Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 36

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Ngày bắt đầu: 06/04/2023


1. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin? Chức
năng, sự cần thiết của học tập kinh tế chính trị Mác - Lênin?
Ý chính:
- Đối tượng nghiên cứu (2 ý): Phương thức sản xuất, Quan hệ sản xuất
- Phương pháp nghiên cứu (3 ý): Biện chứng duy vật, trừu tượng hóa học, lịch sử và logic
-Chức năng, sự cần thiết (4 ý): nhận thức, thực tiễn, tư tưởng, pháp luận

Trả lời chi tiết:

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:


- Phương thức sản xuất hay nói cách khác là nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong mối
liên hệ và sự tác động lẫn nhau với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
- Quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua
lại với lực lượng sản xuất.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: (3 ý)


- Biện chứng duy vật: xem xét các hiện tượng, quá trình kinh tế trong mối liên hệ và sự
tác động lẫn nhau trong trạng thái phát triển không ngừng.
- Trừu tượng hóa khoa học: loại bỏ quá trình nghiên cứu những cái đơn nhất, ngẫu nhiên,
tạm thời hoặc tạm gác lại những nhân tố nào đó để tác ra những quá trình và hiện tượng
vững chắc, ổn định, điển hình để nắm bắt bản chất của hiện tượng.
- Lịch sử và logic: nghiên cứu quá trình kinh tế qua các giai đoạn, tìm ra logic của đối
tượng, làm cho nhận thức về lịch sử trở nên khoa học.

CHỨC NĂNG, SỰ CẦN THIẾT CỦA HỌC TẬP KTCT: (4 ý)


- Chức năng nhận thức: Làm phong phú tri thức, tư duy lý luận của người lao động và
toàn XH. Nhận thức xuyên qua các quan hệ phức tạo để nhận thức được quy luật và tính
quy luật.
- Chức năng thực tiễn:
+ Hình thành năng lực, kỹ năng vận dụng các quy luật kinh tế vào thực tiễn hoạt động lao
động cũng như quản trị quốc gia.
+ Góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội theo hướng tiến bộ: giải quyết hài hòa các quan hệ
lợi ích, tạo động lực thúc đẩy cá nhân và xã hội sáng tạo.
+ Đối với sinh viên: là cơ sở khoa học lý luận để nhận diện và định vị vai trò, trách nhiệm
sáng tạo cao cả của mình, xây dựng tư duy và tầm nhìn.
- Chức năng tư tưởng:
+ Xây dựng nền tảng tư tưởng cho người lao động tiến bộ, biết quý trọng thành quả lao
động, yêu tự do, hòa bình, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Xây dựng lý tưởng khoa học cho chủ thể muốn xây dựng cơ chế xã hội tốt đẹp.
- Chức năng pháp luận: là nền tảng lý luận khoa học cho việc nhận diện sâu hơn nội hàm
khoa học của các khái niệm, phạm trù khoa học kinh tế chuyên ngành ngày nay.

2. Nghiên cứu về sản xuất hàng hóa, khái niệm, điều kiện ra đời, liên hệ với thực
tiễn phát triển hàng hóa ở Việt Nam
Ý chính:
- Khái niệm
- Điều kiện ra đời của SXHH (2 ý): Phân công LĐ XH, Tách biệt về mặt kinh tế giữa những
người sản xuất.
- Thực tiễn: Càng ngày càng phát triển: (2 ý): VN theo nền kinh tế thị trường là hợp lý,
Tồn tại nhiều hình thức sở hữu.

Trả lời chi tiết:

KHÁI NIỆM SẢN XUẤT HÀNG HÓA:


Theo C.Mác, SXHH là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm sản xuất ra dùng để mua
bán, trao đổi trên thị trường.

ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA SXHH:


- Phân công lao động XH: Phân chia lao động XH thành các ngành nghề khác nhau =>
Tạo ra sự chuyên môn hóa, phân công càng cao năng suất càng cao (Điều kiện cần)
- Sự tách biệt về mặt KT giữa những người SX: do chế độ tư hữu về TLSX hoặc những
hình thức sở hữu khác nhau về TLSX (Điều kiện đủ)
Sự tách biệt về kinh tế có nghĩa là những người sx trở thành những chủ thể sx độc lập với
nhau → sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối.

THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN HÀNG HÓA Ở VN: Phân công ở nước ta ngày càng phát
triển cao hơn:
- Nước ta có ba hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Ngoài ra còn có sở hữu hỗn hợp (các cty cổ phần) => VN theo nền kinh tế thị trường là
hợp lý
- LLSX chưa phát triển, trình độ LLSX thấp, chưa đồng đều => Tồn tại nhiều hình thức sở
hữu để phù hợp trình độ đó.
3. Nghiên cứu về lý luận hàng hóa, khái niệm, điều kiện ra đời, liên hệ với thực
tiễn phát triển hàng hóa ở Việt Nam
Nghiên cứu về sản xuất hàng hóa, khái niệm, điều kiện ra đời, liên hệ với thực tiễn phát
triển hàng hóa ở Việt Nam
Ý chính:
- Khái niệm, thuộc tính của hàng hóa
- Liên hệ thực tiễn phát triển hàng hóa ở VN
Trả lời:
1. Khái niệm hàng hóa
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông
qua trao đổi, mua bán.
- Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi được đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán
trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể
2. Thuộc tính của hàng hóa (2tt)
a) Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người
- Nhu cầu có thể là vật chất, tinh thần, tiêu dùng cá nhân hay sản xuất.
VD: Cơm để ăn, áo để mặc, nước đóng chai để uống…
- Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng.Nền sản xuất càng
phát triển, khoa học - công nghệ càng hiện đại, càng giúp con người phát hiện thêm các giá
trị sản phẩm.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua, nên
người sản xuất cần chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do mình sản xuất để đáp
ứng được nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua
b) Giá trị
Muốn biết được giá trị hàng hóa phải thông qua giá trị trao đổi.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc.
Hai hàng hóa khác nhau, muốn trao đổi được với nhau thì chúng phải có cơ sở chung giống
nhau. Cái chung đó ở chỗ: Chúng đều là sản phẩm của lao động. Chính lao động đó tạo ra
giá trị cho hàng hóa, nhờ đó mà các hàng hóa trao đổi được cho nhau. Như vậy, giá trị là
nội dung bên trong, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của hàng hoá, chỉ
có thông qua giá trị trao đổi mới tìm ra giá trị.
Cho nên: Giá trị của hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị biểu hiện một quan hệ xã hội, quan hệ của những người sản xuất và người trao đổi
hàng hóa. Giá trị là một phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại khi còn hàng hoá và sản xuất hàng
hóa.
=> Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính của hàng hóa, nên nó là hai mặt thống nhất
trong hàng hóa, nó làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Nhưng đây là sự thống nhất của hai
mặt đối lập, nên lại mâu thuẫn với nhau.
3. Thực tiễn phát triển hàng hóa ở Việt Nam
Mô hình phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Việt Nam đã phát
huy được những ưu thế của mô hình kinh tế này, khai thác được tiềm năng của đất nước,
đạt được sự ổn định và bền vững trong tăng trưởng.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh càng khốc liệt. Trong đó, giá cả và
chất lượng hàng hóa là những công cụ cạnh tranh mang tính chiến lược. Để có được những
công cụ cạnh tranh này, người sản xuất phải quan tâm đến cả hai nhân tố của hàng hóa: giá
trị sử dụng và giá trị của hàng hóa; không ngừng nâng cao chất lượng giá trị sử dụng.
Vận dụng lý thuyết hàng hóa, để cải thiện năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, các
doanh nghiệp Việt Nam có thể quan tâm đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, do lượng giá trị hàng hóa tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của lao động, nên hạ
thấp giá trị hàng hóa bằng cách không ngừng tăng sức sản xuất, tăng năng suất lao động.
Thứ hai, giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội nên người sản xuất phải tổ
chức nghiên cứu thị trường để xác định thị trường cần chủng loại hàng hóa, dịch vụ, sản
lượng hàng hóa, dịch vụ.
Thứ ba, giá cả hàng hóa thường xuyên vận động xoay quanh giá trị thị trường nên cả người
mua lẫn người bán cần phải nắm vững và dự báo đúng sự biến động của giá cả thị trường
để có những quyết định đúng đắn.

4. Nghiên cứu lý luận tiền tệ trong nền kinh tế thị trường


Ý chính:
- Nguồn gốc, bản chất của tiền
- Chức năng của tiền tệ
Trả lời:
1. Nguồn gốc, bản chất của tiền tệ
* Nguồn gốc: Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và
trao đổi hàng hóa, hay của quá trình phát triển của các hình thái giá trị của hàng hóa
* Hình thái (4ht)
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên
+ Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên là hình thái mà giá trị của hàng hóa này biểu hiện ở
một hàng hóa khác.
Ví dụ: 1 cái rìu = 20kg thóc.
Giá trị của rìu được biểu hiện ở thóc, còn thóc dùng làm hình thái biểu hiện giá trị của rìu.
Do vậy, rìu mang hình thái tương đối, còn thóc mang hình thái ngang giá.
+ Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên là mầm mống phôi thai của hình thái tiền tệ và hàng
hóa đóng vai trò vật ngang giá là hình thái phôi thai của tiền tệ
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng
+ Là hình thái mà giá trị của hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác.
Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc = 2 con gà = 5kg chè
(Giá trị tương đối) (Vật ngang giá mở rộng)
+ Hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác nhau, tuy nhiên hạn
chế ở chỗ vẫn chỉ trao đổi trực tiếp với những tỉ lệ chưa cố định.
- Hình thái chung của giá trị
+ Hình thái chung của giá trị là hình thái mà tất cả các hàng hóa đều biểu hiện giá trị ở một
hàng hóa có vai trò làm vật ngang giá chung.
Ví dụ: 2 cái rìu Hoặc 40 kg thóc hoặc 10kg chè hoặc 2 gram vàng. = 1 con cừu
Trong hình thái này cừu được dùng làm vật ngang giá chung, các hàng hóa đều đem đổi
lấy cừu, rồi dùng cừu đổi lấy thứ hàng hóa cần dùng.
Nhưng mỗi địa phương dùng một vật ngang giá chung khác nhau, nên gây trở ngại cho quá
trình trao đổi khi thị trường mở rộng.
- Hình thái tiền
Hình thái tiền tệ là hình thái khi vật ngang giá chung được cố định ở một hàng hoá độc tôn
và phổ biến. Lúc đầu có nhiều hàng hoá đóng vai trò tiền tệ, cuối cùng được cố định lại ở
vàng.
Ví dụ: 40kg thóc hoặc 10 kg chè hoặc 2 cái rìu = 2 gram vàng
=> Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả hàng hóa.
Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
2. Chức năng của tiền (5cn)
- Thước đo giá trị: Làm chức năng thước đo giá trị, tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá
trị của tất cả các hàng hóa khác nhau. Lúc này, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng
một số lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa.
- Phương tiện lưu thông: Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền được dùng làm môi
giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Khi tiền xuất hiện, việc trao đổi hàng hóa không phải
tiến hành trực tiếp hàng lấy hàng (H – H) mà thông qua tiền làm môi giới (H – T – H). Để
thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đầy đủ giá trị, mà
chỉ cần tiền ký hiệu giá trị, tức tiền giấy. Điều này ít gây tốn kém và giúp cho trao đổi được
tiến hành dễ dàng, thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển hơn nữa
- Phương tiện cất trữ: Tiền là đại diện cho giá trị, đại diện cho của cải nên khi tiền xuất
hiện, thay vì cất trữ hàng hóa, người dân có thể cất trữ bằng tiền. Lúc này tiền được rút ra
khỏi lưu thông, đi vào cất trữ dưới hình thái vàng, bạc và sẵn sàng tham gia lưu thông khi
cần thiết.
- Phương tiện thanh toán: Làm chức năng thanh toán, tiền được dùng để chi trả sau khi
việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành, tức thanh toán việc mua bán chịu. Chức năng
phương tiện thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại, tức mua bán
thông qua chế độ tín dụng, thanh toán không dùng tiền mặt mà chỉ dùng tiền trên sổ sách
kế toán, hoặc tiền trong tài khoản, tiền ngân hàng, tiền điện tử…
- Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới, giữa các nước thì tiền
làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm công cụ mua bán, thanh toán
quốc tế giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải
là tiền vàng hoặc những đồng tiền được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
5. Nội dung, vai trò tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường
(Nga)
Ý chính:
- Nội dung quy luật giá trị
- Vai trò của quy luật giá trị
Trả lời:
1. Nội dung quy luật:
- Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất và lưu thông. Ở đâu có sản xuất và trao
đổi hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị.
- Quy luật giá trị yêu cầu SX và TĐHH phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên
hao phí LĐ XH cần thiết.
+ Trong SX, quy luật GT đòi hỏi người SX phải căn cứ vào hao phí LĐ XH cần thiết và
luôn ý thức tìm cách hạ thấp hao phí LĐ cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí LĐ XH
cần thiết
+ Trong lưu thông, việc trao đổi phải dựa trên nguyên tắc ngang giá. Cơ chế tác động của
quy luật GT với nền KT HH thông qua sự lên xuống của giá cả trên thị trường.

2. Vai trò/Tác dụng/Tác động của quy luật


- Điều tiết SX và lưu thông hàng hóa
Người SX bỏ ngành có giá cả thấp, đổ xô sang ngành có giá cả cao, làm cho quy mô của
một số ngành mở rộng, một số ngành bị thu hẹp. Còn về lưu thông, QL giá trị làm cho hàng
hóa lưu chuyển từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Như vậy, QL GT tham gia phân
phối nguồn hàng hóa hợp lý hơn giữa vùng miền

- Kích thích cải tiến KT, hợp lý hóa SX, tăng năng suất LĐ, hạ giá thành SP
Các hàng hóa được SX ra trong hoàn cảnh điều kiện khác nhau nên có giá trị cá biệt khác
nhau. Nhưng trên TT đều phải trao đổi theo mức hao phí LĐ XH cần thiết. Do đó mỗi
người SX hàng hóa đều tìm cách giảm giá trị cá biệt HH của mình xuống dưới mức giá trị
XH bằng cách hoặc thông qua cải tiến KT, hợp lý hóa SX để tăng năng suất LĐ. Từ đó
LLSX ngày một phát triển, năng suất tăng lên, chi phí SX hàng hóa giảm xuống. Trong lưu
thông, người SX không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức bán hàng
hiệu quả và nhanh chóng với chi phí thấp.

- Phân hóa người SX HH thành người giàu kẻ nghèo, tạo tiền đề cho sự xuất hiện
QHSX tư bản chủ nghĩa.
Trong SX HH, HH của người SX nào có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị XH thì người đó có
lợi và trở nên giàu có, ngược lại là bất lợi hoặc phá sản và phải đi làm thuê. Do đó là sự
phân hóa giàu nghèo trong XH.

=> Quy luật GT tồn tại khách quan trên thị trường, vừa có tác dụng tích cực và tiêu cực.
Một mặt đào thải sự lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho LLSX phát triển mạnh
mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người SX, đảm bảo sự bình đẳng đối với người
SX; một mặt gây ra sự phân hóa giàu nghèo. Trong nền KTTT thuần túy, chạy theo lợi ích
cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng là những yếu tố có thể làm tăng tác động phân hóa
SX cùng nhiều tiêu cực KT CT XH khác.

6. Nghiên cứu lý luận chung về thị trường, kinh tế thị trường (Nga)
Ý chính:
- Lý luận thị trường
- Lý luận KTTT
Trả lời:
1. Thị trường:
a. Định nghĩa:
Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế, trong đó nhu cầu của các chủ thể được ứng
thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá và số lượng hàng hóa, dịch vụ tương
ứng với trình độ phát triển nhất định của nền SX xã hội.

b. Vai trò của thị trường:


- Thị trường thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện, môi trường cho SX phát triển.
- TT kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong XH, tạo ra cách thức phân bổ nguồn
lực hiệu quả trong nền kinh tế
- TT gắn kết nền KT thành một chỉnh thể, gắn kết nền KT quốc gia với nền KT TG.

c. Phân loại thị trường:


- Căn cứ vào đối tượng trao đổi mua bán cụ thể: TT hàng hóa, TT dịch vụ
- Căn cứ vào phạm vi QH: TT trong nước và quốc tế
- Căn cứ vào vai trò của các yếu tố được trao đổi: TT tư liệu tiêu dùng và TT tư liệu SX
- Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành: TT tự do, TT có điều tiết, TT cạnh tranh hoàn
hảo và TT độc quyền

2. KTTT là gì?
a. Khái niệm:
KTTT là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các yếu tố đầu vào đầu ra của
SX được thực hiện thông qua thị trường, tuân theo nguyên tắc và quy luật thị trường.

b. Đặc trưng:
- KTTT đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể
kinh tế bình đẳng trước pháp luật
- TT đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực Xh thông qua hoạt động của
các thị trường bộ phận như TT hàng hóa dịch vụ, TT lao động, TT tài chính, TT bất động
sản, TT KH công nghệ. Các TT không tồn tại độc lập mà tác động qua lại với nhau. Chính
các yếu tố TT quyết định phân bổ nguồn lực
VD: Nguồn lực vốn khi xảy ra COVID, KT thế giới trở nên khó khăn hơn, TT lao động
khủng hoảng, TT hàng hóa suy giảm, các chủ thể có xu hướng dịch chuyển vốn sang khu
vực an toàn hơn. Nhà đầu tư dịch chuyển từ TT tài chính từ BĐS, chứng khoán đang đóng
băng sang TT vàng và thị trường hàng hóa do sợ lạm phát và suy thoái KT.
- Giá cả được hình thành theo nguyên tắc TT; cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động
lực trực tiếp của các chủ thể SX kinh doanh là lợi nhuận và lợi ích KT-Xh khác; NN là chủ
thể thực hiện chức năng quản lý, chức năng kinh tế; thực hiện khắc phục những khuyết tật
của thị trường, thúc đẩy những yếu tố tích cực; đảm bảo sự bình đẳng XH và sự ổn đỉnh
của toàn bộ nền KT
- KTTT là nền KT mở, TT trong nước gắn bó mật thiết với TT quốc tế.
c. Ưu điểm của nền KTTT
- KTTT tạo động lực cho sự sáng tạo của các chủ thể kinh tế
- Nền KTTT phát huy tốt tiềm năng của mọi chủ thể, vùng, miền, lợi thế quốc gia
- Nền KTTT luôn tạo ra phương thức thỏa mãn tối đa nhu cầu của CN, từ đó thúc đẩy sự
tiến bộ, văn minh của XH.
d. Khuyết tật của nền KTTT
- Tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng
- Nền KTTT không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy
thoái MT tự nhiên, MT XH
- KTTT không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong XH
=> Không tồn tại nền KTTT thuần túy mà thường có sự can thiệp của NN để sửa chữa
những thất bại.

7. Nghiên cứu lý luận về vai trò của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường
Trả lời:
Tóm tắt ý chính:
Có 4 chủ thể: người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung gian và nhà nước.
Cụ thể:
Có rất nhiều chủ thể khác nhau tham gia thị trường và mỗi chủ thể có những vai trò quan
trọng riêng. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét vai trò của một số chủ thể chính, đó là: người sản
xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung gian trong thị trường và nhà nước.

a. Người sản xuất


- Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra
thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các
nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ... Họ là những người trực tiếp tạo ra
của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng.
- Người sản xuất là những người sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất, kinh doanh
và thu lợi nhuận. Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội,
mà còn tạo ra và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận
tối đa trong điều kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất luôn phải quan tâm đến
việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các yếu tố nào để có
lợi nhất.
- Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối với
con người; trách nhiệm cung cấp những hàng hóa, dịch vụ không làm tổn hại tới sức khỏe
và lợi ích của con người trong xã hội.

b Người tiêu dùng


- Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát triển bền
vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người tiêu dùng là động lực
quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất.
- Người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Do đó, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường, ngoài việc thỏa mãn nhu cầu của mình, người tiêu dùng
cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Lưu ý: Việc phân chia người sản xuất, người tiêu dùng chỉ có tính chất tương đối để thấy
được chức năng chính của các chủ thể này khi tham gia thị trường. Trên thực tế, doanh
nghiệp luôn đóng vai trò vừa là người mua cũng vừa là người bán.

c. Các chủ thể trung gian trong thị trường


- Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các chủ
thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
- Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao động xã hội,
làm cho sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày càng sâu sắc; trên cơ sở đó
xuất hiện những chủ thể trung gian trong thị trường. Những chủ thể này có vai trò ngày
càng quan trọng để kết nối, trao đổi thông tin trong các quan hệ mua, bán.
- Nhờ vai trò của các chủ thể trung gian này mà nền kinh tế thị trường trở nên sống động,
linh hoạt hơn. Hoạt động của các chủ thể trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực
hiện giá trị của hàng hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Các chủ thể
trung gian làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho sản xuất và tiêu dùng
trở nên ăn khớp với nhau.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị trường
không chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ thể trung gian phong
phú trên tất cả các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới chứng khoán, trung gian
môi giới nhà đất, trung gian môi giới khoa học - công nghệ... Các trung gian trong thị
trường không những hoạt động trên phạm vi thị trường trong nước mà còn trên phạm vi
quốc tế. Bên cạnh đó cũng có nhiều loại hình trung gian không phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức (lừa đảo, môi giới bất hợp pháp...) và cần được loại trừ.

d. Nhà nước
- Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế, đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc phục những khuyết tật của thị trường.
Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế
thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy
sức sáng tạo của họ. Việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh từ phía
nhà nước sẽ kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Các rào cản
như vậy phải được loại bỏ. Việc này đòi hỏi mỗi cá nhân có trách nhiệm trong bộ máy quản
lý nhà nước cần phải nhận thức được trách nhiệm của mình là thúc đẩy phát triển, không
gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Cùng với đó, nhà nước còn sử dụng
các công cụ kinh tế để khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, làm cho
nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả.
=> TÓM LẠI: trong nền kinh tế thị trường, mọi quan hệ sản xuất và trao đổi, các hoạt động
của các chủ thể đều chịu sự tác động bởi các quy luật kinh tế khách quan của thị trường;
đồng thời chịu sự điều tiết, can thiệp của nhà nước qua việc thực hiện hệ thống pháp luật
và các chính sách kinh tế. Mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở từng
nước, từng giai đoạn có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ can thiệp của chính phủ đối
với thị trường, song tất cả các mô hình đều có điểm chung là không thể thiếu vai trò kinh
tế của nhà nước.

8. Nghiên cứu lý luận về quá trình sản xuất giá trị thặng dư và vận dụng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay
Trả lời:
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư :
- QTSX GTTD là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị.
- Để có được GTTD, nền sản xuất xã hội phải đạt đến trình độ nhất định, tức thời gian lao
động xã hội hao phí của người lao động gồm 2 phần:
+ TGLĐ tất yếu: Là TG hao phí LĐ có thể bù đắp được giá trị hàng hóa sức lao động.
+ TGLĐ thặng dư: Là TG hao phí LĐ ngoài TGLĐ tất yếu nhưng không được bù đắp và
thuộc về nhà tư bản.
- Trong TGLĐ, người lao động làm việc dưới sự quản lý của người mua hàng hóa SLĐ và
sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của người mua sức lao động.
=> GTTD là: bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra, là
kết quả của lao động không công của công nhân cho nhà tư bản. Kí hiệu là m.
- Tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư.
Vận dụng vào sản xuất kinh doanh hiện nay:
- Trong xu thế kinh tế thế giới dịch chuyển theo hướng từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tri thức, lý luận về quá trình sản xuất giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng:
+ Đầu tư và ứng dụng mạnh mẽ khoa học kĩ thuật vào sản xuất kinh doanh để hạ giá thành
sản phẩm.
+ Chuyển hướng đối tượng kinh tế sang đầu tư “tư bản vô hình” là tri thức, là chất xám có
sẵn trong người lao động.
+ Chú trọng công tác giáo dục, thực hiện chính sách thu hút người lao động có trình độ
cao, tránh nguy cơ chảy máu chất xám
+ Thực hiện chiến dịch “đi tắt, đón đầu”, học tập những thành tựu khoa học công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước trên thế giới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất - kinh doanh.
9. Nghiên cứu về lý luận hàng hóa sức lao động và áp dụng vào việc chuẩn bị
các công việc tương lai của sinh viên.
Lý luận: Cả câu 10
Áp dụng lý luận hàng hóa SLĐ vào việc chuẩn bị các công việc tương lai của sinh
viên:
• Chủ động học tập rèn luyện nâng cao kiến thức
• Trau dồi vốn ngoại ngữ
• Chú trọng nâng cao kỹ năng phần mềm
• Xác định phương hướng nghề nghiệp rõ ràng
• Phát triển duy trì các mối quan hệ
• Tích lũy kinh nghiệm từ các công việc làm thêm

10. Nghiên cứu khái niệm, điều kiện ra đời, và hai thuộc tính của hàng hóa sức
lao động
Trả lời:
1. Khái niệm sức lao động
- Sức lao động: Là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể và được con
người đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất một giá trị sử dụng nào đó.
2. Điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa
Sức lao động là yếu tố cần thiết và quyết định của mọi quá trình lao động sản xuất, nhưng
sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau:
• Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền đem bán sức lao
động của mình như một hàng hoá.
• Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện
quá trình lao động sản xuất.
3. Hàng hóa sức lao động
Hàng hoá sức lao động có đặc điểm là: sau khi bán, sức lao động không tách khỏi người
bán mà nó vẫn tồn tại trong người bán. Và, sức lao động chỉ có thể được bán trong một
thời gian nhất định.
Giống như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá
trị sử dụng. Giá trị của hàng hoá sức lao động:
- Giá trị hàng hoá sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất ra sức lao động đó.
Sản xuất và tái sản xuất sức lao động được thực hiện thông qua tiêu dùng cá nhân của người
lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao gồm
cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử.
Giá trị của hàng hoá sức lao động bao gồm:
• Giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì sức lao động của công nhân ở trạng
thái sinh hoạt bình thường.
• Chi phí đào tạo tùy theo tính chất phức tạp của sức lao động.
• Giá trị các tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế (tức là con cái của công nhân).
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là năng lực lao động của con người (thể
hiện ra khi tiêu dùng trong quá trình lao động)
GTSD hàng hóa SLĐ là GTSD đặc biệt vì trong quá trình tiêu dùng, GTSD không mất đi
mà còn có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị SLĐ (giá trị thặng dư).
=> Sự khác nhau giữa GTSD và GT SLĐ: Việc tiêu dùng giá trị sử dụng của các hàng
hoá khác là thứ tiêu dùng hết, không sinh ra giá trị mới. Còn việc tiêu dùng giá trị sử dụng
của hàng hoá sức lao động lại tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.

11. Nghiên cứu lý luận tích lũy tư bản trong nền kinh tế thị trường.
- Định nghĩa
- Nhân tố làm tăng quy mô tích lũy tư bản
- Quy luật chung của tích lũy tư bản
+ Tích tụ tư bản và tập trung tư bản
+ Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản
+ Hậu quả của tích lũy tư bản: Thất nghiệp và bần cùng hóa giai cấp vô sản

BÀI LÀM
A. Định nghĩa:
Tích lũy tư bản là việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay là sự chuyển hóa giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản. Thực chất, tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư.

Tích luỹ tư bản gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, gắn với quá trình
bóc lột của chủ nghĩa tư bản đối với lao động làm thuê, gắn với tái sản xuất mở rộng tư bản
chủ nghĩa. Do đó, nói một cách cụ thể, tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô
ngày càng rộng.

B. Các nhân tố làm tăng quy mô tích luỹ tư bản


Những nhân tố làm tăng khối lượng giá trị thặng dư cũng là những nhân tố tác động làm
tăng quy mô tích lũy tư bản. Quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào 2 nhân tố:
+ Khối lượng giá trị thặng dư.
+ Tỷ lệ phân chia của khối lượng giá trị thặng dư thành tích lũy và tiêu dùng.

Để tăng quy mô tích luỹ tư bản, các nhà tư bản phải sử dụng nhiều biện pháp:
+ Nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công của người công
nhân, biến một phần quỹ tiêu dùng của công nhân thành quỹ tích luỹ tư bản; Nâng cao trình
độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
+ Nâng cao năng suất lao động xã hội.
+ Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, khoa học công nghệ ngày càng phát triển, máy móc ngày
càng tinh vi và hiện đại thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng ngày
càng lớn. Do đó tích luỹ tư bản ngày càng cao.
+ Quy mô của tư bản ứng trước.
Khi lượng tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng mở rộng, kỹ thuật sản xuất
càng hiện đại, do đó, các động lực thúc đẩy sản xuất giá trị thặng dư càng có tác động
mạnh.

C. Quy luật chung của tích lũy tư bản


+ Quy luật tích tụ và tập trung tư bản
Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hoá cao độ, làm cho mâu thuẫn
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm.
Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy
mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung
nhanh hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị
thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói trên của tích tụ và tập trung
tư bản làm cho tích luỹ tư bản ngày càng mạnh.
+ Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản
Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu tạo hữu cơ của
tư bản tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến nạn thất nghiệp trong chủ nghĩa tư bản.
+ Hậu quả của tích lũy tư bản: Thất nghiệp và bần cùng hóa giai cấp vô sản

12. Nghiên cứu về các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh
tế thị trường.

Giá trị thặng dư được biểu hiện ra dưới nhiều hình thức như: lợi nhuận, lợi tức, địa tô.
Nghiên cứu về hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư thực chất là phân tích về các quan
hệ lợi ích giữa những nhà tư bản với nhau, giữa nhà tư bản với địa chủ trong việc phân chia
giá trị thặng dư thu được trên cơ sở hao phí sức lao động của người lao động làm thuê.
A. Lợi nhuận
- Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất được ký hiệu là k. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất ra
hàng hóa.
Chi phí sản xuất có vai trò quan trọng: bù đắp tư bản về giá trị và hiện vật, đảm bảo điều
kiện cho tái sản xuất trong kinh tế thị trường; tạo cơ sở cho cạnh tranh, là căn cứ quan trọng
cho cạnh tranh về giá bán hàng giữa các nhà tư bản.
- Bản chất lợi nhuận
C. Mác khái quát: “Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận”.
Điều đó có nghĩa, lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trên
bề mặt nền kinh tế thị trường.
Lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ, động lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường.
- Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của tư bản ứng trước
(ký hiệu là p).
Tỷ suất lợi nhuận phản ánh mức doanh lợi đầu tư tư bản.

=> Như vậy, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận là những phạm trù thể hiện lợi ích kinh tế của
nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đó các nhà tư bản muốn
làm giàu và làm giàu nhanh cần phải tìm ra cách thức để có được tỷ suất lợi nhuận cao
nhất.

- Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận


+ tỷ suất giá trị thặng dư.
+ cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v).
+ tốc độ chu chuyển của tư bản.
+ tiết kiệm tư bản bất biến.
- Lợi nhuận bình quân
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh giữa các ngành tất yếu dẫn tới hình thành lợi nhuận
bình quân.
Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản như nhau đầu tư vào các
ngành khác nhau.
- Lợi nhuận thương nghiệp
Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hóa.

B. Lợi tức
- Tư bản cho vay trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản là bộ phận tư bản xã hội dưới hình thái tiền tệ, được
tách ra từ sự vận động tuần hoàn của tư bản nhất định để gia nhập vào sự vận động tuần
hoàn của tư bản khác.
Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản có đặc điểm:
+ Quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.
+ Tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt.
+ Tư bản cho vay là hình thái tư bản phiến diện nhất
- Nguồn gốc, bản chất của lợi tức, tỷ suất lợi tức
Lợi tức cho vay trong chủ nghĩa tư bản là phần lợi nhuận bình quân mà chủ thể sử dụng tư
bản trả cho chủ thể sở hữu tư bản (ký hiệu là z).
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức và tư bản cho vay.
- Hình thức vận động của tư bản cho vay
Tín dụng là hình thức vận động của tư bản cho vay, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể
sở hữu và chủ thể sử dụng tư bản cho vay dựa trên các nguyên tắc hoàn trả, có kỳ hạn và
có lợi tức.
Tín dụng thương mại là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc mua, bán chịu.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có sự trung gian của các ngân hàng.
- Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán

C. Tư bản kinh doanh nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa


- Tư bản kinh doanh nông nghiệp
Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
- Địa tô tư bản chủ nghĩa
Địa tô tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân mà nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ vì đã kinh doanh trên ruộng đất của địa
chủ (ký hiệu là R).
Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa:
+ Địa tô chênh lệch
+ Địa tô tuyệt đối

=> Tóm lại, giá trị thặng dư có biểu hiện cụ thể thông qua các hình thái lợi nhuận, lợi
tức, địa tô. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân có vai
trò điều tiết lợi nhuận, lợi tức và địa tô; giá cả sản xuất có vai trò điều tiết giá cả thị
trường.

13. Nghiên cứu các đặc điểm của độc quyền và những biểu hiện mới của nó
trong thời đại ngày nay. Qua đó đánh giá bản chất xu hướng phát triển của
CNTB
K/N: Độc quyền là khái niệm mô tả tình trạng một tổ chức hoặc cá nhân sở hữu quyền
kiểm soát hoặc sử dụng một sản phẩm hoặc dịch vụ duy nhất trên thị trường, gây ra sự cạnh
tranh hạn chế và tăng giá thành cho người tiêu dùng. Độc quyền có thể được đạt được thông
qua nhiều cách khác nhau, bao gồm quyền sở hữu tài sản trí tuệ, quyền thương mại, hoặc
thậm chí thông qua sự kiểm soát quy trình sản xuất hoặc phân phối.
Độc quyền có đặc điểm là không có cạnh tranh, có thể dẫn đến chi phí cao cho người
tiêu dùng, sản phẩm và dịch vụ kém chất lượng, và các phương thức kinh doanh tham
nhũng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, chủ nghĩa tư bản độc quyền có những đặc
điểm như sau:
– Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Nền kinh tế trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền được thể hiện rõ nhất ở các xí
nghiệp ở Pháp, Mỹ, Anh trong những năm 1900 thì với 1% tổng số xí nghiệp nhưng tổng
số máy bay hơi nước và điện lực chiếm hơn ¾, số lượng công nhân và tổng số sản phẩm
được làm ra chiếm gần một nửa so với toàn thế giới.
Đồng thời các doanh nghiệp và xí nghiệp lớn cạnh tranh nhau gay gắt và có những doanh
nghiệp và xí nghiệp liên kết nhau để nắm độc quyền.

– Thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền có tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính
Khi các ngân hàng nhỏ và vừa không đủ tiềm lực và uy tín để phục vụ yêu cầu của các xí
nghiệp lớn với mức độ tích tụ cao trong sản xuất công nghiệp thì để đáp ứng với điều kiện
của mình thì các tổ chức độc quyền công nghiệp đã tìm đến các ngân hàng lớn hơn.
Do đó, đã thể hiện được đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền thông qua việc các ngân
hàng nhỏ phải chấm dứt hoạt động hoặc sáp nhập vào ngân hàng lớn để tồn tại. Cũng chính
vì vậy đã dẫn đến sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng
– Thứ ba, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ xuất khẩu tư bản
Việc chủ nghĩa tư bản độc quyền nhằm chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận
khác thông qua việc xuất khẩu giá trị của các nước nhập khẩu tư bản.
Những biểu hiện mới trong thời đại ngày nay
• Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản
• Ngày nay, đặc điểm tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền có biểu hiện mới
bên cạnh các công ty độc quyền lớn xuyên quốc gia còn diễn ra sự phát triển mạnh
mẽ của các xí nghiệp vừa và nhỏ.
• Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ nên đã diễn ra
quá trình hình thành sự liên kết giữa các độc quyền theo cả chiều ngang và chiều
dọc, cả trong và ngoài nước. Từ đó, những hình thức tổ chức độc quyền mới ra đời.
Đó là Concern và conglomerat.
• Concern là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí nghiệp
có quan hệ với những ngành khác nhau và được phân bổ ở nhiều nước.
• Conglomerate là sự kết hợp của hàng chục những hãng vừa và nhỏ không liên quan
trực tiếp về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất, lĩnh vực hoạt động là kinh doanh
chứng khoán và kinh doanh tài chính.
• Biểu hiện mới về vai trò của tư bản tài chính trong các tập đoàn độc quyền
Ngày nay, do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại,trong
nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc
biệt các ngành thuộc «phần mềm» như dịch vụ, bảo hiểm… ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.
Để Thích ứng với sự biến đổi đó, phạm vi liên kết, nội dung liên kết, mức độ liên kết được
mở rộng ra nhiều ngành, dưới hình thức các tổ hợp như : công – nông – thương – tín – dịch
vụ hay công nghiệp – quân sự - dịch vụ quốc phòng…
Cơ chế tham dự của tư bản tài chính cũng có sự biến đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ được
phát hành rộng rãi (cả trong nước và nước ngoài), khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng
lớp dân cư cũng có thể trở thành cổ đông…
• Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
Thứ nhất, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại làm thay đổi yêu cầu
về môi trường đầu tư, như: sự xuất hiện các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao,
hàm lượng vốn lớn, đòi hỏi dung lượng thị trường lớn và chất lượng cao, nguồn nhân công
phải được đào tạo và có trình độ, tay nghề, có cơ sở hạ tầng của sản xuất hiện đại, môi
trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định… Ở các nước chậm phát triển không đáp ứng được
những yêu cầu đó, nên hiện nay lượng tư bản xuất khẩu giữa các nước phát triển với nhau
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng tư bản xuất khẩu của thế giới.
Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, vai trò của các công ty xuyên quốc
gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt
khác,các nước đang phát triển cũng thực hiện xuất khẩu tư bản.
Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen giữa xuất khẩu tư bản và xuất
khẩu hàng hóa tăng lên. Ví dụ: xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT: Build – Operate
–Transfer) ; xây dựng - chuyển giao (BT)… Sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp
đồng buôn bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám,… không ngừng tăng lên.
Thứ tư, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và
nguyên tắc cùng có lợi trong đầu tư được đề cao.
• Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền
Ngày nay, xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu hướng
khu vực hóa nền kinh tế. Các công ty độc quyền xuyên quốc gia với sức mạnh và phạm vi
bành trướng của mình đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình đó và hình thành những liên minh
kinh tế khu vực và chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế.
Tư bản độc quyền quốc tế là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hóa thông qua các tổ
chức kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu vực.
• Biểu hiện mới về sự phân chia lãnh thổ ảnh hưởng dưới sự chi phối của các tập đoàn
độc quyền
Hiện nay, sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản vẫn tiếp diễn
dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới. Các cường quốc tư bản tranh giành nhau
phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện « chiến lược biên giới mềm », ra sức bành trướng
« biên giới kinh tế » rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước chậm phát
triển từ lệ thuộc vào vốn, công nghệ đến sự lệ thuộc về chính trị dưới mọi hình thức lúc
ngấm ngầm, lúc công khai.Sang đầu thế kỷ XXI, sự phân chia lãnh thổ thế giới được thay
thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng bên
trong hoặc núp đằng sau, trực tiếp hay gián tiếp các cuộc đụng độ đó chính là các cường
quốc tư bản.
Bản chất xu hướng phát triển
Bản chất xu hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản là tìm kiếm lợi nhuận và tăng trưởng
kinh tế thông qua sự cạnh tranh và sáng tạo. Tuy nhiên, khi độc quyền ngày càng trở thành
một vấn đề nghiêm trọng, nó có thể gây ra những tác động tiêu cực đến sự đa dạng và sự
cạnh tranh trên thị trường. Điều này đặt ra câu hỏi về tính đối xứng và công bằng trong
kinh doanh, và cần có sự can thiệp của các tổ chức chính phủ và các nhà quản lý thị trường
để đảm bảo sự cạnh tranh và đa dạng trên thị trường.
14. Nghiên cứu vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán
của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đặc trưng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc.
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Từ khi tiến hành
đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế có nhiều hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.
Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp thành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế.
Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể quyết định phân
phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực
hiện phân phối lại.
Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản lý,
điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta khẳng định,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân
theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã
hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế có tổ
chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy
những ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật của
hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý bằng chính sách,
pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất.
Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm định hướng và tạo môi trường
pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không phải thị trường điều tiết hoàn toàn mà còn
có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong
từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục
những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị trường.
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ, phương tiện, một
động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường là một cơ
chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên kinh
tế thị trường tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu.

Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:

Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất
cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối
đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa
được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực
lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh
quốc tế chưa cao.

Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa công bằng,
chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội
có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư, nhất là
nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành
quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo
đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ,
cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã
hội.
15. Nghiên cứu các đặc trưng của mô hình KTTT định hướng XHCN Việt Nam
• Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, phát
triển tới trình độ cao, trong đó, quan hệ sản xuất và trao đổi đều thông qua thị trường và
chịu sự điều tiết bởi các quy luật khách quan của thị trường.
• Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường đầy đủ, mang đặc
trưng là định hướng XHCN, có Nhà nước do ĐCS lãnh đạo nhằm mục tiêu “ dân
giàu, nước manh, công bằng, dân chủ, văn minh”
• Cơ sở tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam:
• Cơ sở lý luận: quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất của Việt Nam đi từ nền sản xuất nhỏ. Vì thế quan hệ sản xuất cần
dựa trên kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế. Do đó, Việt Nam lựa chọn kinh tế thị trường chứ không phải nền kinh tế bao cấp
chỉ huy như trước đổi mới.
Lịch sử kinh tế thị trường của tư bản chủ nghĩa còn nhiều mâu thuẫn, hạn chế. Vì thế
cần có hướng đi khác để đảm bảo sự phát triển bền vững. Do đó, Việt Nam lựa chọn nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải TBCN.
• Cơ sở thực tiễn: Việt Nam cần hội nhập, phát triển kinh tế , thực hiện mục tiêu “
dân giàu, nước manh, công bằng, dân chủ, văn minh”
Để hội nhập hệ thống phân công lao động thế giới, Việt Nam cần nền kinh tế thị trường.
Để hạn chế sự bất bình đẳng, phân hóa giai tầng, VN cần có định hướng XHCN.
Do đặc thù lịch sử Việt Nam: ĐCS lãnh đạo thành công Cách mạng Dân tộc Dân chủ,
khác với quy luật phổ biến của thế giới là giai cấp tư sản thực hiện Cách mạng Dân chủ.
Đặc trưng định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam , khác biệt với
các nền kinh tế thị trường TBCN:

Nội dung Nền KTTT định hướng XHCN Nền KTTT Tư bản chủ nghĩa

Mục đích Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của CNXH, đặt lợi ích của nhân của CNTB, đặt lợi ích của các tập
dân lên trên đoàn tư bản lên trên

Quan hệ sở Nhiều thành phần kinh tế, trong Nhiều thành phần kinh tế, trong đó
hữu đó kinh tế nhà nước giữ vai trò kinh tế tư nhân giữ vai trò chỉ đạo
chủ đạo

Quan hệ quản Cơ chế thị trường tự điều tiết. Cơ chế thị trường tự điều tiết
lý nền kinh tế Sự điều tiết Nhà nước định Sự điều tiết của Nhà nước TBCN và
hướng XHCN sự chi phối của giới tài phiệt

Quan hệ phân Nhiều hình thức phân phối, phân Nhiều hình thức phân phối, phân
phối phối theo lao động là chủ đạo phối theo vốn góp là chủ đạo

Kiến trúc Nhà nước do ĐCS cầm quyền Nhà nước do các Đảng phái tranh cử
thượng tầng nắm quyền

Trong các đặc trưng trên, đặc trưng về Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trình độ cao của
CNXH là quan trọng nhất. Vì đó là nền móng để phát triển quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng đi theo định hướng XHCN.
16. Đánh giá về thành tựu phát triển KTTT định hướng XHCN ở VN hiện nay.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận cơ bản
và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và là một trong các biện pháp để thực hiện mục
tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thành tựu phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hơn 35 năm qua để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực
tiễn cho thời kỳ phát triển mới của đất nước:
• Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển;
kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được
bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế
tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Nhận thức về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
• Hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển các yếu tố thị trường, các loại thị
trường ngày càng được nâng cao, thủ tục hành chính từng bước được hoàn thiện,
đáp ứng yêu cầu phát triển các loại thị trường. Nhiều rào cản tham gia thị trường
được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng
tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động.
• Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh
tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh
tế tập thể từng bước được đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
• Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình
thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thế hệ mới;
kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích
cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.
• An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục, y tế, hỗ trợ các
đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.
• Nhờ kinh tế phát triển, Việt Nam có điều kiện để chăm sóc tốt hơn người có công,
phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh
vì Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát
triển phong phú, đa dạng. Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số sử dụng internet,
là một trong những nước có tốc độ phát triển internet cao nhất thế giới. Liên hợp
quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực
hóa Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
=> Có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở
Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm
nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết;
chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập
quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

17. Nghiên cứu về lý luận lợi ích, các quan hệ lợi ích kinh tế chủ yếu trong nền
kinh tế thị trường? Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế?
Khái niệm lợi ích:
Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải được nhận
thức và đặt trong mối quan hệ xã hội tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền
xã hội đó.
Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế:
xét về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ
thể trong nền sản xuất xã hội.
Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan hệ đó hàm
chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được. Về khía cạnh này, Ph. Angghen viết:
"Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức
lợi ích". Các quan hệ xã hội luôn mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai
đoạn cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng. Ví dụ,
trong doanh nghiệp: lợi ích của chủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích của người
lao động là thu nhập.

Những đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế


Lợi ích kinh tế mang tính khách quan
Bản chất khách quan đòi hỏi lợi ích kinh tế phải được tôn trọng và giải quyết xuất phát từ
các điều kiện khách quan. Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất trực tiếp
ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của con người. Xã hội càng phát triển, đòi hỏi về
phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người càng cao. Đồng thời,
phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách
quan: số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, thu nhập của các chủ thể.

Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối
Thu nhập là biểu hiện, thước đo việc thực hiện các lợi ích kinh tế. Mức thu nhập trực tiếp
quyết định phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể trong cơ chế thị
trường. Phân phối thu nhập lại được thực hiện theo những nguyên tắc khác nhau, tùy thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế kinh tế.

Lợi ích kinh tế phản ánh quan hệ xã hội


Lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể không giản đơn tùy thuộc vào số lượng, chất lượng hàng
hóa, dịch vụ họ nhận được mà luôn được đặt trong quan hệ so sánh, tương tác với những
chủ thể khác.
Lợi ích kinh tế mang tính lịch sử
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người do nhiều nhân tố quy
định, mà các nhân tố đó lại không ngừng vận động, nên lợi ích kinh tế cũng không ngừng
vận động. Điều đó có nghĩa là lợi ích kinh tế mang tính lịch sử.
Vai trò của lợi ích kinh tế trong phát triển
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã hội
Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết là để thỏa mãn nhu cầu vật chất. Trong
nền kinh tế thị trường, mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất tùy thuộc vào thu nhập. Do đó,
thu nhập càng cao, mức độ thỏa mãn càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành
động để nâng cao thu nhập của mình.
- Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc vào địa vị của con
người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội nên để thực hiện được lợi ích của mình các
chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ đối với tư liệu sản xuất.
Đó là cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong lịch sử - một động
lực quan trọng của tiến bộ xã hội.
Quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường
Khái niệm về quan hệ lợi ích kinh tế: Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương
tác giữa con người với con người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa
các quốc gia với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong
mối liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương
ứng của một giai đoạn phát triển xh nhất định.
=> Quan hệ lợi ích biểu hiện phong phú, có thể theo chiều dọc, giữa một tổ chức kinh tế
với một cá nhân trong tổ chức kinh tế đó. Cũng có thể theo chiều ngang giữa các chủ thể,
các cộng đồng người, giữa các tổ chức, các bộ phận hợp thành nền kinh tế khác nhau. Trong
điều kiện hội nhập ngày nay, quan hệ lợi ích kinh tế còn phải xét tới quan hệ giữa quốc gia
với phần còn lại của thế giới.

Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
Sự thống nhất
Sự thống nhất của quan hệ lợi ích kinh tế có được vì một chủ thể có thể trở thành bộ phận
cấu thành của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của
chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện.
Sự mâu thuẫn
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể hành động
theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của mình. Sự khác nhau đó đến
mức đối lập thì trở thành mâu thuẫn. Ví dụ, vì lợi ích của mình, các doanh nghiệp có thể
làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế… thì lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và lợi ích của xã
hội mâu thuẫn với nhau.
18. Nghiên cứu quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền
kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng thời tuân thủ các
chuẩn mực quốc tế chung.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa là quá
trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia trên quy mô
toàn cầu. Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…,
trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng
là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng
nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động và phát triển hướng tới một nền kinh
tế thế giới thống nhất.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là
các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay. Đối với các nước đang và kém
phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực
bên ngoài như tài chính, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm phát triển cho quá trình phát
triển của mình.
Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, ảnh hưởng mạnh đến
kinh tế toàn cầu cũng như từng quốc gia, nhất là đại dịch COVID-19; cuộc xung đột Nga -
Ukraine dẫn đến chuỗi cung ứng, lao động, sản xuất đứt gãy cục bộ; giá cả nguyên vật liệu
đầu vào và nông sản ở mức cao, lạm phát ở nhiều nước tăng cao; an ninh năng lượng, an
ninh lương thực ở mức đáng báo động, an ninh phi truyền thống, như thiên tai, dịch bệnh,
biến đổi khí hậu… diễn biến phức tạp; nhiều quốc gia, trong đó có những đối tác lớn của
Việt Nam thay đổi chính sách theo hướng tăng lãi suất, thắt chặt tiền tệ, tài khóa... dẫn đến
tổng cầu suy giảm (10). Do vậy, để phát huy hiệu quả từ việc tận dụng những FTA thế hệ
mới, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực không mong muốn, khắc phục những
hạn chế, tránh gặp rủi ro trong quá trình thực thi các cam kết, cần thực hiện một số giải
pháp:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước cần tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây
dựng thể chế, nhất là việc thể chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng về hội
nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Ngày 24-8-
2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 9/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 95/2020/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thực hiện về đấu thầu mua sắm
theo Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), trên cơ sở
đó, cần tiếp tục thể chế hóa, nội luật hóa các cam kết quốc tế, đặc biệt là đối với các FTA.
Việc sửa đổi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa
nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cụ thể cho hoạt động tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, quản
lý chất lượng, đánh giá sản phẩm hàng hóa của Việt Nam phù hợp với các cam kết trong
các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia. Đồng thời, tận dụng các cơ hội của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình chuyển đổi số, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ sản
phẩm, hàng hóa Việt Nam có chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia và vượt qua các
hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Điều quan trọng trong sửa đổi luật là cần chú ý đến
việc tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng nhưng
vẫn phải tạo “lực đẩy và lực kéo” để doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững.
Thứ hai, hoạt động phổ biến tuyên truyền về các FTA thế hệ mới được thực hiện bởi các
cơ quan nhà nước trong thời gian tới cần đi vào chi tiết, với các nội dung được xây dựng
theo hướng gắn sát thực tiễn, ngắn gọn, phù hợp với mối quan tâm của từng nhóm đối
tượng doanh nghiệp cụ thể. Các chương trình, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp cần tập trung
vào các hoạt động thực chất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, xúc tiến
thương mại ở tầm quốc gia một cách hệ thống, nhất là ở các thị trường mới, cập nhật thông
tin thị trường và kết nối cung - cầu. Các hoạt động này cũng cần được thiết kế theo các
nhóm đối tượng riêng, với ưu tiên đặc biệt dành cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ.
Thứ ba, đề cao vai trò của doanh nghiệp, xác định rõ doanh nghiệp là chủ thể, trung tâm
trong các hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua việc tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc cho doanh nghiệp, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các cam
kết hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính,
tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa; đặc biệt là
định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra thị trường nước ngoài để tiếp cận
công nghệ tiên tiến, tiếp thu kinh nghiệm quản lý và đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài
làm việc nhằm thay đổi tầm nhìn và kỹ năng lao động (11). Công tác nghiên cứu thị trường,
tham mưu chính sách và nâng cao hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp trong nước xây dựng, điều
chỉnh chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp, tận dụng các cơ hội từ các hiệp
định.
Thứ tư, cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hơn nữa về thông tin thương mại thông
qua phát triển hệ thống thông tin thị trường, tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại,
tăng cường công tác phân tích, dự báo thị trường và nghiên cứu, ban hành các chính sách
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp,
hiệu quả chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị hàng hóa. Tăng cường công tác cảnh báo các quy
định về rào cản và những vấn đề phát sinh đối với hàng hóa xuất khẩu (12).
Thứ năm, các doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ về cam kết trong các FTA, nhất là FTA thế hệ
mới; tìm hiểu kỹ về thị trường các nước thành viên FTA. Chủ động đối phó với các biện
pháp phòng vệ thương mại, như: Thường xuyên trao đổi thông tin với đối tác nhập khẩu;
cập nhật thông tin cảnh báo sớm; tham gia tích cực vào quá trình điều tra, phối hợp tích
cực với cơ quan điều tra. Từ đó, chủ động sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Đồng
thời, nâng cao năng lực cạnh tranh, thông qua áp dụng các tiêu chuẩn, kỹ thuật, tuân thủ
quy định của thị trường đối tác; áp dụng công nghệ vào sản xuất, quản lý; xây dựng chiến
lược, lựa chọn khách hàng, lựa chọn thị trường.
Ngoài ra, liên kết và hợp tác trong kinh doanh để cùng mạnh, qua đó thu lợi ích trực tiếp
hoặc gián tiếp từ quá trình này cũng là điều cần chú ý. Đồng thời, thay vì những nỗ lực đơn
lẻ kém hiệu quả, doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác (trong khuôn khổ Liên đoàn Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI hay các hiệp hội doanh nghiệp) để vận động chính
sách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, qua đó phát huy sức sáng tạo và hội nhập
quốc tế thành công.

You might also like