Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
2. Nghiên cứu về sản xuất hàng hóa, khái niệm, điều kiện ra đời, liên hệ với thực
tiễn phát triển hàng hóa ở Việt Nam
Ý chính:
- Khái niệm
- Điều kiện ra đời của SXHH (2 ý): Phân công LĐ XH, Tách biệt về mặt kinh tế giữa những
người sản xuất.
- Thực tiễn: Càng ngày càng phát triển: (2 ý): VN theo nền kinh tế thị trường là hợp lý,
Tồn tại nhiều hình thức sở hữu.
THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN HÀNG HÓA Ở VN: Phân công ở nước ta ngày càng phát
triển cao hơn:
- Nước ta có ba hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Ngoài ra còn có sở hữu hỗn hợp (các cty cổ phần) => VN theo nền kinh tế thị trường là
hợp lý
- LLSX chưa phát triển, trình độ LLSX thấp, chưa đồng đều => Tồn tại nhiều hình thức sở
hữu để phù hợp trình độ đó.
3. Nghiên cứu về lý luận hàng hóa, khái niệm, điều kiện ra đời, liên hệ với thực
tiễn phát triển hàng hóa ở Việt Nam
Nghiên cứu về sản xuất hàng hóa, khái niệm, điều kiện ra đời, liên hệ với thực tiễn phát
triển hàng hóa ở Việt Nam
Ý chính:
- Khái niệm, thuộc tính của hàng hóa
- Liên hệ thực tiễn phát triển hàng hóa ở VN
Trả lời:
1. Khái niệm hàng hóa
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông
qua trao đổi, mua bán.
- Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi được đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán
trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể
2. Thuộc tính của hàng hóa (2tt)
a) Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người
- Nhu cầu có thể là vật chất, tinh thần, tiêu dùng cá nhân hay sản xuất.
VD: Cơm để ăn, áo để mặc, nước đóng chai để uống…
- Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng.Nền sản xuất càng
phát triển, khoa học - công nghệ càng hiện đại, càng giúp con người phát hiện thêm các giá
trị sản phẩm.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua, nên
người sản xuất cần chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do mình sản xuất để đáp
ứng được nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua
b) Giá trị
Muốn biết được giá trị hàng hóa phải thông qua giá trị trao đổi.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc.
Hai hàng hóa khác nhau, muốn trao đổi được với nhau thì chúng phải có cơ sở chung giống
nhau. Cái chung đó ở chỗ: Chúng đều là sản phẩm của lao động. Chính lao động đó tạo ra
giá trị cho hàng hóa, nhờ đó mà các hàng hóa trao đổi được cho nhau. Như vậy, giá trị là
nội dung bên trong, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của hàng hoá, chỉ
có thông qua giá trị trao đổi mới tìm ra giá trị.
Cho nên: Giá trị của hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị biểu hiện một quan hệ xã hội, quan hệ của những người sản xuất và người trao đổi
hàng hóa. Giá trị là một phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại khi còn hàng hoá và sản xuất hàng
hóa.
=> Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính của hàng hóa, nên nó là hai mặt thống nhất
trong hàng hóa, nó làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Nhưng đây là sự thống nhất của hai
mặt đối lập, nên lại mâu thuẫn với nhau.
3. Thực tiễn phát triển hàng hóa ở Việt Nam
Mô hình phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Việt Nam đã phát
huy được những ưu thế của mô hình kinh tế này, khai thác được tiềm năng của đất nước,
đạt được sự ổn định và bền vững trong tăng trưởng.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh càng khốc liệt. Trong đó, giá cả và
chất lượng hàng hóa là những công cụ cạnh tranh mang tính chiến lược. Để có được những
công cụ cạnh tranh này, người sản xuất phải quan tâm đến cả hai nhân tố của hàng hóa: giá
trị sử dụng và giá trị của hàng hóa; không ngừng nâng cao chất lượng giá trị sử dụng.
Vận dụng lý thuyết hàng hóa, để cải thiện năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, các
doanh nghiệp Việt Nam có thể quan tâm đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, do lượng giá trị hàng hóa tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của lao động, nên hạ
thấp giá trị hàng hóa bằng cách không ngừng tăng sức sản xuất, tăng năng suất lao động.
Thứ hai, giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội nên người sản xuất phải tổ
chức nghiên cứu thị trường để xác định thị trường cần chủng loại hàng hóa, dịch vụ, sản
lượng hàng hóa, dịch vụ.
Thứ ba, giá cả hàng hóa thường xuyên vận động xoay quanh giá trị thị trường nên cả người
mua lẫn người bán cần phải nắm vững và dự báo đúng sự biến động của giá cả thị trường
để có những quyết định đúng đắn.
- Kích thích cải tiến KT, hợp lý hóa SX, tăng năng suất LĐ, hạ giá thành SP
Các hàng hóa được SX ra trong hoàn cảnh điều kiện khác nhau nên có giá trị cá biệt khác
nhau. Nhưng trên TT đều phải trao đổi theo mức hao phí LĐ XH cần thiết. Do đó mỗi
người SX hàng hóa đều tìm cách giảm giá trị cá biệt HH của mình xuống dưới mức giá trị
XH bằng cách hoặc thông qua cải tiến KT, hợp lý hóa SX để tăng năng suất LĐ. Từ đó
LLSX ngày một phát triển, năng suất tăng lên, chi phí SX hàng hóa giảm xuống. Trong lưu
thông, người SX không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức bán hàng
hiệu quả và nhanh chóng với chi phí thấp.
- Phân hóa người SX HH thành người giàu kẻ nghèo, tạo tiền đề cho sự xuất hiện
QHSX tư bản chủ nghĩa.
Trong SX HH, HH của người SX nào có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị XH thì người đó có
lợi và trở nên giàu có, ngược lại là bất lợi hoặc phá sản và phải đi làm thuê. Do đó là sự
phân hóa giàu nghèo trong XH.
=> Quy luật GT tồn tại khách quan trên thị trường, vừa có tác dụng tích cực và tiêu cực.
Một mặt đào thải sự lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho LLSX phát triển mạnh
mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người SX, đảm bảo sự bình đẳng đối với người
SX; một mặt gây ra sự phân hóa giàu nghèo. Trong nền KTTT thuần túy, chạy theo lợi ích
cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng là những yếu tố có thể làm tăng tác động phân hóa
SX cùng nhiều tiêu cực KT CT XH khác.
6. Nghiên cứu lý luận chung về thị trường, kinh tế thị trường (Nga)
Ý chính:
- Lý luận thị trường
- Lý luận KTTT
Trả lời:
1. Thị trường:
a. Định nghĩa:
Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế, trong đó nhu cầu của các chủ thể được ứng
thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá và số lượng hàng hóa, dịch vụ tương
ứng với trình độ phát triển nhất định của nền SX xã hội.
2. KTTT là gì?
a. Khái niệm:
KTTT là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các yếu tố đầu vào đầu ra của
SX được thực hiện thông qua thị trường, tuân theo nguyên tắc và quy luật thị trường.
b. Đặc trưng:
- KTTT đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể
kinh tế bình đẳng trước pháp luật
- TT đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực Xh thông qua hoạt động của
các thị trường bộ phận như TT hàng hóa dịch vụ, TT lao động, TT tài chính, TT bất động
sản, TT KH công nghệ. Các TT không tồn tại độc lập mà tác động qua lại với nhau. Chính
các yếu tố TT quyết định phân bổ nguồn lực
VD: Nguồn lực vốn khi xảy ra COVID, KT thế giới trở nên khó khăn hơn, TT lao động
khủng hoảng, TT hàng hóa suy giảm, các chủ thể có xu hướng dịch chuyển vốn sang khu
vực an toàn hơn. Nhà đầu tư dịch chuyển từ TT tài chính từ BĐS, chứng khoán đang đóng
băng sang TT vàng và thị trường hàng hóa do sợ lạm phát và suy thoái KT.
- Giá cả được hình thành theo nguyên tắc TT; cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động
lực trực tiếp của các chủ thể SX kinh doanh là lợi nhuận và lợi ích KT-Xh khác; NN là chủ
thể thực hiện chức năng quản lý, chức năng kinh tế; thực hiện khắc phục những khuyết tật
của thị trường, thúc đẩy những yếu tố tích cực; đảm bảo sự bình đẳng XH và sự ổn đỉnh
của toàn bộ nền KT
- KTTT là nền KT mở, TT trong nước gắn bó mật thiết với TT quốc tế.
c. Ưu điểm của nền KTTT
- KTTT tạo động lực cho sự sáng tạo của các chủ thể kinh tế
- Nền KTTT phát huy tốt tiềm năng của mọi chủ thể, vùng, miền, lợi thế quốc gia
- Nền KTTT luôn tạo ra phương thức thỏa mãn tối đa nhu cầu của CN, từ đó thúc đẩy sự
tiến bộ, văn minh của XH.
d. Khuyết tật của nền KTTT
- Tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng
- Nền KTTT không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy
thoái MT tự nhiên, MT XH
- KTTT không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong XH
=> Không tồn tại nền KTTT thuần túy mà thường có sự can thiệp của NN để sửa chữa
những thất bại.
7. Nghiên cứu lý luận về vai trò của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường
Trả lời:
Tóm tắt ý chính:
Có 4 chủ thể: người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung gian và nhà nước.
Cụ thể:
Có rất nhiều chủ thể khác nhau tham gia thị trường và mỗi chủ thể có những vai trò quan
trọng riêng. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét vai trò của một số chủ thể chính, đó là: người sản
xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung gian trong thị trường và nhà nước.
d. Nhà nước
- Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế, đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc phục những khuyết tật của thị trường.
Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế
thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy
sức sáng tạo của họ. Việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh từ phía
nhà nước sẽ kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Các rào cản
như vậy phải được loại bỏ. Việc này đòi hỏi mỗi cá nhân có trách nhiệm trong bộ máy quản
lý nhà nước cần phải nhận thức được trách nhiệm của mình là thúc đẩy phát triển, không
gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Cùng với đó, nhà nước còn sử dụng
các công cụ kinh tế để khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, làm cho
nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả.
=> TÓM LẠI: trong nền kinh tế thị trường, mọi quan hệ sản xuất và trao đổi, các hoạt động
của các chủ thể đều chịu sự tác động bởi các quy luật kinh tế khách quan của thị trường;
đồng thời chịu sự điều tiết, can thiệp của nhà nước qua việc thực hiện hệ thống pháp luật
và các chính sách kinh tế. Mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở từng
nước, từng giai đoạn có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ can thiệp của chính phủ đối
với thị trường, song tất cả các mô hình đều có điểm chung là không thể thiếu vai trò kinh
tế của nhà nước.
8. Nghiên cứu lý luận về quá trình sản xuất giá trị thặng dư và vận dụng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay
Trả lời:
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư :
- QTSX GTTD là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị.
- Để có được GTTD, nền sản xuất xã hội phải đạt đến trình độ nhất định, tức thời gian lao
động xã hội hao phí của người lao động gồm 2 phần:
+ TGLĐ tất yếu: Là TG hao phí LĐ có thể bù đắp được giá trị hàng hóa sức lao động.
+ TGLĐ thặng dư: Là TG hao phí LĐ ngoài TGLĐ tất yếu nhưng không được bù đắp và
thuộc về nhà tư bản.
- Trong TGLĐ, người lao động làm việc dưới sự quản lý của người mua hàng hóa SLĐ và
sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của người mua sức lao động.
=> GTTD là: bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra, là
kết quả của lao động không công của công nhân cho nhà tư bản. Kí hiệu là m.
- Tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư.
Vận dụng vào sản xuất kinh doanh hiện nay:
- Trong xu thế kinh tế thế giới dịch chuyển theo hướng từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tri thức, lý luận về quá trình sản xuất giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng:
+ Đầu tư và ứng dụng mạnh mẽ khoa học kĩ thuật vào sản xuất kinh doanh để hạ giá thành
sản phẩm.
+ Chuyển hướng đối tượng kinh tế sang đầu tư “tư bản vô hình” là tri thức, là chất xám có
sẵn trong người lao động.
+ Chú trọng công tác giáo dục, thực hiện chính sách thu hút người lao động có trình độ
cao, tránh nguy cơ chảy máu chất xám
+ Thực hiện chiến dịch “đi tắt, đón đầu”, học tập những thành tựu khoa học công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước trên thế giới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất - kinh doanh.
9. Nghiên cứu về lý luận hàng hóa sức lao động và áp dụng vào việc chuẩn bị
các công việc tương lai của sinh viên.
Lý luận: Cả câu 10
Áp dụng lý luận hàng hóa SLĐ vào việc chuẩn bị các công việc tương lai của sinh
viên:
• Chủ động học tập rèn luyện nâng cao kiến thức
• Trau dồi vốn ngoại ngữ
• Chú trọng nâng cao kỹ năng phần mềm
• Xác định phương hướng nghề nghiệp rõ ràng
• Phát triển duy trì các mối quan hệ
• Tích lũy kinh nghiệm từ các công việc làm thêm
10. Nghiên cứu khái niệm, điều kiện ra đời, và hai thuộc tính của hàng hóa sức
lao động
Trả lời:
1. Khái niệm sức lao động
- Sức lao động: Là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể và được con
người đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất một giá trị sử dụng nào đó.
2. Điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa
Sức lao động là yếu tố cần thiết và quyết định của mọi quá trình lao động sản xuất, nhưng
sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau:
• Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền đem bán sức lao
động của mình như một hàng hoá.
• Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện
quá trình lao động sản xuất.
3. Hàng hóa sức lao động
Hàng hoá sức lao động có đặc điểm là: sau khi bán, sức lao động không tách khỏi người
bán mà nó vẫn tồn tại trong người bán. Và, sức lao động chỉ có thể được bán trong một
thời gian nhất định.
Giống như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá
trị sử dụng. Giá trị của hàng hoá sức lao động:
- Giá trị hàng hoá sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất ra sức lao động đó.
Sản xuất và tái sản xuất sức lao động được thực hiện thông qua tiêu dùng cá nhân của người
lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao gồm
cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử.
Giá trị của hàng hoá sức lao động bao gồm:
• Giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì sức lao động của công nhân ở trạng
thái sinh hoạt bình thường.
• Chi phí đào tạo tùy theo tính chất phức tạp của sức lao động.
• Giá trị các tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế (tức là con cái của công nhân).
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là năng lực lao động của con người (thể
hiện ra khi tiêu dùng trong quá trình lao động)
GTSD hàng hóa SLĐ là GTSD đặc biệt vì trong quá trình tiêu dùng, GTSD không mất đi
mà còn có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị SLĐ (giá trị thặng dư).
=> Sự khác nhau giữa GTSD và GT SLĐ: Việc tiêu dùng giá trị sử dụng của các hàng
hoá khác là thứ tiêu dùng hết, không sinh ra giá trị mới. Còn việc tiêu dùng giá trị sử dụng
của hàng hoá sức lao động lại tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.
11. Nghiên cứu lý luận tích lũy tư bản trong nền kinh tế thị trường.
- Định nghĩa
- Nhân tố làm tăng quy mô tích lũy tư bản
- Quy luật chung của tích lũy tư bản
+ Tích tụ tư bản và tập trung tư bản
+ Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản
+ Hậu quả của tích lũy tư bản: Thất nghiệp và bần cùng hóa giai cấp vô sản
BÀI LÀM
A. Định nghĩa:
Tích lũy tư bản là việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay là sự chuyển hóa giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản. Thực chất, tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư.
Tích luỹ tư bản gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, gắn với quá trình
bóc lột của chủ nghĩa tư bản đối với lao động làm thuê, gắn với tái sản xuất mở rộng tư bản
chủ nghĩa. Do đó, nói một cách cụ thể, tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô
ngày càng rộng.
Để tăng quy mô tích luỹ tư bản, các nhà tư bản phải sử dụng nhiều biện pháp:
+ Nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công của người công
nhân, biến một phần quỹ tiêu dùng của công nhân thành quỹ tích luỹ tư bản; Nâng cao trình
độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
+ Nâng cao năng suất lao động xã hội.
+ Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, khoa học công nghệ ngày càng phát triển, máy móc ngày
càng tinh vi và hiện đại thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng ngày
càng lớn. Do đó tích luỹ tư bản ngày càng cao.
+ Quy mô của tư bản ứng trước.
Khi lượng tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng mở rộng, kỹ thuật sản xuất
càng hiện đại, do đó, các động lực thúc đẩy sản xuất giá trị thặng dư càng có tác động
mạnh.
12. Nghiên cứu về các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh
tế thị trường.
Giá trị thặng dư được biểu hiện ra dưới nhiều hình thức như: lợi nhuận, lợi tức, địa tô.
Nghiên cứu về hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư thực chất là phân tích về các quan
hệ lợi ích giữa những nhà tư bản với nhau, giữa nhà tư bản với địa chủ trong việc phân chia
giá trị thặng dư thu được trên cơ sở hao phí sức lao động của người lao động làm thuê.
A. Lợi nhuận
- Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất được ký hiệu là k. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất ra
hàng hóa.
Chi phí sản xuất có vai trò quan trọng: bù đắp tư bản về giá trị và hiện vật, đảm bảo điều
kiện cho tái sản xuất trong kinh tế thị trường; tạo cơ sở cho cạnh tranh, là căn cứ quan trọng
cho cạnh tranh về giá bán hàng giữa các nhà tư bản.
- Bản chất lợi nhuận
C. Mác khái quát: “Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận”.
Điều đó có nghĩa, lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trên
bề mặt nền kinh tế thị trường.
Lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ, động lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường.
- Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của tư bản ứng trước
(ký hiệu là p).
Tỷ suất lợi nhuận phản ánh mức doanh lợi đầu tư tư bản.
=> Như vậy, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận là những phạm trù thể hiện lợi ích kinh tế của
nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đó các nhà tư bản muốn
làm giàu và làm giàu nhanh cần phải tìm ra cách thức để có được tỷ suất lợi nhuận cao
nhất.
B. Lợi tức
- Tư bản cho vay trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản là bộ phận tư bản xã hội dưới hình thái tiền tệ, được
tách ra từ sự vận động tuần hoàn của tư bản nhất định để gia nhập vào sự vận động tuần
hoàn của tư bản khác.
Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản có đặc điểm:
+ Quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.
+ Tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt.
+ Tư bản cho vay là hình thái tư bản phiến diện nhất
- Nguồn gốc, bản chất của lợi tức, tỷ suất lợi tức
Lợi tức cho vay trong chủ nghĩa tư bản là phần lợi nhuận bình quân mà chủ thể sử dụng tư
bản trả cho chủ thể sở hữu tư bản (ký hiệu là z).
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức và tư bản cho vay.
- Hình thức vận động của tư bản cho vay
Tín dụng là hình thức vận động của tư bản cho vay, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể
sở hữu và chủ thể sử dụng tư bản cho vay dựa trên các nguyên tắc hoàn trả, có kỳ hạn và
có lợi tức.
Tín dụng thương mại là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc mua, bán chịu.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có sự trung gian của các ngân hàng.
- Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán
=> Tóm lại, giá trị thặng dư có biểu hiện cụ thể thông qua các hình thái lợi nhuận, lợi
tức, địa tô. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân có vai
trò điều tiết lợi nhuận, lợi tức và địa tô; giá cả sản xuất có vai trò điều tiết giá cả thị
trường.
13. Nghiên cứu các đặc điểm của độc quyền và những biểu hiện mới của nó
trong thời đại ngày nay. Qua đó đánh giá bản chất xu hướng phát triển của
CNTB
K/N: Độc quyền là khái niệm mô tả tình trạng một tổ chức hoặc cá nhân sở hữu quyền
kiểm soát hoặc sử dụng một sản phẩm hoặc dịch vụ duy nhất trên thị trường, gây ra sự cạnh
tranh hạn chế và tăng giá thành cho người tiêu dùng. Độc quyền có thể được đạt được thông
qua nhiều cách khác nhau, bao gồm quyền sở hữu tài sản trí tuệ, quyền thương mại, hoặc
thậm chí thông qua sự kiểm soát quy trình sản xuất hoặc phân phối.
Độc quyền có đặc điểm là không có cạnh tranh, có thể dẫn đến chi phí cao cho người
tiêu dùng, sản phẩm và dịch vụ kém chất lượng, và các phương thức kinh doanh tham
nhũng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, chủ nghĩa tư bản độc quyền có những đặc
điểm như sau:
– Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Nền kinh tế trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền được thể hiện rõ nhất ở các xí
nghiệp ở Pháp, Mỹ, Anh trong những năm 1900 thì với 1% tổng số xí nghiệp nhưng tổng
số máy bay hơi nước và điện lực chiếm hơn ¾, số lượng công nhân và tổng số sản phẩm
được làm ra chiếm gần một nửa so với toàn thế giới.
Đồng thời các doanh nghiệp và xí nghiệp lớn cạnh tranh nhau gay gắt và có những doanh
nghiệp và xí nghiệp liên kết nhau để nắm độc quyền.
– Thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền có tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính
Khi các ngân hàng nhỏ và vừa không đủ tiềm lực và uy tín để phục vụ yêu cầu của các xí
nghiệp lớn với mức độ tích tụ cao trong sản xuất công nghiệp thì để đáp ứng với điều kiện
của mình thì các tổ chức độc quyền công nghiệp đã tìm đến các ngân hàng lớn hơn.
Do đó, đã thể hiện được đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền thông qua việc các ngân
hàng nhỏ phải chấm dứt hoạt động hoặc sáp nhập vào ngân hàng lớn để tồn tại. Cũng chính
vì vậy đã dẫn đến sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng
– Thứ ba, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ xuất khẩu tư bản
Việc chủ nghĩa tư bản độc quyền nhằm chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận
khác thông qua việc xuất khẩu giá trị của các nước nhập khẩu tư bản.
Những biểu hiện mới trong thời đại ngày nay
• Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản
• Ngày nay, đặc điểm tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền có biểu hiện mới
bên cạnh các công ty độc quyền lớn xuyên quốc gia còn diễn ra sự phát triển mạnh
mẽ của các xí nghiệp vừa và nhỏ.
• Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ nên đã diễn ra
quá trình hình thành sự liên kết giữa các độc quyền theo cả chiều ngang và chiều
dọc, cả trong và ngoài nước. Từ đó, những hình thức tổ chức độc quyền mới ra đời.
Đó là Concern và conglomerat.
• Concern là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí nghiệp
có quan hệ với những ngành khác nhau và được phân bổ ở nhiều nước.
• Conglomerate là sự kết hợp của hàng chục những hãng vừa và nhỏ không liên quan
trực tiếp về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất, lĩnh vực hoạt động là kinh doanh
chứng khoán và kinh doanh tài chính.
• Biểu hiện mới về vai trò của tư bản tài chính trong các tập đoàn độc quyền
Ngày nay, do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại,trong
nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc
biệt các ngành thuộc «phần mềm» như dịch vụ, bảo hiểm… ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.
Để Thích ứng với sự biến đổi đó, phạm vi liên kết, nội dung liên kết, mức độ liên kết được
mở rộng ra nhiều ngành, dưới hình thức các tổ hợp như : công – nông – thương – tín – dịch
vụ hay công nghiệp – quân sự - dịch vụ quốc phòng…
Cơ chế tham dự của tư bản tài chính cũng có sự biến đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ được
phát hành rộng rãi (cả trong nước và nước ngoài), khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng
lớp dân cư cũng có thể trở thành cổ đông…
• Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
Thứ nhất, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại làm thay đổi yêu cầu
về môi trường đầu tư, như: sự xuất hiện các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao,
hàm lượng vốn lớn, đòi hỏi dung lượng thị trường lớn và chất lượng cao, nguồn nhân công
phải được đào tạo và có trình độ, tay nghề, có cơ sở hạ tầng của sản xuất hiện đại, môi
trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định… Ở các nước chậm phát triển không đáp ứng được
những yêu cầu đó, nên hiện nay lượng tư bản xuất khẩu giữa các nước phát triển với nhau
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng tư bản xuất khẩu của thế giới.
Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, vai trò của các công ty xuyên quốc
gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt
khác,các nước đang phát triển cũng thực hiện xuất khẩu tư bản.
Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen giữa xuất khẩu tư bản và xuất
khẩu hàng hóa tăng lên. Ví dụ: xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT: Build – Operate
–Transfer) ; xây dựng - chuyển giao (BT)… Sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp
đồng buôn bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám,… không ngừng tăng lên.
Thứ tư, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và
nguyên tắc cùng có lợi trong đầu tư được đề cao.
• Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền
Ngày nay, xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu hướng
khu vực hóa nền kinh tế. Các công ty độc quyền xuyên quốc gia với sức mạnh và phạm vi
bành trướng của mình đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình đó và hình thành những liên minh
kinh tế khu vực và chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế.
Tư bản độc quyền quốc tế là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hóa thông qua các tổ
chức kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu vực.
• Biểu hiện mới về sự phân chia lãnh thổ ảnh hưởng dưới sự chi phối của các tập đoàn
độc quyền
Hiện nay, sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản vẫn tiếp diễn
dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới. Các cường quốc tư bản tranh giành nhau
phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện « chiến lược biên giới mềm », ra sức bành trướng
« biên giới kinh tế » rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước chậm phát
triển từ lệ thuộc vào vốn, công nghệ đến sự lệ thuộc về chính trị dưới mọi hình thức lúc
ngấm ngầm, lúc công khai.Sang đầu thế kỷ XXI, sự phân chia lãnh thổ thế giới được thay
thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng bên
trong hoặc núp đằng sau, trực tiếp hay gián tiếp các cuộc đụng độ đó chính là các cường
quốc tư bản.
Bản chất xu hướng phát triển
Bản chất xu hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản là tìm kiếm lợi nhuận và tăng trưởng
kinh tế thông qua sự cạnh tranh và sáng tạo. Tuy nhiên, khi độc quyền ngày càng trở thành
một vấn đề nghiêm trọng, nó có thể gây ra những tác động tiêu cực đến sự đa dạng và sự
cạnh tranh trên thị trường. Điều này đặt ra câu hỏi về tính đối xứng và công bằng trong
kinh doanh, và cần có sự can thiệp của các tổ chức chính phủ và các nhà quản lý thị trường
để đảm bảo sự cạnh tranh và đa dạng trên thị trường.
14. Nghiên cứu vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán
của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đặc trưng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc.
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Từ khi tiến hành
đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế có nhiều hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.
Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp thành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế.
Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể quyết định phân
phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực
hiện phân phối lại.
Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản lý,
điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta khẳng định,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân
theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã
hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế có tổ
chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy
những ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật của
hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý bằng chính sách,
pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất.
Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm định hướng và tạo môi trường
pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không phải thị trường điều tiết hoàn toàn mà còn
có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong
từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục
những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị trường.
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ, phương tiện, một
động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường là một cơ
chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên kinh
tế thị trường tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu.
Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất
cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối
đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa
được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực
lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh
quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa công bằng,
chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội
có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư, nhất là
nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành
quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo
đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ,
cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã
hội.
15. Nghiên cứu các đặc trưng của mô hình KTTT định hướng XHCN Việt Nam
• Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, phát
triển tới trình độ cao, trong đó, quan hệ sản xuất và trao đổi đều thông qua thị trường và
chịu sự điều tiết bởi các quy luật khách quan của thị trường.
• Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường đầy đủ, mang đặc
trưng là định hướng XHCN, có Nhà nước do ĐCS lãnh đạo nhằm mục tiêu “ dân
giàu, nước manh, công bằng, dân chủ, văn minh”
• Cơ sở tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam:
• Cơ sở lý luận: quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất của Việt Nam đi từ nền sản xuất nhỏ. Vì thế quan hệ sản xuất cần
dựa trên kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế. Do đó, Việt Nam lựa chọn kinh tế thị trường chứ không phải nền kinh tế bao cấp
chỉ huy như trước đổi mới.
Lịch sử kinh tế thị trường của tư bản chủ nghĩa còn nhiều mâu thuẫn, hạn chế. Vì thế
cần có hướng đi khác để đảm bảo sự phát triển bền vững. Do đó, Việt Nam lựa chọn nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải TBCN.
• Cơ sở thực tiễn: Việt Nam cần hội nhập, phát triển kinh tế , thực hiện mục tiêu “
dân giàu, nước manh, công bằng, dân chủ, văn minh”
Để hội nhập hệ thống phân công lao động thế giới, Việt Nam cần nền kinh tế thị trường.
Để hạn chế sự bất bình đẳng, phân hóa giai tầng, VN cần có định hướng XHCN.
Do đặc thù lịch sử Việt Nam: ĐCS lãnh đạo thành công Cách mạng Dân tộc Dân chủ,
khác với quy luật phổ biến của thế giới là giai cấp tư sản thực hiện Cách mạng Dân chủ.
Đặc trưng định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam , khác biệt với
các nền kinh tế thị trường TBCN:
Nội dung Nền KTTT định hướng XHCN Nền KTTT Tư bản chủ nghĩa
Mục đích Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của CNXH, đặt lợi ích của nhân của CNTB, đặt lợi ích của các tập
dân lên trên đoàn tư bản lên trên
Quan hệ sở Nhiều thành phần kinh tế, trong Nhiều thành phần kinh tế, trong đó
hữu đó kinh tế nhà nước giữ vai trò kinh tế tư nhân giữ vai trò chỉ đạo
chủ đạo
Quan hệ quản Cơ chế thị trường tự điều tiết. Cơ chế thị trường tự điều tiết
lý nền kinh tế Sự điều tiết Nhà nước định Sự điều tiết của Nhà nước TBCN và
hướng XHCN sự chi phối của giới tài phiệt
Quan hệ phân Nhiều hình thức phân phối, phân Nhiều hình thức phân phối, phân
phối phối theo lao động là chủ đạo phối theo vốn góp là chủ đạo
Kiến trúc Nhà nước do ĐCS cầm quyền Nhà nước do các Đảng phái tranh cử
thượng tầng nắm quyền
Trong các đặc trưng trên, đặc trưng về Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trình độ cao của
CNXH là quan trọng nhất. Vì đó là nền móng để phát triển quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng đi theo định hướng XHCN.
16. Đánh giá về thành tựu phát triển KTTT định hướng XHCN ở VN hiện nay.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận cơ bản
và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và là một trong các biện pháp để thực hiện mục
tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thành tựu phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hơn 35 năm qua để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực
tiễn cho thời kỳ phát triển mới của đất nước:
• Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển;
kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được
bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế
tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Nhận thức về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
• Hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển các yếu tố thị trường, các loại thị
trường ngày càng được nâng cao, thủ tục hành chính từng bước được hoàn thiện,
đáp ứng yêu cầu phát triển các loại thị trường. Nhiều rào cản tham gia thị trường
được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng
tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động.
• Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh
tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh
tế tập thể từng bước được đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
• Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình
thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thế hệ mới;
kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích
cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.
• An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục, y tế, hỗ trợ các
đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.
• Nhờ kinh tế phát triển, Việt Nam có điều kiện để chăm sóc tốt hơn người có công,
phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh
vì Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát
triển phong phú, đa dạng. Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số sử dụng internet,
là một trong những nước có tốc độ phát triển internet cao nhất thế giới. Liên hợp
quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực
hóa Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
=> Có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở
Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm
nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết;
chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập
quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
17. Nghiên cứu về lý luận lợi ích, các quan hệ lợi ích kinh tế chủ yếu trong nền
kinh tế thị trường? Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế?
Khái niệm lợi ích:
Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải được nhận
thức và đặt trong mối quan hệ xã hội tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền
xã hội đó.
Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế:
xét về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ
thể trong nền sản xuất xã hội.
Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan hệ đó hàm
chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được. Về khía cạnh này, Ph. Angghen viết:
"Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức
lợi ích". Các quan hệ xã hội luôn mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai
đoạn cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng. Ví dụ,
trong doanh nghiệp: lợi ích của chủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích của người
lao động là thu nhập.
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối
Thu nhập là biểu hiện, thước đo việc thực hiện các lợi ích kinh tế. Mức thu nhập trực tiếp
quyết định phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể trong cơ chế thị
trường. Phân phối thu nhập lại được thực hiện theo những nguyên tắc khác nhau, tùy thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế kinh tế.
Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
Sự thống nhất
Sự thống nhất của quan hệ lợi ích kinh tế có được vì một chủ thể có thể trở thành bộ phận
cấu thành của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của
chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện.
Sự mâu thuẫn
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể hành động
theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của mình. Sự khác nhau đó đến
mức đối lập thì trở thành mâu thuẫn. Ví dụ, vì lợi ích của mình, các doanh nghiệp có thể
làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế… thì lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và lợi ích của xã
hội mâu thuẫn với nhau.
18. Nghiên cứu quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền
kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng thời tuân thủ các
chuẩn mực quốc tế chung.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa là quá
trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia trên quy mô
toàn cầu. Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…,
trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng
là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng
nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động và phát triển hướng tới một nền kinh
tế thế giới thống nhất.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là
các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay. Đối với các nước đang và kém
phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực
bên ngoài như tài chính, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm phát triển cho quá trình phát
triển của mình.
Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, ảnh hưởng mạnh đến
kinh tế toàn cầu cũng như từng quốc gia, nhất là đại dịch COVID-19; cuộc xung đột Nga -
Ukraine dẫn đến chuỗi cung ứng, lao động, sản xuất đứt gãy cục bộ; giá cả nguyên vật liệu
đầu vào và nông sản ở mức cao, lạm phát ở nhiều nước tăng cao; an ninh năng lượng, an
ninh lương thực ở mức đáng báo động, an ninh phi truyền thống, như thiên tai, dịch bệnh,
biến đổi khí hậu… diễn biến phức tạp; nhiều quốc gia, trong đó có những đối tác lớn của
Việt Nam thay đổi chính sách theo hướng tăng lãi suất, thắt chặt tiền tệ, tài khóa... dẫn đến
tổng cầu suy giảm (10). Do vậy, để phát huy hiệu quả từ việc tận dụng những FTA thế hệ
mới, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực không mong muốn, khắc phục những
hạn chế, tránh gặp rủi ro trong quá trình thực thi các cam kết, cần thực hiện một số giải
pháp:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước cần tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây
dựng thể chế, nhất là việc thể chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng về hội
nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Ngày 24-8-
2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 9/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 95/2020/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thực hiện về đấu thầu mua sắm
theo Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), trên cơ sở
đó, cần tiếp tục thể chế hóa, nội luật hóa các cam kết quốc tế, đặc biệt là đối với các FTA.
Việc sửa đổi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa
nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cụ thể cho hoạt động tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, quản
lý chất lượng, đánh giá sản phẩm hàng hóa của Việt Nam phù hợp với các cam kết trong
các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia. Đồng thời, tận dụng các cơ hội của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình chuyển đổi số, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ sản
phẩm, hàng hóa Việt Nam có chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia và vượt qua các
hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Điều quan trọng trong sửa đổi luật là cần chú ý đến
việc tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng nhưng
vẫn phải tạo “lực đẩy và lực kéo” để doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững.
Thứ hai, hoạt động phổ biến tuyên truyền về các FTA thế hệ mới được thực hiện bởi các
cơ quan nhà nước trong thời gian tới cần đi vào chi tiết, với các nội dung được xây dựng
theo hướng gắn sát thực tiễn, ngắn gọn, phù hợp với mối quan tâm của từng nhóm đối
tượng doanh nghiệp cụ thể. Các chương trình, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp cần tập trung
vào các hoạt động thực chất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, xúc tiến
thương mại ở tầm quốc gia một cách hệ thống, nhất là ở các thị trường mới, cập nhật thông
tin thị trường và kết nối cung - cầu. Các hoạt động này cũng cần được thiết kế theo các
nhóm đối tượng riêng, với ưu tiên đặc biệt dành cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ.
Thứ ba, đề cao vai trò của doanh nghiệp, xác định rõ doanh nghiệp là chủ thể, trung tâm
trong các hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua việc tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc cho doanh nghiệp, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các cam
kết hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính,
tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa; đặc biệt là
định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra thị trường nước ngoài để tiếp cận
công nghệ tiên tiến, tiếp thu kinh nghiệm quản lý và đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài
làm việc nhằm thay đổi tầm nhìn và kỹ năng lao động (11). Công tác nghiên cứu thị trường,
tham mưu chính sách và nâng cao hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp trong nước xây dựng, điều
chỉnh chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp, tận dụng các cơ hội từ các hiệp
định.
Thứ tư, cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hơn nữa về thông tin thương mại thông
qua phát triển hệ thống thông tin thị trường, tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại,
tăng cường công tác phân tích, dự báo thị trường và nghiên cứu, ban hành các chính sách
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp,
hiệu quả chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị hàng hóa. Tăng cường công tác cảnh báo các quy
định về rào cản và những vấn đề phát sinh đối với hàng hóa xuất khẩu (12).
Thứ năm, các doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ về cam kết trong các FTA, nhất là FTA thế hệ
mới; tìm hiểu kỹ về thị trường các nước thành viên FTA. Chủ động đối phó với các biện
pháp phòng vệ thương mại, như: Thường xuyên trao đổi thông tin với đối tác nhập khẩu;
cập nhật thông tin cảnh báo sớm; tham gia tích cực vào quá trình điều tra, phối hợp tích
cực với cơ quan điều tra. Từ đó, chủ động sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Đồng
thời, nâng cao năng lực cạnh tranh, thông qua áp dụng các tiêu chuẩn, kỹ thuật, tuân thủ
quy định của thị trường đối tác; áp dụng công nghệ vào sản xuất, quản lý; xây dựng chiến
lược, lựa chọn khách hàng, lựa chọn thị trường.
Ngoài ra, liên kết và hợp tác trong kinh doanh để cùng mạnh, qua đó thu lợi ích trực tiếp
hoặc gián tiếp từ quá trình này cũng là điều cần chú ý. Đồng thời, thay vì những nỗ lực đơn
lẻ kém hiệu quả, doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác (trong khuôn khổ Liên đoàn Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI hay các hiệp hội doanh nghiệp) để vận động chính
sách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, qua đó phát huy sức sáng tạo và hội nhập
quốc tế thành công.