Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 13

ISSN 1859-3666

MỤC LỤC

KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

1. Nguyễn Thị Uyên Uyên và Lê Trương Niệm - Tác động của đa dạng hóa đến rủi ro phi hệ thống
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mã số: 151.1FiBa.11 2
The Impact of Diversification on Non-systematic Risk of Listed Companies on Vietnam Stock
Market
2. Nguyễn Bích Ngọc - Hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam từ lý thuyết đến thực
tiễn. Mã số: 151.1mEco.11 14
The Social Impact of Microfinance Institutions in Vietnam from Theory to Practice
3. Đoàn Thị Hồng Nhung - Ảnh hưởng của lợi thế thương mại đến giá trị thị trường của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mã số: 151.1FiBa.11 26
Studying the effect of goodwill on the market value of companies listed on Vietnam’s stock
market
4. Nguyễn Đắc Hưng - Mối quan hệ giữa doanh nghiệp Logistics và hoạt động kinh doanh ngân hàng
thương mại bị tác động bởi đại dịch Covid-19. Mã số: 151.1SMET.12 35
The Relationship between Logistics Businesses and Commercial Bank Operation under
Influence of Covid-19 Pandemic

QUẢN TRỊ KINH DOANH

5. Cảnh Chí Hoàng và Nguyễn Hữu Khôi - Nghiên cứu khám phá tác động của các nhân tố lập luận
đạo đức đến thái độ và ý định hành vi mua của người tiêu dùng hàng nhái tại Việt Nam. Mã số:
151.2BMkt.21 42
Research on the Impact of Moral Reasoning Strategies on the Buying Attitude, Intention, and
Behaviour of Counterfeit Product Consumers in Vietnam
6. Hoàng Thị Mai Lan - Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên Báo cáo tài
chính trong doanh nghiệp quản lý và khai thác công trình thủy lợi Việt Nam. Mã số: 151.2FiBa.22 50
Research on factors affecting the quality of accounting information on financial statements in
Vietnamese Irrigation and Drainage Management Companies
7. Đặng Thị Minh Nguyệt, Ngô Thị Thành, Dương Thị Tình và Trần Thị Thảo Hương - Yếu tố
tác động đến hành vi sử dụng ví điện tử của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Hà
Nội. Mã số: 151.2FiBa.21 62
Factors Affecting E-wallet Use by Students of Economics at Universities in Ha Noi

Ý KIẾN TRAO ĐỔI

8. Lê Quân và Mai Hoàng Anh - Doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong trường đại học công
lập tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp. Mã số: 151.3GEMg.32 70
Science and Technology Enterprises in Public Universities in Vietnam – Situation and
Solution
9. Mai Anh Vũ và Hà Thị Lan - Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đối
với chất lượng dịch vụ đào tạo tại Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa. Mã số:
151.3GEMg.32 80
A Study on the Factors Affecting Student Satisfaction with the Training Quality at Thanh Hóa
University of Culture, Sports, and Tourism
khoa học
Số 151/2021 thương mại 1

1
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

HIỆU QUẢ XÃ HỘI CỦA TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ


TẠI VIỆT NAM TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN

Nguyễn Bích Ngọc


Học viện Ngân hàng
Email: ngocnb@hvnh.edu.vn

B
Ngày nhận: 26/11/2020 Ngày nhận lại: 11/01/2021 Ngày duyệt đăng: 14/01/2021
ài viết nghiên cứu khung lý thuyết về hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô thông qua việc
tổng hợp, phân tích khái niệm cũng như cách thức đo lường hiệu quả xã hội tại các tổ chức tài
chính vi mô. Dựa trên cơ sở lý thuyết, tác giả đã tiến hành đánh giá hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính
vi mô tại Việt Nam thông qua chỉ số SPI - một chỉ số được sử dụng trong đo lường hiệu quả xã hội tại các
tổ chức tài chính vi mô với 8 chỉ tiêu bộ phận bao gồm: mức độ tiếp cận (A), tỷ lệ dư nợ bình quân trên thu
nhập bình quân (B), chi phí trên một khách hàng vay (C), tỷ lệ khách hàng nữ (D), số lượng chi nhánh (E),
tỷ lệ tự vững hoạt động (F), tỷ lệ nợ rủi ro (G) và tỷ lệ xóa nợ (H). Trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp kết hợp
với dữ liệu từ quá trình phỏng vấn chuyên sâu với đại diện các tổ chức tài chính vi mô cũng như các chuyên
gia trong lĩnh vực tài chính vi mô, bài viết đã chỉ ra chỉ số SPI tại các tổ chức có đăng ký có phần cao hơn
so với các tổ chức được cấp phép. Tuy nhiên, chỉ số hiệu quả xã hội của các tổ chức nói chung đều có xu
hướng suy giảm từ năm 2011 trở về đây.
Từ khóa: hiệu quả xã hội, tổ chức tài chính vi mô (MFI), SPI.
JEL Classifications: D53, E02, G21

1. Mở đầu hợp để đánh giá hiệu quả xã hội của nhóm tổ chức
Tổ chức tài chính vi mô (MFI) theo Fersi và tài chính vi mô tại Việt Nam. Quan trọng hơn, theo
Boujelbéne (2017) là những tổ chức hoạt động với kết luận của nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tài
mục tiêu kép bao gồm cả bền vững và hiệu quả xã chính vi mô trên thế giới như Casselman và Sama
hội; trong đó mục tiêu ưu tiên chính vẫn luôn là (2013) và Mia và Lee (2017) khi các tổ chức tài
nâng cao hiệu quả xã hội của tổ chức. Tuy nhiên, so chính vi mô thực hiện chuyển đổi hình thức hoạt
với các nghiên cứu về mức độ bền vững thì số lượng động theo hướng thương mại hóa thì khả năng xa rời
nghiên cứu về hiệu quả xã hội của các tổ chức tài mục tiêu xã hội ngày càng cao. Chính vì vậy, bài báo
chính vi mô lại có phần yếu thế hơn và mới chỉ thực cũng tiến hành so sánh hiệu quả xã hội của hai nhóm
sự nhận được sự chú ý từ các nhà nghiên cứu trong tổ chức được cấp phép và nhóm tổ chức tài chính vi
khoảng thời gian từ 2010 trở lại đây (Hermes và mô có đăng kí tại Việt Nam trong giai đoạn 2011 -
Hudon, 2018). 2019 để làm rõ sự khác biệt.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về hiệu quả xã hội Kết cấu của bài nghiên cứu gồm 4 phần: phần 1
tại các tổ chức tài chính vi mô vẫn còn khá khiêm là lời mở đầu, phần 2 giới thiệu tổng quan về hiệu
tốn và đặc biệt chưa có nghiên cứu nào thực hiện hệ quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô thông qua
thống hóa khái niệm, cách thức đo lường hiệu quả phân tích khái niệm và cách thức đo lường hiệu
xã hội của các tổ chức tài chính vi mô, cũng như quả xã hội của MFI. Phần 3 tập trung vào đánh giá
phân tích thực trạng hiệu quả xã hội của các tổ chức thực trạng hiệu quả xã hội của hai nhóm tổ chức tài
tài chính vi mô tại nước ta. Xuất phát từ thực tiễn đó, chính vi mô được cấp phép và tổ chức tài chính vi
bài báo tập trung làm rõ khái niệm, phương pháp đo mô có đăng kí. Cuối cùng, kết luận được trình bày
lường hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô tại phần 4.
trên thế giới, và đặc biệt lựa chọn phương pháp phù

khoa học !
14 thương mại Số 151/2021
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

2. Tổng quan về hiệu quả xã hội của tổ chức nghiên cứu về hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính
tài chính vi mô vi mô. Trong đó, có khái niệm cho rằng hiệu quả xã
2.1. Khái niệm về hiệu quả xã hội của tổ chức hội là sứ mệnh đối với người nghèo, là kết quả của
tài chính vi mô các hoạt động xã hội, có khái niệm lại mở rộng hơn
Theo Deshpande, Nestor và Abrams (2007), hiệu khi cho rằng hiệu quả của MFIs không nhất thiết chỉ
quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô đơn giản thể tập trung vào người có thu nhập thấp, người yếu thế
hiện ở “sự tin tưởng”. Sự tin tưởng vào việc các tổ trong xã hội, cũng như không chỉ tập trung vào kết
chức tài chính vi mô sẽ sử dụng số tiền tài trợ, vốn quả mà còn mở rộng ra là toàn bộ quy trình để đạt
được cấp từ nhà đầu tư tư nhân, tổ chức; từ các nhà được các mục tiêu xã hội đã đề ra. Dựa trên các
tài trợ và chính phủ để giúp đỡ người nghèo. Để đảm nghiên cứu trước đây, trong bài báo này theo tác giả,
bảo cho sự tin tưởng này, các tổ chức tài chính vi mô hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô được
được khuyến khích thực hiện các báo cáo về việc thực hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp; trong đó, theo
hiện và đạt các mục tiêu xã hội đã đưa ra trước đó. nghĩa hẹp hiệu quả xã hội của MFIs là những kết
Đưa ra quan điểm có phần khác biệt, Woller quả, lợi ích mà tổ chức tài chính vi mô mang lại cho
(2007) cho rằng hiệu quả xã hội mà các nhà nghiên toàn thể các bên liên quan, cho cộng đồng và cho xã
cứu quan tâm không chỉ là kết quả cuối cùng, mà hội; còn theo nghĩa rộng hiệu quả xã hội là việc thiết
còn là những hành động và những điều chỉnh nhằm lập một tổng thể quy trình từ hoạch định, lên ý tưởng
đạt được hiệu quả xã hội. Quan điểm này trước đó chính sách, quy trình, hoạt động đến kết quả, tác
cũng được nhấn mạnh trong báo cáo được thực hiện động mà tổ chức tài chính vi mô mang lại cho tất cả
bởi IFAD (2006) khi chỉ ra khái niệm về hiệu quả xã các bên trong các mối quan hệ xã hội của mình.
hội không chỉ là những tác động cuối cùng mà tổ 2.2. Chỉ tiêu đo lường hiệu quả xã hội
chức tài chính vi mô mang lại cho xã hội, mà còn Tương ứng với quan điểm về định nghĩa hiệu
phải minh bạch hóa quá trình đạt được mục tiêu xã quả xã hội theo nghĩa hẹp và rộng, cách thức đo
hội đề ra của tổ chức. lường hiệu quả xã hội của MFIs cũng được chia làm
Dựa trên định nghĩa của Social Performance hai luồng quan điểm khác nhau. Trong đó, quan
Task Ford, Leonard (2009) đưa ra định nghĩa khá điểm theo nghĩa hẹp sẽ đo lường hiệu quả xã hội của
tương đồng với Woller (2007) khi nhấn mạnh hiệu MFI dựa trên kết quả đạt được của tổ chức, còn quan
quả xã hội là khả năng của tổ chức tài chính vi mô điểm theo nghĩa rộng sẽ dựa trên quy trình quản lý
trong việc truyền tải một cách hiệu quả các mục tiêu để đánh giá. Nội dung cụ thể của từng phương pháp
xã hội của tổ chức đến thực tiễn và đặc biệt các mục sẽ lần lượt được trình bày.
tiêu này phải phù hợp với các giá trị xã hội được Thứ nhất, theo cách tiếp cận từ quan điểm theo
chấp nhận. Cụ thể hơn, theo Leonard, các hoạt động nghĩa hẹp. Hermes và Hudon (2018) trong một
của tổ chức không được gây hại tới khách hàng hoặc thống kê về các nghiên cứu liên quan tới hiệu quả xã
làm cho tình trạng của khách hàng trở nên xấu đi so hội của tổ chức tài chính vi mô đã chỉ ra rằng hiệu
với trước khi sử dụng các dịch vụ của tổ chức tài quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô mới chỉ thực
chính vi mô; ví dụ như khiến cho khách hàng bị sự thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong
ngập trong nợ nần, khách hàng phải chịu gánh nặng khoảng thời gian từ 2010 trở về đây và đặc biệt có
tài chính hoặc rủi ro. đến 85% các nghiên cứu sử dụng phương pháp
Ủng hộ cho quan điểm trên, Avolio, Calderón lượng hóa các biến số kế toán để đo lường hiệu quả
Agüero, Rojas Villafuerte và Tokashiki Matsuy tài chính và hiệu quả xã hội. Cụ thể, Hermes và
(2015) trong nghiên cứu về đo lường hiệu quả xã hội Hudon chỉ ra rằng để đo lường hiệu quả xã hội, các
của các tổ chức tài chính vi mô cũng khẳng định nghiên cứu trước đây thường sử dụng các biến số
hiệu quả xã hội thể hiện qua cách mà một tổ chức như giá trị khoản vay bình quân, số lượng khách
tôn trọng sứ mệnh xã hội được đề ra, cũng như hoạt hàng vay, số lượng tài khoản vay vốn và tiết kiệm,
động để đạt được sứ mệnh đó. số lượng chi nhánh, tỷ lệ khoản vay dành cho khách
Qua nghiên cứu một số khái niệm tiêu biểu về hàng nữ. Giải thích kỹ hơn về việc lựa chọn các biến
hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô có thể số này, theo Hermes và Hudon (2018), hiệu quả xã
thấy chưa có một định nghĩa đồng nhất giữa các nhà hội thường được đo lường trong mối liên quan đến
khoa học !
Số 151/2021 thương mại 15
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

sứ mệnh xã hội của tổ chức như mở rộng tiếp cận hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô trên
với người nghèo thông qua việc cung cấp sản phẩm phạm vi toàn cầu. Cụ thể, khẳng định hiệu quả xã
cho vay với cá nhân, hộ gia đình và các doanh hội phản ánh hiệu quả truyền tải sứ mệnh xã hội đã
nghiệp nhỏ - những người mà khả năng tiếp cận tài công bố của tổ chức đến thực tế; do đó, Marr và
chính từ khu vực được cấp phép còn hạn chế. Do đó, Awaworyi (2012) đề cao tính thực tiễn trong đo
các nghiên cứu về hiệu quả xã hội của tổ chức tài lường hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô.
chính vi mô hầu hết đều tập trung vào đánh giá mức Điều này thể hiện qua việc Marr và Awaworyi đã
độ tiếp cận (Schreiner, 2002); trong đó, việc lựa xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả xã hội của tổ
chọn tiêu chí đo lường mức độ tiếp cận dựa theo chức tài chính vi mô dựa trên sự tham vấn trực tiếp
chiều rộng, chiều sâu hoặc cả hai cũng khá đa dạng. từ chính các nhà quản lý và những người làm thực
Cụ thể, chiều rộng của mức độ tiếp cận thể hiện tế trong lĩnh vực tài chính vi mô. Qua đó, chỉ số SPI
độ phủ sóng của tổ chức tài chính vi mô và do đó được đo lường thông qua một hệ thống tám chỉ số
thường được đo lường bởi số lượng các khách hàng bao gồm mức độ tiếp cận (A), tỷ lệ dư nợ bình quân
hiện đang được phục vụ bởi tổ chức. Đại diện cho trên thu nhập bình quân (B), chi phí trên một khách
các nhà nghiên cứu sử dụng biến này để đo lường hàng vay (C), tỷ lệ khách hàng nữ (D), số lượng chi
hiệu quả xã hội là Hartarska và Nadolnyak (2007); nhánh (E), tỷ lệ tự vững hoạt động (F), tỷ lệ nợ rủi
Hoque, Hoque, Chishty và Halloway (2011) và ro (G) và tỷ lệ xóa nợ (H).
Bogan (2012). Chiều sâu mức độ tiếp cận thể hiện Thứ hai, theo cách tiếp cận từ quan điểm theo
thông qua phân khúc khách hàng được phục vụ bởi nghĩa rộng. Nghiên cứu về hiệu quả xã hội của các
MFIs. Hai đại lượng thường xuyên được sử dụng tổ chức tài chính vi mô tại Kenya, Waithaka (2014)
làm biến đại diện cho độ sâu tiếp cận là tỷ lệ khách cho rằng phân tích hiệu quả xã hội theo cách tiếp cận
hàng nữ của tổ chức và tỷ lệ dư nợ bình quân so với từ đánh giá kết quả, hay cụ thể hơn là chỉ dựa trên
mức thu nhập bình quân đầu người của quốc gia. mức độ tiếp cận hoặc một nhóm các yếu tố phản ánh
Đại diện cho những nhà nghiên cứu ủng hộ đánh giá kết quả hoạt động thì mới chỉ đo lường được một
hiệu quả xã hội theo chiều sâu tiếp cận là Annim cách gián tiếp hiệu quả xã hội của MFI. Do đó,
(2012); Adair và Berguiga (2013) và Lebovics, phương pháp đo lường hiệu quả xã hội dựa trên khảo
Hermes và Hudon (2016). Cuối cùng, kết hợp sử sát và xếp hạng chỉ số xã hội đã được phát triển và
dụng cả hai chiều tác động gồm cả chiều rộng và sử dụng. Cụ thể, khẳng định hiệu quả xã hội được đo
chiều sâu tác động để phản ánh hiệu quả xã hội của lường thông qua các nguyên tắc, hành động và
MFIs là các nghiên cứu được thực hiện bởi những điều chỉnh phù hợp để giúp tổ chức tài chính
Khachatryan, Hartarska & Grigoryan (2017); vi mô có thể đạt được mục tiêu xã hội đã đề ra trước
Abdulai và Tewari (2017) và Bibi, Balli, Matthews, đó, nhiều tổ chức đã nghiên cứu và phát triển bộ chỉ
Tripe (2018). số/công cụ xếp hạng, đo lường hiệu quả xã hội với
Mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu công nhận và các tiêu chí khác nhau. Cụ thể, bảng sau thống kê các
sử dụng trong đo lường hiệu quả xã hội của các tổ chỉ số đo lường hiệu quả xã hội theo nghĩa rộng được
chức tài chính vi mô, nhóm chỉ tiêu phản ánh mức xây dựng bởi một số tổ chức tiêu biểu (bảng 1):
độ tiếp cận lại vướng phải sự phản bác của Schreiner Thông qua việc tổng hợp và thống kê các công
(2002). Cụ thể, chỉ tiêu này theo như Schreiner cụ đo lường hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi
(2002) chỉ đánh giá được khía cạnh tiếp cận, mà mô theo nghĩa rộng, tác giả nhận thấy các công cụ
chưa đánh giá được trực tiếp mức độ, khả năng đạt tập trung vào đánh giá quy trình quản lý và tính hiệu
được mục tiêu giảm nghèo của tổ chức tài chính vi quả của hệ thống trong việc đạt được các mục tiêu
mô. Chính vì vậy, theo Hermes và Hudon (2018), xã hội đã đề ra trước đó của tổ chức. Do đó, phương
hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô nên được pháp chủ yếu được sử dụng là thực hiện khảo sát đối
đánh giá từ nhiều chiều với sự kết hợp ít nhất của ba với các bên liên quan gồm khách hàng - những
yếu tố bao gồm mức độ tiếp cận, giới tính và địa bàn người trực tiếp thụ hưởng sản phẩm, dịch vụ của tổ
hoạt động để đo lường hiệu quả xã hội của MFIs. chức tài chính vi mô, và người lao động - những
Quan điểm này trước đó đã được nhấn mạnh bởi người trực tiếp triển khai các sản phẩm, dịch vụ
Marr và Awaworyi (2012) trong một nghiên cứu về cũng như thụ hưởng các chế độ từ tổ chức tài chính
khoa học !
16 thương mại Số 151/2021
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

Bảng 1: Công cụ đo lường hiệu quả xã hội của MFI tại một số tổ chức tiêu biểu

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)


vi mô. Bên cạnh đó các thông tin về mức độ tiếp đơn giản hơn trong đo lường hiệu quả xã hội của các
cận, bộ máy quản trị cũng được sử dụng song hành tổ chức tài chính vi mô (Hermes và Hudon, 2018).
trong một số công cụ như sự bổ trợ giữa phương Tại Việt Nam, qua phân tích các phương pháp đo
pháp định tính và định lượng trong đánh giá hiệu lường hiệu quả xã hội của MFIs, tác giả nhận thấy
quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô từ cả phía phương pháp đo lường hiệu quả xã hội theo nghĩa
cung và phía cầu. Chính vì vậy, kết quả đo lường hẹp là phù hợp hơn với nghiên cứu này. Cụ thể, việc
hiệu quả xã hội từ các công cụ được đánh giá là trực đo lường, đánh giá hiệu quả xã hội theo nghĩa rộng
tiếp và bao quát hơn so với phương pháp định lượng yêu cầu sự sẵn có về các báo cáo hiệu quả xã hội
được thực hiện trong đánh giá hiệu quả xã hội theo hoặc xếp hạng xã hôi của các tổ chức tài chính vi mô
nghĩa hẹp. tại Việt Nam. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2016, các
Tuy nhiên, theo như Hermes, Lensink và tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam mới được
Meesters (2011) để thu thập được đầy đủ các dữ liệu khuyến khích sử dụng các công cụ đo lường chỉ số
đầu vào phục vụ cho quá trình đánh giá của các công hiệu quả xã hội theo chuẩn quốc tế như SPI4 để
cụ đo lường hiệu quả xã hội hoặc chỉ số xã hội theo đánh giá hiệu quả xã hội. Do đó số lượng các tổ
nghĩa rộng là việc không hề đơn giản; do đó, nhiều chức có thực hiện đánh giá hiệu quả xã hội và công
nghiên cứu vẫn tiếp tục sử dụng các phương pháp bố rộng rãi ra công chúng là rất hạn chế, không đáp
khoa học !
Số 151/2021 thương mại 17
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

ứng được yêu cầu về dữ liệu phục vụ cho nghiên Đối với các nhóm yếu tố mà có tỷ lệ càng cao
cứu. Bên cạnh đó, tiêu chí đo lường hiệu quả xã hội càng phản ánh là tổ chức có hiệu quả xã hội tốt như
cũng như nội dung báo cáo về hiệu quả xã hội của tỷ lệ khách hàng nữ, số lượng chi nhánh, tỷ lệ tự
các tổ chức cũng không đồng nhất với nhau, khiến vững hoạt động; thì giá trị quy đổi sẽ được tính theo
cho việc phân tích và so sánh hiệu quả xã hội giữa công thức 2 như sau:
các tổ chức gặp phải những khó khăn nhất định.
Chính vì vậy, việc tiếp cận và đo lường hiệu quả xã
hội theo nghĩa hẹp thông qua phương pháp định
lượng các chỉ tiêu kế toán được ưu tiên sử dụng. Y là giá trị sau khi quy đổi
Cụ thể, dựa trên nghiên cứu của Marr và 𝞪 và 𝞫 lần lượt là giá trị lớn nhất và nhỏ nhất của
Awaworyi (2012), tám yếu tố gồm mức độ tiếp cận giá trị sau quy đổi (trong nghiên cứu này là lần lượt
(A), tỷ lệ dư nợ bình quân trên thu nhập bình quân (B), là 1 và 0)
chi phí trên một khách hàng vay (C), tỷ lệ khách hàng Ω và 𝞵 lần lượt là giá trị lớn nhất và nhỏ nhất của
nữ (D), số lượng chi nhánh (E), tỷ lệ tự vững hoạt giá trị dữ liệu trước khi quy đổi
động (F), tỷ lệ nợ rủi ro (G) và tỷ lệ xóa nợ (H) được b là giá trị cần quy đổi
lựa chọn để đo lường chỉ số hiệu quả xã hội (SPI) của Căn cứ theo công thức quy đổi có thể thấy giá trị
MFIs Việt Nam. Cách thức đo lường, ý nghĩa của từng SPI sẽ chạy trong khoảng từ 0 đến 8. Do đó, các tổ
cấu phần cũng như cách thức quy đổi các cấu phần để chức tài chính vi mô có giá trị đo lường hiệu quả xã
tính toán SPI được thực hiện như sau (bảng 2): hội SPI trong khoảng từ 0 đến 3 được đánh giá là có
Dữ liệu tính toán từng cấu phần theo công thức hiệu quả xã hội ở mức thấp, trên 3 đến 5 là mức
được cung cấp bởi Nhóm công tác tài chính vi mô trung bình và trên 5 là ở mức tương đối cao.
sau đó sẽ được sử dụng để đo lường chỉ số hiệu quả Trong phần tiếp theo, hiệu quả xã hội đo lường
xã hội (SPI) của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt theo tám cấu phần kể trên và SPI của hai nhóm tổ chức
Nam theo công thức sau: gồm nhóm tổ chức được cấp phép hoạt động theo luật
SPI = A + B + C + D + E + F + G + H. tổ chức tín dụng (TYM, M7 MFI, Thanh Hoa MFI và
Tuy nhiên, ý nghĩa của các chỉ số không tương CEP) và nhóm tổ chức có đăng kí hoạt động tài chính
đồng nhau bởi có chỉ số càng cao càng tốt, có chỉ số vi mô nhưng chưa đăng kí thành lập tổ chức tài chính
lại càng thấp càng tốt. Do đó, trước khi cộng đại số vi mô (các quỹ xã hội hoạt động tài chính vi mô,
các chỉ tiêu để tính SPI, giá trị của tám yếu tố này sẽ chương trình tài chính vi mô chuyên trách) sẽ lần lượt
được tính toán lại theo các công thức tương ứng. được phân tích để thấy rõ sự khác biệt.
Cụ thể, đối với các yếu tố mà có tỷ lệ càng thấp 3. Thực trạng hiệu quả xã hội của tổ chức tài
càng phản ánh hiệu quả xã hội của tổ chức càng tốt chính vi mô tại Việt Nam
như tỷ lệ dư nợ bình quân trên thu nhập bình quân, 3.1. Mức độ tiếp cận (A)
chi phí trên một khách hàng vay, tỷ Biểu đồ 1: Số lượng khách hàng đang vay vốn bình quân tại MFIs
lệ nợ rủi ro và tỷ lệ xóa nợ; thì giá (2011 - 2019)
trị quy đổi sẽ được tính theo công
thức 1 như sau:

X: giá trị sau khi quy đổi


𝞪 và 𝞫 lần lượt là giá trị lớn nhất
và nhỏ nhất của giá trị sau quy đổi
(trong nghiên cứu này là lần lượt là
1 và 0)
Ω là giá trị lớn nhất của giá trị
dữ liệu trước khi quy đổi (Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2012- 2018) và
b là giá trị cần quy đổi ước tính của tác giả (*))
khoa học !
18 thương mại Số 151/2021
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

Bảng 2: Công thức đo lường và tác động của từng cấu phần đến chỉ số SPI

khoa học !
Số 151/2021 thương mại 19
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

So sánh về số lượng khách hàng đang vay vốn có đăng ký là gần tương ứng với tốc độ tăng của
bình quân tại tổ chức tài chính vi mô được cấp phép GNI bình quân đầu người của các năm. Tuy nhiên,
và có đăng ký có thể thấy mức độ tiếp cận của các đối với các tổ chức được cấp phép, tỷ lệ này có phần
tổ chức được cấp phép là cao hơn so với tổ chức có biến động nhiều hơn và có xu hướng tăng lên, cho
đăng ký. Điều này một phần được lý giải bởi sự thấy mức độ tiếp cận theo chiều sâu của tổ chức
chênh lệch trong quy mô giữa tổ chức được cấp được cấp phép có xu hướng suy giảm theo thời gian.
phép và tổ chức có đăng ký. Tuy nhiên, trong khi số 3.3. Chi phí trên một khách hàng vay (C)
lượng khách hàng bình quân tại các tổ chức được Dữ liệu tại biểu đồ cho thấy chi phí trên một
cấp phép có sự biến động không ngừng và đặc biệt khách hàng vay vốn bình quân tại tổ chức được cấp
giảm trong giai đoạn 2012 - 2016 thì tại các tổ chức phép là cao hơn tương đối so với tổ chức có đăng ký.
có đăng kí lại có xu hướng tăng dần qua các năm. Kết quả này là tương đối dễ hiểu bởi so với các tổ
Tình huống chỉ xoay chiều khi bước sang năm 2017 chức có đăng ký, các tổ chức được cấp phép phải
- năm đánh dấu sự chuyển đổi của Quỹ trợ vốn cho chịu chi phí cao hơn từ việc đi vay vốn, nộp thuế thu
người lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP) từ quỹ nhập doanh nghiệp, cũng như trích lập dự phòng rủi
xã hội thành tổ chức tài chính vi mô được cấp phép ro đầy đủ theo quy định của pháp luật. Trái lại, các
và khiến cho số lượng khách hàng của tổ chức được tổ chức có đăng kí nhận được nhiều sự hỗ trợ từ
cấp phép tăng đột biến. Ngược lại, số lượng khách nguồn vốn nhận tài trợ với chi phí thấp; do đó chi
hàng bình quân tại các tổ chức có đăng ký lại tụt phí bình quân trên một khách hàng của tổ chức có
đỉnh giảm mạnh. Ngoài ra, đối với giai đoạn 2018 - đăng ký có phần thấp hơn. Tuy nhiên, theo thời gian,
2019, theo nhận định của một số chuyên gia cũng khi nguồn vốn tài trợ cho các tổ chức có đăng ký có
như đại diện của tổ chức tài chính vi mô thì số lượng xu hướng giảm dần và được thay thế bởi các nguồn
khách hàng tăng nhẹ khoảng 3%, trong đó, mức độ vốn với chi phí cao hơn, thì khoảng cách chênh lệch
tăng của năm 2019 là thấp hơn so với năm 2018. về chi phí bình quân giữa tổ chức được cấp phép và
3.2. Tỷ lệ dư nợ bình quân trên thu nhập bình có đăng ký cũng được thu hẹp dần.
quân (B) Bên cạnh đó, căn cứ vào xu hướng biến động chỉ
số qua các năm có thể thấy
trong khi chi phí trên một
khách hàng vay bình quân của
các tổ chức tài chính vi mô
được cấp phép có xu hướng
giảm dần từ giai đoạn 2013 trở
lại đây, thì tại các tổ chức có
(Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô (2012 - 2018) và ước tính của tác đăng ký chi phí này lại có
giả (*)) phần tăng lên. Hiện tượng này
Biểu đồ 2: Dư nợ bình quân/GNI bình quân đầu người của MFIs cũng hoàn toàn trùng khớp với
tại Việt Nam (2011 - 2019) nhận định của các chuyên gia
Đơn vị: VND
So sánh về sự thay đổi của dư
nợ bình quân/GNI bình quân đầu
người qua các năm tại tổ chức được
cấp phép và có đăng ký có thể thấy
tỷ lệ này không thay đổi quá nhiều
theo thời gian. Cụ thể, tại các tổ
chức có đăng ký, tỷ lệ này luôn dao
động trong khoảng 0.12 đến 0.135
và không có sự biến động quá lớn (Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2012- 2018) và
giữa các năm, cho thấy tốc độ tăng ước tính của tác giả (*))
của dư nợ bình quân tại các tổ chức Biểu đồ 3: Chi phí trên một khách hàng vay bình quân (2011 - 2019)
khoa học !
20 thương mại Số 151/2021
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

trong lĩnh vực tài chính vi mô khi các nhà nghiên tỷ trọng khách hàng nữ được phục vụ tại các tổ chức
cứu chỉ ra rằng trong khi các tổ chức tài chính vi mô tài chính vi mô tại Việt Nam thì con số này đang có
được cấp phép đã dần chủ động về nguồn vốn và xu hướng giảm dần theo thời gian, và do đó sẽ có
hưởng lợi thế kinh tế nhờ quy mô khi phát triển những tác động không tốt đến hiệu quả xã hội của
được một lượng khách hàng ổn định, thì các tổ chức MFIs. Xu hướng này theo như đại diện của các tổ
có đăng ký lại đang gặp khó khăn về nguồn vốn chức tài chính vi mô vẫn tiếp tục duy trì trong giai
cũng như khả năng phát triển khách hàng nên chi đoạn 2018 - 2019.
phí trên một khách hàng cũng tăng dần. Chính vì 3.5. Số lượng chi nhánh (E)
vậy, trong giai đoạn 2018 - 2019, theo tác giả ước Chi nhánh của tổ chức tài chính vi mô theo định
tính chi phí trên một khách hàng vay bình quân của nghĩa được quy định tại TT 19/2019/TT-NHNN là
các tổ chức được cấp phép cũng có xu hướng giảm đơn vị phụ thuộc của tổ chức tài chính vi mô, có con
nhẹ, trong khi tại các tổ chức có đăng ký lại có xu dấu, có nhiệm vụ thực hiện một hoặc một số chức
hướng tăng. năng của tổ chức tài chính vi mô theo quy định nội
3.4. Tỷ lệ khách hàng nữ (D) bộ và quy định của pháp luật. Theo đó, sự gia tăng
Được đánh giá là công cụ hữu hiệu trong xóa trong số lượng chi nhánh của tổ chức tài chính vi mô
đói, giảm nghèo nói chung và tăng cường sự tự tin sẽ giúp gia tăng độ phủ sóng và khả năng tiếp cận
của phụ nữ nói riêng, các tổ chức tài chính vi mô với khách hàng của MFIs. Tuy nhiên, theo như
trong những năm qua đã khẳng định vai trò quan phỏng vấn chuyên sâu với chuyên gia trong lĩnh vực
trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho tài chính vi mô nói chung và cán bộ lãnh đạo tại các
những người có thu nhập thấp, đặc biệt là phụ nữ tại tổ chức tài chính vi mô nói riêng, số lượng chi nhánh
khắp vùng miền trên cả nước. Chính vì vậy, tỷ trọng của các tổ chức tài chính vi mô gần như biến động
khách hàng nữ trên tổng số khách hàng đang vay rất ít và thậm chí không có biến động trong khoảng
vốn tại các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép và thời gian 2011 - 2019. Đặc biệt, với quy định về giới
có đăng ký luôn chiếm tới hơn 88%. Cụ thể, trong hạn số lượng chi nhánh căn cứ theo giá trị thực của
giai đoạn 2011 - 2016, tỷ trọng khách hàng nữ trong vốn điều lệ của tổ chức tài chính vi mô theo TT
tổng số khách hàng tại các tổ chức tài chính vi mô 19/2019/TT-NHNN, thì việc gia tăng thêm số lượng
được cấp phép luôn cao hơn 95%, và đặc biệt là cao chi nhánh của MFIs tại Việt Nam trong tương lai
hơn tương đối so với các tổ chức tài chính vi mô có cũng vấp phải những hạn chế nhất định. Chính vì
đăng ký. Điều này cho thấy phụ nữ vẫn luôn là đối vậy, số lượng chi nhánh trong nghiên cứu này được
tượng được chú trọng phục vụ hơn tại các tổ chức nhận định có rất ít biến động; và do đó, sẽ được loại
được cấp phép. Tuy nhiên, bước sang năm 2017 với trừ khi tính toán giá trị SPI.
sự chuyển đổi của CEP từ khu vực có đăng kí sang 3.6. Mức độ bền vững (F)
khu vực được cấp phép đã dẫn đến một sự thay đổi Căn cứ vào dữ liệu tổng hợp từ danh bạ các tổ
trong tỷ trọng khách hàng nữ giữa hai khu vực. Số chức vi mô trong giai đoạn 2011 - 2017 và ước tính
liệu thống kê của nhóm công tác tài chính vi mô Việt của tác giả cho giai đoạn 2018 - 2019, có thể thấy
Nam 2018 cho thấy chỉ có 73% khách hàng hiện chỉ số OSS của các tổ chức đều cao hơn 100% -
đang phục vụ tại CEP là Đơn vị: %
khách hàng nữ; do đó, khi
CEP chuyển từ khu vực có
đăng kí sang khu vực được
cấp phép đã khiến cho bình
quân tỷ trọng khách hàng nữ
được phục vụ giảm xuống
còn 88%, và thấp hơn so với
tỉ lệ này tại các tổ chức có
đăng ký là 91%. (Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2012- 2018) và ước tính
Quan trọng hơn, khi phân của tác giả (*))
tích xu hướng thay đổi trong Biểu đồ 4: Tỷ lệ khách hàng nữ của MFIs tại Việt Nam (2011 - 2019)
khoa học !
Số 151/2021 thương mại 21
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

Bảng 3: Mức độ bền vững của MFIs được cấp phép (2011 - 2019) bảo hoạt động bền vững của
MFIs được cấp phép.
Kết quả từ biểu đồ cho thấy
chỉ số OSS bình quân của các
tổ chức có đăng ký qua các năm
đều cao hơn 120%, và đặc biệt
có phần cao hơn so với các tổ
chức được cấp phép. Điều này
một phần có thể lý giải bởi so
với các tổ chức có đăng ký, các
tổ chức được cấp phép phải
chịu sự gia tăng từ các khoản
chi phí như chi phí đi vay vốn,
chi phí hoạt động, chi phí thuế
(Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2012 - 2018); TYM TNDN, cũng như trích lập dự
(2019); CEP (2019,2020) và ước tính của tác giả (*)) phòng rủi ro đầy đủ theo quy
phản ánh thu nhập từ hoạt động của các tổ chức tài định của pháp luật. Trái lại,
chính vi mô được cấp phép đều có thể trang trải cho nguồn tài chính của các tổ chức có đăng kí chủ yếu
toàn bộ chi phí hoạt động, và đặc biệt chỉ số OSS là các khoản tài trợ, viện trợ nên cũng góp phần làm
của từng tổ chức qua các năm cũng không có sự biến giảm đáng kể chi phí của tổ chức.
động quá lớn. Tuy nhiên, nếu căn cứ theo thông lệ Tuy nhiên, khi tập trung phân tích OSS của từng
quốc tế và nhận định của Nguyễn Kim Anh, Lê tổ chức có đăng kí có thể thấy mức độ bền vững của
Thanh Tâm và cộng sự (2013) về tỉ lệ mức độ bền các tổ chức có sự chênh lệch rất lớn, và đặc biệt số
vững hoạt động trong dài hạn phải lớn hơn 120%, lượng các tổ chức có đăng kí có chỉ số OSS lớn hơn
thì hiện tại chỉ có TYM và CEP là đáp ứng yêu cầu. 120% ngày càng suy giảm.
Song, chỉ số OSS của TYM
cũng không chênh quá nhiều so
với ngưỡng chuẩn, còn đối với
CEP do mới bước vào quá trình
chuyển đổi nên OSS cũng chưa
thực sự ổn định và có thể biến
động trong các năm tiếp theo.
Chính vì vậy, việc duy trì và
nâng cao chỉ số này trong thời (Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2012- 2018) và ước
gian tới là điều cần thiết để đảm tính của tác giả (*))
Biểu đồ 6: Số lượng MFIs có đăng ký có OSS > 120% (2011 - 2019)
Đơn vị: %
Dữ liệu từ biểu đồ cho thấy
trong giai đoạn 2011 - 2017, số
lượng các tổ chức có đăng kí
duy trì được tỷ lệ OSS lớn hơn
120% đã có sự suy giảm đáng
kể từ khoảng 20 tổ chức xuống
chỉ còn 12 tổ chức. Đặc biệt,
theo kết quả phỏng vấn chuyên
sâu với các đại diện đến từ các
(Nguồn: Nhóm công tác các tổ chức tài chính vi mô (2012- 2018) và ước quỹ, chương trình, dự án tài
tính của tác giả cho giai đoạn 2018 - 2019 (*)) chính vi mô thì xu hướng này
Biểu đồ 5: Chỉ số OSS của MFIs có đăng kí (2011 - 2019) cũng tiếp tục được duy trì trong
khoa học !
22 thương mại Số 151/2021
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

khoảng thời gian 2018 - 2019 bởi những khó khăn ngày và tỷ lệ xóa nợ bình quân của các tổ chức được cấp
trong hoạt động của các tổ chức. Cụ thể, theo ghi phép luôn thấp hơn so với tổ chức có đăng ký. Qua đó
nhận từ nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam, có thể thấy chất lượng tín dụng tại các tổ chức được cấp
trong giai đoạn vừa qua hoạt động của các tổ chức phép là cao hơn so với tổ chức có đăng ký. Điều này
tài chính vi mô có đăng ký có xu hướng co hẹp dần cũng xuất phát một phần từ sự khác biệt trong cách thức
khi các dự án tài trợ, viện trợ suy giảm đáng kể về quản lý và chất lượng đội ngũ nhân viên tại hai nhóm
số lượng và mức độ ưu đãi kể từ khi Việt Nam bước tổ chức này. Ngoài ra, căn cứ vào dữ liệu thống kê có
vào hàng ngũ các nước có thu nhập trung bình. Bên thể thấy tỷ lệ dư nợ rủi ro trên 30 ngày và tỷ lệ xóa nợ
cạnh đó, các chương trình, dự án TCVM, nhất là tại cả hai nhóm tổ chức đều có giá trị rất thấp, thường
chương trình, dự án TCVM của các tổ chức chính xuyên dao động trong mức dưới 1% đối với PAR 30 và
trị, chính trị - xã hội, NGOs trong nước gần như 0,04% đối với tỷ lệ xóa nợ. Tuy nhiên, các tỷ lệ này
không có sự gia tăng về số lượng đơn vị cung cấp, đang có xu hướng tăng dần theo thời gian và đặc biệt
thậm chí còn có dấu hiệu suy giảm. Nguyên nhân theo dữ liệu được cung cấp bởi CEP (2018, 2019);
một phần là do hạn chế về nguồn vốn, phần khác TYM (2018) cũng như nhận định của các chuyên gia
xuất phát từ sự lo ngại của các cơ quan chủ quản của trong lĩnh vực tài chính vi mô thì trong giai đoạn 2018
các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, NGOs trong - 2019 cả chỉ số PAR 30 và tỷ lệ xóa nợ của các tổ chức
nước khi chưa có cơ chế, chính sách, cơ sở pháp lý tài chính vi mô vẫn đang trong xu hướng tăng nhẹ.
rõ ràng cho phép các tổ chức chính trị, chính trị - xã 3.8. Chỉ số SPI
hội, NGOs trong nước được thực hiện hoạt động tài Sử dụng dữ liệu từ các yếu tố mức độ tiếp cận, tỷ
chính vi mô. Chính vì vậy, các tổ chức có đăng ký lệ dư nợ trên thu nhập bình quân, chi phí trên một
trong thời gian tới cần có những biện pháp gia tăng khách hàng vay, tỷ lệ khách hàng nữ, tỷ lệ tự vững
nguồn lực tài chính theo hướng tự chủ cao hơn, hoạt động, tỷ lệ nợ rủi ro và tỷ lệ xóa nợ để tính toán
không quá phụ thuộc vào nguồn vốn tài trợ từ bên chỉ số hiệu quả xã hội (SPI) của các tổ chức tài chính
ngoài để cải thiện mức độ bền vững. vi mô tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2019. Cụ thể,
3.7. Tỷ lệ nợ rủi ro (G) và tỷ lệ xóa nợ (H) bảng 4 mô phỏng kết quả tính toán SPI của 1 số tổ
Đơn vị: % chức.
Sau khi có kết quả tính toán
SPI của từng tổ chức, tác giả sẽ
tính bình quân chỉ số SPI của từng
nhóm theo năm để tiến hành so
sánh hiệu quả xã hội giữa hai
nhóm tổ chức tài chính vi mô
được cấp phép và tổ chức tài
chính vi mô có đăng ký.
(Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2012- 2018) và ước Dữ liệu từ biểu đồ cho thấy chỉ
tính của tác giả (*)) số hiệu quả xã hội của cả tổ chức
Biểu đồ 7: Tỷ lệ nợ rủi ro của MFIs tại Việt Nam (2011 - 2019) được cấp phép và có đăng ký đều
Đơn vị: % có xu hướng giảm dần từ năm
2011 trở về đây. Qua đó, phản ánh
những kết quả, lợi ích về mặt xã
hội mà các tổ chức tài chính vi mô
mang lại cho xã hội có phần giảm
sút. Đặc biệt, so sánh giữa tổ chức
tài chính vi mô được cấp phép và
tổ chức tài chính vi mô có đăng ký
(Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2012- 2018) và ước thì hệ số SPI của tổ chức có đăng
tính của tác giả (*)) ký lại có phần nhỉnh hơn, phản
Biểu đồ 8: Tỷ lệ xóa nợ của MFIs tại Việt Nam (2011 - 2019) ánh hiệu quả xã hội của các tổ
chức có đăng ký là tốt hơn. Ngoài
Mặc dù có số lượng khách hàng bình quân và dư nợ ra, phân tích sâu hơn vào sự biến động của chỉ số SPI
bình quân cao hơn so với tổ chức có đăng ký; song dữ qua từng năm, tác giả nhận thấy tại thời điểm năm
liệu từ hai biểu đồ cho thấy tỷ lệ dư nợ rủi ro trên 30 2015 và 2017 - năm ghi nhận sự chuyển đổi từ khu
khoa học !
Số 151/2021 thương mại 23
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

Bảng 4: Kết quả tính toán SPI mô phỏng của 1 số tổ chức

(Nguồn: Tính toán của tác giả)


vực có đăng ký sang khu vực được
cấp phép của tổ chức tài chính vi
mô TNHH Thanh Hóa và Quỹ hỗ
trợ vốn cho người lao động nghèo
tự tạo việc làm (CEP), chỉ số SPI
của hai nhóm được cấp phép và có
đăng ký có chiều hướng thay đổi
nghịch chiều nhau. Cụ thể, trong (Nguồn: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2012- 2018) và
khi SPI tại các tổ chức được cấp ước tính của tác giả (*))
phép tăng lên thì SPI của các tổ Biểu đồ 9: Chỉ số SPI của MFIs tại Việt Nam (2011 - 2019)
chức có đăng kí lại giảm xuống.
khoa học !
24 thương mại Số 151/2021
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

4. Kết luận institutions: A systematic review, Journal of eco-


Bài báo đã làm rõ khái niệm cũng như cách thức nomic surveys, 32(5), pp.1483-1513.
đo lường hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô. 7. Hermes, N., Lensink, R., & Meesters, A.
Qua đó, tác giả đã tiến hành phân tích và lựa chọn (2011), Outreach and efficiency of microfinance
phương pháp phù hợp nhằm đánh giá hiệu quả xã hội institutions, World Development, 39(6), 938-948.
của hai nhóm tổ chức tài chính vi mô bao gồm nhóm 8. IFAD, 2006, Assessing and managing social
tổ chức được cấp phép hoạt động theo luật tổ chức performance in microfinance, Available at:
tín dụng (TYM, M7 MFI, Thanh Hoa MFi và CEP) https://www.ifad.org/documents/performance.pdf
và nhóm tổ chức có đăng ký hoạt động tài chính vi \Marr, A., & Awaworyi, S. (2012), Microfinance
mô nhưng chưa đăng ký thành lập tổ chức tài chính social performance: A global empirical study,
vi mô (các quỹ xã hội hoạt động tài chính vi mô, Applied econometrics and international develop-
chương trình tài chính vi mô chuyên trách). ment, 12(2), 51-68.
Kết quả cho thấy chỉ số đo lường hiệu quả xã hội 9. Mia, M.A. and Lee, H.A., 2017, Mission drift
SPI của tổ chức có đăng ký được đánh giá là tốt hơn and ethical crisis in microfinance institutions: What
so với chỉ số của các tổ chức được cấp phép. Tuy matters?, Journal of cleaner production, 164,
nhiên, chỉ tiêu này tại cả hai nhóm tổ chức đều có xu pp.102-114.
hướng giảm dần từ năm 2011 trở về đây; qua đó 10. Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam
phản ánh những kết quả, lợi ích về mặt xã hội mà (VMFWG), (2012- 2018), Danh bạ tài chính vi mô
các tổ chức tài chính vi mô mang lại cho xã hội có Việt Nam.
phần giảm sút. Sự suy giảm này đến từ các nguyên 11. Schreiner, M. (2002), Aspects of outreach: A
nhân như chi phí trên một khách hàng có xu hướng framework for discussion of the social benefits of
tăng lên, tỷ lệ khách hàng nữ trên tổng số khách microfinance, Journal of international development,
hàng giảm sút và mức độ bền vững của các tổ chức 14(5), 591-603.
tài chính vi mô tại Việt Nam cũng biến chuyển 12. Waithaka, S. M. (2014), Factors that influ-
không mấy tích cực trong những năm qua. Chính vì ence the social performance of microfinance institu-
vậy, nhằm nâng cao hiệu quả xã hội của MFIs tại tions in Kenya (Doctoral dissertation).
Việt Nam, các tổ chức cần chú trọng cải thiện các 13. Woller, G. (2007), Trade-offs between social
chỉ số trên.! and financial performance, Journal of
Microfinance/ESR Review, 9(2), 5.
Tài liệu tham khảo:
Summary
1. Avolio, B., Calderón Agüero, N., Rojas
Villafuerte, F., & Tokashiki Matsuy, M. (2015), The paper studies theories on the social impact of
Methodological Proposal to Measure Social microfinance institutions by synthesizing and ana-
Performance in Microfinance Institutions, lyzing concepts and methods to measure social
Economic analysis, 48(3-4), 81-100. impact at microfinance institutions. Based on the
2. Báo cáo thường niên của CEP, TYM. theoretical background, the researcher assessed the
3. Casselman, R.M. and Sama, L.M., 2013, social effect of microfinance institutions in Vietnam
Microfinance, mission drift, and the impact on the using SPI - an index used in measuring the social
base of the pyramid: a resource-based approach, effect in microfinance institutions with 8 sub-criteria
Business and Society Review, 118(4), pp.437-461. including: level of access (A), average outstanding
4. Deshpande, R., Nestor, C. and Abrams, J., loans to average income ratio (B), cost per borrower
2007, MFI capital structure decision making: a call (C), the rate of female customers (D), the number of
for greater awareness, In CGAP Annual report 2007 branches (E), self-financing ratio (F), risky loans rate
5. Fersi, M.A.R.W.A. and Boujelbéne, (G), and debt write-off rate (H). On the basis of sec-
M.O.U.N.A., 2017, Capital structure decisions of ondary data combined with data from in-depth inter-
microfinance institutions and managerial behav- views with representatives of microfinance institu-
ioral biases: a survey and future directions, ACRN tions as well as experts in the microfinance field, the
Oxford Journal of Finance and Risk Perspectives, research shows that SPI at registered institutions is
6(1), pp.70-89. somewhat higher than that of licensed ones.
6. Hermes, N. and Hudon, M., 2018, However, the social impact index of microfinance
Determinants of the performance of microfinance institutions have generally declined since 2011.
khoa học
Số 151/2021 thương mại 25

You might also like