sản xuất,
sức lao động từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Giả sử một nền sản xuất có 3 ngành: cơ khí, dệt may, da đều có m’=100%. Cấu tạo hữu cơ các ngành
này khác nhau do đặc điểm của các ngành đó quy định. Tư bản được tự do di chuyển giữa các ngành:
nhà tư bản ở ngành dệt may thấy ngành cơ khí có lợi nhuận cao hơn nên chuyển tlsx và sld ở ngành dệt
may để đầu tư vốn sang ngành cơ khí => sản phẩm ở ngành cơ khí nhiều lên, giá cả hàng hóa hạ xuống
thấp hơn giá trị của nó => tỷ suất lợi nhuận ngành cơ khí giảm. Tư bản di chuyển từ ngành có tỷ suất lợi
nhuận thấp sang ngành có tsln cao hơn, dẫn đến thị trường dần thay đổi, sự thay đổi tạm dừng khi tỷ
suất lợi nhuận ở tất cả các ngành xấp xỉ bằng nhau. Từ đó, hình thành nên TSLN bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân (p’) là “con số trung bình” của tất cả các tỷ suất lợi nhuận khác nhau,
hay tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản xã hội.
Lợi nhuận bình quân( p) là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào các ngành sản xuất
khác nhau (nhà tư bản đầu tư một lượng tư bản như nhau vào ngành nào cũng mang mức lợi nhuận như
nhau).

CÂU 9: NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆP? CƠ SỞ XÁC
ĐỊNH GIÁ BÁN TBCN – TBTN? VÍ DỤ MINH HỌA?
1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆP
Lợi nhuận thương nghiệp sinh ra trong quá trình cạnh tranh giữa các ngành, tư bản thương nghiệp đã
tham dự vào việc phân chia GTTD (m) do tư bản công nghiệp tạo ra. Lợi nhuận thương nghiệp thực chất
là phần m mà tư bản công nghiệp “nhường” cho tư bản thương nghiệp: GTTD của TBCN: m = m1+m2.
TBTN mua hàng với giá = c+v+m1, bán với giá = c+v+m1+m2 – phần m2 là GTTD mà TBCN nhường
cho TBTN, biểu hiện ra ngoài là lợi nhuận thương nghiệp. Bản chất của lntn là GTTD do người lao
động làm không công tạo ra trong quá trình sản xuất.
TBTN là một bộ phận của TBCN tách ra để phục vụ quá trình lưu thông của TBCN và hoạt động độc
lập trong lĩnh vực lưu thông. Các nhà TBTN bán hàng hóa giúp cho TBCN, vì vậy TBCN sẵn lòng chiết
khấu một phần GTTD mình có được để trả cho người giúp mình bán hàng.
2. CƠ SỞ XÁC ĐỊNH GIÁ BÁN CỦA TBCN – TBTN
Trên thực tế, các nhà TBTN thu lntn từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Điều này có là do TBTN
mua hàng của TBCN với giá thấp hơn giá trị, sau đó, TBTN lại bán hàng cho người tiêu dùng với giá
đúng giá trị của nó.
Giả sử có hai tình huống bán hàng hóa: 1 là nhà TBCN sản xuất ra hàng hóa và tự bán hàng hóa của
mình trên thị trường; 2 là nhà TBCN sản xuất ra hàng hóa và nhờ TBTN bán hàng hóa đó. Ta có bảng so
sánh sau:

(1) TBCN tự bán hàng hóa (2) TBTN bán hàng hóa
Giả sử chi phí lưu thông = 0 (bán hàng không cần giấy niêm yết, chạy quảng cáo, …)
TBCN đầu tư một lượng tư bản: TBTN ứng ra 100 để lưu thông hàng hóa
720c + 180v = 900
Tổng lượng TBXH = 900 + 100 = 1000
Với: TSgttd m’=100% => GTTD: m = 180
TSlnbq: p '=¿180/1000 * 100% = 18%
TSlnbq: p '=¿180/900 * 100% = 20%
Nhà TBCN khi bán hàng hóa trên thị trường sẽ
Tổng sản phẩm XH = 900 + 180 = 1080 bán ở mức giá sao cho nhận được mức tsln p =
18%
Tuy nhiên, việc doanh nghiệp tự bán hàng có => Họ đầu tư ra: PTBCN =900*18%=162
hạn chế lớn: cần đầu tư một lượng TB vào Vậy, họ sẽ bán hàng hóa với mức giá:
lĩnh vực lưu thông và không chuyên nghiệp 900+162=1062
bằng TBTN, nên có khả năng không bán Nhà TBCN thấy TBTN đã giúp bán hàng hoá
được nhiều. cho mình cho nên chủ động nhường, không lấy
toàn bộ 180m, mà chỉ lấy 162m, nhường 18m
G/su để lưu thông hàng hóa cần: 200 cho nhà TBTN để TBTN tiếp tục bán hàng cho
Tổng TBXH thật sự: 900+200=1100 TBCN.
Thực tế, tslnbq:
p '=¿180/(900+200) * 100% = 16,36% Nhà TBTN sau khi mua ở mức 1062, họ sẽ bán
hàng hóa = giá trị 1080 (c+v+m)
¿> PTBTN = 1080 – 1062 = 18 ¿=18/100)

Có thể thấy rằng: việc hai bên cùng hợp tác thì tỷ suất lợi nhuận của cả 2 bên đều là 18%, cao hơn
hẳn so với việc TBCN tự bán hàng hóa. Việc họ thực hiện phân công lao động trong xã hội – một bên
chuyên sản xuất, một bên chuyên bán hàng sẽ giúp cho tsln không bị giảm, đồng thời tăng sản lượng bán
hàng. Lợi nhuận thương nghiệp mà TBTN có được thực chất là nhờ bóc lột giá trị thặng dư.
CÂU 10: SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA CNTB CẠNH TRANH TỰ DO -> CNTB ĐỘC QUYỀN?
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình
tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.
Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim
mới Betsơme, Máctanh, Tômát... đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá
chất mới như axít sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm...; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát
điện, máy tiện, máy phay...; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy
bay... và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những
ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao
động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.
Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa
tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy... ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế
của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy để
thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản,
còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí
nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung
sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc
quyền.

You might also like