Văn Học Việt Nam Từ Đầu Thế Kỉ XX Đến 1945

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 125

VĂN HỌC VN TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX - 1945

KHÁI QUÁT
 Phương Tây hóa: Là quá trình mà môi trường văn học, quan niệm văn học, hệ thống thể loại
VH truyền thống từng bước bị giải thể và cấu trúc lại theo mô hình VH Phương Tây. Nhờ
vào quá trình này mà VHọc VN thoát khỏi quỹ đạo VHọc Đông Á (lấy Trung Quốc làm
trung tâm – văn học già) để gia nhập VHọc thế giới.
 Dân tộc hóa: nhờ quá trình này mà nhân tố P.Tây được tích hợp với yếu tố bản địa để tạo
nên những kết tinh nghệ thuật mới. Ko có P.Tây hóa thì ko có dưỡng chất mới, ko gian tư
duy nghệ thuật mới cho Vhọc, nhưng nếu ko có dân tộc hóa thì văn học cũng dễ trở thành lai
căng, khó có được những thành tựu đích thực.  Phương Tây hóa và dân tộc hóa vì thế là
tiền đề của nhau và cũng là yếu tố cần và đủ cho tiến trình hiện đại hóa VHVN từ 1885 –
1945. Trong thời kì này, 1 số tiền đề Vhóa cho tiến trình hiện đại hóa VHọc xuất hiện, cụ
thể:

1. Chữ quốc ngữ:

Phương Tây Dân tộc hóa


- Chữ quốc ngữ được latinh hóa. - Sĩ phu (chủ thể thuộc địa/ Việt) bị đàn
- Tôn giáo: bài giảng (tuyên thánh áp = trả giá máu + ngục tù
Maiorica)
- Xâm lược thuộc địa của TD Pháp

Chữ quốc ngữ được sd như 1 văn tự trong sáng tác VHọc  đưa VHọc đến với đông đảo quần
chúng. Tính đại chúng, tính phổ thông vì thế là thuộc tính đầu tiên của VHVN hiện đại.

Văn học Trung đại Văn học Hiện đại


Hán – Nôm = đặc tuyển Chữ quốc ngữ: đại chúng/ phổ thông
Thư bản – truyền khẩu – khắc in In ấn P.Tây  báo chí nhà báo: tin – nhà tư
tưởng
VHọc báo chí:
- Thơ – truyện ngắn – tiểu thuyết
- Tính sùng cổ - Tính thời sự: con người, sự kiện đang
diễn ra ở thời hiện tại
- Nhà văn tài tử/ nghiệp dư - Tính chu kì  nhà văn chuyên nghiệp-
 Về giáo dục: người đọc chuyên nghiệp.
Hán hóa  Về giáo dục Pháp – Việt:
Phương Tây hóa (người đọc, người viết)
Giáo dục truyền thống bị bãi bỏ
Số lượng người tiếp cận Văn học: người
đọc, người viết: phát triển cao (cái tôi),
phương Tây hóa)
Văn học quà tặng: dành cho người tri kỷ. Đô thị hiện đại
Ông quan – người dân … kinh tế thị trường: cung – cầu
… văn học = hàng hóa
-Thị hiếu của thị dân (tò mò – tiêu khiển: tình ái,
Page | 1
giật gân, mới lạ = đại chúng; thị hiếu của thị dân
luôn thay đổi buộc người cầm bút phải tự
thay đổi để theo kịp với sự thay đổi đó.
VD: Tản Đà (1916) sáng tác “Giấc mộng con 1”;
“Khối tình”
- Thị hiếu: Thích sự đa dạng  cái “tôi”
- Tải đạo – nói chí (tâm lý)

I. BỐI CẢNH LS, XH, VH

Tiếp xúc với P.Tây và 2 nhiệm vụ trung tâm (độc lập và duy tân)

1. Về chính trị:

- Nền chính trị “thuộc địa”


- Là nền chính trị có 2 nhà nước trong 1 đất nước: nhà nước bản xứ Nam triều có vai trò bù
nhìn, đứng đầu là vua; và nhà nước bảo hộ của TD Pháp.
- Nhà nước Nam triều chỉ thừa hành nhà nước bảo hộ, đứng đầu là toàn quyền giai đoạn này
người dân VN phải sống trong cảnh 1 cổ 2 tròng.

2. Văn hóa, XH

- Báo chí hiện đại:

+ Tờ báo nào cũng có 1 trang dành cho văn học, phổ biến là truyện dài kì. Nhu cầu đọc văn trở
thành nhu cầu thường trực, đặc biệt rõ nét ở các đô thị. Những viên chức, tầng lớp thị dân mới có
thời gian rỗi và tiền bạc để đọc sách. Điều này hình thành nên lớp công chúng chuyên nghiệp (ko
chỉ đọc mà còn dùng tiền đầu tư cho văn học) và xuất hiện loại hình nhà văn chuyên nghiệp (kí hợp
đồng, sáng tác có tính chất định kì)

+ Khi người đọc tiếp xúc với tác phẩm, họ thường có những phản ứng bộc lộ thái độ, tri nhận của họ
về tác phẩm. Những phản ứng này mang tính tức thời, được đăng tải tức thì trên báo. Đây là cơ sở
để xuất hiện phê bình, nghiên cứu khoa học.

 Báo chí đã tạo ra kênh giao tiếp trực tuyến giữa nhà văn và độc giả.
 Tóm lại: Báo chí là nhân tố quan trọng nhất cấu thành nên 1 môi trường văn học mới. Nó ko
chỉ kiến tạo nên 1 mqh giữa nhà văn và độc giả mà còn hình thành 1 khuynh hướng khai thác
chất liệu, thể loại mới (phóng sự, tiểu thuyết). Báo chí cũng là tiêu chí để phân biệt ko gian
xuất hiện của văn học hiện đại (tờ báo) và văn học trung đại (thi tập)

II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN

1. Từ đầu thế kỉ XX – khoảng 1930

- Từ đầu thế kỉ XX đến khoảng 1920

- Từ 1920 – khoảng 1930

2. Từ đầu những năm 1930 – CMT8 - 1945


Page | 2
III. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VHVN TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX - 1945
1. Nền văn học đổi mới mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa
1.1. Khái niệm hiện đại hóa
- Hiện đại hóa là quá trình làm cho văn học Việt Nam có tính chất hiện đại, có thể nhịp bước
và hòa nhập với nền văn học thế giới. Nói văn học từ đầu thế kỉ 20 đến CM T8 1945 đổi mới
mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa tức là khẳng định nó thoát khỏi những đặc trưng VHTĐ,
tạo nên được những đặc điểm, tính chất của một nền văn học hiện đại
- “Văn học VN trước thế kỉ XX nằm trong quỹ đạo VHọc Trung đại phương Đông thuộc hệ
hình tiền hiện đại. Khi tiếp xúc với P.Tây, qua trường hợp nước Pháp, Văn học VN bắt đầu
quá trình hiện đại hóa theo quy luật phát triển của văn học thế giới lấy hình mẫu Châu Âu”
(GS. Trần Ngọc Vượng).
1.2. Các phương diện hiện đại hóa
 Quan niệm về văn học:
- Từ văn chương chở đạo, nói chí thời trung đại chuyển sang quan niệm văn chương như một
hoạt động nghệ thuật đi tìm và sáng tạo cái đẹp; chuyển từ văn chương để răn đời sang văn
chương để hiểu đời, để nhận thức và khám phá hiện thực.
- Văn học tồn tại độc lập, không còn tình trạng văn sử triết bất phân
- Thi pháp: thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học trung đại (ước lệ - sùng cổ - phi ngã),
chuyển sang thi pháp hiện đại (hướng đến cái thực, cái hiện tại, đào sâu vào cái tôi cá nhân)
- Thể loại: các thể loại truyền thống: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn biến đổi trong bản thân thể
loại: xuất hiện những thể loại mới (kịch nói, phóng sự, phê bình văn học)
- Ngôn ngữ, chữ viết: ngôn ngữ văn học được hiện đại hóa: sử dụng chữ quốc ngữ thay thế chữ
Hán, chữ Nôm
 Chủ thể sáng tạo: từ nhà Nho trung đại sang kiểu nhà văn nghệ sĩ chuyên nghiệp
 Công chúng văn học: từ tầng lớp nho sĩ sang tầng lớp thị dân
1.3. Tiến trình hiện đại hóa và các thành tựu:
a. Đầu thế kỉ đến khoảng 1930 :
- Sự hình thành của báo chí và vhọc mới của vhọc Nam Bộ, những biến đổi trong nội dung và
cảm hứng của vhọc miền Bắc
- Văn học VN mang tính vùng rõ nét, chia làm 2 vùng chính:
+ Văn học Sài Gòn và 6 tỉnh Nam Kì : Trung tâm là Sài Gòn Gia Định

+ Văn học miền Bắc và miền Trung

 Đầu thế kỉ XX đến khoảng 1913:


Văn học miền Nam :
- Miền Nam (Sài Gòn) sớm trở thành thuộc địa của Pháp, quyền tự do được thừa nhận, báo chí
quốc ngữ phát triển rất sớm, nên sớm có thành tựu văn học, đặc biệt là những thể loại mới du
nhập từ phương Tây như truyện ngắn, tiểu thuyết
- Cuối thế kỉ 19 Nam Kì đã xuất hiện một số sáng tác văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ, có giá
trị hơn cả là Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản
- Đầu thế kỉ 20 tác phẩm văn xuôi bằng chữ quốc ngữ xuất hiện nhiều hơn, tiêu biểu là Hoàng
Tố Anh hàm oan (Trần Chánh Chiếu, 1910)

Page | 3
- Phần lớn truyện ngắn, tiểu thuyết trong thời kì này còn vụng về, non nớt (truyền thống văn
học Miền Nam...)

VD: Những dấu hiệu hiện đại hóa trong Truyện thầy Lazaro Phiền:

 Tác giả: Nguyễn Trọng Quản (nhà văn giáo hội, con rể Trương Vĩnh Ký, sang Angiere –
vùng thuộc địa Pháp mà văn hóa P.Tây rất đậm)
 Cốt truyện:
- Nhân vật tôi trên chuyến tàu về Bà Rịa gặp Phiền, Phiền sắp chết, muốn kể cuộc đời mình
- Phiền là nhân vật tôi 2: gia đình đạo cơ đốc, bố mẹ bị giết, vào trường dòng, gặp Vê rô Liễu,
gặp được cô gái có em họ xa (nữ 1). Sau đó, công cá vào Kiên Giang, gặp vợ quan ba Pháp
(nữ 2). Nữ 2 yêu Phiền nhưng ko được đáp lại nên đã trả thù Phiền, giả nét chữ Liễu, viết thư
cho nữ 1 với lời lẽ tình tứ. Phiền trúng kế căm ghét Liễu, tìm cách giết Liễu. Về gặp nữ 1, nữ
1 ốm, lưỡng lự, cắt cỏ ngoài vườn, cắt cỏ độc sắc thuốc cho vợ suốt mấy tháng trời. Nữ 2
mấy năm sau chết, viết thư kể lại, Phiền ân hận, bệnh nhưng ko chữa để sám hối. Dặn tôi 1
tìm Phiền trong nghĩa trang xứ đạo.
- Vĩ thanh: tôi 1 thăm mộ Phiền.
 Cách tân :
- Kĩ thuật : Truyện thầy Laxaro Phiền chịu ảnh hưởng từ nguồn văn học Pháp, nguồn văn học
khác với truyền thống
 Trần thuật từ ngôi thứ nhất
 Cách kể chuyện : không theo trật tự thời gian, sự kiện, có sự luân phiên đổi vai hiện
tại – quá khứ theo hồi tưởng của nhân vật 1
 Kết thúc bi kịch, không phải kết thúc có hậu
 Cốt truyện : khai thác yếu tố hiểu lầm, tình yêu tay ba, ghen tuông, mượn mô típ kẻ trả
thù giấu mặt mang màu sắc phương Tây rất rõ. Văn học truyền thống thường vay
mượn cốt truyện của Trung Quốc
- Nội dung :
 Lấy khung cảnh đời sống XH Việt Nam đương thời
 Cuộc tình tay ba, dục vọng đời thường của con người. Thầy Laxaro Phiền đã xây
dựng nên hình tượng con người bình thường, bị thiêu đốt trong lòng ghen và thù hận,
khác hẳn con người lí tưởng, con người cao cả trong văn học cổ
 Hạn chế :
- Văn xuôi nhưng ngữ pháp lủng củng
- Số lượng từ địa phương lớn
- Câu văn nhiều khi tăm tối, không rõ nghĩa nhưng hoàn toàn ko chịu ảnh hưởng của ngữ
pháp thơ, điều mà đến tận năm 1916 ở miền Bắc còn rất đậm
- Ngay từ đầu văn xuôi Nam Bộ đã mang văn phong khẩu ngữ
 Với thầy Laxaro Phiền, VHVN đã dịch chuyển từ quỹ đạo văn học truyền thống sang quỹ đạo
văn học phương Tây

- Truyền thống văn học miền Nam, ko lớn, không có sức cản của truyền thống khi tiếp nhận
cái mới.

Page | 4
- Mặc dù sớm có những thành tựu, nhưng VH miền Nam trong ngót ba thập kỉ sau vẫn ko có
kiệt tác đích thực. Hàng trăm truyện ngắn, hàng chục bộ tiểu thuyết ở thời kì này nhưng hầu
hết ko tạo lập được gương mặt nghệ thuật tiêu biểu.
 Miền Nam nhạy cảm với cái mới nhưng ko có khả năng đi đến những thể loại văn học mới,
không dứt điểm theo nghĩa tạo ra những tác phẩm mang giá trị nghệ thuật đích thực
 Nguyên nhân: vì truyền thống mỏng, hạt giống cái mới ko kết tinh được với truyền thống dân
tộc, nên ko phát triển được, ko có kiệt tác

Văn học miền bắc và miền trung:

- Lực cản của truyền thống quá lớn khiến cái mới gần như ko thâm nhập. Lực lượng sáng tác
chủ yêu là trí thức nho học với các thể loại truyền thống. Tuy đã có chữ quốc ngữ, nhưng chữ
Hán và chữ Nôm vẫn chiếm vai trò quan trọng
- Chủ yếu là đổi mới về nội dung tư tưởng, nhưng thể loại, ngôn ngữ, văn tư, thi pháp vẫn
thuộc phạm trù văn học trung đại
- Nhà văn tiêu biểu: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế
 Giai đoạn 1913 đến 1930:
- Vai trò của tầng lớp tri thức Tây học, sự đổi mới trong quan niệm văn học, văn học dịch và
sự hình thành của bộ khung thể loại mới : thơ – kịch – tiểu thuyết – phê bình văn học.
- Giai đoạn này hiện đại hóa đã đi vào chiều sâu. Quan niệm văn học có sự thay đổi, tạo nên sự
đổi mới có hệ thống và các chủ lưu.
- Bối cảnh :

+ Những cuộc khai thác thuộc địa lần 1 và lần 2 đã mang phạm vi toàn quốc.

+ Ảnh hưởng của văn học phương Tây đã lan rộng trên cả 3 miền, 1 cơ tầng chung cho văn hóa
dân tộc đã được thiết lập, tính vùng miền bắt đầu mờ đi, thay thế vào đó là tính nhất thể, văn học
dân tộc bắt đầu định hình rõ nét.

(!) Những người mở đường : Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.

- Một thời gian dài, họ bị đánh giá nghiệt ngã, Đặng Thai Mai gọi họ là bồi bút, ý kiến đánh
giá về họ tương đối phức tạp, có luồng ý kiến coi họ là công cụ của TD Pháp, có luồng ý kiến
lại coi trọng những dự đồ văn hóa của họ. Nhưng họ vẫn là những người yêu nước.
- Họ vấn đề “đồng đẳng”, “muốn bình đẳng thì phải đồng đẳng”, và chọn con đường phát triển
văn hóa rồi dành độc lập.
Nguyễn Văn Vĩnh:
- Năm 1913 cho xuất bản Đông Dương tạp chí : « đề cập nhiều vấn đề : thời sự, cải cách kinh
tế, hành chính … nhưng có 1 mục thường kì dành cho văn học »
- Trong mục này :

+ Dịch các tác phẩm VHọc Pháp như tiểu thuyết « Miếng da lừa », « Những người khốn nạn »
thơ ngụ ngôn Laphongten (bản dịch kiến và ve sầu), Kịch : hài kịch Molie

Page | 5
 Ko thuyết lí về văn học nhưng việc dịch như vậy có giá trị giới thiệu những thực đơn mới
cho người Việt. Lần đầu tiên độc giả VN biết những hình thức VHọc mới, làm quen với 1
khung khổ mới

+ Năm 1915, xuất hiện những tác phẩm bằng chữ quốc ngữ đầu tiên trong mục « 1 lối văn
Nôm » do Tản Đà phụ trách. Mục này đã giới thiệu những nhà văn chuyên nghiệp đầu tiên.

Phạm Quỳnh

- Năm 1917, mở Nam Phong tạp chí, giải quyết vấn đề quốc văn.
- Đẩy mạnh dịch thuật 1 cách có ý thức, nhằm 2 mục tiêu :
+ Phát triển vốn từ vựng của người Việt, là mầm mống của Hán Việt từ điển của Đào Duy
Anh.
+ Học mô hình câu văn xuôi của Pháp, kiểu câu Chủ ngữ - tân ngữ bắt đầu thông dụng. Câu
văn Tiếng Việt bắt đầu đi từ quy phạm đến sáng rõ.
- Giới thiệu 1 cách hệ thống toàn bộ hệ thống văn học phương Tây : thơ, kịch, truyện ngắn,
tiểu thuyết (khác Nguyễn Văn Vĩnh ở chỗ Phạm Quỳnh có những giải thích về thể loại,
củng cố từ khóa, nền tảng cho người đọc Việt). Trong các thể loại, Phạm Quỳnh tập trung
đi sâu vào tiểu thuyết vì cho tiểu thuyết là nòng cốt để kiến tạo văn xuôi VN hiện đại, đẩy
Vhọc VN – nền VHọc nặng về thơ sang quỹ đạo văn xuôi.
Phaann loại tiểu thuyết thành 3 loại: trường thiên, trung thiên, đoản thiên. Theo ông, VN chỉ
nên tập trung vào đoản thiên vì nó phù hợp với nhà văn VN hơn cả.
- Nhân vật trong tiểu thuyết: người bình thường, mang những trải nhiệm nhân sinh phổ biến,
những cảm xúc thường nhật, khác với các nhân vật đấng bậc trong văn học truyền thống.
Phạm Quỳnh dịch tác phẩm “Câu chuyện anh chàng đi tìm cảm giác rùng mình” của Pháp.
- Việc tập trung vào những con người bình thường trong cuộc sống đời thường đã khiến văn
học thông tục giai đoạn 1913 – 1932 ở VN tương đối phát triển. Điều này có cội nguồn từ
truyền thống (yếu tố nội sinh), cuộc gặp gỡ với Phương Tây đã kích hoạt sức mạnh nội sinh
này bừng dậy.
- Đối tượng phản ánh của tiểu thuyết: tập trung vào 3 lĩnh vực chính của nhân sinh: tình ái,
hám lợi, danh vọng.
- Kỹ thuật: tiểu thuyết có 2 mạch:
+ mạch kể (sự kiện)
+ mạch tả (chân dung, trang phục, thiên nhiên, tâm lí)
 Đổi mới tiểu thuyết vì đã đi sâu vào miêu tả. Lối miêu tả dày đặc, chi tiết, xác thực, tỉ mỉ là
chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây thế kỉ 19 (khác với tiểu thuyết phương Đông chủ
yếu tả theo lối chấm phá, nắm bắt cái thần)
- Phạm Quỳnh cũng chú trọng tính logic, cái mà người VN rất yếu. Tiểu thuyết là 1 chuyện bịa
(hư cấu) nhưng phải giống như thật vì nó có logic.
 Kết luận chung: Bằng những công trình dịch thuật, những bài phê bình trong suốt hơn 1 thập
kỉ, Phạm Quỳnh có vai trò quan trọng trong việc kiến tạo 1 quan niệm mới về văn học, đặc
biệt là những quan niệm mới về thể loại, đối tượng và những kĩ thuật nhằm hiện đại hóa văn
học.

Page | 6
- Đương thời, ko có 1 tác giả, tác phẩm nào có khả năng thỏa mãn mọi tiêu chí mà Phạm
Quỳnh đưa ra. Tuy nhiên từ 1932 trở đi, những ý tưởng của Phạm Quỳnh dần được hiện thực
hóa trong đời sống sáng tác, có thể hình dung về ông như 1 kiến trúc sư của nền VHọc mới.

Diện mạo văn học :

- Tiểu thuyết: Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách


- Truyện ngắn: Phạm Duy Tốn: thiên sang phương Tây; Nguyễn Bá Học: thiên về truyền thống
- Thơ: Tản Đà (lãng mạn), Trần Tuấn Khải (hiện thực)
- Kịch: Vũ Đình Long « chén thuốc độc », Nam Xương « ông Tây An Nam”
- Phê bình: Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn (Phê bình và cảo luận 30 - 31)
 Ở Việt Nam đã hình thành một bộ khung thể loại mới đậm màu sắc phương Tây đã hình
thành, mặc dù chưa có những kiệt tác đích thực (trừ thơ Tản Đà).
 Những hình thức thể loại mới này sẽ là nền tảng cho sự phát triển đột biến của văn học giai
đoạn sau
 Đóng góp của giai đoạn này chủ yếu ở việc chuẩn bị câu văn, quan niệm và hình thức thể loại
mới
b. Từ 1932 - 1945 (giai đoạn kết tinh)
Những tiền đề văn hóa XH khiến Vhọc thời kì này tồn tại nhiều trào lưu, khuynh hướng sáng
tác đa dạng, phức tạp và tác động qua lại với nhau.
 Tiền đề văn hóa XH
Tầng lớp học sinh, sv đô thị bắt đầu chiếm tỉ lệ đáng kể, họ đóng vai trò là độc giả chính của
giai đoạn này
- Văn học phương Tây thực sự ngấm sâu trong cấu trúc văn hóa Việt, trở thành 1 thành tố nội
tại. Những gì trước đó không lâu người ta còn thấy bỡ ngỡ, xa lạ, bây giờ trở nên quen thuộc,
thậm chí trở thành thời thượng, được say mê, ngưỡng mộ
- Cùng với sự phồn vinh về kinh tế, những năm 30 cái tôi cá nhân bắt đầu hiện diện tự tin và
quả quyết hơn, công khai khẳng định mình, đòi hỏi thỏa mãn phiêu lưu trong tình ái, trong
những chân trời mới lạ, đây là tiền đề cho dòng văn học lãng mạn xuất hiện, trở thành một
khuynh hướng chủ đạo (từ “Hồm bướm mơ tiên” của Khái Hưng đến “Thiếu quê hương” của
Nguyễn Tuân)
- Tuy nhiên, bên cạnh sự phồn vinh, sự phát triển kinh tế thị trường đôi khi trở thành đảng
điếm. Khoảng cách giàu nghèo gia tăng, mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn. Những người
nông dân bị bần cùng hóa, những người làm nhiều nghề mạt hạng ở đô thị như đi ở, đánh
giầy, đánh xe đã kích thích sự phát triển của phóng sự, hình thành dòng văn học tả chân (văn
học hiện thực)
- Dòng văn học yêu nước có thêm sức sống mới, giai đoạn này đánh dấu sự trở lại của những
chí sĩ CM giai đoạn trước như Huỳnh Thúc Kháng. ĐCS ngày càng có sự tác động lớn đến
đời sống xã hội (Đề cương văn hóa 1943, Hội văn hóa cứu quốc) khiến văm học yêu nước có
bước phát triển mới về chất
 Văn học thời kì này tồn tại nhiều trào lưu, khuynh hướng sáng tác đa dạng, phức tạp và tác
động qua lại với nhau
 Diện mạo văn học:

Page | 7
- Khái niệm: CNLM là 1 KHCH thẩm mỹ được khởi nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá nhân
được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng. Nó phản ứng với tính duy lý, quy
phạm mực thước của văn chương cổ điển, thích hợp với công chúng thanh niên vì tuổi trẻ
thường giàu nhiệt tình, mộng mơ, thích những điều mới lạ, khác thường.
- Đề tài: CNLM dễ có cảm hứng trước 3 đề tài: thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo. Vì 3 đề tài này
khơi gợi tình cảm đắm say và kích thích trí tưởng tượng.
- Bút pháp: sử dụng rộng rãi bút pháp đối lập: ánh sáng và bóng tối, cái đẹp và cái xấu, cao cả
và thấp hèn.

Văn học lãng mạn: Tự lực văn đoàn, Thơ mới


 Tự lực văn đoàn:

Khái quát:

- Người sáng lập là Nguyễn Tường Tam, thuộc thế hệ nhà văn lớn lên trên nhà trường Pháp
Việt, học tiểu học ở phố huyện Cẩm Giàng, về sau học ở trường Bưởi (Hà Nội)
- Năm 1924, đỗ Đại học y khoa, cuối năm thi Đại học mĩ thuật Đông Dương, là sinh viên khóa
đầu tiên của trường này. Một lần đi điền dã ngoại ô thấy nguyên mẫu người nông dân lãm lũ,
nhưng lên tranh lại rất đẹp, nên đã hình thành mong muốn: xóa bớt khoảng cách nghệ thuật
và cuộc đời, đưa cuộc đời đến gần hơn với nghệ thuật.
- Năm 1927 sang Pháp, say mê luật, kinh tế, báo chí, dùng báo để thể hiện những day dứt nội
tâm, là phương tiện để thể hiện ý tưởng xã hội. Năm 1930 về nước. Năm 1932 mua lại tờ
Phong hóa đang ế ẩm và cách tân hóa: 1 – đưa mĩ thuật vào tờ báo, 2 – đưa tiếng cười vào tờ
báo do chủ trương báo chí phải dân chủ
- Năm 1933 quyết định thành lập Tự lực văn đoàn, công bố tôn chỉ sáng tác:

1. Tự mình làm sách có giá trị, ko dịch thuật nữa.

2. Giới thiệu và viết những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho XH ngày một hay hơn
lên

3. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, tin vào sự tiến bộ

4. Đề cao lối văn thật có tính cách An Nam

5. Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của đất nước, những vẻ đẹp có tính chất bình dân

6. Ủng hộ phát triển bình dân, tránh phong cách trưởng giả, quý phái

7. Trọng tự do cá nhân

8. Làm cho người ta biết đạo Khổng không còn thời nữa

9. Đem phương pháp khoa học phương Tây ứng dụng vào văn chương VN

10. Theo 1 trong 9 điều trên cũng được, miễn là đừng trái ngược với những điều còn lại

- Nhận xét:
Page | 8
Trong tôn chỉ nổi lên các vấn đề: coi trọng văn học dân tộc, coi trọng tính bình dân đại
chúng, nhấn mạnh ý nghĩa XH của văn học
 TLVĐ là nghệ thuật vị nhân sinh theo lập trường tiểu tư sản
- Nhân sự: (từ tk 17 ở Pháp có nhóm thất tinh làm cho Vhọc Pháp chuyển từ Trung đại sang
hiện đại)
Nhóm cốt cán có 7 người:
1. Nguyễn Trường Tam (Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn)
2. Trần Khánh Dư (Khái Hưng), phụ trách tiểu thuyết.
3. Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo, Tứ Li)
4. Nguyễn Thứ Lễ ( Thứ Lễ, Lê Ta)
5. Nguyễn Tường Lân (Nguyễn Tường Vinh, Thạch Lam, Việt Sinh)
6. Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ)
7. Nguyễn Gia Trí (họa sĩ)
- Giai đoạn sau có thêm 1 số cộng tác viên: văn xuôi có Trần Tiêu, Thanh Tịnh, thơ có Xuân
Diệu, Huy Cận, họa sĩ có Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Cát Tường.
- Cơ quan: 2 tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Nhà xuất bản đời nay (80 Quán Thánh)
- Giải thưởng thường niên cho những nhà văn có tác phẩm hay, có uy tín: Anh Thơ, Nguyễn
Bính đạt giải
 TLVĐ là một tổ chức văn học của những nhà văn chuyên nghiệp đầu tiên của VN, được tổ
chức đồng bộ trên tất cả các yếu tố. Bản thân sự hiện diện của 1 tổ chức văn học trong văn
học VN khiến văn học VN thực sự bước vào lộ trình hiện đại hóa.
- Chấm dứt hoạt động vào năm 1942 sau cái chết của Thạch Lam
- Nội dung:
o Cổ vũ tình yêu tự do, ý thức cá nhân: Hồn bướm mơ tiên (33 – Khải Hưng), Đoạn
tuyệt (35 – Nhất Linh), Lạnh lùng (36 – Nhất Linh)
o Cải cách nông thôn và hình tượng người nông dân (giai đoạn 36 – 39): Gia đình (Khái
Hưng), Thừa tự (Khái Hưng), Con đường sáng (Hoàng Đạo)
o Thám hiểm về ý nghĩa sự sống, tra vấn ráo riết về ý nghĩa sự sống: Đời mưa gió (Nhất
Linh – 34), Đôi bạn (37 – Nhất Linh), Bướm trắng (Nhất Linh – 39)
Mang đậm màu sắc hiện sinh chủ nghĩa
 Các vấn đề TLVĐ quan tâm là những vấn đề nằm trong phổ hệ lớn, những mẫu số chung của
văn học phương Đông và thế giới
- Hạn chế:
o Do sự thiếu hiểu biết về đời sống người nông dân dù có thừa thương cảm
o Màu sắc bi quan, thoát li
- Đóng góp cho tiến trình hiện đại hóa văn học:
o Đến TLVĐ, mô hình thể loại tiểu thuyết hiện đại VN mới thực sự hình thành : nghệ
thuật kể chuyện biến hóa, thường bắt đầu bằng thời hiện tại nhưng luôn có sự luân
chuyển giữa quá khứ, hiện đại, tương lai. Điểm nhìn trần thuật luôn có sự hoán đổi,
chuyển giao; thích lối kết thúc để ngỏ.
o Kĩ thuật miêu tả, đặc biệt là miêu tả thiên nhiên và tả thực đạt được những thành tựu
đáng kể, khiến cho tiểu thuyết TLVĐ về cơ bản thoát khỏi sự đơn điệu của lối kể
truyền thống
Page | 9
o Bắt đầu xây dựng tính cách nhân vật có bề dày đời sống tâm lí, đặc biệt là những chi
tiết xây dựng nhân vật sinh động
o Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, đặc biệt giàu có về mảng miêu tả âm thanh, màu sắc,
đặc biệt là miêu tả cảm giác => tác phẩm của những hình dung từ.
o Câu văn mềm mại, uyển chuyển, khoảng 70% câu văn xuôi hiện đại là được hoàn
thiện bởi TLVĐ
 Ở TLVĐ thấy rõ được sự kết hợp giữa dân tộc và phương Tây, truyền thống và hiện đại,
những tác phẩm xuất sắc của TLVĐ có giá trị nhân văn cao.
 Thơ mới :
A. Các cách phân loại Thơ Mới :
- Căn cứ vào nguồn ảnh hưởng, Hoài Thanh chia làm 3 dòng: Pháp, Đường, Việt. Cách phân
loại này đã xác định các nhân tố hình thành phong trào Thơ Mới. Nhưng khó khăn khi phân
biệt từng tác giả. Những tác giả hạng 2, hạng 3 dễ xếp vào các dòng nhưng những nhà thơ
xuất sắc thường tích hợp ba dòng.

VD: lục bát của Huy Cận khảm sâu nhiều chất liệu Đường thi

- Căn cứ vào thời gian chia làm 3 giai đoạn: 32 – 35 (32 đến Xuân Diệu, giai đoạn xung đột, đi
tìm tiếng nói chung với thơ cũ), 36 – 39 (giai đoạn hòa giải), 40 – 45 (giai đoạn thể hiện tiếng
nói riêng tư).
Trong giai đoạn đầu, để nhấn mạnh sự khác biệt với thơ cổ điển, thơ mới nhất loạt tấn
công vào tính quy phạm của thơ cũ, đưa cú pháp văn xuôi vào thơ, dỡ bỏ mọi niêm luật, cho
phép cảm xúc tự do bộc lộ. Nhưng đến giai đoạn sau nhiều nhà thơ lại tìm về các thể thơ cổ
điển : thất ngôn, ngũ ngôn…
- Phân chia theo vùng : Hà Nội, Nam Trung Bộ

B. Đóng góp của Thơ mới vào tiến trình hiện đại văn hóa văn học dân tộc

1. Xét về phương diện hình thức:

Ngay từ khi mới ra đời, Thơ mới được nhìn nhận từ phương diện hình thức thể loại. Danh từ Thơ
mới lần đầu được chính thức khởi xướng bởi Phan Khôi trên báo Phụ nữ Tân văn khi ông muốn dấy
lên một phong trào thơ “đem ý thật có trong tâm khám tả ra bằng những câu văn có vần mà không
phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết”

- Thể loại:
Thơ Đường luật bị tuyệt diệt, nhưng Thơ mới lại phát triển thơ 7 chữ, chia 1
khổ, một bài thơ điển hình khoảng 5 khổ, mỗi khổ bỏ niêm luật nhưng vẫn giữ
được nhịp
Phát triển thể 8 chữ, đây là đặc sản của phong trào thơ mới (Bức tranh quê,
Nhớ rừng, Chợ tết,…) có công năng miêu tả cao
Lục bát: rất phát triển, hầu như nhà thơ nào cũng có một bài thơ lục bát (Huy
Cận, Nguyễn Bính).
Thơ 5 chữ: không nhiều về số lượng nhưng có thành tựu: Tiếng thu, Ông đồ,
Hàn Mạc Tử

Page | 10
Thơ tự do: phát triển ở giai đoạn đầu nhưng càng về cuối càng ngần ngại
 Thơ mới đã phá bỏ sự độc tôn của một thể loại, chấp nhận nhiều thể loại cùng tồn tại
 Thơ mới đã phá bỏ tính chất gò bó của thơ Đường luật, tìm kiếm sự rộng rãi hơn, đã dạng
hơn cho cảm xúc
 Không hướng đến phương Tây, mà chủ yếu hướng về những thể loại mang dấu ấn dân tộc
(sự ứng xử với thơ tự do) => Thơ mới đã đi từ xung đột đến hòa giải, là phong trào thơ có
tính dân tộc cao.
- Cách tổ chức câu thơ và xây dựng hình ảnh thơ và xây dựng hình ảnh thơ:
Tổ chức câu thơ: (câu thơ điệu nói)

Câu thơ có cú pháp lỏng lẻo, nhiều hư từ

Đặc biệt ưa thích hình thức câu thơ vắt dòng, nhiều dòng mới hợp thành một câu
(Mùa xuân xanh), tạo nên sự liền mạch trong cảm xúc, những đoạn miêu tả tạo
thành bức tranh hoành tráng. Thế giới miêu tả vì thế sống động hơn, nới rộng biê
độ câu thơ và khả năng miêu tả

Nhạc tính: câu thơ mới rất giàu tính nhạc (thơ Đường nhạc tính thấp, thơ Đường:
thi trung hữu họa, thơ mới: thi trung hữu nhạc)

Xây dựng hình ảnh thơ: chịu ảnh hưởng của Baudelaire, đặc biệt ưa thích hình
ảnh dựa trên liên tưởng, chuyển hóa giữa cái hữu hình và cái vô hình

VD1: Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc/ Cả 1 mùa xuân đã hiện hình  ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác  nói về sự tái sinh, sự trong sạch của cô gái đồng trinh.

VD2: “Anh đi đâu, anh về đâu/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.

Thơ Nguyễn Du rất hàm súc, ko lặp lại: Kiều nhìn cánh buồm xa xa: khẳng định
nỗi buồn, cuộc đời nổi trôi, vô định.

Nguyễn Bính cũng nói về nỗi buồn, mặc dù lặp lại ko nhiều từ láy, sự vật như
trong thơ Nguyễn Du nhưng trong cánh buồm đã nói lên tất cả.

VD3: Câu thơ vắt dòng: Mùa xuân là cả 1 mùa xanh

Giời ở trên cao lá ở cành

Lúa cở đồng tôi và lúa ở

Đồng nàng và lúa ở đồng anh.

Nới chiều kích của ko gian mùa xuân mở ra bát ngát, vô tận. Nghệ thuật vắt dòng
“lúa ở đồng tôi…đồng anh” nhấn mạnh về ko gian bát ngát, mênh mông, ngút ngàn tầm mắt.

2. Đóng góp của Thơ Mới xét về phương diện nội dung:

Page | 11
- Đóng góp lớn nhất của Thơ mới vào tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc là đề cao cái tôi
cá nhân, Hoài Thanh đã chỉ ra đích xác tinh thần thơ mới là cái tôi cá nhân, chữ “tôi” với ý
nghĩa tuyệt đối. Văn học trung đại đề cao tính phi ngã, xóa bỏ cái tôi, đến Thơ mới, lần đầu
trên cái tôi có cơ hội lên tiếng, trỗi dậy
- “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia
đình. Còn cá nhân, cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt
nước trong biển cả” (Hoài Thanh).
- Văn học trung đại thể hiện “một hệ thống ước lệ chặt chẽ, có tính uyên bác, cách điệu hóa,
sùng cổ và phi ngã, đề cao văn học đạo lí hơn văn học tình cảm” (Nguyễn Đăng Mạnh)
- Nội dung:
Cái tôi và quan niệm cá nhân là thành tựu lớn nhất của cuộc cách tân về nội dung, cảm hứng
trong Thơ mới. Lúc đầu nó xuất hiện trên thi đàn trong trạng thái đầy bỡ ngỡ, “như lạc loài
nơi đất khách”, về sau nó được biểu hiện phong phú với các cá tính độc đáo:
“Trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này.
Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ
mộng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp,
ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kí dị như Chế Lan Viên,… và thiết tha, rạo
rực, boăn khoăn như Xuân Diệu”
 Thơ mới có công giải phóng thơ ra khỏi chức năng tải đạo, ngôn chí, đưa đến một quan niệm
mới về thơ: thể hiện cảm xúc của cái tôi cá nhân
 Kích thích sự phát triển của ý thức cá nhân, khơi dậy khát khao yêu đời, khát vọng song
mãnh liệt
o Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
o Tình yêu thiên nhiên, những bức tranh đẹp, đẩy mộng mơ về quê
hương, đất nước

Page | 12
VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN
A. Lịch sử phát triển:

1. Giai đoạn 1930 – 1935: giai đoạn này các nhà văn hiện thực viết một cách riêng lẻ, tự phát. Nổi
bật là phóng sự của Tam Lang, VTP, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

- Nguyễn Công Hoan là người cầm bút từ trước 1930, vốn sống phong phú, sức viết dồi dào, có sở
trường truyện ngắn trào phúng. Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên khẳng định phương pháp hiện
thực xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực truyện ngắn. Truyện Kép tư bền gây tiếng vang trong tranh luận
nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh. Khi Kép tư bền xuất hiện, 17 tờ báo tranh luận,
chủ yếu ca ngợi, NCH được chọn như nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất. Có thể nói NCH cầm mốc
vinh quang cho chủ nghĩa hiện thực trên lĩnh vực truyện ngắn.

- Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934). Mai Xuân Nhân đánh giá Vũ
Trọng Phụng là ông vua phóng sự đất Bắc

- Tam Lang: là nhà văn đầu tiên viết phóng sự ở Việt Nam (Tôi kéo xe 1932). Tam Lang và Vũ
Trọng Phụng đã mở đầu cho thể loại phóng sự trong VHHĐVN

- Tú Mỡ: thơ trào phúng “Dòng nước ngược” (1934). Cái nhìn tương tự NCH, VTP

 Đánh giá: giai đoạn này tầm bao quát của chủ nghĩa hiện thực còn hạn hẹp, phản ánh cục bộ, thế
giới nhân vật chủ yếu là dân nghèo thành thị, thiếu chiều sâu hiện thực, chưa thể hiện mâu thuẫn cơ
bản của XH.

Chưa có tiểu thuyết hiện thực xuất sắc.

Tính chiến đấu chưa cao, một số cây bút dao động lập trường.

2. Giai đoạn 1936 – 1939:

- Đây là thời kì mặt trận dân chủ, thời kì sôi sục CM, lưỡi kéo kiểm duyệt không cắt xén, thuận lợi
cho sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực

- Thời kì này tạo nên đặc điểm nổi bật của văn học hiện thực: giàu tính thời sự, mang tính chiến đấu
cao. Tác phẩm tiêu biểu: Vũ Trọng Phụng (Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê), Nguyễn Công Hoan (Bước
đường cùng), Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Bí vỏ (Nguyên Hồng)

- Văn học hiện thực băt đầu phát triển tự giác, thể hiện ở hàng loạt các cuộc bút chiến

 Đánh giá:

- Trực tiếp khai thác mâu thuẫn xung đột, tố cáo mặt trái xã hội
- Tập trung thể hiện nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Đã xuất hiện những điển
hình bất hủ
- Hình tượng người lao động không chỉ là nạn nhân đáng thương mà còn có vẻ đẹp tinh thần
đáng quý

Page | 13
- Chủ nghĩa hiện thực vượt lên làm chủ văn đàn. Một số tác phẩm của TLVĐ chứa đựng nhiều
yếu tố hiện thực. Những đỉnh cao của tiểu thuyết TLVĐ đều là những tiểu thuyết mang đậm
hiện thực

Hạn chế: 1 số tác phẩm còn bộc lộ tư tưởng cải lương, văn chương còn ảnh hưởng phong cách báo
chí. Tuy nhiên đây vẫn là thời kì đỉnh cao chủ nghĩa hiện thực với những tác giả xứng đáng là nhà
văn lớn, “Những cuốn sách ghê gớm có thể đem lại vinh dự cho cả thời đại” (Nguyễn Khải): Tắt
đèn, Số đỏ, Bí vỏ…

3. Giai đoạn 1940 – 1945: Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa xã hội không thuận lợi cho sự phát triển của
văn học hiện thực

- 1939: chiến tranh thế giới Đảng hoạt động bí mật, sách bảo không được xuất hiện công khai

- 1940: Nhật vào Đông Dương, phát xít Nhật thi hành chính sách văn hóa phản động

- 1940 – 1945: là chặng đường không thuận lợi, văn học công khau có sự phân hóa phức tạp, nhiều
cây bút hoang mang. VHHTPP vẫn tồn tại, có những phương diện không bằng giai đoạn trước,
nhưng có những phương diện lại vượt trội

- Đội ngũ sáng tác:

+ Bớt đi một số cây bút tiêu biểu, những nhà văn tiêu biểu giai đoạn trước không viết nữa hoặc viết
khác đi

 Vũ Trọng Phụng mất năm 1939


 Nguyễn Công Hoan đề cao đạo đức phong kiến (do không giữ được lập trường: “Thanh
đạm”, “Danh tiết”)
 Ngô Tất Tố: chuyển sang dịch thuật, khảo cứu, tính chiến đấu của ngòi bút giảm xuống

+ Nhưng lại xuất hiện nhiều cây bút trẻ tài năng

 Nguyên Hồng: Những ngày thơ ấu. Từ 1940, Nguyên Hồng càng tỏ ra sung sức. Con người
giàu tình thương (họa sĩ Phan Kế An về Nguyên Hồng, trong đôi mắt về trái tim vào đó).
Ảnh từ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư (những người cầm bút CNHT đều chịu ảnh hưởng ban đầu
của CNLM). Cuộc sống lam lũ, đói khổ đã kéo NH đến CNHT. Ánh sáng của cách mạng đã
đưa đến cho sáng tác NH yếu tố lãng mạn mới, vượt ra khỏi khuôn khổ của CNHT, dự cảm
về tương lai: hình thành cảm quan lãng mạn khỏe khoắn (lãng mạn CM)
 Tô Hoài: tác phẩm “Quê người” Tô Hoài viết truyện về phong tục tập quán ở nông thôn, nhìn
đời sống bằng con mắt đời thường, nhân quan phong tục . Tác phẩm của Tô Hoài giúp người
đọc nhận ra một xã hội cùng quẫn, bế tắc, bần cùng không lối thoát. Tô Hoài có biệt tài quan
sát hóm hỉnh thế giới loài vật. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng
 Bùi Hiển: Đề tài: cây bút truyện ngắn viết về những người vùng biển; miêu tả con người
không mất đi bản chất hồn nhiên. Tiêu biểu: tập truyện “Nằm vạ” (1941): nhìn cuộc sống qua
lăng kính hài hước, Bùi Hiển tập trung thể hiện bản chất lạc quan của con người vùng chài,
am hiểu tính cách tâm lí của người dân chài. Sau trang sách, người đọc luôn thấy nụ cười
hóm hỉnh, cái nhìn đôn hậu của nhà văn
Page | 14
 Kim Lân: Viết về phong tục làng quê: thú chơi, sinh hoạt của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Khác
với thú chơi trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Kim Lân viết về cảnh ngộ buồn tủi
của bản thân ông và những người đồng cảnh ngộ. -> Đằng sau những đề tài phong tục, thế
giới cùng khổ, truyện Kim Lân thể hiện sự lạc quan của người nông dân
 Nam Cao: Trực tiếp phân tích, truy tìm nguyên nhân sự sống của con người. Cách tân về
nhiều mặt, có nhiều điểm mới trong tư duy nghệ thuật. Nam Cao kết tinh sự vận động của
văn xuôi VN trước CM, CNHT đến Nam Cao đã hoàn tất chặng đường
 Đặc điểm giai đoạn 40 – 45:
- Không trực tiếp thể hiện mâu thuẫn cơ bản của xã hội. Tô Hoài hầu như không phản ánh mâu
thuẫn giai cấp
- Đề tài có tính chất phong tục hoặc đi vào chuyện đời tư vặt vãnh hoặc gắn với tính chất thời
sự, ít đề cập đến vấn đề xã hội rộng lớn
- Không tập trung xây dựng những điển hình phản diện.
 Đặc điểm của giai đoạn 36 – 39: điển hình thuộc tầng lớp thống trị: Nghị Hách, Nghị
Quế.

Nguyên nhân: hoàn cảnh xã hội kiểm duyệt. 40 – 45: người nông dân nghèo, tru thức tiểu sư
sản nghèo, những con người yếu đuối bất lực, không giống con người gân guốc giai đoạn
trước.

So sánh: 36 - 39: nhạy cảm với vấn đề xã hội (VTP); CNHT phơi bày, tố khổ

VD: Số đỏ đặt ra vđề XH rất lớn là vđề Âu hóa; ông khai thác nó từ góc
độ tiếng cười trào phúng ta thấy cả 1 XH “chó đểu”

40 - 45: nhạy cảm với vấn đề con người (Nam Cao); CNHT cắt nghĩa và lí giải

VD: những nhân vật của Ncao, ông đào sâu vào đời sống, diễn biến tâm lí của
nhân vật, trong khi gđoạn 36-39 ta ít thấy hiện lên vđề tâm lí.

B. ĐÓNG GÓP CHO TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA:

- Quy mô phản ánh hiện thực:


o VHLM: phản ánh hiện thực tầng lớp trung lưu và đô thị VN
o VHHTPP: mở rộng quy mô phản ánh, miêu tả mọi số phận, cảnh đời, bao quát không
gian xã hội rộng lớn từ nông thôn đến thành thị
- Nhân vật:
o VHLM: nhân vật ở bên trên, bên ngoài hoàn cảnh (Giang Văn Giăng, Huấn Cao)
o VHHT: nhân vật ở trong mối quan hệ với hoàn cảnh, nhân vật chính diện lí tưởng biến
mất, khai thác hai kiểu nhân vật chính: phản diện và tha hóa. Nhân vật luôn có sự vận
động mà chính nó không lí giải được (logic có tính chất quyết định)
- Ngôn ngữ:
o Tự lực văn đoàn: trong sáng, tinh tế, sách vở -> dễ sáo
o VHHT: khẩu ngữ, xô bồ nhổn nháo, bụi bặm => tính cá thể hóa cao độ.

Page | 15
 Mặc dù hướng đến bức tranh toàn cảnh nhưng VHHT vẫn quan tâm đến những con người
nhỏ bé dưới đáy XH, không chỉ đồng cảm mà còn trân trọng => khuynh hướng hiện thực
và chủ nghĩa nhân đạo luôn kết hợp nhuần nhuyễn.

VĂN HỌC CÁCH MẠNG


- Văn học yêu nước cách mạng hải ngoại (Nguyễn Ái Quốc ở Pháp và Phan Bội Châu ở TQ).
Bút pháp nghệ thuật cao nhưng phần lớn không được người đọc Việt Nam tiếp nhận, tác
động đến lịch sử văn học
- Văn học yêu nước cách mạng trong nước (thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh, thơ ca trong tù và vai
trò của Tố Hữu). Tính chất tuyên truyền cổ động, hầu như không có văn xuôi, chỉ có văn vần
 Đội ngũ sáng tác: nhà CM không sáng tác ở môi trường chuyên nghiệp, sáng tác bằng
kinh nghiệm truyền thống là chính. Tâm sự cao cả, nhiều vần thơ khí phách nhưng không
cập nhật với sự thay đổi tiến tình hiện đại hóa
 Bước ngoặt: 1938 – hiện tượng Tố Hữu. Là học sinh trường Pháp Việt nên chịu ảnh
hưởng đậm của văn hóa Pháp. Khi bắt đầu sáng tác, Thơ mới cũng đạt tới độ chín viên
mãn của nó. Tố Hữu tiếp thu thành tựu Thơ mới, dùng nó để thể hiện lí tưởng, nhiệt tình
CM
 Nhờ Tố Hữu, VHCM không bị phong bế đưa VHCM ra nhập dòng chảy lớn: VH
yêu nước. Thơ Tố Hữu: Thơ mới + nhiệt tình CM
2. Văn học hình thành hai bộ phận (công khai và không công khai), và phân hóa thành
nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu, vừa đấu tranh, vừa bố sung cho nhau để cùng
phát triển
 Bộ phận văn học công khai
- Là bộ phận văn học hợp pháp tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân phong
kiến. Những tác phẩm này có tính dân tộc và tư tưởng lành mạnh nhưng không có ý thức
cách mạng và tinh thần chống đối trực tiếp với chính quyền thực dân
- Bộ phận văn học công khai phân hóa thành hai khuynh hướng: Lãng mạn; Hiện thực
- Các khuynh hướng đấu tranh với nhau: Lãng mạn và hiện thực khác nhau ở cái nhìn và sự
phản ánh thế giới:
o Lãng mạn: Đào sâu vào thế giới chủ quan
o Hiện thực: Phản ánh thế giới khách quan
 Nguyên nhân:
o Sự khác biệt về tư tưởng, lập trường của người sáng tác
o Sự khác biệt giữa hình thức thể hiện
o Sự thúc bách của thời đại, sự cạnh tranh của thị trường văn hóa: thời kì văn chương
trở thành một thứ hàng hóa, viết văn trở thành một nghề kiếm sống, các tác gia phải
cạnh tranh sức ảnh hưởng trên văn đàn, phải viết khác để tạo lập bản sắc
 Đấu tranh:
o Nam Cao phê phán khuynh hướng thoát li
o VTP: Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, còn tôi và các nhà văn cùng chí
hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời
o Thơ mới: có khuynh hướng thoát li hiện thực đời sống
Page | 16
 Thời kì này đã xuất hiện các khuynh hướng nghệ thuật thật sự.
- Các khuynh hướng bổ sung cho nhau cùng phát triển:
o Hiếm có tác phẩm nào thuần túy lãng mạn hay hiện thực, hai tinh chất này luôn đan
cài, sự khác biệt chỉ ở mức độ đậm – nhạt
o Lí giải: Dẫu là LM, HT hay CM thì đều nằm trong bầu khí quyển của văn học thời kì
ấy. Việc chia các khuynh hướng không khiên cưỡng mà uyển chuyển, mềm dẻo
o Vd: sáng tác Nam Cao vẫn đầy tính lãng mạn. Sáng tác Thạch Lam đầy tính hiện thực
3. Văn học phát triển mau lẹ
- “Ở nước ta, một năm đã có thể kể như 30 năm của người” (Vũ Ngọc Phan)
- Nhịp độ phát triển về số lượng
Trong 15 năm giai đoạn kết tinh, khối lượng tác phẩm vô cùng đồ sộ trên nhiều thể loại: thơ,
tiểu thuyết, kịch, phóng sự, lí luận phê bình
+ Nguyễn Công Hoan: mấy trăn truyện ngắn, hàng chục truyện dài
+ Vũ Trọng Phụng: mất năm 27 tuổi nhưng để lại 7 phóng sự, 8 tiểu thuyết
+ Lê Văn Trương: sản xuất dăm chục tiểu thuyết trong mấy năm
- Văn học phát triển chất lượng:
+ Thời kì 30 – 45: có sự phát triển vượt bậc về chất lượng
+ Thời đầu thế kỉ: vẫn còn lối viết biền ngẫu, thiếu tự nhiên
+ Giai đoạn 30 – 45: hành văn hiện đại, có giá trị thẩm mĩ cao

TẢN ĐÀ

I. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI


- Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) sinh ngày 25 – 5 – 1889 (20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, Thành Thái
nguyên niên) tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn Tây nay là thôn Khê thượng, xã
Sơn Đà, huyện Ba Vì – Hà Nội. Nguyên quán: làng Lu (tức Kim Lũ) huyện Thanh Trì Hà
Nội. Mất ngày 7 – 6 – 1939 (20 tháng 4 âm lịch)
- Dòng họ có truyền thống khoa bảng. Thân phụ Nguyễn Danh Kế, Án sát Ninh Bình. Anh
ruột Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan giữ chức giáo thụ.
- Mẹ: Nhữ Thị Nghiêm một đào hát tài sắc Nam Định, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế khi ông làm
quan tri phủ Xuân Trường, hát hay, có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út của cuộc lương
duyên giữa tài tử và giai nhân
 3 nỗi buồn lớn trong cuộc đời Tản Đà: nỗi buồn gia đình, nỗi buồn tình duyên, nỗi buồn
công danh dang dở
 Nỗi buồn gia đình:
- Cha mất sớm
- Mẹ vì bất hòa trở lại nghề ca xướng cùng con gái út “đem thân con gái nhà khuê các, đắp đôi
tháng ngày bằng điệu phách câu ca”
- Tản Đà vốn nung đúc ở trong đạo Khổng Mạnh, cho là một sự không chính đáng, khiến tâm
cảnh tiên sinh lúc nào cũng u uất, đau đớn, buồn rầu, không muốn biết đến, không muốn nói
ra
 Nỗi buồn tình duyên:
Page | 17
- Năm 1907 (19 tuổi), yêu con gái tư sản Đỗ Thận ở Hàng Bồ, mối tình đầu rất sâu sắc
- Năm 1908 (20 tuổi) ông Nguyễn Tái Tích về giáo thụ ở phủ Vĩnh Tường, tri huyện là Vũ
Duy Kiểm mời ông Tích mở lớp dạy học, làm nhà học ba gian lớp lá. Trong số học trò có con
gái út của ông Kiểm là cô út Vinh, một cô gái “đàn hay chữ tốt, thường cưỡi ngựa bắn súng,
mặc yếm nhiều đào, cài bông hoa trắng, chân đi giày thoa”. Út Vinh và ấm Hiếu có tình cảm,
mặc dù ấm Hiếu phải học thi để có thể lấy được con gái Đỗ Thận làm vợ.
- 1909 (21 tuổi), thi trượt Hương
- Năm 1912, Mùa xuân, thi Hậu bổ trượt, mùa thu thi hương trượt, vội về Hà Nội lại thấy cảnh
người yêu ở Hàng Bồ lên xe hoa:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình
- Mùa đông về Nam Định, ở nhà một người quen thân với ông Nguyễn Tái Tích, có câu
chuyện tình cảm với một nữ sinh 13 tuổi, ghi lại trong Kỉ niệm hái hoa đào, Chép mộng…
 Nỗi buồn công danh dang dở:
- Nổi tiếng thần đồng:
Xuân xưa bảy, tám, chín, mười tuổi
Văn chương ta mới làm câu đối
Đến xuân mười một học làm thơ
Xuân 14 tuổi văn đủ lối
- Trượt thi Hương năm 1909:
Sang năm hăm mốt học đi thi
Thi tại trường Nam lọt một kì
Kỳ luận hỏng vì vua Hạ Võ
Hỏng thi càng học để đi thi
- Năm 1912:
Xuân 24 tuổi thi ấm sinh
Tên đỗ thứ ba, đăng nhật trình
Hậu bổ thi luôn, hỏng vấn đáp
Chữ Pháp thất bại đường công danh
Xuân qua thu lại, lại đi thi
Nam Định bay luôn đệ nhất kì
Càng học để thi, thi cứ hỏng
Thi tàn, học cũng tàn theo thi
- 1915, có tác phẩm đăng trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, nhanh chóng có
được tiếng vang -> “một lối văn Nôm”
- 1916, bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Từ
1916 – 1926 – những năm tháng đắc ý nhất, liên tiếp cho xuất bản: Khối tình con I (1916),
Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II (1918), Đài gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu
(1919), Lên tám (1920), Còn chơi (1921), Tản Đà tùng vãn (1922), Thề non nước (1922),
Truyện thế gian I và II (1923), nhuận sắc Truyện Tỳ bà (tuồng) của Đoàn Tự Thuật và dịch
Đại học (1922), Kinh thi (1924)

Page | 18
- 1926 đến 1933 bỏ hết tâm sức vào việc làm báo với kì vọng vào một sự nghiệp văn chương
“có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu của nhà nho Tản Đà với môi trường đô thị
bắt dầu bộc lộ rõ rệt
- Từ 1933 đến cuối đời, làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch Liêu
trai, quảng cáo chữa văn, xem số Hà Lạc… Vì sinh kế nhai phải trôi dạt nhiều nơi: vào Nam,
ra Hà Nội, về quê, ra Quảng Yên rồi lại về Hà Đông
- Mất tại Ngã tư sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939, trong cảnh bần bách, để lại vợ và đàn con mà
theo lời thuật của Nguyễn Tuân “vừa yếu lại vừa đuối”
- Vũ Bằng: những ngày cuối đời của Tản Đà là “địa ngục nơi trần thế”: “Đó là thời kì hết ở
Bạch Mai mở lớp Hán văn diễn giảng mà không có học trò, lại về Hà Trì dịch thơ Đường và
Liêu Trai, rồi rút về làm nghề xem số Hà Lạc, mà không có khách, sau rốt vì không có tiền
trả tiền nhà, bị chủ đưởi, phải rút về Cầu mới (Ngã tư sở) với một tấm thân tàn phế, trên một
căn gác nhỏ thiếu rượu, thiếu ăn, thiếu cả thuốc thang, bè bạn”.

2. Con người:

- Nửa cuộc đời sau: môi tường đô thị và chịu ảnh hưởng của lối sống thị dân
- Nhưng về cơ bản, cốt cách của một Nhà nho tàu tử vẫn rất đậm nét: đa tình, phóng túng,
ngông ngạo
- Bậc trích tiên trong mắt đương thời. Ngay cả khi những sáng tác của Tản Đà không còn sự
hấp dẫn, sự hấp dẫn đến từ con người thực của Tản Đà vẫn không hề giảm sút, Lưu Trọng
Lư: “con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt xảo, một bài thơ hay nhất
trong sự nghiệp của Tản Đà”

Nhà nho hành đạo Nhà nho tài tử


Có tính chất chính thống, coi văn chương có Có xu hướng thoát li chính thống, ước mơ thoát
quan hệ đến đạo lí cương thường khỏi cảnh bụi bậm của cuộc đời, sự tù túng của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì xã hội phong kiến, của lễ giáo
Nhậm, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Khuyến, Phạm Thái, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao
Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu Bá Quát, Tản Đà
Ra đời sớm hơn Ra đời muộn hơn, gắn với sự phát triển của đô
thị, văn chương cuả nhà nho tài tử không nhiều,
nhưng phát triển thành dòng riêng
Coi đạo đức là nền tảng giá trị của con người. Coi tài tình là giá trị của con người: đa tài, đa
tình

Nho giáo không tán thành đa tình vì tình gắn với Tài tử quan niệm tài có nhiều cách: tài kinh luân
dục, không phải tình dục mà là dục vọng, sự ham như Nguyễn Công Trứ, tài học vấn như Cao Bá
muốn, say mê, do đó , Nho giáo khuyến khích Quát, nhưng dù là tài gì thì cũng phải gắn với
con người tiết dục, giữ gìn tình cảm mực thước, tình
trọng lễ nghĩa Rắp mong treo ấn từ quan
Trong những thứ tình thứ dục, Nho giáo sợ nhất Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua
là đàn bà và tình yêu, vì đó là thứ tính mạnh Vì tình từ bỏ, điều không có ở nhà Nho hành đạo
nhất, thứ dục thiết tha nhất thứ đam mê dai dẳng Tình ở người tài tử đa tình không chỉ là say mê
nhất sắc đẹp mà còn là dễ xúc động, nhiều tình cảm,
Người con gái được đề cao ở sự nết na công nhưng vì nhiều tình cảm mà họ dễ bị lôi cuốn vì
dung ngôn hạnh chứ không phải là sự sắc đẹp. sắc đẹp, do đó họ có nhiều xúc động với những
Page | 19
Dung là giữ cho nét mặt dịu dàng, thùy mị người tài sắc.

II. KIỂU NHÀ THƠ GIAO THỜI: TỪ NHÀ NHO TRỞ THÀNH NGƯỜI SÁNG TÁC
CHUYÊN NGHIỆP VÀ QUAN NIỆM VỀ VĂN HỌC CỦA TẢN ĐÀ
1. Từ nhà nho trở thành người sáng tác chuyên nghiệp
a. Từ một nhà nho
- Lộ trình vào đời: học hành – đi thi – làm quan => bài bản, con đường lập thân duy nhất của
người đàn ông trong xã hội phong kiến, giấc mơ quan trạng trở thành giấc mơ lớn của cả một
thế hệ kẻ sĩ
- Thất bại liên tiếp trong 2 kì thi Hương: 1909, 1912 khiến Tản Đà chán nản, bi phẫn. 1915:
khoa thi chữ Hán cuối cùng của miền Bắc chính thức làm phá sản lối vào đời truyền thống
của Tản Đà. Giấc mộng công danh đỗ vỡ, nhà nho Tản Đà bị mất cơ hội đánh cược vào khoa
cử, trượt ra khỏi quỹ đạo truyền thống, hoàn toàn mất phương hướng trong hành xử
 Trở thành nhà văn nhà báo chuyên nghiệp là một sự lỡ dở: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dơ dang/
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng (Đề “Khối tình con” thứ nhất)
b. Đến một nhà văn chuyên nghiệp
- Chỉ thực sự lựa chọn con đường kiếm sống bằng ngòi bút vào năm 1916 – năm bước ngoặt
trong sự nghiệp của Tản Đà. Đây là năm ông lấy hiệu Tản Đà:
“Nước rợn sông Đà con cá nhảy
Mấy trùm non Tản cái diều bay”

“Văn chương thời hôm nay


Thú chơi có sơn hà
Tản viên ở trước mặt
Đà giang bên cạnh nhà
Tản Đà!”
 Kiểu nhà thơ giao thời. Tản Đà đến với nghề văn muộn màng nhưng rất cương quyết
Cơ sở để Tản Đà trở thành nhà văn chuyên nghiệp:
- Khách quan:
 Sự va chạm với văn minh phương Tây
 Sự ưu việt của Tây phương, sự thất thế của cựu học đã mở ra những kì vọng mới cho
những lựa chọn lập thân mới
 Từ sau những năm 1910, viết văn làm báo đã trở thành một nghề
 Danh phận của người viết văn làm báo được thừa nhận và xem trọng
 Danh hiệu nhà báo (kí giả) lúc đó rất quan trọng, có thể xếp ngang với tầng lớp quan
lại ưu tú. Với quốc dân, nhà báo được xem là bậc sư đạo, với chính phủ nhà báo có tác
động lớn.
 Phạm Quỳnh: “Các nước Âu Mĩ trọng các nhà văn sĩ hơn các bậc đề vương vì cái
công nghiệp tinh thần còn có giá trị quý báu và ảnh hưởng sâu xa hơn là những sự
nghiệp nhất thời về mặt chính trị” (Nam Phong tạp chí số 30)
 Sự đổi thay của thời đại cuộc đem đến sự hấp dẫn cho sự lựa chọn mới
- Chủ quan;

Page | 20
 Ngay từ bài tản văn đầu tiên trên Đông Dương tạp chí, Tản Đà đã được tán thưởng đặc
biệt
 Một loạt những bài tản văn tiếp theo: Cái chùa trong bụng người, Giả ngày, Giả
người, Giải sầu đưa lại cho Nguyễn Khắc Hiếu một địa vị danh tiếng trong văn đàn
 Quan niệm LẬP NGÔN của kẻ sĩ
 Tản Đà đã mạnh dạn để đến văn học chuyên nghiệp một cách quyết liệt và triệt để
 Con người chuyên nghiệp dở dang
Con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp về sau càng quanh co, chung cuộc thành dở dang
- Xuất phát điểm của một nhà Nho và giấc mộng bất thành khoảng đầu đời vẫn tồn tại âm
thầm, tạm bỏ quên chứ không hoàn toàn dứt bỏ
- Mục đích giáo huấn, truyền bá thiên lương – mục đích của văn học nhà Nho Tản Đà rất mực
đề cao, thậm chí coi như mục đích tối thượng cho hoạt động sáng tác
- Từ 1926 trở đi, Tản Đà bỏ hẳn những sáng tác thuộc hệ thống văn chơi để chuyển sang viết
báo truyền bá thiêm lương theo đuổi giấc mộng giáo hóa
 Xa rời quỹ đạo của nhà văn chuyên nghiệp để bị hút về lực tư tưởng của kiểu văn học nhà
nho truyền thống
- Sự “lại giống” (Trần Đình Hựu) nay khiến Tản Đà không những đánh mất độc giả mà còn
đánh mất sự đổi mới văn học theo hướng hiện đại
 Tản Đà là nhà thơ giao thời, người dạo bản đàn cho khúc nhạc tân kì chứ chưa thể nhập hoàn
toàn vào bản đồng ca tân kì ấy được
2. Quan niệm của Tản Đà
a. Tính hiện đại tiên phong

“Còn non còn nước còn trăng gió/ Còn có thơ ca bán phố phường (1916 – lời đề tựa cho Khối
tình con I)

- Tản Đà đã khai sinh một loại hình nhà văn mới: nhà văn chuyên nghiệp – đem đến một
danh phận mới cho nhà văn
- Tản Đà đem đến một thuộc tính mới cho thơ ca: thuộc tính hàng hóa. Văn học được đặt
trong một không gian mới: không gian đô thị
- Thị hiếu độc giả luôn thay đổi vừa tạo áp lực kích thích nhà văn sáng tạo khắc nghiệt của
nghề viết, cũng tạo nên vị trí của nhà văn
- 1909, khi Nguyễn Khuyến mất, vẫn ung dung làm một thị bá suốt đời, tại vị với danh hiệu
Tam Nguyên Yên Đồ
- 1916 khi Tản Đà viết giấc mộng con, được tặng 1000 Đông Dương đồng.
- 1933, khi tạp chí bị đình bản, Tản Đà phải đăng báo: chữa thơ cho thiên hạ, mỗi tháng bán
phí lấy 1 đồng (Khi làm chu báo lúc viết mướn (Tiễn ông Công lên chầu trời)
- Thế Lữ: làm bá chủ thi đàn 1935 nhưng 1938 đã viết lời đề tựa cho tập Thơ Thơ như một lời
thoái vị, người ta không còn đọc Thế Lữ
- Đến Tản Đà, mới xuất hiện những điều kiện khắc nghiệt của thị trường: Bao nhiêu củi nước
mới thành văn/ Được bán văn ra chết mấy lần/ Ông chủ nhà in in đã đắt/ Lại ông hàng sách
mấy mươi phân (Lo văn ế). Văn chương hạ giới rẻ như bèo. Kiếm được đồng lãi thực rất khó

Page | 21
- Những tác phẩm xoay quanh để tái du kí, tình ái, sầu muộn trong Khối tình con I, II. 1 phần
xuất phát từ cá tính sáng tạo của Tản Đà, mặt khác có sự kích thích từ thị hiếu độc giả ở môi
trường đô thị
- Đằng sau sáng tác văn học là nhu cầu, thị hiếu mới của thời đại, người cầm bút khi đã dấn
thân vào con đường chuyên nghiệp đều phải chịu tác động của chúng
 Tản Đà đã đi từ lối viết văn, làm thơ của nhà Nho sang lối viết văn, làm thơ của một nhà văn,
nhà báo chuyên nghiệp
b. Tính cổ điển truyền thống
- Nhấn mạnh chức năng giáo huấn của văn chương

Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ/ Dám mong không phụ Trời trông mong (Tiễn ông Công
lên hầu trời)

Trời rằng: không phải trời đây/ Trời định sai con một việc này/ Là việc thiên lương của nhân
loại/ Cho con xuống thuật cùng đời hay (Hầu trời)

“Văn chương có trọng giá, không phải là một sự đùa vui trong ý thức, không phải là sự mua vui
trong phẩm bình, mà phải cóc bỏng mây hơi nước đến dân xã… Sao cho nhân tâm, phong tục,
được thuần chính, dân trí tư tưởng được khai minh, là chức trách của ngòi bút đại văn gia”

 Giá trị của văn chương là ở chức năng giáo huấn. Tản Đà vẫn khắc khoải lí tưởng của văn
học trung đại: văn dĩ tải đạo
- Phân chia các thể loại văn học:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời

Sự trọng thị của Tản Đà với loại văn vị đời. Mặc dù thành danh với giấc mộng con nhưng trong
quan niệm, Tản Đà không xem trọng tiểu thuyết như tản văn. Văn vị đời – có bóng mây hơi nước
đến dân xã – mới là thể loại mà Tản Đà xem trọng.

III. BẢN SẮC CÁI TÔI CÁ NHÂN CỦA TẢN ĐÀ


1. Cái tôi ngông

Trong đời sống:

 Ngông là những lời nói, chủ chỉ, hành động ngang tàng, khác đời, trái với cái thông
thường, vượt những quy chuẩn xã hội, biểu hiện thành thái độ sống ngạo nghễ, khinh
bạc (Nguyễn Công Trứ cưỡi bò thay vì cưỡi ngựa, đeo mo cau nói rằng che miệng thế
gian…)
 Không phải ai cũng ngông được. Nó xuất phát từ ý thức sâu sắc về cá tính, tài năng
của cá nhân. Con người càng tài năng càng muốn bất chấp khuôn khổ

Trong văn học: Vấn đề ngông gắn với sự phát triển của con người cá nhân, gắn với ý thức cao
về bản ngã, muốn được thi tài, khoe tài. Ở văn học trung đại, khái niệm ngông chỉ xuất hiện ở
Page | 22
các nhà Nho tài tử (Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,…) khi ý thức cá nhân đã manh nha phát
triển

Tản Đà nhiều lần nói đến chữ ngông: Thiên tảo tra sổ xét vừa xong/ Để sổ lên trình thượng đế
trông/ Bẩm qua có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới về tội ngông

a. Lối sống thị tài, khoe tài


- Khoe văn tài: Văn dài hơi tốt ran cung mây/ Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay/ Tảm như nở
dạ, Cơ lè lưỡi/ Hằng Nga, Chức nữ chau dồi mày/ Song thành, Tiêu Ngọc lắng tai đứng/ Đọc
xong mỗi bài cùng vỗ tay: Văn đã giàu thay, lại lắm lối/ Trời nghe Trời cũng bật buồn cười/
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn/ Anh gánh lên đây bán chợ Trời. Trời đã phê cho: Văn thật
tuyệt/ Văn trần được thế chắc có ít/ Lời văn chuốt đẹp như sao băng/ Khí văn hùng mạnh
như mây chyên/ Êm như gió thoảng, tính như sương/ Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết
 Ngông ngay trong cách khoe tài, không tìm được tri kỉ nơi hạ giới: Văn chương hạ
giới rẻ như bèo, phải lên trời tìm tri âm
 Sự thừa nhận, khen ngợi của trời: sự thừa nhận tối cao
 Trời khen, không có sự kiêm nghiệm – cũng chính là cách biểu hiện khác của việc tự
khen mình => cách biểu thị ngông thường thấy của văn nhân
- Ngông là một phản ứng với xã hội:
Thi không đỗ:
Tự trào

Sau khi hỏng thi ở trường Nam Định


Vùng đất Sơn Tây nay một ông
Tuổi chưa bao nhiêu văn rất húng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc?
Bút thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh
Khuyên khuyên điểm điểm có hay không?
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông (1912)

 Phản ứng với chế độ khoa cử bất công có thể coi đây là khởi nguyên của ý thức cá hân trong
văn học
b. Thi sĩ của say và chơi
- Ngông bộc lộ qua những văn thơ say:

Say sưa nghĩ cũng hư đời/ Hư thời hư vậy, say thời cứ say/ Khi say quên cả cái đinh phù du/
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?/ Công danh sự nghiệp mặc đời/ Bên thời be rượu bên thời bài thơ/
Trời đất sinh ta rượu với thơ/ Không thơ không rượu sống như thừa

- Cái ngông bộc lộ qua sự ham thích những thú chơi:


 Tản Đà là thi sĩ tôn thờ khoái lạc (Còn chơi) – Ai đã hay đầu tớ chán đời/ Đời chưa chán
tớ, tớ còn chơi/ Chơi cho thật chán, cho đời chán/ Đời chán nhau rồi, tớ sẽ thôi/ Chơi cho

Page | 23
thật chán, cho đời chán/ Đời chán nhau rồi, tớ sẽ thôi/ Chơi cho biết mặt sơn hà/ Cho sơn
hà biết ai là mặt chơi/ Chơi xuân kẻo hết xuân đi/ Cái già sồng sộc nó thù theo sau
 Tôn ăn chơi thành thứ vận nghiệp của đời mình: Trăm năm hai chữ Tản Đà/ Còn sông
còn núi còn là ăn chữ, Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có cửa nhà thời không/
Nửa đời Nam Bắc Đông Tây/ Bạn bè sum họp vợ chồng biệt li
 Chơi gắn với cái tôi cá nhân: sự phản ứng lại tuyền thống khắc kỉ phục lễ của nhà Nho,
gắn với triết lí hưởng thụ
2. Cái tôi sầu mộng
a. Sầu
 Sầu nhân thế: Mạch sầu của Tản Đà bắt nguồn từ mạch sầu truyền thống:
- Xuất phát từ ý thức của con người thời trung đại: con người chỉ là một bộ phận trong cái toàn
thể, luôn khắc khoải ta là ai: Tiến bất kiến cố nhân/ Hậu bất kiến lại giá/ Niêm thiên địa chí
du du/ Độc thượng nhiên nhi lệ hạ (Trần Tử Ngang), Nghìn năm ta là ai (Nguyễn Khuyến),
Ba ngàn thế giới ta là vô danh (Tú Xương), Ta là ai (Chế Lan Viên)
- Sầu về kiếp người ngắn ngủi
 Tản Đà chấp nhận bi kịch này như một tất yếu của kiếp người, không còn dằn dỗi ông
chỉ ngậm ngùi than thở:
Ấy ai quay tít địa cầu/ Đầu ai nửa trắng nửa pha mầu xuân xanh/ Trông gương mình
lại ngợ mình/ Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa (Bài hát xuân tình)
- Càng về sau này, cảm giác về sự hữu hạn của kiếp người càng giày vò, khiến ông bâng
khuâng trước cảnh tượng bông hoa: Đương ở trên cành bỗng chốc rơi (Hoa rụng); chạnh lòng
trước ngôi mả cũ ven đường: Tài cao phân thấp chí khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê
hương; ngao ngán, thậm chí hoảng sợ khi phải đối diện với thực cảnh: Tuyết nhuộm đầu
xanh, tóc bạc phơ (Thơ thẩn)…; ý niệm về kiếp người ngắn ngủi: Vèo trông lá rụng đầy sân
(so sánh với lá vàng trước gió khẽ đưa vèo): Thương thay xuân chẳng đợi chờ/ Tiếc thay
xuân những hững hờ với xuân/ Trăm nghìn gửi lại đồng xuân/ Hãy khoan khoan tới hãy dần
dần lui
- Mài sắc cảm nhận về thời gian khiến Tản Đà ngay khi khai thác những vấn đề thời gian
khiến Tản Đà ngay khi khai thác những vấn đề quen thuộc vẫn có được những nét riêng trong
cách khai triển tứ thơ và phô diễn cảm xúc
 Hệ thống ngôn từ và thi liệu vẫn là của truyền thống nhưng cảm nhận thời gian đã báo trước
những từ thơ chất đầy ám ảnh thời gian trong thơ mới sau này

So sánh:

Ao thu lặng lẽo nước trong veo Tựa gối ôm câu lâu chẳng được/Cá đâu đớp
động dưới chân bèo
Một chiếc thuyền câu béo tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí


Nào những ai
Là vàng trước gió khẽ đưa vèo
Kê vàng tỉnh mộng
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Tóc bạc thương thân
Ngố trúc quanh co khách vắng teo
Page | 24
Vèo trông lá rụng đầy sân Công danh phù thế có ngần ấy thôi

Vị trí của 2 chữ “vèo” nằm ở 2 vị trí khác trong câu thơ:

Nguyễn Khuyến Tản Đà


“Vèo” trong Thu điếu nằm ở cuối (kết thúc 1 ý “Vèo” đứng đầu câu, phía sau của nó là cả 1 ý
thơ) thơ chưa khai thác.
Là 1 nét chấm phá của bức tranh thiên nhiên => Nhân vật trữ tình bàng hoàng trước tốc độ của sự
bút pháp lấy động tả tĩnh, gợi sự thanh tịnh của tàn lụi.
cảnh vật.
Thiên về cảm hứng ko gian Nhấn mạnh tốc độ của thời gian: cảm thức về
thời gian, nhà thơ cảm nhận thời gian chảy trôi
1 cách nhanh chóng.
 Sầu thời thế:
- Hình ảnh đất nước luôn canh cánh trong thơ Tản Đà: hình ảnh bức dư đồ rách - ẩn dụ cho đất
nước những năm đầu thế kỉ XX
 Hình ảnh của bức Dư đồ rách: Vịnh Bức Dư Đồ Rách:
“Nọ bức dư đồ thử đứng coi/ Sông sông núi núi khéo bia cười!/ Biết bao lúc mới công vời vẽ/
Sao đến bây giờ rách tả tơi?/ Ấy trước ông cha mua để lại/ Mà sau con cháu lấy làm chơi/
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ/ Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi”.
Tản Đà mang bức Dư đồ rách đi khắp 3 miền đất nước, nhưng: Bức dư đồ rách đã cam
khó lòng/ Văn chương chút nghĩa đèo bòng/ Thuyền không tay lái vẫy vùng được sao/ Ngày
xuân thêm tuổi càng cao/ Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng!
 Hình ảnh non – nước : Thề non nước:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một năm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời Tây ngả bóng tà dương
Càng phơi về ngọc, nét vàng phôi pha
 Sầu thân thế :
- Vì ai tớ phải lênh đênh/ Nặng lắm ai ơi một gánh tình
- Tổng kết về sự lỡ dỡ, thất bại của cuộc đời : Khi làm chủ báo lúc viết mướn/ Hai chục năm
dư cảnh không cùng/ Trần gian thước đất vẫn không có/ Bút sắt chẳng hơn gì bút lông/ Ngày
canh như ngựa đầu xanh bạc/ Chán cả giang hồ hết cả ngông (Tiễn ông Công lên chầu trời)
 Việc những chất liệu có tính chất tiểu sử đi vào tác phẩm văn học qua cửa ngõ của cái sầu
cho thất sầu là một phương tiện để cái Tôi thân thế của Tản Đà xuất hiện với tư cách là một
cái Tôi cá nhân được ý thức.
 Sầu gắn với nỗi cô đơn :
- Cô đơn trong văn học truyền thống
 Thời trung đại : cô đơn gắn với tâm sự ưu thời mẫn thế: ý thức về phân vị đặc tuyển,
tinh thần tự nhiệm làm nên những nỗi « tiên ưu » (Nguyễn Trãi), những cảnh ngộ
« ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ » (ta có tấc lòng không biết nói cùng ai – Nguyễn Du)
 Về sau, nỗi cô đơn trong VH trung đại gắn với nỗi thương thân xót mình, đậm màu
sắc ưu phiền, nặng nề, thậm chí là bi lụy
Page | 25
VD:
Nguyễn Trãi : « Bui có 1 lòng trung với hiếu/ Mài răng khuyết nhuộm trăng
đen »
Ở văn học tk 18, con người cá nhân đã manh nha phát triển. VD: Nguyễn Du
có đoạn trích « Nỗi thương mình » ta thấy NDu thể hiện rõ « giật mình mình lại
thương mình xót xa »
Bi lụy : Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn (HXH)
- Đến Tản Đà cái cô đơn bắt đầu có những nét mới lạ trong cách phô diễn:

+ Ngay khi bi lụy nhất , Tản Đà cũng thiên về cái réo rắt buông lơi. Tâm sự cô đơn không
nén lại, u uẩn mà chỉ như một hơi thở nhẹ thoát, bàng lảng :

+ Chiều quá khách chơi về đã vãn/ Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi (Chơi trại hàng hoa),
Mạch sầu canh vắng như tuôn/ Nhớ ai nước nước non non bạn tình (Đêm đông hoài cảm),
Những ai mặt biển chân giời/ Nghe mưa ai có nhớ nhời nước non (Mưa thu đất khách)

+ Nỗi cô đơn trong điều sầu man mác và không hiếm khi nó được vờn vẽ trong 1 khung cảnh
thiên nhiên đầy gợi cảm :

« Con đường vô hạn khách Đông Tây/ Ta nhớ ai mà đứng mãi đây » (Quê nhà chơi mát cảm
hứng)

« Suối tuôn róc rách ngang đèo/ Gió thu bay lá bóng chiều về tây/ Chung quang những lá
cùng cây/ Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm » (Vô đề)

 Cái cô đơn không còn thích thú với cung bậc bi thương, chất chứa vẫn thường gặp trong
thơ cô điển mà bắt đầu hướng tới cái du dương, êm ái thi vị đầy mới mẻ
 Báo trước cho cái tôi – cảm xúc và sự say mê đặc biệt với những cô đơn, sầu khổ của thơ
ca giai đoạn tiếp theo
b. Mộng:

- Dòng văn học mộng từ xưa cho đến nay

- Mộng đi vào văn chương từ rất sớm :

+ Phương Tây gồm có thần thoại Hi Lạp, kịch Shakespeare : giấc mộng đêm hè.

+ Phương Đông : Trang Tử, Hồng Lâu mộng, Liêu trai chí dị, một kho điển cố điển tích về
mộng.

+ Ở Việt Nam : truyện dân gian, Từ Thức gặp tiên, Lưu Nguyễn gặp thiên thai, Kiều gặp
Đạm Tiên, Nguyễn Công Trứ : Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn/ Như mây nổi, như gió
thổi, như chiêm bao

- Qua mộng, tác giả thể hiện :

+ Quan niệm nhân sinh : đời là mộng : Xử thế nhược đại mộng/ Hổ vi lao kỉ sinh (Ở đời như
giấc mộng/ tội chi vất vả mình).

Page | 26
 Đời người như giấc mộng : đời người ngắn ngủi phù du, hạnh phúc là thứ dễ tan biến :
bích câu chi quá khích (Đời người như bóng câu qua cửa sổ - Lão Tử). Lưu Nguyễn gặp
Thiên thai : cuộc đời là giấc mộng, hư ảo, phù vân.
 Hồng Lâu mộng giấc mộng lầu hồng – cuộc sống phú quý, vàng son rồi cũng qua như
giấc mộng, vật đổi sao dời

+ Mộng là phương tiện của tư duy nghệ thuật : văn học được tư duy bằng mộng tạo nên khả
năng hư cấu, tưởng tượng : thế giới kì ảo trong tuyện cổ tích, đem đến vẻ đẹp thực – ảo trộn lẫn
trong tác phẩm văn học.

Sau này, chủ nghĩa siêu thực đã khai thác mộng vừa như một nhân thức mới về cuộc sống toàn
vẹn, vừa như một bút pháp nghệ thuật : bút pháp tự động được dựa trên đặc tính của mộng : đứt
đoạn, nhảy cóc

- Đến Tản Đà : dòng văn học mộng được kế tục xứng đáng :
Con đường đến với mộng của Tản Đà : Nghịch lí : Tản Đà nhập mộng vì vỡ mộng : vỡ mộng
công danh, tình duyên đã khiến Tản Đà đắm chìm trong giấc mộng ở cõi văn chương
 « Thân chẳng bằng mộng nên mộng cho cam thân vậy » (Phạm Quỳnh)

Ý NGHĨA PHẠM TRÙ MỘNG TRONG THƠ VĂN TẢN ĐÀ


 Qua mộng để thể hiện quan niệm nhân sinh:
Quan niệm đời như một giấc mộng: Đời người như giấc chiêm bao (Thơ rượu), Trăm năm một
giấc mộng mơ màng (Đời lắm việc), Thế sự phù vân chi cảnh/ Những ai mê mà tỉnh là ai (Hơn
nhau một chẻn rượu mời)
“Mộng và nộng, đời người cũng là mộng, mộng là cái mộng con, đời là cái mộng lớn, chỉ khác
nhau là dài ngắn lớn nhỏ mà thôi”
“Giấc mộng con là mộng! Giấc mộng lớn cũng là mộng ! Duyên trái Hà Thành, thi bay Nam
Định đã là mộng ! Diễn thuyết trí tri, giảng học Hồng Bàng là mộng. Thư điếm phố Hà Nọi, biệt
thự đồi Vĩnh Yên, chẳng qua cũng là mộng »
Tống biệt: nửa năm tiên cảnh, một bước trần ai
 Sự ngắn ngủi, phù du hư ảo của cuộc đời. Mộng của Tản Đà gần gũi truyền thống.
 Qua mộng để thể hiện bản ngã, cá tính :
Mộng gắn với ý thức về cái tôi cá nhân : (cái mới) : hướng đến thế giới mộng – thế giới lí
tưởng bằng hành động mộng tưởng
- Thế giới mộng :
 Cõi lí tưởng, cao hơn hiện thực, qua đó Tản Đà có thể thực hiện được những chuyến
phiêu lưu du kí bằng tưởng tượng
Địa điểm có thật nhưng chưa được đến : Hồ Eriê, thác nước Niagara, những chiếc quạt
nước ở miền thượng lưu sông Madison, đưa Tản Đà phiêu lưu đến châu Phi, châu Mĩ,
Bắc Cực, Viễn Đông… -> Chỉ biết đến qua sách vở
 Khao khát phiêu du để kiếm tìm và thưởng ngoạn khiến những trang viết tràn đầy cảm
quan nghệ sĩ với rung động mãnh liệt. Cảnh vật phương xa hiện lên sống động trong
những màu sắc, âm thanh quyến rũ

Page | 27
 Tản Đà thỏa mãn ý thích xê dịch giang hồ, là nơi tác giả thể nghiệm bản thân : cái tôi thích
phiêu lưu, xê dịch
 Những địa điểm chỉ có trong tưởng tượng cõi tiên, cảnh bạc. Trong Giấc mộng con I : cõi
tiên : « không có sự thiên tai, không có sự địa biển, không có trộm cướp, không có án từ,
không có sự kiện cảo, không có sự buôn danh bán lợi, không có câu thế thái nhân tình ».
Giấc mộng con II : hữu hình hóa cõi Tiên, cung Quảng Hàn, Bồng lai, sông Ngân Hà,…
Hầu trời : cõi trời và chư tiên, cung quế, chị Hằng
 Khao khát chiếm lĩnh cõi tiên : xuất hiện nhiều biểu tượng : cảnh hạc, cảnh nhạn, cảnh
hồng -> nối liền cõi tiên và hạ giới
- Hành động mộng tưởng :
 Mộng như một phương cách để thỏa mãn cái tôi ngông ngạo : đứng cao hơn hạ giới :
Muốn làm thằng Cuội, hầu trời
 Mộng để thỏa mãn sự hưởng lạc :
Nguyễn Khắc Hiếu uống rượu, theo « mệnh lệnh của mỹ nhân » mà làm thơ, nghe
« Chiêu Quân đánh tỳ bà, Dương Qúy phi say rượu, đứng dậy múa. Tây Thi hát ». Tham
lam hơn (và vì thế mà cũng thật đáng yêu) khi ông dựng nên những cảnh « Dự tiệc có hơn
trăm người mà chỉ có một mình mình không phải là mĩ nhân ».
Những cảnh yêu đương trong cõi mộng như trên làm phát lộ cái Tôi đa tình, lục lụy nơi
Tản Đà : lên tiên không phải đẻ thoát tục, để tìm thuốc trường sinh mà để tìm giai nhân,
tìm vui, tìm ý thú của chính mình
 Cõi mộng là không gian ở đó cái Tôi của Tản Đà phơi trải những dự phòng, sở thích của
mình. Mộng là phương tiện để thám hiểm những chân trời mới lạ trong thế giới tinh thần của
cái Tôi. Đây chính là ý nghĩa mỹ học mới mẻ của thế giới ảo mộng mà Tản Đà đem đến cho
văn học thời kì này.
Mộng là một cách thoát li hiện thực, bù đắp những mất mát trong đời thực : Muốn làm
thằng cuội
Giấc mộng 10 đã tỉnh rồi/ Tỉnh rồi lại muốn mộng mà thôi
Theo Nguyễn Khắc Xương, Chu Kiều Oanh là hình bóng của cô gái trong mối tình đầu (cũng
tên là Oanh) của Tản Đà. Cuộc tình trong đời thực, như chính Tản Đà thuật lại trong giấc
mộng lớn kết thúc ngang trái.
Cõi mộng là nơi Tản Đà được sống và nếm trải những hương sắc ngọt ngào của thế giới tình
yêu. Những mất mát trong đời thực được bù đắp
 Mộng trong thơ văn Tản Đà đặt nền móng cho văn học lãng mạn sau này.
- Mộng trong thơ lãng mạn được nhìn nhận trên hai góc độ :
(1) Mộng là cõi mộng : cõi mộng đồng nhất với cõi lí tưởng, đối lập với thực tại tầm thường,
trần trụi hàng ngày. Đặc điểm : diễm lệ, đầy chất thơ, giống thế giới đại ngàn mà con hổ
trong Thế Lữ mơ tưởng, chốn bồng lai, tiên
(2) Mộng là hành động hướng đến lí tưởng -> dù là mộng, nhưng nó đầy tỉnh táo
Bi kịch mà các nhà lãng mạn là bi kịch tình mộng : « động tiên đã khép, tình yêu không bền,
điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ » (Thi nhân Việt Nam)
- Ở Tản Đà, mộng có cả hai nét nghĩa này, mộng có cả hai nét nghĩa, khiến Tản Đà rất hiện
đại, rất gần với thơ mới
c. Mối quan hệ giữa hai phạm trù sầu – mộng
Page | 28
- Sầu và mộng là sự triển khai của 2 mặt trong cái tôi Tản Đà : cái tôi trong hai thế giới : hiện
thực và lí tưởng : tương phản gay gắt, không thể hòa giải
- Điểm thống nhất giữa sầu và mộng khi thể hiện cái tôi : đều thể hiện tính « tự yêu mình » -
Chủ nghĩa Narcissism
- Điểm thống nhất : Ba chữ « mình yêu mình » chính là điểm thống nhất của ngòi bút Tản Đà
khi viết về cái Tôi của mình trong mọi biểu hiện :
 Tản Đà đã lấy tên khai sinh của mình làm tên nhân vật chính trong tác phẩm. Cả trong
giấc mộng lớn và giấc mộng con dù khi viết về kỉ niệm tuổi thơ, thói quen ẩm thực
hay những phiêu du trong ảo mộng… cái Tôi của Tản Đà luôn được thuật lại một cách
đầy hứng khởi, say mê. Mọi cảnh huống trong tác phẩm chỉ là cái cớ để ông phô diễn
về cái Tôi của mình.
 Ngay cả Chu Kiều Oanh thực chất nhân vật này là một hóa thân của chính Tản Đà
trong hình hài của một giai nhân. Tình yêu sự tán thưởng, kì vọng của Chu Kiều Oanh
dành cho Nguyễn Khắc Hiếu là một cách để Tản Đà bộc lộ sự say mê của ông đối với
chính bản thân mình.
 Vì thế có thể nói đến một Narcissism trong những sáng tác của Tản Đà. Nhà văn công khai
bộc lộ sự say mê với bản thân mình, lấy cái Tôi làm chất liệu cho mọi khám phá. Sự tôn
thờ và say mê cái Tôi khiến cho Tản Đà và các tác phẩm của ông trở nên đặc biệt khác lạ

VD : TỐNG BIỆT :

- Đề tài cũ: Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thúc Sinh từ biệt Thúy
Kiều. Thâm tâm dùng đề tài Tống biệt hành để đối thoại lại với tống biệt xưa kia « Đưa
người ta không đưa qua sông »
- Tản Đà: cuộc chia tay của tiên nữ tiễn 2 chàng Lưu Thành – Nguyễn Triệu khỏi thiên thai
- Thi liệu cũ
- Bút pháp cũ : tả cảnh ngụ tình
Nửa năm tiên cảnh : Một bước trần ai
Một bước không chit là không gian mà là bước qua hai cõi
- Mới : cảm thức thời gian tất cả trong những cái cũ nhất đều gợi sự uyển chuyển động của
thời gian, trong vỏ bọc thi liệu, thể tài rất cũ là một tình điệu mới đang chuyển động, cảm
thức về cái mất mát, chảy trôi, một đi không trở lại.
« Cái hạc bay đi vút tận trời », « xa cách mãi », « cửa đông đầu non đường lối cũ »: tạo hình
theo lối tan biến, rất giống Tản Đà là đầu gạch nối: ở cõi tiên ông là khách tục, ở cõi trần ông
là khách tiên
 Tản Đà chưa phải là nhà thơ mới. Nhưng ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có nhiều
tìm tòi, sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ. Trong thời buổi mà lối thơ niêm
luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ như « Tống biệt » này của Tản Đà đã đem đến một
tiếng nói mới, vượt ra ngoài khuôn sáo cũ tạo nên « một giọng phóng túng riêng » trong
phong cách thơ Tản Đà.

XUÂN DIỆU
Page | 29
I. Tiểu sử - Con người
1. Tiểu sử
- Xuân Diệu, tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nhan
- Quê cha ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Quê mẹ ở Gò Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình
Định
- Thuở nhỏ học chữ Hán và chữ quốc ngữ với cha, rồi đi học ở Quy Nhơn, trường Bưởi (Hà
Nội) và trường Khải Định (Huế). Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ
- Năm 1940, Xuân Diệu đỗ Tham tá nhà Thương chính vào làm ở ti Thương chính Mĩ Tho
(nay thuộc Tiền Giang)
- Sau đó 4 năm, Xuân Diệu thôi việc, ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự
lực văn đoàn
- Sau Cách mạng tháng 8, hăng hái hoạt động văn nghệ phục vụ hai cuộc kháng chiến. Năm
1948, được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1, 2, 3. Ông được
Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ thông tấn (1983)
- Năm 1985, Xuân Diệu từ trần sau một cơn đau tim đột ngột. Ông được Nhà nước tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – 1996)

2. Con người

« Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong

Ông đồ Nho lấy cô làm nước mắm.

Làng xóm cười giọng ông đồ trọ trẹ,

Nhưng quý ông đồ văn vẻ giỏi giang.

Bà ngoại nói : tôn trọng người chữ nghĩa,

Dám gả con cho cách tỉnh, xa đàng »

(Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong)

- Xuân Diệu được thừa hưởng ở cha – ông đồ nghệ đức tính cần cù, kiên nhẫn trong học tập
rèn luyện tài năng và lao động nghệ thuật bền bỉ. Với XD, rèn luyện và lao động sáng tạo vừa
là 1 thử thách gian khổ, vừa là 1 lẽ sống lớn, 1 niềm đam mê lớn.
- Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ, XD thường nói đến tác động của thiên nhiên Quy Nhơn với hồn
thơ nồng nàn, sôi nổi của ông, đặc biệt là những ngọn gió nồm « Quê mẹ gió nồm thổi lên
tươi mát » và những con sóng biển « như hôn mãi ngàn năm ko thỏa/ bởi yêu đời lắm lắm em
ơi »
- Là con vợ lẽ, phải sống xa mẹ từ nhỏ, thường bị hắt hủi khiến XD luôn khao khát tình thương
và sự cảm thông của người đời.
- Là 1 trí thức Tây học, XD hấp thụ ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa Pháp 1 cách có hệ
thống.
- Mặt khác, do xuất thân từ 1 gđ nho học nên được tiếp thu 1 cách tự nhiên ảnh hưởng của nền
văn hóa truyền thống.

Page | 30
 Vì vậy, ở XD có sự kết hợp của cả 2 yếu tố cổ điển và hiện đại, phương Đông và phương
Tây. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Phương Tây vẫn sâu đậm hơn.
- Cha XD là 1 nhà nho, từng thi đỗ tú tài (ông tú kép) nên XD chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn
học Trung Quốc, đặc biệt là Đường thi. Tuy nhiên XD thuộc thế hệ hs, sv ngồi trên ghế nhà
trường Pháp - Việt nên tiếp thu thi ca phương Tây 1 cách sâu sắc.
- Trải nghiệm trên nhiều vùng đất.
- Cấu trúc thân thể, mặc cảm thiểu số khiến XD vừa cô độc, vừa cô đơn giữa cuộc đời.
-  XD là thi sĩ luôn khao khát tình yêu nhưng lại mang nặng ám ảnh cô đơn. 2 trạng thái tinh
thần này tạo thành 1 phức cảm trong con người XD, ko loại trừ mà cộng hưởng lẫn nhau.
Càng cô đơn, thi sĩ càng khao khát tình yêu. Càng khao khát tình yêu thì càng thấy cô đơn.

II. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC

1. Sáng tác trước CM

- Thơ : thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945)

- Văn xuôi : Phấn thông vàng (1939)

2. Sáng tác sau CM

- Thơ : Ngọn quốc kì (1945) ; Hội nghị non sông (1946) ; Dưới sao vàng (1949) ; Sáng (1953) ;
Mẹ con (1953) ; Ngôi sao (1954) ; Riêng chung (1960),…

- Văn xuôi : Trường ca (1945, bút kí) ; Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút kí) ; Việt
Nam nghìn dặm (1946, bút ký), Việt Nam trở dạ (1948, bút kí) ; Kí sự thăm nước Hung (1954,
bút kí) ; Triều lên (1958, bút kí)

- Tiểu luận phê bình : Thanh niên với quốc văn (1945), Tiếng thơ (1951, 1954) ; Những bước
đường tư tưởng của tôi (1958, hồi kí), Ba thi hào dân tộc (1954) ; Phê bình giới thiệu thơ (1960),
HXH –bà chúa thơ Nôm (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Thi hào dân tộc Nguyễn Du
(1966) ; Đi trên đường lớn (1968), Thơ Trần Tê Xương (1970), Đojc thơ Nguyễn Khuyến
(1971), Và cuộc đời mãi xanh tươi (1971)…

 Nhận xét :

- XD là 1 tài năng nhiều mặt : làm thơ, viết văn, viết nghiên cứu phê bình, dịch thuật. Ở
phương diện nào, XD cũng đạt được những thành tựu lớn. Tuy nhiên XD trước hết được biết
đến như 1 nhà thơ lớn của nền VHVN hiện đại.
- Quá trình sáng tác của XD có sự thống nhất và vận động ở cả 2 giai đoạn trước và sau CM.
Thống nhất ở 1 tâm hồn yêu đời, tha thiết với cuộc đời, nồng nàn sôi nổi.
- Nhưng nếu trước CM, thơ XD mang ám ảnh cô đơn thì sau CM, ông đã « phá cô đơn ta hòa
nhập với người ».
- Trước CM chủ yếu là đề tài tình yêu lứa đôi. Sau CM, mở sộng sang tình yêu với đất nước,
nhân dân, đồng loại.
- Tuy nhiên thơ XD trước CM có sự kết tinh về nghệ thuật. Sau CM, do tính đại chúng và
nghiệp dư của nền văn nghệ, thơ XD có phần dễ dãi, độ kết tinh ko còn như trước.
Page | 31
III. Phong cách thơ XD trước CM
1. Tư tưởng
a. Quan niệm nhân sinh:
Là cách nhìn cuộc sống và cách sống. Cách nhìn cuộc đời chi phối cách sống. Cách sống sẽ
tác động trở lại, tạo nên sự vận động liên tục trong cái nhìn cuộc đời của nhà thơ.
- Cuộc đời như một “thiên đường trên mặt đất” (Cái nhìn lãng mạn về hiện thực)
+ “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai để xua ai nấy về hạ giới” (Hoài Thanh)
+ Câu nói hướng đến sự đối thoại của hai quan niệm lớn đương thời: Thế Lữ và Xuân Diệu,
nhằm đặt Xuân Diệu trong tương quan với Thế Lữ
+ Thế Lữ quan niệm thoát lên cõi tiên để quên đi cõi tục. Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai quay
về cuộc sống trần gian. Khi XD bước vào làng thơ mới, danh vọng của Thế Lữ đã mờ đi ít
nhiều
+ Câu nói của Hoài Thanh đánh giá về sự lên ngôi của một tư tưởng mới và sự thoái vị của tư
tưởng cũ. Khi XD xuất hiện thì ngọn cờ tiên phong của Thơ mới đã được chuyển giao từ Thế
Lữ sang Xuân Diệu. Nhìn cuộc đời như một “thiên đường trên mặt đất”, hướng về
những vẻ đẹp của trần gian là sự độc đáo trong quan niệm của XD so với các nhà thơ mới
khác.
 SO SÁNH
- Thế Lữ : với Thế Lữ đô thị là 1 chốn đầy bon chen. Nhà thơ tìm đường thoát li, trở thành
khách chinh phu, khách giang hồ say đắm thiên nhiên. Nhưng con đường thoát li quan trọng
nhất của Thế Lữ là thoát lên tiên, tìm đến tiên giới như 1 môi trường thanh sạch để gột bỏ bụi
trần : « Tiếng sáo thiên thai », « Tiên đồng ngọc nữ »,… Thế Lữ nhìn thế giới nhập nhòa ở
cõi tiên và cõi người, cảnh thực và cảnh mộng.
- Lưu Trọng Lư : thoát li vào thế giới của mộng và sầu
- Chế Lan Viên : tìm về quá khứ vàng son và đổ nát của đất nước Chiêm Thành xưa, vừa hoài
niệm, vừa tiếc thương, hướng đến thế giới của mồ hoang, huyệt lạnh, xương khô, sọ người,
não trắng, những bóng ma hời, những tường thành lở lói,…
- Hàn Mặc Tử : càng về sau hồn thơ HMT càng tìm về thượng giới, càng điên loạn hơn. Nhà
thơ tìm cách thoát li lên chốn trăng sao, tìm ko gian để quên time : « van lạy ko gian xóa
những ngày »
- Vẻ đẹp trần gian trong thơ XD:
 Cuộc sống trần gian chính là thiên đường của XD. Cõi trần thế đẹp như một thiên đường
“Dịu dàng đan những ánh tơ xanh/ Cho gió du dương điệu múa cành” (Trăng)
“Vườn cười hằng bướm, hót bằng chim/ Dưới nhánh không còn một chút đêm/ Những
tiếng tung hô bằng ánh sáng/ Ca đời hưng phục trẻ trung thêm” (Lạc quan)
- Phân tích vẻ đẹp trần gian trong thơ XD qua đoạn thơ:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật…. Tháng Giêng ngon như 1 cặp môi gần”
 Điệp ngữ, đảo ngữ
 Thế giới đầy âm thanh, ánh sáng, sắc màu, hương thơm
 Vạn vật hiện lên trong tư thế cặp đôi

b. Quan niệm về time của Xuân Diệu

Page | 32
- Thời gian tồn tại một cách khác quan, nhưng được con người nhận thức và thể nghiệm, do đó
nở trở thành sản phẩm chủ quan, in dấu ấn tư duy của mỗi chủ thể. Mỗi thời đại, mỗi nền văn
hóa khác nhau quy định cái nhìn về thời gian khác nhau.
- Quan niệm về thời gian của con người thời trung đại:
+ Thời gian là một chu kì khép kín, tuần hoàn: “hiện tại kéo dài vĩnh viễn không tách khỏi
quá khứ”. Cả phương Đông và phương Tây mà đại diện là hai nền văn minh rực rỡ Trung
Quốc và Hi Lạp, “lịch sử đối với họ và những đồng bào của họ chẳng qua chỉ là một sự xoay
vần vĩnh cửu của chừng ấy hình thức chính trị theo một trình tự nhất định”
+ Quan niệm về thời gian trên bắt nguồn từ tư duy nông nghiệp. Hoạt động nông nghiệp
khiến con người cảm nhận thời gian theo những chu kì của tự nhiên: tự nhiên sự lặp lại tuần
tự, vận động liên hoàn và xoay vần trường cửu
+ Thơ xưa cũng có ko ít bài than thở về sự hữu hạn của đời người trong sự vô hạn của thời
gian. Nhưng cố nhân kho hoang mang hoảng hốt, vì họ cho rằng vũ trụ tuần hoàn, thời gian
quay trở lại và con người sẽ hòa nhập vào cái vĩnh hằng của trời đất.
- Trước Xuân Diệu, cũng ko ít thi sĩ ngậm ngùi trước time chảy trôi
- Nguyễn Du: Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân, Ngày vui ngắn
chẳng tày gang.
- Nguyễn Công Trứ: Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi/ Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi
- Tản Đà: Đời người thử ngẫm mà hay/ Trăm năm là ngắn 1 ngày dài ghê. Vèo trông lá rụng
đầy sân
- Nhưng chỉ đến Xuân Diệu mới ý thức được sự xói mòn, phá hủy của time, “time mới trở
thành 1 nỗi ám ảnh” (Đỗ Lai Thúy)
Bài thơ Đi thuyền
Thuyền qua, mà nước cũng trôi
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Dòng mơ tơ tưởng cũng thay khác rồi
Cái bay ko đợi cái trôi
Từ tôi phút trước, sang tôi phút này...
Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu:
- Thông qua hình tượng “nước” và “thuyền” nói lên sự nhận thức rõ ràng nhịp điệu trôi chảy
của time. Time trong thế giới vũ trụ thì vĩnh cửa, còn thời gian đời người là hữu hạn.
- Time như dòng nước, đời người như con thuyền. Con người bất lực hoàn toàn trước sức
mạnh của thời gian vũ trụ và luôn có nguy cơ bị cuốn trôi hoặc bị nhấn chìm: Nước cũng mất
luôn/ Nhưng nước còn nguồn/ Thyền chìm trong nước/ Đêm ngày nước tuôn.
- Cách mượn dòng chảy của nước để nói đến dòng chảy của time là quen thuộc trong thơ ca
xưa nay. Nhưng cái mới của Xuân Diệu là nhìn time 1 cách gấp rút, ko đo time bằng chiều
kích vĩ mô mà bằng time vi mô: time của đời người, thậm chí vi mô đến từng phút giây: “Cái
bay ko đợi cái trôi/ Từ tôi phút trước sang tôi phút này”.
Nhận xét:
- Xuân Diệu nhìn time mang tính chất tuyến tính.
Page | 33
- Time được phân lập thành time của vũ trụ và time của đời người. Time của vũ trụ vận hành
theo quy luật của tự nhiên. Nó là bất biến, vô hạn. Còn time của đời người là ngắn ngủi, hữu
hạn.
- Time của đời người ko còn lẫn trong time của tự nhiên, ko mang tính lặp lại mà là time mất
đi vĩnh viễn, 1 đi ko trở lại
- Time ko còn tính theo chiều vĩ mô: một đời, nghìn năm, vạn năm, thiên thu… mà là time
được vi mô hóa đến từng giây phút.
- Cách đo đếm và cảm nhận time bằng thi liệu hiện đại (giờ, giây, phút)
Dòng chảy của time sẽ đem đến ý niệm về sự phôi pha.
- Thơ Xuân Diệu mang cảm thức phôi pha khá mạnh. Đó là hệ quả tất yếu của cái nhìn time
tuyến tính
- Time làm phôi pha vẻ đẹp thiên nhiên: Với áo mơ phai dệt lá vàng (Đây mùa thu tới), Ta tiếc
theo sau, Sắc tàn hương nhạt mùa xuân dụng/ Những mặt hồng chia rã hết cười (Xuân rụng),
Và giữa vườn im, hoa sợ hãi/ Bao nỗi phôi pha khô héo rụng rời (Gió), Chẳng hái mà cũng
hết dần, Ừ nhỉ, sao hoa lại phải rơi (Ý thu)… (Đây mùa thu tới là đây mùa thu qua)
- Time làm phôi pha nhan sắc của giai nhân: Ta tiếc theo sau những đóa hồng/ Những nàng
con gái sớm phai bông (Ngẩn ngơ), của con người Chỉ mấy năm thôi, đủ phận chồng / Chàng
trai tơ mởn đã thành ông/ Ko còn mộng dễ ngày tươi trẻ/ Mắt sáng phai rồi, má hóp ko
(Tặng bạn bây giờ)
Ý niệm phôi pha
- Time làm tàn phai tình ái: Một chút hương phai của ái tình, Để lòng ước với tình phai ấy,
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều,… Time trong thơ Xuân Diệu được chia làm 2 thời: thời
tươi và thời phai (ý của Chu Văn Sơn). Thời gian tàn hủy để thời tươi trở thành thời phai
- Cách nhìn thời gian này thể hiện quan niệm sống của Xuân Diệu. Cùng là sự vận động của
time, nhưng Xuân Diệu nhạy cảm với vẻ đẹp của sự rụng rơi, tàn phai, cảm xúc ngưng đọng
trong nỗi xót xa, tiếc nuối về sự mất mát của cái đẹp. (Khác với HCM: Hết mưu là nắng hửng
lên thôi/ Hết khổ là vui vốn lẽ đời).
Sống là tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời
- Em mười lăm tuổi, em tuổi hai mươi
Đừng để mất một cái gì mà ko hưởng
- Xuân Diệu muốn tận hưởng đến no nê, đến đã đầy hương sắc của cuộc đời: Cho chuếch
choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh cắc của thời tươi
- Sống là bám riết lấy cuộc đời trần thế
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Ko muốn đi ở mãi mãi vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất
Quan niệm sống hết mình, tận hiến
- Xuân Diệu quan niệm sống là phải hết mình:
Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan
“khi vui cũng như khi buồn, nàng đều nồng nàn tha thiết”.
(Hoài Thanh)

Page | 34
- Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời,
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất,
Hai tay chín móng bám vào đời. Chíu/ chín
 Cách sống của 1 con người ko nguôi khát sống , thèm yêu. Cường độ cảm xúc luôn được đẩy
đến mức tuyệt đối, khao khát được thụ hưởng cuộc sống 1 cách tuyệt đối.
Cuộc đời: đẹp  (t): hữu hạn  vội vàng
Vì time trôi chảy và làm tàn phai tất cả, nên Xuân Diệu quan niệm sống phải vội vàng để
chạy đua với time, để tận hưởng nhiều nhất những ân hưởng của cuộc đời trong quỹ đạo
time eo hẹp nhất.
- Thơ Xuân Diệu ồn ào bởi những lời giục giã: Mau lên chứ vội vàng lên với chứ/ Em em ơi
tình non sắp già rồi; Mau lên đi/ Mùa chưa ngả chiều hôm. Nhà thơ ước muốn níu kéo time:
Tôi muốn tắt nắng đi/ cho màu đừng nhạt mất. Tắt nắng để làm ngừng dòng thời gian trôi
chảy.
- Thơ Xuân Diệu quan tâm đến chất lượng sống nhiều hơn là độ dài cuộc sống: Thà 1 phút
huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Vì vậy, phải sống toàn thân và
thức nhọn giác quan. Điều này càng nhấn mạnh cách ham hố, hết mình của Xuân Diệu
 Nhận xét:
- Cách nhìn và cách sống là 2 yếu tố giúp xác định quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu. Cách
nhìn cuộc đời và cách nhìn thời gian là nguyên nhân sâu sa chi phối đến cách sống của Xuân
Diệu. Cuộc đời tươi đẹp như 1 thiên đường, nên sống là phải tận hưởng cuộc đời. Thời gian
làm phôi pha mọi vẻ đẹp, nên sống là phải vội vàng để chạy đua với thời gian để có thể
hưởng thụ cuộc đời được nhiều nhất trong 1 quỹ thời gian ít nhất.
B. Quan niệm thẩm mỹ
- Cái đẹp là cái đầy sức sống: tuổi trẻ và mùa xuân
- Cuộc xung đột giữa thơ cũ và thơ mới ko chỉ là cuộc xung đột giữa cái cũ và cái mới. Nhìn sâu xa
hơn, đó là cuộc xung đột giữa trẻ và già. Bìa thơ Tình già của Phan Khôi thực chất là nói về tình trẻ:
Con mắt có đuôi. Sự phục hưng của Thơ mới chính là sự phục hưng của tinh thần trẻ.
- Cái đẹp là cái đầy sức sống: tuổi trẻ và mùa xuân
- Xuân Diệu ko phải là thi sĩ đầu tiên ca ngợi tuổi trẻ. Trước ông đã có ko ít tư tưởng ca ngợi tuổi trẻ
và đề cao sự hưởng thụ tuổi trẻ: Chơi xuân kẻo hết xuân đi/ Cái già sồng sộc nó thì theo sau. (Ca
dao)
- Nhưng cái độ đáo của Xuân Diệu là ở chỗ: Nhà thơ đã dùng trẻ để làm thước đo định giá mọi
vẻ đẹo của cuộc đời, 1 phương diện thiết yếu của nhân sinh. Trẻ đã trở thành 1 thứ mỹ cảm để
Xuân Diệu hướng tới . Với Xuân Diệu, trẻ nghĩa là đẹp. Phạm trù cái đẹp được đo bằng cái trẻ.
Trong lời đưa duyên cho tập Thơ thơ, Xuân Diệu coi tuổi trẻ và tình yêu là phần ngon nhất của cuộc
đời
- Mỹ cảm trẻ đã hướng Xuân Diệu đến 2 đối tượng: Với thiên nhiên, thi sĩ hướng đến mùa
xuân; với con người thi sĩ hướng đến những người còn trẻ tuổi – trẻ lòng.
Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu:
- Xuân Diệu say đắm với mùa xuân vì mùa xuân là quãng thời gian ý nghĩa nhất của tạo vật,
mùa trẻ nhất của đất trời, cũng như tuổi trẻ là quãng thời gian ý nghĩa nhất của cuộc đời mỗi
Page | 35
con người. (Khác với Chế Lan Viên: thù ghét mùa xuân, yêu mùa thu, vì quan niệm mùa
xuân là hiện tại, mùa thu là quá khứ: Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Đem chi xuân đến chỉ thêm
sầu
- Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu hiện lên ở độ trẻ trung, tươi thắm, rạo rực nhất của nó. Mùa
xuân ấy là hội tụ, kết tinh của nhiều vẻ đẹp đến mức đỉnh điểm. Mùa xuân có ánh sáng rực
rỡ, trong trẻ, có màu sắc tươi thắm, có âm thanh ríu rít, có hương vị nồng nàn: Giữa vườn inh
ỏi tiếng chim vui/ Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời/ Sao buổi đầu xuân êm ái thế/ Cánh
hồng kết những nụ cười tươi (Nụ cười xuân), Trời xanh thế, hàng cây thơ biết mấy!/ Vườn
non sao! Đường cỏ mọng bao nhiêu (Xuân đầu),…
Xuân ko mùa
 Xuân Diệu ko chỉ bó hẹp mùa xuân trong 3 tháng theo quy luật của trời đất, mà còn nhìn
xuân như 1 ý niệm về cái đẹp
 Mùa xuân có trong mọi thời khắc, mọi vẻ đẹp của đất trời. Khi ấy, cái đẹp chính là mùa xuân.
Con người là chuẩn mực của cái đẹp
- Xuân Diệu hướng đến những chàng trai – cô gái còn đang trẻ tuổi, trẻ lòng.
- Xuân Diệu có hẳn 1 thi phẩm đặt nhan đề là Đẹp để thể hiện quan niệm thẩm mĩ của mình:
Em đẹp, khi em phồng nét ngực/ Hít ko gian và ngó thẳng trời xa/ Khi cánh tay đang ôm cả
sơn hà/ Chân vút thẳng sắp lên đường vượt trải; Mười chín tuổi! Mặt trời đang óng ả/ Anh
sáng ca, lanh lảnh tiếng đời ngăn/ Bông hạnh cười, mười chín tuổi than tân/ Gánh nhẹ nhõm
trên thân hình măng mọc.
- Thời trẻ là thời thanh niên: Thanh niên ơi, người đang ở cùng ta. Thanh niên mang vẻ đẹp
của xuân thì: “Ôi! Thanh niên! Người mang hết xuân thì/ Hình ngực nở, nụ cười tươi, màu
tóc láng”. Khi mất thời trẻ, mất thanh niên thì cũng có nghĩa là con người rơi vào sự cô đơn:
Cô đơn quá, bởi ko còn người nữa, Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất…
- Con người là thước đo vẻ đẹp của tự nhiên: lá liễu dài như 1 nét mi
 Quan niệm thẩm mỹ hướng về cái trẻ đã khiến Xuân Diệu hứng thú với mùa xuân và tuổi trẻ
của con người, Cái trẻ chính là cái đẹp.
Quan niệm tình yêu
1. Quan niệm tình yêu và cảm xúc tình yêu được thể hiện như thế nào trong thơ Xuân
Diệu? Đâu là nét mới của ông trong địa hạt thơ tình?
2. So sánh thơ viết về tình yêu của Nguyễn Bính và thơ viết về tình yêu của Xuân Diệu để
thấy quan niệm thơ của Xuân Diệu?
C. Quan niệm tình yêu
- Nồng độ và cường độ yêu đều vô cùng mãnh liệt.
Đây là quan niệm rất mới của XD so với đương thời. Trong xã hội cái ta giữ vị trí độc quyền
thời trung đại, tình yêu lứa đôi thuộc lĩnh vực cái tôi nhỏ bé, phải giấu kín.
Thơ tình của Xuân Diệu là 1 thứ rượu nồng và mạnh. Thi sĩ tự nhận mình là Kẻ uống tình yêu
dập cả môi, yêu từ khi chưa có tuổi và khi chết đi rồi tôi sẽ yêu ma, luôn ko nguôi nỗi khát thèm
tình ái

Page | 36
Lí do tồn tại của Xuân Diệu là tình yêu: Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi/ Ko xương vóc chỉ huyền
hồ bóng dáng. Tình yêu là lẽ sống của Xuân Diệu Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ lắm/ Chỉ biết yêu
thôi chẳng hiểu gì.
- Yêu là phải công khai, tỏ bày, phải nói to lên tình cảm của mình.
- So sánh 2 bài thơ Người hàng xóm của Nguyễn Bính và Phải nói của Xuân Diệu: Đây là 2
thi phẩm thể hiện cách bộc lộ tình yêu riêng của từng thi sĩ
Người hàng xóm Phải nói
- Với Nguyễn Bính, tình yêu thầm - Với Xuân Diệu, tình yêu phải
kín, ko nói, chính xác là ko dám được tỏ bày. Nếu ko tỏ bày thì
nói: Dù cho Nhà nàng ở cạnh nhà tình yêu là vô nghĩa: Yêu tha thiết
tôi/ Cách nhau cái dậu mùng tơi , thế vẫn còn chưa đủ/ Nếu em
xanh rờn thì cái dậu mùng tơi chỉ yêu mà chỉ để trong lòng/ Ko tỏ
là cái cớ để che đậy sự nhút nhát hay, yêu mến cũng là ko.
của nhân vật trữ tình: Gía đừng có - Ko chỉ nói 1 lần mà là: Yêu tha
dậu mùng tơi/ Thế nào tôi cũng thiết thế vẫn còn chưa đủ/ Phải
sang chơi thăm nàng. Đó là cái nói yêu trăm bận đến nghìn lần.
giậu mùng tơi mà lòng người tự - Nói yêu bằng nhiều cách, ko chỉ
đặt ra, 1 giới hạn mà con người tự nói bằng lời mà bằng tất cả các
thiết lập. Do đó, nó tồn tại như 1 giác quan, thậm chí, các giác
ko gian ngăn trở tình yêu đôi lứa. quan được phát huy lên đến đỉnh
- Nhớ nàng, nhưng chỉ dám hỏi điểm của sự mê đắm: Em phải
nhỏ: bướm ơi, bướm hãy vào đây/ nói, phải nói, và phải nói/ Bằng
cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi. lời riêng nơi cuối mắt đầu mày/
Bằng nét vui, bằng vẻ thẹn, chiều
say/ Bằng đầu ngả, bằng miệng
cười, tay riết.

Tương tư Tương tư, chiều


Tương tư được nói bóng nói gió, xa xôi, Nỗi nhớ được phơi trải 1 cách trực tiếp,
phải gửi vào đối tượng thứ ba- 2 miền ko mạnh mẽ. Thi sĩ thốt to, kêu to lên nỗi
gian xa cách: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn nhớ da diết của mình.
Đông/ Một người chín nhớ mười mong 1 Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ
người, Cau thôn Đoài nhớ trầu ko thôn ảnh
nào Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!
- Nói vòng vo, xa xôi mới đến
được nỗi nhớ của mình: gió mưa
là bệnh của trời/ Tương tư là bệnh
của tôi yêu nàng

Quan niệm tình yêu


- Tình yêu phải là sự giao cảm tuyệt đối cả về thân thể lẫn tâm hồn

Page | 37
Đây là sự phục hưng trong lí tưởng thẩm mỹ từ những vần thơ tình đầy nhục cảm đã được khơi
lên từ Hồ Xuân Hương. Dòng chảy bên lề của văn học trung đại, giờ được phục hưng thành
dòng chảy chính thống trong Thơ mới. Ngoài Hồ Xuân Hương, tình yêu được bộc lộ trong thơ
trung đại thường mang tính quá mức thanh tao, thuần túy tinh thần. Bởi với thơ cổ, ngay tình yêu
cũng là 1 đề tài cấm kị, chưa nói gì đến tính dục với những khao khát ái ân. Nguyễn Du khi tả
nàng Kiều tắm, chỉ dám viết gợi:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày đúc sẵn 1 tòa thiên nhiên.
Nói đến quan hệ ái ân nam nữ, cũng phải che đậy bằng các điển cố điển tích: nói về quan hệ ái
ân giữa Kiều và Thúc Sinh: Sớm đào tối mận lân la/ Trước còn trăng gió sau ra đá vàng./ Miệt
mài trong cuộc truy hoan/ Càng quen thuộc nết càng dan díu tình. Nói về quan hệ xã thịt trong
lầu xanh: Biết bao bướm lả ong lơi/ Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm/ Dập dìu lá gió cành
chim/ Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
- Xuân Diệu trong thời đại thức tỉnh ý thức cá nhân đã mạnh mẽ hơn, đưa những khát khao
nhục dục vào thơ.
- Thơ Xuân Diệu đầy những nụ hôn: Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực/ Hãy trộn nhau đôi mái
tóc ngắn dài/ Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai/ Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt/
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt; Em vui đi răng nở ánh trăng rằm/ Anh hút nhụy
của mỗi giwof tình tự.
- Xuân Diệu có những vần thơ gợi cảm giác ái ân, được xem là rất táo bạo thời bấy giờ: Hãy
tuôn âu yếm lùa mơn trớn/ Sóng mắt, lời môi, nhiều – thật nhiều; Trăng, vú mộng đã muôn
đời thi sĩ/ Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy; Tay ân ái như những làn thân thể/ Đã ôm đời
vào ngực để mơn ru;...
- Xuân Diệu đã trả tình yêu về với bản nguyên của nó. Cái tôi cá nhân đã tiến thêm 1 bước.
- Nhưng tình yêu trong thơ Xuân Diệu trần thế chứ ko dung tục, là tình yêu của con người ở
giữa cõi đời. Xuân Diệu vẫn giữ thơ trên ranh giới của chủ nghĩa lãng mạn, ko sa vào sự tụng
ca xác thịt như Bích Khê sau này.
- Cái đích cuối cùng mà Xuân Diệu hướng đến trong tình yêu ko chỉ là sự thỏa mãn những
đam mê nhục dục mà là sự hòa hợp về tâm hồn – sự hòa hợp trọn vẹn nhất, lí tưởng hạnh
phúc tình yêu cao nhất.
- Bởi thế, dẫu đã sát đôi đầu kề đôi ngực, đã trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài, khăng khít những
cặp môi, nhưng Xuân Diệu vẫn thốt lên rằng: Gần thêm nữa thế hãy còn xa lắm. Thi sĩ khao
khát 1 sự hòa điệu tâm hồn: Dầu tin tưởng chung 1 đời 1 mộng/ Em là em anh vẫn cứ là anh/
Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành/ Của 2 vũ trụ chứa đầy bí mật.
- Quan niệm về tình yêu của Xuân Diệu mang tính toàn diện: Nên lúc môi thơm kề miệng
thắm/ Trời ơi, ta muốn uống hồn em  khao khát hòa hợp tuyệt đích cả thể xác lẫn tâm hồn.
- Thơ Xuân Diệu là 1 cuốn từ điển về tình yêu
- Xuân Diệu từng nói: “Đặc sản của tôi là thơ tình, tôi sẽ lập 1 cuốn từ điển tình yêu bằng
thơ”. Tình yêu là thứ tình cảm phong phú, phức tạp, trải qua nhiều thời điểm, cung bậc.
- Có tình yêu buổi ban đầu nguyên sơ Buổi ấy lòng tôi nghe ý bạn/ Lần đầu rung động nỗi
thương yêu
- Có tình yêu nồng nàn, say đắm: Nên lúc môi thơm kề miệng chén/ Trời ơi ta muốn uống hồn
em, có lúc khổ đau tuyệt vọng Lòng ta là 1 cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em là lá khoai

Page | 38
- Có những lúc tương tư vơ vãn: Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương tư nâng
lòng lên chơi vơi, có nỗi nhớ ko kìm được trong lòng phải bật lên thành tiếng: Anh nhớ tiếng.
Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em. Anh nhớ lắm em ơi.
- Các cung bậc tình yêu ấy tạo nên sự đa dạng trong thế giới thơ tình Xuân Diệu. Nhưng dù đa
dạng chúng đều thống nhất ở sự nồng nàn say đắm. Mấy ai say người tình như Xuân Diệu:
Say người như rượu tối tân hôn? Mấy ai khát khao tình yêu như Xuân Diệu: Uống xong lại
khát là tình/ Gặp rồi lại nhớ là mình với ta,... Mấy ai cầu xin tình yêu khẩn khoản thế này:
Và hãy yêu tôi 1 giờ cũng đủ/ Một giây cũng cam 1 phút cũng đành. Mấy ai uống tình yêu
đến rập cả môi rồi vẫn còn tha thiết: Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ/ Phải nói yêu đến
trăm bận nghìn lần...
-  Tình yêu với Xuân Diệu đã trở thành lẽ sống: Làm sao sống được mà ko yêu. Tình yêu là
thứ tôn giáo mà nhà thơ tôn thờ.
 Cái tôi sầu tủi cô đơn
- Diện mạo của cái tôi cô đơn:
+ Thơ XD có 1 hệ thống hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng cho nỗi cô đơn: Núi xa, Hi Mã Lạp Sơn,
chiếc đảo, bông hoa trong rừng thẳm, con nai bị chiều đánh lưới, kẻ đi đày, người kĩ nữa: Em sợ
lắm băng tràn mọi nẻ/ Trời đầy trăng lạnh lẽ suốt xương da,...
+ Cái tôi hiện lên đầy thảm hại như 1 kẻ thất tình, bị bủa vây bởi nỗi cô đơn: Lòng ta như ngựa
trẻ ko cương/ Còn ngựa ngất ngây dường diệu viễn, Lòng như chiếc thuyền hư ko bến đỗ. Nhà
thơ thê thiết kêu than: Cô đơn muôn lần, muôn thủa cô đơn, Ta nằm đây như 1 ải quan xa, thậm
chí: Trái tim buồn như 1 bãi tha ma,...
 Cái tôi tình si và cái tôi sầu tủi cô đơn
- Trong Thơ thơ có 40% bài thơ xuất hiện chữ tôi, cái tôi cá nhân được khắc họa hùng vĩ,
tầm vóc, đủ sức mở ra bao chứa vũ trụ.
 Cái tôi tình si:
Cái tôi XD được bộc lộ rõ nét và đầy đủ nhất trong tình yêu. Người tình nhân hiện lên theo
đúng nghĩa của 1 người tình si: si mê, si cuồng. XD tuyệt đối hóa tình yêu:
- Tự nhận mình là yêu từ khi chưa có tuổi: Thủa xưa kia là con của mặt trời/ Tôi có lửa ở
trong lòng nắng dội/ Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi/ Lúc chưa sinh vơ vẩn giữa dòng đời.
- Tự họa mình trong 1 diện mạo đầy quyến rũ: mặt tươi, môi đậm, đầu mây gợn, mắt mây qua,
đôi tay luôn sẵn sàng ân ái: Tay ân ái như những nàn thân thể.
- Thành thực với những sở trường, sở đoản: Tôi khờ dại lắm ngu ngơ quá/ Chỉ biết yêu thôi
chẳng hiểu gì.
- Cái tôi khao khát 1 tình yêu có sự hòa hợp tuyệt đối giữa thể xác và tâm hồn (xem phần: thi
sĩ của tình yêu)
- Tình yêu được tuyệt đối hóa như lẽ sống cao nhất của XD, như thứ tôn giáo mà nhà thơ là 1
tín đồ ngoại đạo: Tài năng chi, Danh vọng kể mà chi/ Kể chi Tiền với 1 kẻ si mê/ Chỉ thấy
nghĩa trong Ái tình vĩnh viễn, Tôi ko biết, ko biết gì nữa cả/ Chỉ yêu nhiều là tôi biết mà
thôi,...
 Cái tôi sầu tủi cô đơn
- Diện mạo của cái tôi cô đơn:

Page | 39
+ Thơ XD có 1 hệ thống hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng cho nỗi cô đơn: Núi xa, Hi Mã Lạp Sơn,
chiếc đảo, bông hoa trong rừng thẳm, con nai bị chiều đánh lưới, kẻ đi đày, người kĩ nữa: Em sợ
lắm băng tràn mọi nẻ/ Trời đầy trăng lạnh lẽ suốt xương da,...
+ Cái tôi hiện lên đầy thảm hại như 1 kẻ thất tình, bị bủa vây bởi nỗi cô đơn: Lòng ta như ngựa
trẻ ko cương/ Còn ngựa ngất ngây dường diệu viễn, Lòng như chiếc thuyền hư ko bến đỗ. Nhà
thơ thê thiết kêu than: Cô đơn muôn lần, muôn thủa cô đơn, Ta nằm đây như 1 ải quan xa, thậm
chí: Trái tim buồn như 1 bãi tha ma,...
- Lí giải sự cô đơn trong cái tôi của XD:
+ Cái tôi XD mang ý thức cao về bản thể và khao khát được khẳng định mình. Trong tình yêu,
nó nồng nhiệt, cuồng si. Nhưng chỉ gặp sự ruồng rẫy, phụ tình của người đời. Trong tinh yêu
Xuân Diệu cho nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu nên càng cuồng nhiệt đam mê thì càng gặp
sự lạnh lẽo hững hờ: Lòng anh là 1 cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em là lá khoai, Người si muôn kiếp
là hoa núi/ Uống nhụy lòng tươi tặng khách hờ. XD cũng hiểu được điều đó và tự trách mình
khờ dại: Người ta khổ vì thương ko phải cách/ Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người/ Có kho
vàng nhưng chẳng tặng tùy nơi/ Người ta khổ vì xin ko phải chỗ.
+ Cũng có thể lí giải sự cô đơn trong cái tôi XD từ cấu trúc thân thể đặc biệt của ông. Là 1 người
đồng tính, XD luôn mang mặc cảm bị đồng loại xa lánh, rời bỏ. Sự cô đơn của XD vì thế có cội
nguồn từ cái mặc cảm thiểu số của mình (ý của Đỗ Lai Thúy) Chớ để riêng em phải gặp lòng
em, Tôi mội mình đối diện với tình ko,..
NHẬN XÉT:
- Những chặng đầu, nỗi cô đơn tuy đã xuất hiện nhưng chưa trở thành ám ảnh. Càng về sau,
XD càng cảm nhận sâu sắc nỗi cô đơn.
- Tuy nhiên, sự cô đơn trong thơ XD chưa phải đã đến mức quằn quại, da diết như Hàn Mặc
Tử, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng sau này. Bởi Thơ mới lúc ấy vẫn còn tìm được sự đồng
vọng ở tầng lớp độc giả đô thị trẻ tuổi, chứ chưa rơi vào trạng thái tuyệt vọng, bế tắc.
 XD càng tình si thì càng cô đơn, càng cô đơn thì càng khao khát tình yêu. Cái tôi tình si và
cái tôi sầu tủi cô đơn, do đó, là 2 mặt của cái tôi trữ tình XD.
2. NGHỆ THUẬT
2.1. Ngôn từ
Hai loại từ xuất hiện chủ yếu trong thơ XD là động từ và từ láy.
- XD thường sử dụng những động từ diễn tả cảm giác mạnh bạo, quyết liệt: ôm, riết, say, thâu,
cắn, hút, bấu, uống, ngoàm,...để biểu thị sự ham hố vô biên cuộc sống.
- Từ láy được sử dụng nhiều vì XD là nhà thơ của cảm giác, của những rung động tinh vi:
ngẩn ngơ, chon von, run rẩy, lung linh,...
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
(Vương Bột)
Một nghìn năm – Hai thế giới

Page | 40
- Cách tổ chức lời thơ: thơ XD phát huy triệt để việc tổ chức lời thơ dưới dạng thơ trữ tình
điệu nói.
- Ngôn ngữ thơ giàu chất nhạc: Huyền diệu, Nguyệt cầm, Nhị hồ,...
- Ngôn ngữ giàu tính biểu tượng
Thơ XD đầy những biểu tượng của sự sống: xuân, thu, trăng, chim, bướm, hoa, gió, vườn,...
2.2. Giọng thơ
- Thơ XD là sự hòa phối của nhiều giọng điệu, nhưng chủ âm là giọng cuồng nhiệt, gấp gáp, tiêu
biểu là các bài: Vội vàng, Xa cách, Phải nói, Giục giã,...
2.3. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, bút pháp tương giao (dấu ấn của thơ tượng
trưng)
- Điển hình trong bài Huyền diệu, XD đã tìm đến thủ pháp chuyển đổi cảm giác để tạo nên 1 ko gian
đầy âm nhạc, ánh sáng, màu sắc, hương thơm:
- “Bài thơ là 1 lâu đài kiến trúc thượng tầng đầy âm vang và âm hưởng chủ đạo của nó là cảm hứng
về sự tương ứng giữa các giác quan” (Nguyễn Lệ Hà)
- 4 khổ thơ, mỗi khổ là 1 khúc nhạc với sự chuyển điệu tinh vi: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm;
Hãy uống thơ tan trong khúc nhạc/ Ngọt ngào kêu gọi thủa xa khơi, khúc nhạc hưởng, Ngừng hơi
thở lại em trong ấy/ Hiển hiện hoa và phảng phất hương. Một bản đàn (thính giác) được diễn tả
bằng thơm (khứu giác), hưởng (thị giác)
(Đọc: “Tương ứng” – Charles baudelaire)

NGUYỄN BÍNH
I. Tiểu sử và con người
1. Tiểu sử
- Nguyễn Bính sinh năm 1918, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện
Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định trong 1 gia đình nhà Nho nghèo.
 Ảnh hưởng đến con đường văn chương; giấc mơ quan trạng.
- Ảnh hưởng từ Nho học của Nguyễn Bính đậm hơn (nhóm Áo bào gốc liễu)
- Hoài Nam: “Áo bào gốc liễu” lại xuất hiện, như 1 nghịch phách, qua thơ Nguyễn Bính – đặc
biệt là qua thơ của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân – và khiến người ta phải chú ý. Chú ý vì cái
dư vị cổ kính mà các tác giả đó đã tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ cổ thi. Chú ý vì
giọng điệu ngang tàng và phẫn hận trong lời thơ, 1 giọng điệu quả thực ko mấy phổ biến
trong Thơ Mới.
- “Hỡi ơi, Nhiếp Chính mà băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây?/ Kinh Kha quán lạnh
sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?/ Mơ gì Áp Tiết thiêu văn tự/ Giày cỏ, gươm
cùn, ta đi đây!” (Hành phương Nam)
- Mồ côi mẹ từ sớm. Cha là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, mẹ là bà Bùi Thị Miện, con
gái ruột gia đình khá giả.
+ ông bà sinh được 3 người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ
và Nguyễn Bính.
Page | 41
+ Bà Miện bị rắn độc cắn rồi mất năm 1918, lúc đó bà mới 24 tuổi, để lại cho ông Bình ba
đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới 6 tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ 3 tuổi và Nguyễn
Bính mới sinh được 3 tháng. Đúng như câu thơ Nguyễn Bính viết: Còn tôi sống sót là may/
Mẹ hiền mất sớm giời đày làm thơ.
+ Khi mới 13, 14 tuổi, Nguyễn Bính đã phải rời quê theo anh cả ra Hà Đông kiếm sống.
 Mặc cảm côi cút, cô đơn.
- Quê hương: nghèo, nhưng đẹp
 Gương mặt thôn Vân trở đi trở lại như 1 thiên đường trong thơ Nguyễn Bính.
Quê NB ở làng Thiện Vịnh, quang cảnh tiêu điều, ảm đạm, nheo nhóc (Tô Hoài), nhưng hình
bóng trong thơ lại tươi sáng, thơ mộng, thi vị. Vì ông còn có thứ làng quê thứ 2 ông gắn bó, yêu
quý, sống ở đó lâu ngày: thôn Vân.
- Học vấn: vốn chữ nghĩa ít ỏi, học theo lối truyền khẩu ở nhà  Nguyễn Bính làm thơ theo
bản năng, chất thuần Việt càng được khắc sâu.
Học trò trường huyện ngày năm ấy
Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ
Những buổi học về ko có nón
Đội đầu chung 1 lá sen tơ

Lá sen vương vấn hương sen ngát


Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc
Theo về tận cửa mới tan mơ.

Em đi, phố huyện tiêu điều lắm


Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi
Mà đến hôm nay anh mới biết
Tình ta như chuyện bướm xa thôi. (Trường huyện)

- Đường đời:
+ Nguyễn Bính làm thơ sớm, từ năm 13 – 14 tuổi, đến năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi được giải
khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn.
+ Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến ở Nam Bộ. Ban đầu,
phụ trách văn hóa cứu quốc ở tỉnh Rạch Giá, sau chuyển về cơ quan Văn nghệ kháng chiến khu
VIII
+ 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, rồi về công tác ở Hội Nhà văn VN. 1956, chủ trương báo
Trăm Hoa. 1958, báo Trăm Hoa giải thể, văn nghệ sĩ chỉnh huấn và đi thực tế dài ngày ở các địa
phương sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, ông về cư trú công tác tại Ty Văn hóa Thông tin Nam
Định
- Nguyễn Bính mất đột ngột cuối năm Ất Tỵ (1966), giữa lúc đến nhà bạn dự lễ Tết.
(ngày 20/1/1966 nhằm ngày 29 tháng chạp âm lịch (Tết năm ấy ko có ngày 30).
- Năm 2000, ông được truy tặng giải thưởng HCM về Văn học Nghệ thuật đợt II
2. Con người.

Page | 42
- Nguyễn Bính là nhà thơ gắn bó sâu nặng với thôn quê : tuy ko sinh ra trong 1 gia đình nông
dân, làm rộng, nhưng sống gia truyền ở nông thôn nên ông đã tiếp thu trọn vẹn tinh hoa của
nền văn hóa xóm làng. Chất thôn quê đã thấm vào hồn thơ Nguyễn Bính, tạo nên sự gắn bó
sâu nặng giữa nhà thơ với thôn quê.
- Nguyễn Bính là con người cô độc, yêu nhiều và si mê nhưng luôn cô đơn trong tình yêu. Con
gái Nguyễn Bính – bà Nguyễn Bích Hồng Cầu nói: “Hồi nhỏ tôi cũng giận ba tôi lắm. Nhưng
lớn lên trìm hiểu, tôi vỡ lẽ, đời ba tôi bất hạnh nhiều. Nhiều vợ nhưng ko ai hiểu ông. Và ông
cứ phải đi tìm cái bóng hạnh phúc cho đến khi nhắm mất xuôi tay vào đêm giao thừa năm
1966”.
Kiêng nhất đừng lấy chồng thi sĩ
Nghèo lắm con ơi bạc lắm con
- Nguyễn Bính là nhà thơ thích xê dịch giang hồ. Có 2 loại xê dịch: phiêu lưu (tìm thấy chất
thơ của sự bất trắc – Nguyễn Tuân), bất đắc dĩ (bị ném vào giang hồ - dấn thân vào giang hồ
nhưng luôn ái ngại). Nguyễn bính luôn băn khoăn về nơi đễn như thế nào: dấn thân vào giang
hồ nhưng luôn băn khoăn về sự giang hồ của mình – gốc tiểu nông.
- Nguyễn Bính đi nhiều nơi nhưng ko ở nơi nào thật lâu . Mỗi chuyến đi đều mang đến cho ông
1 nguồn cảm hứng thi ca dồi dào. Những tập thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng phần lớn
được làm trong những chuyến xê dịch giang hồ. Nguyễn Bính làm thơ về quê ngay khi ở
thành thị. Càng về sau, dấu ấn của những chuyễn xê dịch giang hồ trong thơ Nguyễn Bính
càng đậm nét.
II. Qúa trình sáng tác
- 7 tập thơ: “Lỡ bước sang ngang”, “Tâm hồn tôi”, “12 bến nước và mây tầng”...
- 2 tiểu thuyết
 NB sáng tác khá nhiều, đều đặn trên các thể loại nhưng nhiều nhất là thơ. Nhà phê bình Đỗ
Lai Thúy: có thể thấy cấu trúc cảm hứng trong toàn bộ sáng tác của ông. VD: tập tâm hồn tôi
là tâm hồn của 1 thanh niên nông thôn, ko gian của nông thôn là ko gian của bao la bát ngát,
ko gian của đô thị là ko gian 1000 cửa sổ... NB luôn mơ về quê cũ: Phương nao kết giải mây
tần cho ta...
 Cấu trúc thơ NB chính là dời bỏ quê hương để tha hương nhưng lại luôn luôn khắc khoải
mối hoài hương.
III. Thơ Nguyễn Bính trước CM
Về nội dung – tư tưởng
1. Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê:
- Nguyễn Bính là người bảo lưu, gìn giữ những giá trị quê – những giá trị bền vững của đời
sống thôn quê, gồm cả giá trị vật chất và tinh thần. Giá trị quê hình thành những cảnh sắc
quê, tập tục quê, nếp sống quê, cách cảm, cách nghĩ, nét đẹp tâm hồn của con người quê.
- Nguyễn Bính nói về quê xưa bằng niềm hân hoan, tự hào ko che giấu
- cảnh sắc quê: những cảnh sắc đặc trưng của thôn miền quê kiểng:
+ Cảnh sắc trong thơ Nguyễn Bính trước hết thuộc về ko gian của làng, thôn, ao, hồ, vườn tược, bến
đò, con đê,... những ko gian đặc thù của chốn quê: Sáng giăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ
đi về có nhau (Thời trước), Hôm nay dưới bến xuôi đò/ Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
(Không đề), Hôm qua em đi tỉnh về/ Đợi em ở mãi con đê đầu làng (Chân quê), Em ơi em ở lại nhà/
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương (Lỡ bước sang ngang), Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau
cái dậu mùng tơi xanh rờn (Người hàng xóm),...
+ Cảnh sắc tươi sáng, thơ mộng, thi vị:
Page | 43
 Qua giậu tầm xuân thấy bướm nhiều/ Bướm vàng vàng quá bướm yêu yêu/ Em sang bắt
bướm vườn anh mãi/ Quên cả làng Ngang động trống chèo (Hết bướm vàng)
 Cành dâu cao lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em
 Dừng chân trước cửa nhà nàng/ Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau
 Thong thả dân gian nghỉ việc đồng/ Lúa thì con gái mượt như nhung/ Đầy vườn hoa bưởi
hoa cam rụng/ Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng (Xuân về)
 Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy (Mưa xuân – Nguyễn
Bính)
 Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời
(Mưa xuân – Nguyễn Bính)
 Thôn Vân:
Thôn Vân có biếc có hồng/ Hồng trong nắng sớm biếc trong vườn chiều/ Đê cao có
đất thả diều/ giờ cao lăm lắm có nhiều chim bay/ Quả lành nặng chĩu từng cây/ Sen đầy
ao cá cá đầy áo sen/ Hiu hiu gió quạt trăng đèn/ Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi/ Ăn
gỏi cá, đánh cờ người/ Thần tiên riêng 1 góc trời thôn Vân (Anh về quê cũ),…
Ở đây vô số những trời xanh/ Và một con sông chảy rất lành/ Và những tâm hồn
nghe rất đẹp/ Từng chung sống dưới mái nhà tranh/ Sao chẳng về đây múc nước sông/
Tưới cho những luống có hoa hồng/ Xuân sang hoa nụ rồi hoa nở/ Cánh bướm vờn hoa
loạn phấn hương/ Sao chẳng về đây có bạn hiền/ Có hương có sắc có thiên nhiên/ Sống
vào giản dị ra tươi sáng/ Tìm thấy trong lòng 1 cảnh tiên
Không gian quê của Nguyễn Bính được lãng mạn và thi vị hóa. Đó là không gian trong tâm tưởng,
hiện lên như 1 miền cổ tích, chốn hoài niệm tươi đẹp khi nhà thơ đang trên bước đường lưu lạc
giang hồ  Thiên đường chân quê trong thơ Nguyễn Bính.
- Nếp sống, nếp cảm, nếp nghĩ:
+ Cách bộc lộ tình cảm kín đáo:
Bà mẹ trong Lòng mẹ động viên, mắng yêu con trước khi về nhà chồng:
Gái lớn ai không phải lấy chồng/ Can gì mà khóc nín đi không/ Nín đi mặc áo ra chào
họ/ Rõ quý con tôi các chị trông/ ương ương dở dở quá đi thôi/ Cô có còn thương đến chúng
tôi/ Thì đứng lên nào lau nước mắt/ Mình cô làm khổ mấy mươi người/ Này áo đồng lầm
quần lĩnh tía/ Này gương này lược này hoa tai/ Muốn gì tôi sắm cho cô đủ/ Nào có thua ai có
kém ai
…Đưa con ra đến cửa buồng thôi/ Mẹ phải xa con khổ mấy mươi/ Con ạ! Đêm nay
mình mẹ khóc/ Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi,…
So sánh hình tượng gái quê trong thơ Hàn Mặc Tử và thơ Nguyễn Bính (tập trung vào các
bài: Nụ cười, Gái quê của Hàn Mặc Tử và Mưa xuân, Người hàng xóm của Nguyễn Bính)
 Tiếng ca ngắt – Cành lá rung rinh
1 nường con gái trông xinh xinh
Ống quần vo xắn lên đầu gối
Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mìnhi
 Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em
Làn môi mong mỏng tươi như máu
Page | 44
Đã khiến môi tôi mấp máy thèm
 Cô thôn nữ của Nguyễn Bính mang vẻ đẹp của sự thuần khiết, trong trắng, e ấp, kín đáo,
như 1 thứ hoa thơm còn phong nhụy: Em là con gái trong khung cửi/ Dệt lụa quanh năm
với mẹ già/ Lòng trẻ con như cây lụa trắng/ Mẹ già chưa bán chợ làng xa,
 Sống lặng lẽ Chả bao giờ thấy nàng cười/ Nàng hong tơ ướt ra mái nhà hiên/ Mắt nàng
đăm đắm trông lên/ Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi
Nhận xét:
Thơ NB nói nhiều về cảnh sắc, phong tục, nếp sống quê, nhưng dù nói về điều gì NB cũng gọi dậy
hồn quê (khác Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân: nhìn quê từ bên ngoài. NB nói về quê bằng
cách gọi dậy hồn vía quê hương).
Thơ NB đã bảo lưu trọn vẹn chân ảnh của thôn quê, thứ thôn quê mang vẻ đẹp thuần phác, nguyên
sơ, chưa nhuốm vết bụi thị thành. Hai chữ chân quê do đó nói về nguồn gốc, ngọn nguồn chưa bị
pha tạp, biến chất, đổi thay. Còn giữ được sự thuần phác ấy, NB còn sự tự hào, hân hoan. Mất
đi sự thuần phác ấy, NB trở nên sầu tủi.
Lo âu buồn sầu về quê nay:
- Chân quê được coi như 1 tuyên ngôn nghệ thuật của NB: tứ thơ: cô gái từ quê ra tỉnh, khi về,
hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Quan niệm thấm nhuần vào hình tượng thơ: cuộc xâm lăng của đô thị được hình tượng hóa bằng 1
cô gái quê ra tỉnh rồi trở về trong sự đổi khác: Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/ Áo cài khuy bấm em
làm khổ tôi. Khuy bấm: sản phẩm của văn minh phương Tây. Bài thơ khép lại trong nỗi tiếc nuối
bâng khuâng về sự thực nhỡn tiền đang diễn ra trước mắt, ko thể đổi thay: Hôm qua em đi tỉnh về/
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều  đau xót về sự phôi pha của chất đồng nội.
- Các cặp đối lập: quê – tỉnh, nông thôn – thành thị, truyền thống – hiện đại.
- Thể hiện khát vọng bảo lưu chất chân quê trong tâm hồn mỗi người: Hoa chanh nở giữa vườn
tranh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê (lấy thầy u – hiện thân của truyền thống – để làm
chuẩn cho hiện tại)
- Van xin: Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa
- giữ nguyên: khát vọng làm cho chất quê trở nên nguyên vẹn, ko pha tạp. Nhưng ngay trong lời van
này đã ngầm báo hiệu 1 sự bất lực, là sự cầu xin của kẻ yếu, ko thể chủ động, ko thể quyết định.
- 1 mặt cho thấy mỹ cảm của NB hướng về 1 thứ quê thuần khiết, nhưng mặt khác, cũng ngầm báo
hiệu sự thất bại trong việc bảo lưu sự sự thuần khiết ấy của quê hương.
 quê nay: đã bị phôi pha hương nhụy, do đó, buồn sầu, đau xót.
Liên hệ:
Đồng Đức Bốn: Biết bao là thứ bùa mê/ Cũng ko bằng được nhà quê của mình/ Câu thơ nấp ở sân
đình/ Nhuộm trăng trăng sáng nhuộm tình tình đau.
Phạm Công Trứ: Lời thề cỏ may: Thủa ấy tôi mới lên mười/ Còn em lên bảy theo tôi cả ngày/ Quần
em dệt kín bông may/ Áo tôi đứt cúc mực dây tím bầm/ Tuổi thơ chân đất đầu trần/ Từ trong bùn đất
em thầm lớn lên/ Bây giờ xinh đẹp là em/ Em ra thành phố dần quên 1 thời/ Về quê ăn Tết vừa rồi/
Em tôi áo chẽn em tôi quần bò/ Gặp tôi em hỏi hững hờ/ Anh chưa lấy vợ anh còn chờ ai/ Em đi để
Page | 45
lại chuỗi cười/ Trong tôi vỡ 1 khoảng trời pha lê/ Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời
thề cỏ may.
Nhận xét:
- Thời nào cũng có Nguyễn Bính của mình. Thời nào cũng có tâm sự Nguyễn Bính: đó là nỗi lo
âu, phấp phỏng trước sự phôi pha những giá trị muôn đời của thôn quê trong thì hiện tại.
Chân quê là đối tượng thẩm mỹ lớn, lí tưởng của Nguyễn Bính. Nhưng ngầm ẩn trong nó là một sự
báo hiệu cho bi kịch về sự đổi thay, về chất thuần quê bị pha tạp, chất chân quê bị phá vỡ.
- Nguyễn Bính không phải là nhà thơ của những xác tín kiên định mà là nhà thơ của nỗi phấp phỏng
âu lo.
 Sự biện chứng của hai tình điệu cảm xúc: hân hoan là cách nói khác của nỗi buồn sầu, lo âu.
- Ở Nguyễn Bính, chân quê còn được hiểu là luôn lấy quê làm tâm điểm, làm hệ quy chiếu để
đo đếm, định giá mọi giá trị. Khi ấy, Nguyễn Bính có thể rời xa không gian quê, con người quê để
đến với những miền không gian khác, con người khác, nhưng chất chân quê không mất đi mà trở
thành 1 nỗi khắc khoải day dứt lớn. Vì lấy quê làm hệ quy chiếu, luôn khắc khoải về quê, day dứt vì
đã bỏ quê, nên dù, Nguyễn Bính có viết về đô thị hay những chuyến xe dịch giang hồ, dù thơ
Nguyễn Bính không ít lần xuất hiện gương mặt kinh thành thì vẫn không thể được coi là thi sĩ của
đô thị. Nguyễn Bính, muôn đời và mãi mãi, là thi sĩ chân quê. “Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ.
Trước, sau và mãi mãi NB vẫn là nhà thơ của tình quê, chân quê và hồn quê ” (Tô Hoài – Lời giới
thiệu Tuyển tập Nguyễn Bính, Nxb Văn học 1986).
- Gương mặt đô thị trong thơ NB:
+ Quê người:
Trôi dạt dám mong gì vấn vít/ Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây/ Tỉ tê gợi tới niềm tâm sự/ Cúi mặt
soi gương chén rượu đầy.
Giời mưa ở Huế:
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Giời mờ ngao ngán một loài mây

Trường Tiền vắng ngắt người qua lại


Đập Đá mênh mang bến nước đầy
Đò vắng khách chơi nằm bát úp
Thu về lại giở gió heo may…

Hàng xóm có người con gái lẻ

Page | 46
Ý chừng duyên nợ với nhau đây
Chao ôi! Ba bốn tao ân ái
Đã đủ tan tành một kiếp trai.
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!
Đành phụ nhau thôi, kẻo đến ngày
Khăn gói gió đưa sang xứ lạ
Ai cười cho được lúc chia tay?
Nhận xét:
- Quê được nhìn trong sự xâm lăng của đô thị là 1 đóng góp lớn của NB. Nếu quê của Anh
Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ là thứ quê tĩnh tại thì quê của Nguyễn Bính là thứ quê rất
động. Bởi chỉ NB là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước cuộc xâm lăng
của đô thị. Thơ NB là sự thương nhớ, khắc khoải, âu lo về sự phôi pha của quê hương. Nói
cách khác, thơ Nguyễn Bính là “thơ về sự thay đổi của cái dường như ko thể đổi thay”. (Cả
Xuân Diệu và Nguyễn Bính đều nhạy cảm, âu lo với sự phôi pha, nhưng Xuân Diệu âu lo về
cái tất yếu sẽ đổi thay (thời gian, tuổi trẻ), còn Nguyễn Bính là sự âu lo về cái không thể đổi
thay – xã hội nông thôn Việt Nam ngàn đời bất di bất dịch sau lũy tre làng).
- Đỗ Lai Thúy. Con mắt thơ. Nxb giáo dục. H,1997
2. Nguyễn Bính là nhà thơ của những bi kịch lỡ dở:
A) Tình duyên lỡ làng
- Cái tôi trữ tình:
+ Cái tôi NB tìm về tình yêu, nhưng chỉ gặp dở dang, phụ phàng, chỉ gặp những thứ tình bèo bọt:
Nàng bèo bọt quá em lăn lóc/ Chắp nối nhau hoài cũng uổng công/ (Một trăm con gái đời nay ấy/
Đừng nói ân tình với thủy chung), Một chút công danh rất hão huyền/ Và dang dở nữa cuộc tình
duyên. Chị ơi tết đến em mua rượu/ Em uống cho say đến não nùng/ Uống say cười vỡ ba gian gác/
Ném cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương).
+ Con đường công danh phải được lập bằng khoa cử đỗ đạt. Những hình ảnh quan trạng, thám hoa,
là những hình ảnh mơ ước của Nguyễn Bính. Cả đời, Nguyễn Bính khắc khoải với giấc mơ quan
trạng.
+ Cái tôi mơ được sống trong cuộc đời tựa như trong thế giới truyện Nôm, nhưng thế giới ấy chỉ còn
trong thời trước. Thời đó vĩnh viễn đi qua không trở lại: Khoa cử bỏ rồi thôi hết trạng/ Giờ đem hoa
cỏ giả vườn tiên, Lỡ duyên búi tóc củ hành/ Trường thi Nam Định biến thành trường bay. Cổ tích
truyện Nôm tan vỡ trước sự xâm lăng của lối sống mới, của thế giới đô thị. Giấc mơ quan trạng là 1
thứ chìa khóa để mở vào cuộc đời giờ đây thành vô vọng.
+ Cái tôi NB có 1 quan niệm về thân thế cuộc đời theo khuôn mẫu truyền thống của 1 thôn dân nho
sinh. Hạnh phúc gắn liền với công danh, phải được xây dựng trên sự thành đạt về công danh. Giấc
mơ anh lái đò: Tưng bừng vua mở khoa thi/ Anh đỗ quan trạng vinh quy về làng/ Võng anh đi trước
võng làng/ Cả 2 chiếc võng cùng sang 1 đò. Nếu công danh không đến thì anh lái đò cũng không
còn mơ đến hạnh phúc đã mong muốn: Con sông nó có 2 bờ/ Tôi chưa đỗ trạng thôi cô lại nhà.
Trong bài Thời trước, Nguyễn Bính đã mượn lời người vợ để nói rõ quan niệm hạnh phúc: Vì tằm
Page | 47
tôi phải chạy dâu/ Vì chồng tôi phải dầu hao bắc gầy/ Chồng tôi thi đỗ khoa này/ Bõ công đèn sách
từ ngày lấy tôi. Khi công danh của người chồng thành đạt thì hạnh phúc đến với họ là mãn nguyện:
Đêm nay mới thật là đêm/ Ai đem giăng sáng giãi lên vườn chè.
3. Giọng điệu
- Giọng than: than vãn, kể lể, trầm trọng hóa, nặng nề hóa nỗi khổ: Hai tay ôm lá vào lòng/ Than ôi
chiếc lá cuối cùng là đây, Bao nhiêu ân ái thế là thôi/ Là bấy nhiêu oan nghiệt hỡi trời, Nhưng
mộng mà thôi mộng mất thôi/ Hoa thứa rượu ế ấy tình tôi,…
- Điệu ghẹo: Cái ngày cô chưa lấy chồng/ Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa, Biết đâu rồi chả nói
chòng/ Làng mình khối đứa phải lòng mình đây
- Hệ quả: lối nói lấp lửng vòng vo
 Mang đậm chất dân gian

HÀN MẶC TỬ
I. Tiểu sử - con người
1. Tiểu sử
- Quê hương và gia đình:
 Quê hương: Quê ở Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình
+ Quê hương và các không gian sống: miền Trung: quê gốc Thanh Hóa (Bắc miền Trung), cụ HMT
họ Phạm, bị triều đình truy bức, phải rời quê hương bản quán và cải họ theo triều đình nên đã đổi
sang họ Nguyễn, đổi từ Thanh Hóa đến sống ở Thừa Thiên Huế.
+ Hồi nhỏ sống ở Quy Nhơ, từ khi 5 tuổi đến khi học tiểu học (1920 – do công việc của người cha
phải di chuyển nhiều nơi nên mãi đến 1920 khi cha dừng lại ở Sa Kỳ - Quảng Ngãi, HMT mới học
tiểu học) HMT sống ở gần động cát, chợ Chua Me, Quảng Ngãi.

Đông cát là một dạng sa mạc thu nhỏ, khi có ánh sáng thì rực rỡ, khi ánh sáng tắt thì ma quái, như 1
cõi liêu trai  không gian này vừa hấp dẫn, vừa dễ sợ, vừa thần tiên, vừa ma quái, ảnh hưởng đến
càm quan thiên nhiên của HMT sau này.
+ HMT chỉ có khoảng thời gian ngắn sống ở Sài Gòn: làm báo, chưa đủ để trở thành một quãng đời
riêng.
+ Thôn Vĩ Dạ là nơi HMT lui tới khi học Trung học, gắn với Hoàng Cúc: HMT theo thiên chúa,
Kim Cúc theo Phật giáo.
+ Phần đời đau thương nhất của HMT gắn với Bình Định: yêu, thất tình, bệnh tật
 Cuộc đời HMT gắn bó trọn vẹn với dải đất miền Trung, kết tinh của văn hóa miền Trung.
 Gia đình: sinh ra trong một gia đình Nho giáo và Thiên Chúa giáo.

Page | 48
+ Nho giáo: cách đặt tên con cái: Nguyễn Bá Nhân (1), Nguyễn Thị Như Nghĩa (2), Nguyễn Thị
Như Lễ (3), Nguyễn Trọng Trí (4), Nguyễn Trọng Tín (5). Chú ý ảnh hưởng của chị Lễ với HMT,
cũng như ảnh hưởng của chị Thế với Thạch Lam (nguyên mẫu để TL viết HĐT).
+ Việc học chữ Nho ảnh hưởng đến chất tượng trưng trong thơ HMT, dấu ấn của Thiên Chúa giáo
cũng in dấu đậm nét trong thơ Hàn, hình thành nên khao khát luôn hướng đến đức tin và những giá
trị tuyệt đối.
 Học vấn: học cả chữ Nho (liên quan đến chất tượng trưng), tiếp cận thơ Pháp (liên quan đến
sự đổi mới thơ ca)
+ Thế hệ nhà văn như HMT được giới nhân văn Sài Gòn cũ gọi là thế hệ 32, đặc điểm:
Học vấn nhà trường ít, nhưng tài năng văn chương cao (ít học tài cao). Tô Hoài viết Dế mèn phiêu
lưu kí lúc trình độ lớp 4 (< bậc thành chung), Nguyễn Bính chưa đến trường buổi nào (bài thơ học
trò trường huyện là nhập vai, mơ ước không thành). HMT: học hết trung học (hết thành chung).
 Trong lĩnh vực sáng tạo, học vấn và tài năng không đồng hành cùng nghệ thuật.
+ Tuy học vấn xuất phát điểm thấp, nhưng có tinh thần tự học cao. Điển hình Nguyễn Tuân: bỏ dở
thành chung  uyên bác, Xuân Diệu: tốt nghiệp tú tài  viện sĩ.
+ HMT: học vấn nhà trường không cao, lúc học thành chung được giới thiệu học bổng du học Pháp,
nhưng bị gạch tên vì bị coi là đối tượng nguy hiểm, (do có liên hệ với Phan Bội Châu). Nhưng HMT
làm thơ được bằng tiếng Pháp, làm thơ tài hoa (làm được thơ theo lối thuận nghịch độc, lục chuyển
hồi văn)  HMT học không cao nhưng vốn học vấn rất chắc chắn
 Bút danh: Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử?
+ Hàn Mạc Tử: Phạm Xuân Tuyền khẳng định bút danh Hàn Mặc Tử vì đây là bút danh được dùng
nhiều (Phạm Xuân Tuyền say mê HMT, từng tự đặt bút danh là Huyền Diệp Tử).
+ Hàn Mặc Tử: cũng được sử dụng nhiều (hai bút danh được sử dụng nhiều tương đương như nhau)
Căn cứ vào:
+ Người thân của Hàn: Nguyễn Như Lễ, Nguyễn Bá Tín dùng Hàn Mặc Tử: Hàn Mặc Tử anh tôi,
Hàn Mặc Tử trong riêng tư.
+ Những người bạn thân được Hàn ủy nhiệm hoàn toàn sáng tác của mình: Chế Lan Viên, Quách
Tấn đều dùng Hàn Mặc Tử. Chế Lan Viên trả lười Võ Long Tê khi Võ Long Tê nói Hàn Mặc Tử
không hay, Hàn Mạc Tử mới hay: “Anh luận về Hàn Mạc Tử rất hay nhưng chúng tôi vẫn gọi Hàn
Mặc Tử là Hàn Mặc Tử)
+ Theo Quách Tuấn khi còn sống HMT rất nhiều bút danh:
 Lệ Thanh: Lệ Mĩ + Thanh Phong (Nguyễn Tuân có bút danh Thanh Hà: Thanh Hóa + HN);
cũng có nghĩa là dòng lệ thanh khiết.
 Phong Trần
 Minh Duệ Thị
 Trật Sên (tuột xích, sên tiếng miền nam là xích), bút danh khi viết báo, nghịch ngợm.
 Hàn Mạc Tử
 Hàn Mặc Tử
 Lúc đầu Hàn lấy bút danh là Hàn Mạc Tử: người đứng trong bức rèm lạnh.
Page | 49
 Theo Quách Tấn trong “Đôi nét về Hàn Mặc Tử” (1988): “Hàn Mạc là bức rèm lạnh. Tử cho
là độc đáo, tìm đến khoe cùng tôi (…). Tôi đáp: - Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào. Hỏi
còn cách nào nên thơ cho bằng? Tử hội ý, cầm bút vạch vành trăng non lên đầu chữ A của
chữ Mạc, thành Hàn Mặc Tử (…). Mặc là Mực, Hàn là Bút. Hàn Mặc Tử là anh chàng BÚT
MỰC”. Tử sửa xong, thích chí nói – Đã có bóng trăng rọi vào thì từ nay tôi cũng như thơ tôi
sẽ mỗi ngày thêm rạng ngời như bóng trăng…”
 Từ đó, Hàn Mặc Tử trở thành bút danh chính thức.
 Hàn Mạc: bút danh đến trước, dùng trong thời gian ngắn
 Hàn Mặc: bút danh đến sau, dùng trong thời gian dài, bút danh chính thức của HMT.
 Hàn Mặc Tử là bút danh cuối cùng, được coi là thống nhất và chính xác nhất.
 Đường đời: điển hình cho kiếp tài hoa bạc mệnh: long đong đời sống, lận đận tình trường,
ngắn ngủi sinh mệnh.
+ Mất sớm: thế hệ nhà văn 32 nhiều người mất sớm: Nguyễn Tường Lân mất năm 25 tuổi. Tô Ngọc
Vân: 34 tuổi – chết bom. Vũ Trọng Phụng: 28, Thạch Lam: 32, Bích Khê: 30, HMT: 28
+ Chết vì bệnh phong người mắc bệnh phong phải trải qua 3 lần chết:
Chết vì đau đớn: vi trùng hanxen, ưa thích dây thần kinh ngoại biên, thường đau khi ngày chuyển
sang âm (đêm về sáng)  gắn với ánh trăng. TRăng trong thơ HMT gắn với đau đớn, vừa là sự cứu
rỗi
Chết trong cô đơn: vì bị ghẻ lạnh, xa lánh, HMT chủ động tuyệt giao với thế giới, nhưng càng tuyệt
giao lại càng tha thiết Họ đã xa rồi khôn níu lại/ Lòng thương chưa đã mến chưa bưa/ Người đi 1
nửa hồn tôi mất/ một nửa hồn tôi hóa dại khờ
Chết sinh mệnh
HMT chết ở Quy Nhơn khi ko có người thân bên cạnh
 Đường tình: phần lớn là tình yêu đơn phương, 1 tình cảm sâu sắc với Mộng Cần, 1 tình cảm
thuần túy tinh thần với Thương Thương.
Kim Cúc:
Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa,
Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha.
Vẻ mặt khác chi người quốc sắc,
Trong đời tri kỉ chỉ riêng ta.
 Vẫn theo Nguyễn Bá Tín, thì “Hoàng Hoa có vẻ ko từ chối tình Anh, nhưng rất nặng
về lễ giáo, chị nói với Hoàng Tùng Ngâm 1 cách lo lắng: Cái ngăn cách lớn nhất của
chị ko thể nào vượt qua được là vấn đề lương giáo”. Bởi HMT là con chiên ngoan
đạo, còn Hoàng Hoa lại là Phật tử, đường tình có thuận, mà đường tín ngưỡng lại cách
ngăn.
Mộng Cần: sâu nặng nhất. Mộng Cần là cháu ruột Bích Khê, khi HMT thất tình với Hoàng Cúc,
Bích Khê mai mối cho cháu. Mối tình đem lại cay đắng cho HMT:
Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng?
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng? (Lang thang)
Page | 50
“Ôi trời ơi! Là Phan Thiết, Phan Thiết,
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi.
Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi.
Nghĩ là chết từ muôn trăng thế kỉ.”
Ngọc Sương: chị ruột Bích Khê
Ta để chữ Ngọc lên tàu lá
Sương ở cung thềm gió chẳng thôi
Chỉ có 1 mối tình được đền đáp: với Mai Đình (tình thơ văn)

Hôm nay sáng tỏ cung Hằng


Khiến lòng em nhớ đêm rằm bên anh
Hãi hùng em sợ trăng thanh
Vắng e, anh lại tự tình cùng trăng
(thơ Mai Đình)
- Mối tình thuần túy tinh thần với Thương Thương
Ngoài những mối tình thực đã trải qua trong đời, Hàn còn có 1 mối tình khác, đầy ảo n mộng,
mơ hồ. “Trong bối cảnh lạ lùng này thì Thương Thương xuất hiện mơ hồ trong mộng và thực
của anh Trí như 1 nàng tiên (Thương Thương chỉ là 1 cái tên mà Trần Thanh Địch bắt gặp
đâu đó giữa mây trời để giới thiệu với HMT)”
 Cuộc đời bất hạnh hiếm có là cội nguồn của cảm xúc đau thương trong thơ HMT.
- Nhạy cảm với những mất mát, hụt hẫng: thường gặp những trạng thái hụt hẫng trong tinh
thần về thể chất, luôn có cảm giác đang rơi, ko đi tới đáy (đọc Chơi giữa mùa trăng); có
những cảm nhận khác người: “Tôi luôn có cảm giác có 1 thế lực vô hình chụp lấy tôi… luôn
có cảm giác rơi mà thấy mình chưa chạm đáy”).
 Ảnh hưởng đến cảm giác đau thương: dùng cảm giác đau đớn về thân xác để diễn tả nỗi đau
thương về tinh thần.
- Là người mộ đạo:
+ có đức tin: HMT sống với đức tin
+có đời sống tâm linh: khao khát hướng tới cái thiêng liêng
II. Quá trình sáng tác
- Quá trình sáng tác ngắn ngủi, khoảng 10 năm nhưng tầm cỡ, chất lượng.
- Là sự thu nhỏ hành trình cách tân của phong trào Thơ mới:
+ Lệ Thanh thi tập: Thơ Đường luật
Bóng nguyệt leo trăng sờ sẫm gối/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn, có những câu thơ rất mới.
+ Gái quê: tập thơ duy nhất được in khi Hàn Mặc Tử sống: thơ lãng mạn.
+ Đau thương: Từ thơ lãng mạn đến thơ tượng trưng, đã có yếu tố siêu thực.
Page | 51
+ Xuân như ý, Thượng thanh khí: yếu tố tượng trưng, siêu thực, tôn giáo, trội là tôn giáo.
+ Duyên kì ngộ, Cẩm châu duyên: đạo giáo, kito giáo.
Thơ HMT liên tục chuyển kênh: mỗi sáng tạo là 1 khám phá mới.
 Hàn Mặc Tử đã đi từ thơ cũ đến thơ mới, từ thơ đường, lãng mạn đến tượng trưng, siêu thực.
Hành trình thơ Hàn Mặc Tử phản ánh hành trình cách tân của Thơ mới. Hành trình thơ trên
cho thấy Hàn Mặc Tử là thi sĩ có nội lực dồi dào. Mỗi sáng tạo mới là một sự khám phá mới
về bản thân.
III. Tư tưởng và nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử
1. Tư tưởng
1.1. Quan niệm nghệ thuật
- Thể hiện trong những bài thơ văn xuôi (Quan niệm thơ, Chơi giữa mùa trăng, Chiêm bao và sự
thật…) và tựa tập Thơ điên
- Xoay quanh vấn đề bản thể thơ ca, về phẩm chất, tâm lý sáng tạo… của nhà thơ.
- Hàn Mặc Tử có 1 quan niệm nghệ thuật khác lạ so với đương thời.
- Quan niệm về bản thể thơ:
+ Thơ cổ quan niệm “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí”, thơ lãng mạn: “Văn thơ kia tức là tâm hồn
tôi” (Thế Lữ - Bóng mây chiều).
+ Hàn Mặc Tử quan niệm thơ là địa hạt của huyền diệu, thần bí, cao siêu mà ông gọi đó là “ nguồn
trong trẻo” (“Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo” – Tựa tập Đau thương), là 1 “cõi trời
cách biệt” (Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của 1 cõi trời cách biệt”
– Quan niệm thơ), là cõi “huyền diệu”, “mông lung”, “địa hạt siêu thần”, “những bến bờ xa lạ của
cảm giác”, là cõi giới của “Mơ ước”, “Huyền diệu”, “Sáng láng” và “vượt ra ngoài hẳn hư linh”, đó
là nơi “rộng rinh không bờ bến” với “ánh sáng lạ” mà “càng đi xa càng ớn lạnh”.
-Quan niệm về nhà thơ:
+ Thơ trung đại: kiểu thi sĩ Nho gia, nhà thơ mang danh phận, bổ phận, chức phận của một nhà Nho,
nhiều khi con người thi nhân bị chìm khuất sau những sải mũi cánh chuồn.
+ Thơ lãng mạn – mẫu nhà thơ “ru với gió”, “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, phơi bày tâm hồn
mình theo những giai điệu của cảm xúc.
+ Thơ tượng trưng, siêu thực: quan niệm về nhà thơ có sự vận động rõ ràng. Mẫu hình thi nhân
tượng trưng và siêu thực hiện lên như 1 chủng loại đặc biệt: “người khách lạ đi giữa nguồn trong
trẻo”. Đó là cách để thi nhân tự giãn cách mình khỏi những lối mòn của đời sống. Bởi cái lạ luôn là
nguồn hứng khởi cho sáng tạo. Trong quan niệm của ông, thi sĩ tiềm ẩn những năng lượng bất
thường và báo hiệu những bùng nổ phá cách trong thơ.
+ HMT quan niệm nhà thơ là kẻ khác thường.
- Quan niệm về việc sáng tạo: trạng thái thăng hoa, khác thường: Điên.

Page | 52
Là trạng thái nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức, chỉ trong vòn điều khiển của ý thức: “Nàng đánh
tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú” (Tự tập Đau thương). “điên”, “mơ”, “say” –
trạng thái nằm ngoài hành lang kiểm duyệt của ý thức.
- Quan niệm nghệ thuật này chi phối trực tiếp đến cách nhìn thế giới; cái tôi trữ tình; không
gian, thời gian nghệ thuật cũng như ngôn ngữ nghệ thuật, cách tổ chức văn bản của Hàn Mặc
Tử.
2. CÁI NHÌN THẾ GIỚI SIÊU THỰC
- Mang cái nhìn siêu thực để quan sát thế giới, Hàn Mặc Tử đã tạo ra được một thế giới hình tượng
kì dị, đậm chất siêu thực.
- Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử trở đi trở lại ba hình ảnh: trăng, hồn và máu.
+ Trăng:
Thanh khiết: trăng vàng trăng ngọc, trời nguyệt bạch.
Kì quái, lạ lẫm
Trăng bao phủ, xâm chiếm và đồng hóa tất cả.
“Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng” (Huyền ảo).
 Liên tưởng đồng nhất trăng – người, trăng – nước
 “Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm”, nên trang phục của con người cũng là trang phục
được dệt bằng trăng: “ăn vận toàn trăng cả”, con người trong cõi trăng thuần túy đó
hóa thành “người trăng”, miệng người đầy một miệng trăng: “Cả miệng ta trăng là
trăng/ Cả lòng ta vô số gái hồng nhan/ Ta nhả ra đây một nàng/ Cho mây lặng lờ cho
nước ngất ngây” (Một miệng trăng).
 Sự đồng nhất đã xóa nhòa ranh giới thực mộng để tạo ra một thế giới siêu thực, ở đó
trăng bao phủ toàn cõi không gian và xâm chiếm cõi sâu nhất của hồn người.
 Cảm nhận về câu thơ: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”.
 So sánh: Trăng từ viễn xứ/ Đi khoan thai trên ngự đỉnh trời tròn (Xuân Diệu) và Bỗng
đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ/ Sấp mặt xuống cúi mình theo dáng liễu. (Hàn Mặc
Tử).
+ Hồn: vừa linh thiêng, vừa yêu ma:
Hồn xa lạ với bản thân thi sĩ: Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết/ Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
(Hồn là ai).
Hồn và xác vật lộn, rượt đuổi nhau: “Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến”, “Tôi dìm hồn xuống
một bóng trăng êm” (Hồn là ai).
Hồn lìa thoát xác và vĩnh viễn không trở lại: “Hồn đi rồi, không nhập xác thê lương” (Hồn lìa khỏi
xác),…
Hồn và xác như những thực thể tách rời, hồn thoát thai ra ngoài xác thịt: “Anh đã thoát hồn anh
ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung” (Sáng láng).
Hồn thoát xác, nhập hoàn toàn vào cõi siêu thoát, nằm ngoài lí trí: “Hồn vội thoát ra khỏi bờ trí tuệ”
(Siêu thoát),…

Page | 53
Ám ảnh “hồn lìa khỏi xác” một mặt là khát vọng muốn linh hồn vượt thoát khỏi những đau thương
của thân xác; mặt khác là một cách diễn tả nỗi đau đớn, ám ảnh về cái chết cận kề; hồn lìa khỏi xác
còn là cuột vật lộn để hướng về cái linh thiêng, về với chúa.
Thơ lãng mạn cũng nói nhiều đến biểu tượng “hồn”. Nhưng trong thơ lãng mạn, hồn biểu trưng cho
đời sống tình cảm con người: “Một chớp mê man, hồn gặp hồn/ Lòng chưa kịp hiểu mắt trao hôn”
(Xuân Diệu – Tình cờ).
Đến Hàn Mặc Tử, hồn đã vượt ngoài thế giới tình cảm để trở thành một thực thể của cõi vô thức.
Hồn như một sinh thể thực sự, bản thể thứ hai của con người, “một sự nhân cách hóa những nội
dung vô thức”.
Máu: vừa thanh khiết vừa kinh dị
Gái quê, máu là biểu tượng cho sức sống tươi nguyên của vẻ đẹp đang độ xuân thì: “Làn môi mong
mỏng tươi như máu/ Đã khiến môi tôi mấp máy thèm” (Gái quê)
Đau thương, máu gắn liền với đớn đau và cái chết: “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi/ Bao giờ tôi hết
được yêu vì/ Bao giờ mặt nhật tan thành máu/ Và khối lòng tôi cứng tợ si?” (Những giọt lệ), “Và ai
gánh máu đi trên tuyết/ Mảnh áo da cừu ngắm nở nang” (Cuối thu). Máu bao trùm cả không gian và
thời gian: “Thét chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng/ Mà muôn năm rướm máu trong không gian”
(Rướm máu).
Máu là cội nguồn của sự sáng tạo nghệ thuật: “Máu đã khô rồi thơ cũng khô” (Trút linh hồn),  là
sự hình tượng hóa của nguồn sáng tạo.
Hàn Mặc Tử đã coi thơ là sinh mệnh, máu huyết của mình: “Anh cắn lời thơ để máu trào…” (Lưu
luyến), “Mỗi lời thơ để dính não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Như mê man chết
điếng cả làn da” (Rướm máu),…
 Biểu tượng Trăng, hồn, máu phản ánh đúng tâm lí của Hàn Mặc Tử: tranh chấp không ngừng
giữa thể xác và linh hồn, bệnh hoạn và khải thị, ánh sáng và bóng tối, sự sống và cái chết.
Sở dĩ thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện nhiều hình ảnh kì dị, lạ lẫm, thậm chí ma quái như vậy bởi
đó là thế giới được khúc xạ từ cái nhìn bên trong của một cá tính sáng tạo độc đáo, từ những
ám ảnh của bệnh tệt, tình yêu và cái chết, là sự lên tiếng của cuộc đời, thân phận của thi nhân.
3. CÁI TÔI TRỮ TÌNH: TỪ CÁI TÔI KHAO KHÁT YÊU THƯƠNG ĐẾN CÁI TÔI MẶC
CẢM ĐAU THƯƠNG
- Gái quê:
Cái tôi trữ tình mang tiếng lòng của 1 chàng trai mới lớn, đầy khao khát yêu thương
“Lòng ta dào dạt như làn sóng/ Ta đang khao khát tình yêu thương” (Tiếng vang).
Cái tôi đầy bỡ ngỡ trước cánh cửa ái tình, mang những cung bậc của một chàng trai đứng trước cánh
cửa tình yêu.
Thơ thẩn, ngân ngơ: “Trước sân anh thơ thẩn/ Đăm đăm trông nhạn về” (Tình quê).
Ngây dại: “Anh đi thơ thẩn như ngây dại/ Hứng lấy hương nồng trong áo em” (Âm thầm).

Page | 54
Bẽn lẽn, ngượng ngùng: “Tôi không muốn gặp người tôi yêu/ Có lẽ vì tôi mắc cỡ nhiều” (Tôi không
muốn gặp).
Đầy hoài bão, ước mơ: “Đời anh lưu lạc tự bao giờ/ Đi đi... đi mãi nơi vô định/ Tìm cái phi thường
cái ước mơ” (Đời phiêu lãng).
- Đau thương, cái tôi trữ tình có sự chuyển đổi rõ rệt, trở thành cái tôi đầy mặc cảm, đau
thương.
+ Mặc cảm bị xa lánh, ko được đời đón nhận
 Hình tượng khách xa:
Cái tôi luôn tự mình đứng tách ra khỏi những gì vốn rất gần gũi, cảm thấy tất cả những gì tốt đẹp
cứ rời xa mình: “Khánh xa gặp lúc mùa xuân chín/ Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng” (Mùa
xuân chín),
“Gió ơi lại đấy mà ngừa/ Tôi đứng xa lắm xin chừa tôi đi” (Say nắng),
“Não nề lòng viễn khách giữa cơn mê” (Hãy nhập hồn em).
“Mơ khách đường xa khách đường xa”
Các hình ảnh “khách xa”, “xa lắm”, “xa xôi”, “khách đường xa”,... trở đi trở lại
 Cái tôi trữ tình khao khát yêu đương ở Gái quê vô tình đã làm cho cái tôi trong Đau thương
càng đau thương hơn, bởi chính vì khao khát mà không thể thực hiện sẽ làm con người càng
thêm đau đớn.
- Chìm đắm trong một thế giới riêng và càng trở nên điên loạn.

Cái tôi “điên loạn” được thể hiện trên nhiều mức độ.

+ Trực tiếp nhận mình là điên dại: “Anh điên anh nói như người dại/ Van lạy không gian xóa những
ngày” (Lưu luyến).

“Bây giờ tôi dại tôi điên/ Chắp tay tôi lạy cả miền ko gian” (Một miệng trăng).

+ Hành động bất thường:

“Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng”, “Cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình/ Để gào thét một
hơi cho rởn ốc” (Hồn là ai), “Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại/ Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta/
Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại rồ dại! Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta” (Biển hồn ta), “A ha! Ta
đuổi theo trăng/ Ta đuổi theo trăng” (Rượt trăng),...

+ Nhạy cảm với những hành động liên quan đến miệng: “ăn”, “nhấp”, “hớp”, “uống”, “nhai”,
“cắn”, “đớp”,... “Tôi toan hớp cả váng trời/ Tôi toan đớp cả miếng cười trong khe” (Say nắng),
“Miệng lưỡi khô khan hết cả thèm” (Ghen), “Anh cắn lời thơ để máu trào” (Lưu luyến), “Ôi ta đã
mửa ra từng búng huyết” (Biển hồn ta), “Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng” (Say trăng), “Mà sao
ngậm kín thơ đầy miệng” (Cô liêu), “Ta sẽ hộc ra từng búng huyết” (Người ngọc).

 “Thi ảnh khẩu cảm” (Bùi Xuân Bào).

Page | 55
+ Trạng thái hoảng loạn: “Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên/ Nhảy ùm xuống giếng vớt xác
trăng lên” (Trăng tự tử), “Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ/ Tôi hoảng hồn lên giận sững sờ” (Một
miệng trăng),...

Vd: Trăng tự tử:

Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh

Sao chẳng một ai hay

Nghe nói mùa thu náu ở chỗ này

Tất cả âm dương đều tụ họp

Và trăng mây ngừng lại ở nơi đây

Để nghe, à để nghe

Bao lời bí mật đêm thời loạn

Bao giọng buồn thương gió đã thề

Bao lời ai oán của si mê

Mà trai gái tự tin bên miệng giếng

Miệng giếng hả ra

Nuốt ực bao la

Nuốt vì sao rơi rụng

Loạn rồi! Loạn rồi, ôi giếng loạn

Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên

Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên.

Trăng tự tử:

. “Hoảng hồn”, “hoảng vía”, “hoảng thiên” là những trạng thái thường trực của tâm lí đầy bất ổn
trong thi sĩ. “Cuồng”, “điên”, “loạn”, “hoảng” tạo nên ấn tượng mạnh nhất về trạng thái tinh thần
của cái tôi Hàn Mặc Tử.

. Tóm lại, cái tôi trữ tình trong thơ HMT đã đi từ cái tôi với những xúc cảm khao khát yêu thương
đến cái tôi chất đầy mặc cảm, đau thương, mà sự điên loạn, đau đớn là biểu hiện khác của lòng yêu
đời, khát sống trong thi sĩ. Ở HMT, những vần thơ viết khi thể xác bị giày vò đau đớn đã trở thành
những sáng tạo nghệ thuật đích thực.

3. KHÔNG GIAN – THỜI GIAN NGHỆ THUẬT: MANG TÍNH PHÂN CỰC

a) Không gian: không gian đầy ánh sáng, và ko gian ảo mờ, u tối.

Page | 56
- Không gian đầy ánh sáng: Nắng, trăng, cõi tâm linh tôn giáo.

+ Nắng: HMT hầu như ko viết về mưa. Nhiều câu thơ tả nắng: “Ánh nắng lao xao trên đọn tre/
Tiếng ca lanh lảnh trong vườn me” (Quả dưa)

Nắng tượng trưng cho những vẻ đẹp tươi mới, tinh khôi của đất trời: “Trong làn nắng ửng khói mơ
tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”, “Ta mới thấy xuân vờn trong ánh sáng” (Thi sĩ Chàm). “Sao
anh ko về chơi thôn Vĩ/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” (Đây thôn Vĩ Dạ), “Vườn chói lọi thì
tình yêu phải ngợp” (Dấu tích).

- Không gian với ánh nắng của HMT còn là không gian hoài niệm, đúng hơn, chính những
hoài niệm đã làm cho không gian trở nên rực rỡ, tươi mới, tinh khôi hơn.
- Khi biết mình mắc bệnh, HMT tự cho rằng mình ko bao giờ có thể trở lại được “ngày xưa”
tươi đẹp nữa, ko gian của hoài niệm đã biến thành ko gian của khao khát.
- Trong thơ Hàn thường xuất hiện những hình ảnh tươi đẹp phút chốc trượt từ hiện tại về hoài
niệm, tạo nên cảm giác hụt hẫng, mất mát, xa xăm: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín/ Lòng
trí bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng
chang chang”.

+ Trăng: Vườn trăng: “Ai nói vườn trăng là vườn mơ”, vườn tiên: “vườn tiên sáng láng như
lòng người thương” (Chơi lên trăng), là những đêm trăng sáng đầy hương hoa: “Vui thay cảnh
sáng trăng/ Ái tình bắt đầu căng” (Sáng trăng), “Tôi yêu trời nguyệt bạch/ Tôi say màu thanh
thiên” (Cao hứng),...

+ Tôn giáo: nơi cứu rỗi đức tin của con người: “Muôn thần phẩm trong lâng lâng chầu chực/
Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly” (Ra đời), “Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch/ Đường
trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay” (Đêm xuân cầu nguyện), “Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu/ Trên
triều thiên ngời chói vạn hào quang” (Thánh nữ đồng trinh Maria),...

Không gian đầy ánh sáng nhằm xác lập 1 thế giới tràn ngập sức sống, thể hiện cái nhìn lạc quan
của nhân vật trữ tình. Đó là thế giới của hạnh phúc, lí tưởng, ước mơ, ánh sáng gắn với màu sắc,
hương thơm và nhạc điệu.

- Không gian mờ ảo, u tối:

+ “Cõi trời sâu”, nơi giam cầm thi sĩ: “Tôi đang còn đây hay ở đâu/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu/ Sao
bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống long tôi những giọt châu” (Những giọt lệ)

Với người đang tràn ngập niềm yêu đời thì hoa phượng sẽ là “ngọn đuốc” hân hoan, là ngọn lửa
thắp sáng niềm hy vọng, nhưng với người bị giam cầm trong thế giới tối tăm không hi vọng ngày
trở lại với cuộc sống bình thường, thì hoa phượng lại mang màu của máu, của đau thương, chết
chóc. Chính màu máu xuất hiện đã khiến cho ko gian u tối trở thành ko gian ma quái, hoảng loạn, sợ
hãi, ko gian của sự đau đớn chuyển từ đau đớn thể xác thành đau đớn tinh thần.

Máu ko chỉ gợi lên nỗi đau đớn về thể xác, mà còn gợi nên những hoảng loạn tinh thần, về sự
sống mất dần trong đau đớn: “Kìa ai gánh máu đi trên tuyết” (Cuối thu), “Bao giờ mặt nhật tan

Page | 57
thành máu” (Những giọt lệ), “Cả niềm yêu, ý nhớ của một vùng/ Hóa thành vũng máu đào trong ác
lặn” (Trường tương tư),...

Cũng như trăng luôn được miêu tả trong tính phủ ngập, máu cũng xuất hiện trong thơ HMT bao
phủ cả cõi ko gian: “mặt nhật tan” biến tất cả ko gian thành máu.

+ Không gian của thế giới u tối:

“Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh! Sao chẳng một ai hay/ Nghe nói mùa thu náu chỗ này/ Tất
cả âm dương đều tụ họp” (Trăng tự tử).

Lòng giếng lạnh giam cầm con người như một kiểu chôn sống – nhân vật trữ tình ý thức rất
rõ về cái chết đang đến gần trong sự giam cầm này. Khoảng trống nho nhỏ của miệng giếng chỉ đủ
để nhân vật bị nhốt trong đó ý thức được mình đang thuộc về cõi âm u, thuộc về cõi chết.

Cái mà bài thơ “Trăng tự tử” thể hiện ko pahri là cái chết, mà là giai đoạn khủng
hoảng trước cái chết. Nơi ấy là 1 cõi dương mà âm khí bao phủ, chỉ có mùa thu, buồn thương, oán
hận.

+ Trong thế giới âm u này gắn liền với cái lạnh và sương khói:

“Tôi đi trong ánh sương mờ/ Tìm con trăng lạc ngoài bờ bến kia” (Chơi lên trăng),

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà” (Đây thôn Vĩ Dạ),

“Bóng người thục nữ ẩn trong mơ/ Trong lá trong hoa khói bụi mờ”,

“Ô hay người ngọc biến ra hơi” (Mơ hoa),...

- Khoảng cánh giữa 2 ko gian ấy:

Không chỉ là khoảng cách vật lí thông thường mà còn là khoảng cách của cõi thực và cõi
mộng, thế giới bên này và thế giới bên kia: “Nhưng xa xôi quá biết làm sao”, “Lệ Kiều ơi! Em
còn giữ ý thơ/ Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo/ Ở xa xôi lặng nhìn anh khô héo/ Bên kia trời
hãy chụp cả hồn anh” (Trường tương tư). Thâm chí, hai ko gian ấy đều là ko gian của cõi mộng:
“Anh nằm ngoài sự thực/ Em ngồi trong chiêm bao/ Cách xa nhau biết mấy/ Nhớ thương quá thì
sao” (Anh điên).

Nguyên nhân của liên tưởng xa cách: thi sĩ luôn mang mặc cảm về bệnh tật nên cho dù rất
tha thiết với cuộc đời nhưng lại chọn cách đứng xa cuộc đời. Thế giới trần gian rất gần nhưng ko
còn là thế giới thuộc về mình. Nó là 1 thiên đường nhưng là 1 thiên đường ngoài tầm với. Chính
những mặc cảm chia lìa này đã chia cơ cấu ko gian của thơ Hàn thành 2 cõi miền đối lập, gắn
với 2 hệ thống hình ảnh liên tưởng đối lập nhau.

Tạo dựng 1 ko gian nghệ thuật theo lối đối lập ko phải chỉ xuất hiện trong thơ HMT, mà là
đặc điểm chung của thơ lãng mạn.

Thơ lãng mạn thường tổ chức hình tượng nghệ thuật và kết cấu ko gian theo phương thức đối
lập.

Page | 58
Khác biệt ở chỗ, sự đối lập ở HMT được đẩy đến cực điểm với những hình tượng nghệ thuật
và liên tưởng mang tính đặc thù ko thể trộn lẫn.

b) Thời gian: chủ yếu là đêm và hiện tại.

(t) có cả ngày và đêm, nhưng chủ yếu là đêm: đêm trăng, cõi trăng. Trăng là nguồn sáng
thuần khiết, thuần linh. Chỉ trong đêm trăng và trong hiện tại, HMT mới thực sự cảm nhận rõ nét sự
ám ảnh của thời gian.

Hiện tại gắn với thời gian đêm: “đêm nay”, “năm nay”, “tối nay”, “tối hôm nay”. Nhà thơ
luôn khắc khoải với thời gian hiện tại, sợ hiện tại tan biến “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có
chở trăng về kịp tối nay” (Đây thôn Vĩ Dạ).

Cũng như Xuân Diệu và rất nhiều nhà thơ mới khác, HMT luôn bị ám ảnh bởi thời gian.
Nhưng nếu nỗi sợ thời gian trôi chảy khiến Xuân Diệu phải sống hối hả, sống vội vàng, níu kéo tuổi
xuân thì HMT lại phải gấp gáp ko phải để tận hưởng mọi sắc hương của cuộc đời mà bởi luôn
hoảng hốt khi quỹ thời gian sống ko còn bao nhiêu nữa.

4. KẾT CẤU VÀ NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ

a) Kết cấu: mạch liên tưởng siêu logic

- Hình ảnh liên tưởng trong thơ Hàn Mặc Tử dường như ko có logic liên kết của lí trí mà kết nối với
nhau theo một mạch liên tưởng siêu logic.

 Kết cấu hình tượng như hỗn loạn, những hình ảnh dường như ko có liên hệ gì với nhau.

- VD: Đây thôn Vĩ Dạ:


 Những hình ảnh nằm trong các trường liên tưởng rất xa nhau, lại kết nối trong 1 chỉnh thể
văn bản, tạo thành một cấu trúc hình tượng như bất an, bất ổn. Tuy nhiên, bài thơ vẫn tồn tại
1 mạch liên tưởng logic ở bề sâu.
 Ba khổ thơ được liên kết với nhau bởi ba câu hỏi và 4 đại từ phiếm chỉ “ai”: “Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc”, “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”, “Ai biết tình ai có đậm đà”.
 Mạch liên kết ngầm ẩn trong bài thơ chính là lòng yêu sống, khát sống đến đau đớn. Hàn
Mặc Tử thấy chới với khi tất cả tuột khỏi tay mình. Tử “hoài niệm” về thôn Vĩ, thi sĩ khao
khát hi vọng chở trăng về kịp đêm nay, như khao khát được kết nối với thế giới tươi đẹp,
nhưng niềm hi vọng lại quá đỗi mong manh, nên thi sĩ “hoài nghi” chính mình, chính thế giới
của mình, hoài nghi cả người tình xa từng là hiện thân cho những khao khát thầm kín của
mình. Hoài niệm thì rực rỡ mà hiện tại thì âm u.
 Chính khao khát sống đến đau đớn đã tạo nên mạch liên tưởng trong cấu triucs hình tượng
của bài thơ.

B. NGÔN NGỮ:

- Ngôn từ lạ hóa, cực tả:

+ Dùng liên tưởng độc đáo

Page | 59
+ Bẻ chữ: trắng như tinh

+ Dùng các loại cảm giác khác để nhấn mạnh: trắng rợn mình, trắng quá nhìn ko ra: cách cực tả
sắc trắng chứ ko phải sắc trắng lẫn vào sương khói.

+ Phi logic

Kết hợp ngôn ngữ siêu logic: võ đoán, ko thể tìm thấy sự liên kết trên bề mặt.

Ví dụ: “Mới lớn lên trăng đã thẹn thò/ Thơm như tình ái của ni cô” (Huyền ảo),...

“Tình ái của ni cô”: kết hợp lạ hóa. Tại sao lại nói đến tình yêu của người theo đạo tu hành?
Sự liên tưởng trong kết hợp ngôn từ tưởng vô lí nhưng lại hàm chứa mạch ngầm hợp lí: trong
cảm nhận của Hàn Mặc Tử, tình ái của ni cô là thứ tình trong trắng, tinh khiết, ko vướng chút tục
lụy bụi trần.

Liên tưởng ấy làm vầng trăng trở nên thánh thiện, phù hợp với cảm nhận về sự “thẹn thò”
của vầng trăng “mới lớn lên”.

A. Breton: “Có thể kết hợp mọi từ với nhau không loại trừ từ nào. Giá trị thơ ca của sự kết
hợp như thế càng cao nếu nó càng võ đoán mà thoạt nhìn ngỡ như ko thể được”.

- Ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử mang đậm chất tượng trương, siêu thực và nhiều khi có sự hòa hợp
khó tách bạch giữa siêu thực và tượng trưng.

“Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu” (Những giọt lệ)

- Chất tượng trưng thể hiện trong cấu trúc hình tượng: cấu trúc trùng phức của nhiều hình ảnh
trong một đồng dạng: bông phượng – giọi máu – giọt lệ - giọt châu báu. Bốn hình ảnh
chìm trong 1 hình thể.
- Chất siêu thực thể hiện ở:

+ Sự chập chờn trong ranh giới mong manh của từng hình ảnh. Tính chất chập bờn bất định,
thoắt ẩn thoắt hiện, thoắt thực thoắt ảo của các hình ảnh thơ ấy tạo nên vẻ đẹp siêu thực cho câu
thơ.

+ Câu hỏi “Sao bông phượng nở trong màu huyết” cũng gợi nên trạng thái siêu thực. Chính
trạng thái mà câu hỏi gợi dẫn ra – trạng thái lẫn lộn thực - ảo, thực tại – chiêm bao đã tạo nên
tính chất chập chờn bất định trong nhân vật trữ tình.

Xác cô thơ quá thơm hơn ngọc

Cả 1 mùa xuân đã hiện hình

cũng có sự hòa trộn khó tách bạch giữa tượng trưng và siêu thực.

Nếu chỉ dừng ở “Xác cô thơm quá” thì câu thơ mang tính tượng trưng. Bởi nó tìm chất thơ
trong xác chết – lối tìm kiếm điển hình của Baudelaire, hơn nữa nhà thơ dùng hương thơm để ám
gợi sự trinh tiết của cô gái đồng trinh. Sự trong trắng vô hình hiện hình trong mùi vị.

Page | 60
Nhưng kế tiếp là “thơm hơn ngọc” lại thiên về siêu thực. Bởi ngọc ko có mùi thơm, dùng
ngọc để chỉ mùi thơm là siêu thực, bởi đó là dùng trực giác để xáo trộn tính chất, nó là lối cảm
nhận mộng mị của tư duy siêu thực.

Nhưng ngay trong hình ảnh siêu thực này thì vẫn có thể hiểu là tượng trưng, bởi “thơm hơn
ngọc” thể hiện sự hoán cải giữa các giác quan. Ngọc vốn là vật thể hữu hình, được cảm nhận
bằng thị giác, xúc giác, ko có mùi vị, giờ lại được cảm nhận bằng khứu giác.

Nhìn chung trong 2 câu thơ này, yếu tố siêu thực vẫn trội hơn bởi đặt trong tổng thể với câu
bên dưới: “Cả một mùa xuân đã hiện hình”, cho thấy một cõi vô hình mới siêu thăng từ một hiện
hữu là xác chết. Đằng sau xác chết hữu hình, nhà thơ nhìn thấy một thế giới vô hình, nhà thơ
nhìn thấy một thế giới vô hình, ngầm ẩn. Trong sự cạn diệt của sự sống là sự tái sinh của một sự
sống khác.

Nguyên nhân của sự hòa nhập này là ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến các thi sĩ Thơ
mới quá rõ ràng và sâu đậm, nhưng thể trạng và tâm lý của HMT khiến nhà thwo sống nhiều, sống
sâu với đời sống vô thức, có những ám ảnh vô thức mãnh liệt của vô thức. Đời sống vô thức kết hợp
với những kĩ thuật của bút pháp tượng trưng đã tạo ra ngôn ngữ thơ trùng phức siêu thực – tượng
trưng đến mức khó có thể tách bạch.

THẠCH LAM

Câu hỏi ôn tập:

1. Những tình tiết nào trong tiểu sử và con người Thạch Lam để lại dấu ấn sâu sắc trong sáng tác
của ông?

2. Quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam?

3. Vì sao nói: một lòng trắc ẩn nguyên sơ và trọn vẹn dành cho những người bất hạnh mà thanh cao
trên mặt đất này chính là hạt nhân tư tưởng nghệ thuật của Thạch Lam?

Đọc truyện “Tối ba mươi”, “Người đầm” và “ Đứa con” để chứng minh?

4. Đặc điểm thế giới nhân vật của Thạch Lam?

5. Những đặc trưng của phong cách nghệ thuật Thạch Lam? Chọn phân tích 1 truyện ngắn của
Thạch Lam để làm sáng tỏ đặc trưng phong cách đó?

I. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI

1. Tiểu sử

- Gia đình: Thạch Lam là con đẻ của dòng họ Nguyễn Tường, nhưng ko thừa hưởng gen chính trị.
Thạch Lam yên tâm hơn với con đường cải cách XH bằng văn chương. Sau này, Thạch Lam được
đánh giá cao nhờ văn chương.

Page | 61
- Giới văn học sử, bạn đọc coi uy tín của Nhất Linh là rất lớn, nhưng Nhất Linh đánh giá (đọc tài
liệu về dòng họ Nguyễn Tường): bây giờ tiểu thuyết của tôi, các chú và Khái Hưng đang rất ăn
khách, nhưng sau này nếu ai trong chúng ta còn lại thì đó chính là chú Sáu (Thạch Lam). Nhất Linh
đánh giá rất cao văn tài của Thạch Lam.

- Trong gia đình, TL gần gũi nhất với chị Thế, khi gia đình TL sa sút, hai chị em phải bỏ học giúp
mẹ trông coi quán tạp hóa nên gắn bó (nguyên mẫu của Liên và An trong HĐT).

- Dương Nghiễm Mậu đánh giá về Thạch Lam: Văn Thạch Lam chịu được sự đọc lại.

- Quê hương và ko gian sống:

 Quê cha: Quảng Nam – Đà Nẵng, nhưng sinh ở quê ngoại Cẩm Giàng, Hải Dương. Những
năm đầu đời sống ở Cẩm Giàng.
 Cẩm Giàng: vùng ko gian quan trọng với cảm quan Thạch Lam: phố huyện khá điển hình
cho thời Pháp thuộc.
 Đặc điểm phố huyện: giao điểm giữa nông thôn và thành thị, “phía sau là đồng ruộng mà
phía trước đã có hơi hướng thị thành. Trong cơn gió quen thuộc thổi trên một phiên chợ
huyện, đã phấp phới xanh đỏ màu áo tỉnh thành, đã thoảng mùi nước hoa son phấn”. (Vũ
Tuấn Anh)
 Cư dân có 2 đời sống: chị Tí là đại biểu: ban ngày mò cua bắt ốc, ban đêm bán hàng  đồng
thời sống đời sống của 1 thị dân và 1 thôn dân.
 Cô hàng xén chợ huyện rất nết na, kín đáo nhưng cũng từng thử lén bôi son ngắm mình trong
gương, mơ lấy chồng trên tỉnh và ra tỉnh làm.
 Cảm quan Cẩm Giàng in đậm trong cảm nhận của Thạch Lam: chi phối ko gian nghệ thuật.
Ký ức tuổi thơ đã đi vào văn chương, trở thành những mảng sống được lọc qua hồi tưởng.
 Phố huyện là ko gian nghệ thuật đặc trưng của Thạch Lam
 Tuổi thanh niên lập nghiệp gắn với Hà Nội “băm sáu phố phường” – đi vào văn ông như sự
thu nhỏ của xã hội Việt Nam trong buổi giao lưu Đông Tây, giao thoa cũ mới.
 Vào Sài Gòn cùng Hoàng Đạo một thời gian nhưng Sài Gòn ko để lại dấu ấn trong văn ông.
- Đường đời: tài hoa bạc mệnh: yểu mệnh
 Thạch Lam chỉ viết trong khoảng 10 năm nhưng đã hình thành sự nghiệp văn chương của
một nhà văn lớn.
 So sáng với Nguyễn Tuân:
. Thạch Lam và Nguyễn Tuân cùng sinh năm 1910
. Một người trường thọ, 1 người đoản thọ
. Tuy cùng phiêu lưu trong thế giới cảm giác, nhưng 2 cảm giác trái ngược nhau: NT: cảm
giác góc cạnh, TL: cảm giác mơ hồ, mong manh.
. Cả 2 đều hướng đến chất thơ, NT: dữ dội, bi tráng; TL: tìm đến chất thơ kiểu kí, TL: tìm
đến chất thơ kiểu truyện ngắn.
. Một người thích được chú ý, một người lặng lẽ như cái bóng.
. NT thích nói ghét, TL thích nói yêu thương.
 Học vấn: tiêu biểu cho thế hệ nhà văn 32: học vấn nhà trường ko cao nhưng tài năng lớn.

Page | 62
 Thạch Lam học được hết tú tài. Nhưng đọc Theo Giòng, TL trình bày suy luận về văn học
nghệ thuật rất sâu sắc.
 TL là người đầu tiên dịch A. Dode, nhà văn chủ nghĩa tình cảm, nhánh hẹp của chủ nghĩa
lãng mạn, tác giả của “Những vì sao” và “Những bức thư gửi từ cối xay gió” sang Tiếng Việt.

2. Con người

 Trầm tĩnh, kín đáo, thiên về đời sống nội tâm, ko thích ồn ào, khoa trương, ít khi phản ứng
bồng bột, mạnh mẽ
 Là con người có tâm hồn mẫn cảm: Thế Uyên, nhà văn, cháu gọi Thạch Lam bằng cậu trong
“Hồi kí dòng họ Nguyễn Trường” viết: “tâm hồn của cậu tôi như được bện bằng một sợi tơ
đặc biệt, có thể cảm nhận được sức nặng của ánh trăng và nghe được tiếng vỗ cánh của
những chú bướm non”, vào những đêm trăng rằm, TL cảm nhận được ánh trăng xuyên qua
mình trong suốt.
 Đình Hùng: Căn nhà của TL ở ngay khúc đầu làng Yên Phụ, soi bóng xuống Hồ Tây. Nhà
mái tranh, cổng gỗ, giữ nguyên vẻn vẹn thanh bạch, cổ sơ, tuy rằng nếu muốn, có lẽ chủ nhân
lợp mái ngói, xây tường gạch cũng ko khó. Nhưng bản chất giản dị ưa thanh đạm của Thạch
Lam không muốn thế - bản chất thuần phác của một kẻ sĩ, dù không nhất thiết giữ thái độ
“vong bần lạc đạo” cũng sẵn sàng sống theo cái tiết điệu nhu thuận nhịp nhàng của thiên
nhiên. Bởi vậy, TL không hề có mặc cảm về sự “ở nhà tranh” của mình, cũng như chẳng bao
giờ bận tâm về sự “ở nhà lầu” của người khác.
 TL là người giàu tình yêu thương, sống thiên về yêu thương, ít khi nói hay thể hiện sự ghét
bỏ.
Chính lòng trắc ẩn đã sinh ra văn chương TL: nhân vật chính diện đậm nét, phản diện ko đậm
nét (giống Nguyên Hồng).
Thạch Lam sống nhiều với nội tâm. Động thái chủ yếu của TL là nghe, hay lao tâm khổ tứ
 Tâm hồn TL đã tác động vào văn TL: văn của người có thể cảm nhận những biến thái mong
manh của ngoại cảnh, nắm bắt được những rung động tinh vi của hồn người, hồn tạo vật.

II. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT

1. Quá trình sáng tác:

- Lúc đầu Thạch Lam chưa viết văn mà viết báo, bút danh: Việt Sinh. Khi viết văn: lấy bút
danh là Phan Thúy, sau đổi thành Thạch Lam.
- Thạch Lam sáng tác 5 thể loại:

+ Truyện ngắn trữ tình: Nắng trong vườn, gió đầu mùa (theo lối lãng mạn); Sợi tóc (theo lối triết
lí): sợi tóc là hình ảnh ẩn dụ để nói về một danh giới.

+ Tiểu thuyết: không thành công. Sở trường của TL là truyện ngắn, TL viết truyện dài chỉ là một
truyện ngắn kéo dài (“Ngày mới”: truyện dài thất bại đầu tiên của Thạch Lam, sau khi viết tiểu
thuyết Thúy Mai, bị bạn bè giễu, in được vài số, TL bỏ dở).

+ Kí: sở trường của Thạch Lam được phát huy: “HN băm sáu phố phường” là tập kí có giá trị

Page | 63
+Truyện thiếu nhi: chỉ 2 cuốn: Hạt ngọc, Quyển sách: tuy chỉ viết hai cuốn nhưng khi viết lịch
sử truyện thiếu nhi ko thể ko kể TL. Thạch Lam, Tô Hoài là 2 nhà văn viết truyện ngắn thiếu nhi
hiện đại đầu tiên.

+ Theo Giòng: có giá trị, thể hiện những trăn trở về nghề.

- Sáng tác của Thạch Lam bùng nổ mạnh mẽ năm 36 – 39 nhờ phong trào mặt trận dân chủ
nhân dân. Nhiều sáng tác về sau mới in nhưng về cơ bản đều viết trong giai đoạn 36 – 39.
- Về mặt XH: Thạch Lam hướng tới bình dân, về mặt thẩm mĩ: hướng tới sự bình dị
- Quá trình sáng tác của TL là bằng chứng cho thấy tính quyết định của chất lượng: quá trình
sáng tác ko dài, ko nhiều, nhưng chất lượng cao và độ bền lâu.

2. Quan niệm nghệ thuật

a. Quan niệm về đối tượng, chức năng của văn chương.

- Cuộc đời trong sự quan sát, cảm nhận, rung động của nhà văn. TL vừa đề cao đời sống
bên trong của nhà văn, vừa yêu cầu tôn trọng sự thật của đời sống.
- Cuộc sống quanh ta có nhiều vẻ đẹp cho nghệ sĩ kiếm tìm, miêu tả: “Cái đẹp man mác
khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tìm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc
của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chính chỗ mà ko ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che
lấp của sự vật, cho người khác một bài học về trông, nhìn và thưởng thức” (Một vài ý
nghĩa)
- Đi sâu vào vẻ đẹp bí ẩn trong tâm hồn con người, đề cao “đời sống bên trong”.

Nhà văn phải nắm bắt và diễn tả đời sống bên trong phong phú và sâu kín của con người,
nhìn ra “người ta là một động vật phiền phức. Tâm hồn người ta ko giản dị như một biểu
hiện và bao giờ cũng có một phần bí mật”, “nhà nghệ sĩ giỏi là nghệ sĩ tạo ra những nhân
vật thật và hoạt động, ngoài những tính cách và đặc điểm của cái địa vị XH, tìm đến được
cái bí mật ko tả được ở trong mỗi con người”.

- Chức năng của văn chương: “văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có để vừa tố cáo vừa thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng
người trong sạch và phong phú hơn”.

b. Quan biệm về người nghệ sĩ

- Người nghệ sĩ phải có tâm hồn phong phú và tinh tế, như vậy mới cảnh nhận được vẻ đẹp
của thiên nhiên và khám phá được phần bí mật trong hồn người.
- Nghệ sĩ phải có tài quan sát, không chỉ là quan sát bề ngoài mà quan trọng hơn, biết quan
sát từ bên trong.
- Nghệ sĩ phải là người thành thực: “Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ.
Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay thôi... Và ko có gì
đáng khinh bỉ cho một nhà văn hơn là mình tự dối mình”, hướng về cái giản dị, sâu sắc,
chân thật.

III. TƯ TƯỞNG VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT


Page | 64
 Thạch Lam nhìn đời, nhìn người thiên về cái đẹp, cái thiện, dành lòng trắc ẩn trọn vẹn,
nguyên sơ cho những người bất hạnh mà thanh cao trên mảnh đất này.
 Tư tưởng thể hiện qua cách xây dựng thế giới nhân vật của Thạch Lam.
 Nguyễn Tuân: “Mỗi nhà văn chân chính bao giờ cũng sáng tạo ra một loại nhân vật của
mình. Nhân loại nhân vật ấy có cấu trúc của nó. Nó là sản phẩm của tư tưởng và cũng chuyển
biến theo sự chuyển biến theo sự chuyển biến của tư tưởng ấy”. Chủng loại nhân vật là chìa
khóa mở vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.
 Nguyễn Du: tài hoa bạc mệnh
 Nguyễn Tuân: tài hoa nghệ sĩ
 Thạch Lam: con người mang nỗi khổ của sự mưu sinh và vẻ đẹp riêng.

1. NHÀ VĂN CỦA TẦNG LỚP BÌNH DÂN, NGHÈO KHỔ, BẤT HẠNH

- Thế giới nhân vật của Thạch Lam phần lớn là những con người có địa vị thấp bé, cuộc sống
nghèo khổ, vất vả, nhịp sống đơn điệu, nhàn tẻ (công chức nhỏ, người buôn nhỏ, phu xe, làm
thuê, đi ở, dân nghèo thành thị).
- Truyện ngắn Thạch Lam miêu tả chân thực nỗi thiếu thốn, cực khổ trong đời sống vật chất
của tầng lớp bình dân.

+ Nhà mẹ Lê: người mẹ làm thuê làm mướn để nuôi đàn con mười một đứa, đi vay gạo về nấu
cơm cho con không được, bị chó đẻ, bị chó dữ của nhà ông bá cắn đến nỗi sốt vài hôm rồi chết.
Cái chết của mẹ Lê sẽ dẫn đến sự li tán của những cái chết khác.

+ Người bạn trẻ: Bào – sự học đứt gánh giữa đường, bệnh nặng, ko muốn trở thành gánh nặng
cho gia đình, đã quyết định tự vẫn như sự giải thoát khỏi cuộc sống bế tắc, cùng quẫn.

+ Đói: cái đói cồn cào, xót xa cho sự tan vỡ của đôi vợ chồng trẻ vốn rất yêu thương nhau.

+ Một cơn giận: Tình cảnh khốn quẫn của gia đình người phu xe Dư, tiêu biểu cho thân phận
một loại dân nghèo thành thị. Thành thị hiện lên trong thế giới hoàn toàn khác: ngõ nhỏ quanh
co, túp nhà tối tăm rách nát, vũng nước ngầu đục, hôi hám,...

- Nỗi khổ tinh thần: nỗi khổ nhục của cô gái khi bị vây bọc trong thành trì phong kiến nghiệt
ngã.

+ Một đời người: cô thợ Liên thấy làm việc ở xưởng vui hơn ở nhà, vì phải sống với người
chồng vũ phu độc ác, mẹ chồng cay nghiệt lắm điều, thằng con mới 6 tuổi nhưng đã xấc láo như
bố nó, gia đình không khác nào địa ngục.

+ Hai lần chết: Dung không được cha mẹ yêu thương, sớm chịu cảnh ép duyên. Tự tử xuống
sông không thành, đành chấp nhận cái chết mòn mỏi khi quay lại kiếp làm dâu.

+ Tối ba mươi: Liên và Huệ mang thân phận tủi nhục của hai cô gái làng chơi, nhớ nhà nhớ quê
nhưng ko dám về, giam hãm đời mình trong nhà săm tăm tối ở Hà thành.

 Một đời người hai lần chết.

Page | 65
- Thạch Lam nhìn đời, nhìn người thiên về phía cái đẹp, cái thiện. Nhân vật của ông tuy thiếu
thốn, cơ cực, nhưng luôn lấp lánh vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao.
- Các nhân vật nữ của TL thường mang tên các loài thảo mộc: Mai, Lan, Liên, Sen, thường đặt
cho nhân vật nữ những cái tên thanh quý, nhẹ nhàng.

2. NHÀ VĂN MANG TẤM LÒNG NÂNG ĐỠ BAO VẺ ĐẸP ĐÁNG QUÝ Ở CON
NGƯỜI.

a. Vẻ đẹp của lòng thương yêu thương, sự đùm bọc, sẻ chia.

- Gió lạnh đầu mùa: khắc sâu hơn sự ấm áp của tình người
- Hai đứa trẻ: Liên và An biết sẻ chia với những đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ, những người
sống xung quanh mình.
- Đứa con: Bà Cả thay đổi thái độ với chị Sen.

b. Vẻ đẹp của đức hi sinh, tần tảo

- Mẹ Lê: vất vả khổ sở lo cho đàn con


- Đói: Mai thương chồng đói mà chạy vạy
- Cô hàng xén: Tâm lặng lẽ sống cuộc đời cô hàng xóm. Gánh hàng xén trên vai, đôi chân bền
bỉ và tấm lòng nhẫn nại, thơm thảo, ko biết cuộc đời họ đã qua bao nhiêu ngàn cây số ở
muôn nẻo chợ quê. Càng ngày gánh hàng càng nặng hơn, gánh đòn càng cong xuống trên đôi
vai nhỏ bé của Tâm.
“Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn
khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ”.
 Nhân vật phụ nữ cam chịu kiếp người bất hạnh, mòn mỏi, nhẫn lại, hi sinh.
c. Vẻ đẹp của lòng thủy chung, tình nghĩa
- Dưới bóng hoàng lan: Truyện ngắn là dòng cảm giác, tâm tình quyến luyến của Thanh khi từ
thành thị về quê thăm bà ngoại. Gặp lại ngôi nhà cùng bao kỉ vật thân thuộc, gặp lại người
bạn gái dịu dàng trong hương hoàng lan.

+ Cảm giác trong lành khi lách cánh cửa gỗ bước vào khu nhà, đi trên con đường gạch Bát Tràng
rêu phủ, nghe mùi lá tươi non phảng phất trong ko khí.

+ Cảm giác thân thuộc khi thấy người bà mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc ở ngoài vườn đi vào,
như một bà tiên trong truyện cổ.

+ Cảm giác mát rượi khi đến bên bể, múc nước vào thau rửa mặt.

+ Cảm giác dịu dàng, vương vấn với cô bé Nga ngày xưa giờ đã trở thành thiếu nữ

d. Vẻ đẹp của sự ăn năn, ý thức làm người và khao khát hoàn lương.

- Sợi tóc: Thành và Bân: đứng trên địa giới mong manh như sợi tóc giữa chuyện ăn cắp và
không ăn cắp, lương thiện và ko lương thiện, lại chỉ có sự thẩm vấn duy nhất là bản thân
mình, Thành đã giữ vững nhân phẩm.
- Một cơn giân: Thanh day dứt sau cơn giận, hối hận chuộc lại lỗi lầm với người phu xe  tin
vào khả năng phục thiên của con người.
Page | 66
- Tôi ba mươi: Liên và Huệ

3. NHÀ VĂN CÙA LÒNG TRẮC ẨN CÒN NGUYÊN VẸN, CHƯA BỊ LÍ TÍNH HAY Ý
THỨC HỆ XÔ ĐẨY

- Đọc 3 truyện: Đứa con; Tôi ba mươi; Người đầm để chứng minh cho một phương diện độc
đáo trong tư tưởng của Thạch Lam: một lòng trắc ẩn nguyên sơ và trọn vẹn dành cho những
người bất hạnh mà thanh cao trên mảnh đất này.

a. Tôi ba mươi: vượt lên định kiến XH

b. Người đầm: vượt lên định kiến dân tộc

c. Đứa con: vượt lên định kiến về giai cấp

Ở Thạch Lam, lòng trắc ẩn còn nguyên vẹn, chưa bị lí tính hay ý thức hệ xô đẩy. Mỗi chuyện
của Thạch Lam là sự lên tiếng của lòng trắc ẩn nguyên sơ, trọn vẹn cho con người.

Lòng trắc ẩn nguyên sơ dành cho những người bất hạnh mà thanh cao trên mảnh đất này (cái
nhìn ko mang tính thiên kiến, định kiến).

III. PHONG CÁCH HÒA GIẢI

1. HÒA GIẢI VỀ KHUYNH HƯỚNG: HIỆN THỰC VÀ LÃNG MẠN

a. Hiện thực

- Sáng tác TL đầy tính chân thực, khách quan: bởi ông đã xoáy sâu vào những thân phận bất
hạnh, đi vào sự tăm tối của các cảnh đời.
- Thế giới nhân vật: những con người nhỏ bé, thường xuất hiện trong không gian phố huyện
nghèo.
- Thái độ của người viết: trầm tĩnh, nhẹ nhàng, khách quan.
- 3 mô típ chính: bóng tối, cái đói, cái rét.

Những chuyện hay của TL thường nhiều bóng tối.

Hai đứa trẻ: cái tối của hoàng hôn, của ánh ngày tàn, ngọn đèn dầu

Cô hàng xén: mảng tối trên con đường làng mấp mô chân trâu, dưới những rặng tre sẫm đen dần
khi đêm xuống trên con đường về nhà của cô hàng xén.

Tối ba mươi: khoảng tối trong đêm giao thừa tràn cả dãy phố hẻm có ngôi nhà “xăm”

- Thời gian: mùa đông, đêm khuya

1. Hòa giải về khuynh hướng: lãng mạn và hiện thực

- Truyện TL thường bắt đầu từ hiện tại bi kịch, nhìn về quá khứ và hướng tới tương lai, nhưng
tương lai là sự kéo dài của hiện tại, tất cả những gì đẹp đẽ nhất nằm trong quá khứ (cái đã mất),
chỉ có thể quay về bằng hồi ức

Page | 67
 Sáng tác của Thạch Lam rất lãng mạn nhưng ko thiếu hiện thực.

b. Lãng mạn

- Tính chất chủ quan: nhân vật của TL ko có tích cách, tính cách nhân vật là tính cách của bản
thân TL

- Tính chất nội cảm, cảm xúc

+ Thể hiện cái đẹp trong thiên nhiên: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, TL đặc biệt nhạy cảm
trong những khoảng giao mùa.

+ Thể hiện cái đẹp trong tâm hồn con người, đặc biệt đi sâu vào thế giới cảm giác, những biến
động tinh vi của hồn người. (Đọc lời giới thiệu Gió đầu mùa)

- Thủ pháp: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, hoàn cảnh và tâm hồn con người.

VD: DƯỚI BÓNG HOÀNG LAN

Dưới bóng hoàng lan thể hiện niềm vui nhẹ nhàng, trong sáng, thơ mộng, khác với chuỗi truyện
buồn, tù đọng quen thuộc của TL

Nhưng vì sao Dưới bóng hoàng lan luôn được nhắc đến như 1 sáng tác tiêu biểu của TL?

- Chất lãng mạn trong Dưới bóng hoàng lan:

+ Chàng trai ra tỉnh làm việc, sau 2 năm trở về ngôi nhà cũ, mảnh vườn xưa có cây hoàng lan,
gặp lại người bà hiền hậu và cô hàng xóm dịu dàng.

+ Ko gian: mơ hồ, tĩnh lặng, đầy hương thơm: “Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây khiến
chàng vương phải”

+ Thời gian: như ngưng đọng. Các câu văn lặp lại theo cấu trúc thể hiện ý bất biến: “vẫn y
nguyên như ngày chàng đi xa”, “chàng có cảm giác như vẫn ở nhà từ bao giờ”, “phong cảnh vẫn
y nguyên, gian nhà vẫn tĩnh mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ”. Lúc Thanh ra đi:
“Chàng vẫn bé quá và lại đi xa”

- Truyện TL thường diễn tả thế giới theo chiều hướng lụi tàn, “Dưới bóng hoàng lan” dùng sự
ngưng đọng để níu giữ, bảo tồn những gì tốt đẹp, niềm vui, điểm tựa của con người.
- Thanh đi về tỉnh nhưng vẫn ko nguôi nhớ quê nhà, nơi có người con gái “vẫn đợi chàng, vẫn
nhớ mong chàng như ngày trước. Mỗi mùa cô lại giắt hoàng lan trong mái tóc để tưởng nhớ
mùi hương.”
 DBHL tiêu biểu cho hồn văn TL, kết nối vô hình với các sáng tác khác, vì truyện thể hiện
những ước mơ, ấp ủ sâu kín của TL: hạnh phúc là sự yên tĩnh trong sáng của tâm hồn, là
được sống hài hòa trong tình quê, tình người đằm thắm, đôn hậu.
 Sáng tác của TL mang cả 2 khuynh hướng hiện thực và lãng mạn, hiện thực nhưng ko đau
khổ, bi đát, trực tiếp đi vào những mâu thuẫn XH và sự bần cùng hóa, lưu manh hóa như
văn học hiện thực phê phán (Chí Phèo, Tắt đèn), lãng mạn nhưng ko đưa con người thoát li,
quay lưng với thực tại như TLVĐ (Hồn bướm mơ tiên, Bướm trắng)
Page | 68
2. HÒA GIẢI VỀ THỂ LOẠI: TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH

a. Tình huống

- Trước đây, cốt truyện được coi là hạt nhân của truyện ngắn, nhưng thực tế ko có cốt truyện vẫn
có thể là truyện ngắn. Tình huống mới là hạt nhân của truyện ngắn.

- Tình huống: là 1 khoảnh khắc của đời sống, một lát cắt của đời sống, nhưng qua lát cắt ấy thấy
được cả trăm năm của 1 đời thảo mộc (Nguyễn Minh Châu)

 Tình huống là 1 sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó bản chất của con người, của đời sống
được bộc lộ sắc nét, tại đó, ý tưởng của nhà văn được hiện hình trọn vẹn. Tình huống là cái xảy
ra làm thay đổi nhiều tương quan trước đó.

- Có 3 loại tình huống:

+ Tình huống nghiêng về hành động: nhân vật buộc phải hành động thì mới hóa giải được tình
thế. Tình huống này dẫn đến kiểu nhân vật tương thích: con người hành động (Nguyễn Công
Hoan)

+ Tình huống nghiêng về nhận thức: nhân vật phải tìm hiểu, vỡ lẽ về một vấn đề của nhân sinh
hoặc vấn đề nghệ thuật  Con người tư tưởng. Chất liệu để nhà văn khắc họa: tư tưởng. Nhân
vật hiện ra qua những quan sát, suy luận, âm mưu, thủ đoạn.

 Kiểu truyện ngắn giàu chất triết luận, truyện ngắn luận đề.

+ Tình huống nghiêng về tâm trạng: là loại sự kiện đặc biệt của đời sống mà nhân vật có sự biến
động trong tình cảm. Truyện ngắn lấy kiểu tình huống này làm trọng tâm sẽ tạo nên loại nhân
vật là kiểu người tình cảm, quan tâm đến đời sống nội tâm, cảm xúc, cảm giác, có nhiều chi tiết
thuộc về cảm giác.

Truyện ngắn TL: tình huống tâm trạng: những sự kiện gây biến động trong đời sống tình cảm.

 Thanh đi xa: trở về: biến động trong tình cảm


 Bà cả: nghe da thịt đứa trẻ làm thức dậy cảm cúc trong mình
 Hai đứa trẻ: Đợi tàu

. Việc đợi tàu làm thức dậy những xôn xao trong tâm hồn Liên và An.

. Thể hiện ước mơ, nỗ lực vượt thoát của 2 đứa trẻ khỏi thế giới tù đọng, mòn mỏi, tàn lụi
của phố huyện, hướng đến 1 thế giới đáng sống hơn.

. Hình ảnh đoàn tàu vừa khắc sâu thêm sự tội nghiệp trong hiện thực đời sống của HĐT, vừa
cho thấy khát vọng vượt thoát.

. Từ đây, tác phẩm gióng lên hồi chuông cảnh báo: Hãy cứu lấy những đứa trẻ - tương lai của
phố huyện lụi tàn.

b. Nhân vật

Page | 69
- Nhân vật bình thường được làm nổi bật ở ngoại hình, tính cách nhưng điều này rất mờ nhạt ở
các nhân vật của TL rất mờ nhạt.

VD: ko biết An là con trai hay con gái.

- Nhân vật của TL rất ít hành động, chủ yếu xoay quanh 2 hành động là ngồi và nghe: nghe
ngoại giới và nghe lòng mình.
- Nhân vật TL chủ yếu được nhận ra qua đời sống tâm hồn. TL có sở trường trong miêu tả các
biến động tâm hồn, càng là những biến thái mong manh, mơ hồ, TL càng miêu tả chân xác
- Dưới bóng hoàng lan: Truyện ko có cốt truyện, các nhân vật ko có chân dung, ko có tính
cách để lưu lại 1 nét cụ thể. Nhưng lưu lại được trong người đọc cái hồn của truyện: chất thơ
bàn bạc, man mác, lan tỏa khắp ko gian.
- Một cơn giân: diễn tả tự nhiên trạng thái tâm lí gây ra 1 cơn giận: “Có những ngày mà tự
nhiên, ko hiểu tại sao, ta thấy khó chịu và hay gắt gỏng, ko muốn làm việc gì.”
- Đứa con đầu lòng: rung động của Tân khi đón đứa con đầu lòng
- Lúc đầu: hờ hững khi vợ đẻ con gái: do thái độ “trọng nam khinh nữ”, và bởi chàng chưa
từng làm bố  xa lạ với đứa con, giọt máu.
- Sau đó: Mỗi lần nhìn thấy “hai bàn tay nhỏ nhắn của đứa bé đang cọ quậy giơ lên giơ
xuống”, “bàn tay mập mạp xinh xắn của nó nắm chặt lấy tay mẹ như để cầu sự âu yếm và che
chở”, lòng Tân xao động, “cảm thấy lần đầu tiên cái thiêng liêng và sâu xa của sự sống”, thấy
“trong lòng rung động khẽ như cánh bướm non, một tình cảm sâu xa và mới mẻ chưa từng
thấy”  Tân bị chinh phục bởi cái đẹp của sự sống, sự thiêng liêng của tình máu thịt.

c. Giọng điệu trần thuật

- Giọng TNTT là giọng tình cảm.

- TL: giọng trần thuật cảm thương: xót xa trước nỗi khổ , trìu mến trước cái đẹp.

d. Ngôn ngữ: đầy chất thơ.

- Bình diện nội dung: những hình ảnh thơ mộng, gợi cảm; rung cảm thơ mộng, yên bình.

- Bình diện hình thức:

+ Từ vựng: mật độ dày của những ngôn từ diễn tả cảm xúc, cảm giác, đặc biệt là những cảm xúc
tinh vi

Mật độ tính từ nhều hơn động từ: thủ pháp động từ hóa tính từ hoặc tính từ hóa động từ được sử
dụng linh hoạt

Động từ: những ĐT thể hiện động thái mạnh: ít

Những động từ biểu thị động thái êm dịu, nhẹ nhàng, chỉ tâm trạng chiếm ưu thế

+ Thanh điệu: có sự hài hòa, đắp đổi bằng trắc linh hoạt, những dạng câu mật độ thanh bằng
chiếm ưu thế. Các vế câu có sự đắp đổi về âm thanh theo nguyên tắc cân xứng.

+ Nhịp điệu, nhạc điệu:


Page | 70
. Yếu tố quan trọng nhất để đem lại tính thơ cho ngôn ngữ: cảm xúc được hình thức hóa trong
ngôn ngữ; là tiết đoạn ngôn ngữ được lặp lại theo những chu kì nhất định.

Phân tích tính thơ trong câu văn:

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng
ruộng theo gió nhẹ đưa vào.

. Nếu là câu bình thường: chỉ cần “chiều rồi”

. Nếu là câu đặc biệt: chỉ cần “chiều”

. Nếu là câu văn xuôi, xét cả 2 dạng đặc biệt và đầy đủ thì đều dư thùa.

. Nhưng đây lại là khía cạnh độc đáo vì đem đến tính thơ cho câu văn xuôi.

. Câu này mang tính thơ vì nhấn mạnh vào chức năng biểu cảm. Khi chức năng thông báo đi liền
với chức năng biểu cảm thì sẽ tạo nên tính thơ cho câu văn.  câu văn đầy nhịp điệu.

. TL đã hóa thân vào Liên để bộc lộ cảm xúc: bất ngờ: vì chợt nhận ra chiều; Thảng thốt: vì với
Liên, chiều là thời gian nhạy cảm, phố huyện chỉ bộc lộ bản chất đìu hiu trong buổi chiều.

Page | 71
NAM CAO

I. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI

1. TIỂU SỬ

- Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí, xuất thân trong 1 gia đình nông dân nghèo ở làng Đại
Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Bút đanh được
ghép từ tên huyện và tên tổng.

- Quê hương: làng Đại Hoàng là 1 vùng chiêm trũng giữa đồng bằng Bắc Bộ, người dân quanh
năm đói nghèo, sống chung cùng lũ lụt, nhà cửa thưa thớt, hẻo lánh.

 Sinh ra và lớn lên trong làng quê rất điển hình cho nông thôn miền Bắc trước CMT8.

- Gia đình nghèo, đông con  khiến NC thấu hiểu và đồng cảm nỗi cơ cực của người nông
dân nghèo.
“Gia đình y khánh kiệt rồi. Bà ngoại y già nua, ốm yếu, bẳn gắt, buồn rầu. Bà chửi con cháu
suốt ngày và khóc suốt ngày. Ông thân y uống rượu rất nhiều chỉ vì thất bại rất nhiều. Lũ em
y lúc nhúc rất đông, không được học, không được mặc, thường thường ko đến cả ăn (…) Bà
mẹ y, già và xấu đi nhiều quá (…) làm và nhịn tọp người đi như 1 con ve. (…) Vợ y cũng
khác đi nhiều (…) khuôn mặt trái xoan xưa, đã có cạnh ra” (Sống mòn)
+ Ngay cả khi lập gia đình, có con, NC vẫn rất nghèo. Ông là 1 trong số những người nghèo
khổ nhất trong số các nhà văn trước cách mạnh. Tài sản ko có gì, chỉ có cái bàn và 4 chiếc
ghế, 1 cái tủ bằng gỗ lim do bố đẻ đóng rồi cho nhà văn. Có tủ, nhưng chỉ đựng toàn sách,

Page | 72
báo cũ. Vì khó khăn, NC có lúc cầm lòng bán đi 1 số tiểu thuyết trong cái tủ đó để lấy tiền
mua thuốc cho con (lão Hạc)
+ Nam Cao xuất thân từ 1 gia đình theo thiên chúa giáo, có nghi thức xưng tội, tự sám hối,
con người thường xuyên tự theo dõi thế giới nội tâm, tự nhìn nhận lỗi lầm của mình  tác
phẩm của ông có nội tâm sâu sắc.
- Học vấn: năm 1935, thi trượt Thành Chung, Nam Cao vào Sài Gòn kiếm sống với nhiều ước
mơ, hoài bão, nhưng bệnh tật khiến ông phải trở về quê. Ông tự học và thi đỗ lại thành
chung, xin đi làm công chức nhưng ko được do sức khỏe yếu.
- NC lên Hà Nội dạy học, trải nghiệm cuộc sống của 1 giáo khổ trường tư, khiến ông có cảm
nhận sâu sắc về thân phận người tri thức trong XH cũ, chất liệu để ông viết Sống mòn.
 NC mang cuộc đời điển hình cho người trí thức tiểu tư sản: nhiều hoài bão, mơ mộng, nhưng
luôn vấp ngã trong đời sống thực tại.
Gia đình cho đi học, vào SG sống với ước vọng sang Pháp mở mang trí thức, nhưng bệnh, về
quê, lên HN dạy học kiếm sống, tiêu chuẩn ngày càng hạ nhiệt, tan vỡ mộng  dằn vặt của
trí thức TTS. Tác phẩm thường mang tính tự truyện.
- Khi Nhật vào Đông Dương, cao trào kháng Nhật cứu nước nổ ra, NC tích cực tham gia CM,
gia nhập nhóm văn hóa cứu quốc, tham gia cướp chính quyền ở Lý Nhân.
- Sau CM, Nam Cao tiếp tục tham gia vào công tác kháng chiến, hi sinh trên đường công tác.

2. CON NGƯỜI

- NC (và Ngô Tất Tố) đều là những nhà văn xuất phát từ nông dân, sống cùng nông dân, hiểu
nông dân  nhà văn của nông dân.

- NC là người nhân hậu, trầm lặng, bề ngoài nhút nhát, lạnh lùng đến khó gần. Nhưng bên trong
là 1 tâm hồn nhân hậu, chan chứa yêu thương  cơ sở hình thành chủ nghĩa nhân đạo.

- Giàu ân tình với người nghèo khổ. Khi trở thành nhà văn, có lúc được ăn cao lương mĩ vị
nhưng ko bao giờ quên bánh đúc dầm tương và cá bống kho của làng Đại Hoàng.

- Là con người thường xuyên có sự đấu tranh với chính mình, hay tự hối hận, dằn vặt, giày vò.
- Nguyễn Đình Thi: “nhà văn mảnh khảnh thư sinh ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc
lại đỏ mặt, mà kì thực mang trong lòng 1 sự phản kháng mãnh liệt”.
- Đấu tranh nội tâm in đậm vào phần lớn tác phẩm về đề tài trí thức tiểu tư sản của NC.

II. QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT

- Ko phải ngay từ đầu Nam Cao đã suôn sẻ trong sáng tác, bắt đầu viết từ 1936, thử nghiệm
trên nhiều thể loại nhưng đều ko thanh công.
- Sáng tác đầu tay của Nam Cao: lãng mạn (Những cánh hoa tàn). Nam Cao nhanh chóng thoát
khỏi thế giới mộng tưởng để trở về với đời thực.
- Phê phán thứ văn chương lãng mạn thoát li, đòi hỏi nghệ thuật phải trở về đời sống hiện thực,
phản ánh chân thực đời sống hiện thực (quan điểm hiện thực)
- Giăng sáng: Nhân vật văn sĩ Điền là hình bóng NC: sống trong cảnh túng thiếu, vất vả lo
toan bao khoản chi tiêu của gia đình, nhưng Điền lại muốn trốn tránh cuộc sống tầm thường
ấy, mơ ước ngòi bút của mình “khơi nguồn cho những tình cảm đầy mơ mộng”.
Page | 73
- Điền muốn cái đẹp của ngệ thuật có thể che phủ cuộc sống hiện tại như “ánh trăng xanh
huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa”, nghĩ tới cảnh các
tiểu thư khuê các, những người đàn bà nhàn nhạ đang mơ mộng với tác phẩm của mình.
- Đang thả hồn bay bổng, Điền sực tỉnh trước tiếng con khóc ngằn ngặt vì đói, vì bệnh, tiếng
gắt gỏng của vợ, tiếng đòi nợ léo xéo, tiếng chửi rủa của hàng xóm.
- Thực tế nghiệt ngã nhanh chóng lay thức Điền. Anh nhận ra “trong những căn lều nát mà
trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với
những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ
và lầm than”.
- Điều nhận ra mình ko thể mơ mộng được nữa. Nghệ thuật ko cần là ánh trăng lừa dối, ko nên
là ánh trăng lừa dối.
- “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.
- Người nghệ sĩ phải “Đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”
 Trước Nam Cao, Vũ Trọng Phụng đã đưa ra quan điểm văn chương là sự thực ở đời.
NC đã kế thừa và thể hiện sinh động trong Giăng sáng
- Một số tác phẩm khác NC tiếp tục phê phán những nhà tiểu thuyết “óc đầm đìa thuốc phiện”,
“suốt đời nhìn trăng” (Nhìn người ta sung sướng), tác phẩm của họ toàn “cái giọng lướt mướt
của 1 kẻ thất tình” (Sống mòn), độc giả của họ chỉ biết ăn ngon, mặc đẹp, chăm sửa thịt da và
chẳng làm gì cả.
- Văn chương phải vị nhân sinh (chủ nghĩa nhân đạo).
+ Vấn đề Đôi Mắt trong tác phẩm Nam Cao?
+ Văn học phải có giá trị nhân đạo, văn chương chân chính phải có khả năng nhân đạo hóa
con người.
+ Khi phê phán tính chất thoát li của văn chương lãng mạn, Nam Cao suy nghĩ về vấn đề đôi
mắt, tấm lòng trước cuộc đời, con người của nhà văn. Từ đay, CNHT của ông gắn liền cùng
CNNĐ
+ Đứng trước tình trạng khốn khổ của người lao động, ông đòi hỏi nghệ thuật chân chính
phải nói lên sự thật ấy, thành thực và dũng cảm phơi bày kiếp lầm than.
+ Một tác phẩm có giá trị phải chứa đựng cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa
phấn khởi, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, để trở thành của chung của loài
người, nó phải ca tụng tình thương, lòng bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người
hơn.
+ Muốn vậy, người nghệ sĩ ko chỉ phải đứng trong lao khổ mà phải có đôi mắt tình thương
để nhìn cuộc đời, con người.
+ (Lão Hạc, Đôi mắt, Đời thừa)
 Văn chương chân chính phải có khả năng nhân đạo hóa con người.
+ Muốn làm tròn chức năng cao quý trên, người nghệ sĩ phải có đôi mắt tình thương, nhìn
thấu bản chất con người.
+ Hộ: ăn năn hối hận bằng triết lí tình thương. Tình thương là tiêu chuẩn quan trọng nhất của
con người.
+ Ông giáo triết lí trong Lão Hạc: Chao ôi, đối với những người ở quanh ta, nếu ta ko cố mà
tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bị ổi, toàn những cớ để cho
ta tàn nhẫn, ko bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, ko bao giờ ta thương.
Page | 74
- Đề cao tinh thần sáng tạo của người nghệ sĩ
- Phê phán “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào”, ko chấp nhận sự cẩu thả trong văn
chương “sự cẩu thả trong nghề gì cũng là sự bất lương, nhưng sự cẩu thả trong văn chương
còn là đê tiện”, sáng tác ko lặp lại người khác mà cũng ko được lặp lại chính mình.
- Quan điểm: hiện thực – nhân đạo – sáng tạo

III. Đề tài

1. Đề tài nông thôn, người nông dân

Những thử thách đặt ra cho NC khi viết về đề tài người nông dân? Ông đã vượt qua thử thách đó
bằng cách nào?

A. BỨC TRANH NÔNG THÔN

- Bức tranh nông thôn trong tác phẩm NC có những cảnh thơ mộng, đẹp đẽ: dòng sông trong
mát, vườn chuối vườn trầu, đêm trăng gió mát, nhưng ko nhiều.

- Nông thôn xơ xác, tiêu điều, hoang vắng: đường làng, ngõ xóm vắng vẻ, ruộng vườn cằn cỗi,
xác xơ, mọi sinh hoạt thu gọn vào trong cái mái nhà.

- (khác với sự ồn ào, om sòm trong nông thôn của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan)

Nam cao xuất hiện vào giai đoạn cuối của VHHTPP, thời điểm NC xuất hiện, đã có nhiều cây
bút viết về người nông dân rất thành công: anh Pha, chị Dậu, thị Mịch, nhưng bằng cái nhìn hiện
thực sắc sảo và tài năng nghệ thuật độc đáo, ông đã vượt lên thử thách này.

- Nông thôn đói nghèo, bị bòn rút, vơ vét hết cho chiến tranh, đang đi tới nạn đói khủng khiếp
năm 1945

+ “Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa những khu vườn rộng nhưng xấu lắm: mía
đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân gà, chuối lè tè như những cây rau diếp ngồng, dễ chỉ đến
cây khoai, cây ráy cũng không lên được. Người xấu xí và rách rưới. Cái số trẻ con bụng ỏng mắt
toét ngoài đường sẵn lắm”. (Quái dị)

 Hoàn cảnh bần cùng xô đẩy người nông dân đến tình trạng bần cùng và lưu manh hóa.
B. HÌNH ẢNH NGƯỜI NÔNG DÂN NGHÈO KHÓ, BẦN CÙNG HÓA, LƯU MANH
HÓA VÀ VẺ ĐẸP BÊN TRONG HỌ.
Cái đói và miếng ăn: đề tài chung của chủ nghĩa hiện thực, nhưng Nam Cao có cách
nhìn riêng. Cái nhìn ấy là gì?
- Nếu như ở tác phẩm của Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, thì ở tác phẩm của Nam Cao lại là
tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng
ăn làm cho tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi” (Cái đói và miếng ăn trong truyện Nam
Cao, Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 71 ngày 1/11/1991).
Quá trình bần cùng hóa:
- Người nông dân vật lộn trong cái đói của cuộc tồn sinh.
- Miếng ăn, cái đói là mẫu số chung của nhiều tác phẩm văn xuôi hiện thực. Tiếp nối đề tài
này, Nam Cao đã viết những trang văn đầy sâu sắc, cảm động.
Page | 75
- Nghèo: anh Đĩ Chuột vì đói, nghèo, bệnh tật mà tìm cách tự tử để giải thoát, đỡ gánh nặng
cho vợ con.
- Một bữa no: Bà Thanh chết tức tưởi bưởi được ăn một bữa quá no.
- Lão Hạc: vì đói, vì muốn giữ trọn mảnh vườn cho con trai nên ăn củ khoai, củ ráy cho qua
bữa, cuối cùng phải tự sát.
- Một đám cưới: cô bé Dần mới hơn chục tuổi phải đi lấy chồng để cha ngược rừng nuôi em.
“Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau
đi tìm chỗ ngủ”.
- Nam Cao không tập trung khái quát bức tranh hiện thực rộng lớn, ít khi đi sâu vào xung đột
giai cấp gay gắt, ông chủ yếu miêu tả những “cái hàng ngày”, nhưng “cái hàng ngày” ấy lại
có tính khái quát, mang bản chất của đời sống.
- Mootip thường xuất hiện trong tác phẩm của NC: cái đói, cái chết, nước mắt.
Quá trình lưu manh hóa:
- Những dấu mốc nào là quan trọng nhất, tạo nên những biến cố trong cuộc đời Chí Phèo? Từ
đó có thể chia cuộc đời Chí Phèo thành mấy giai đoạn?
- Nhà tù và cuộc gặp gỡ với Thị Nở là 2 dấu mốc trong cuộc đời Chí Phèo, 2 dấu mốc đó chia
cuộc đời Chí Phèo thành 3 chặng lớn:
- Giai đoạn 1: Trước khi đi ở tù
+ Lí lịch:
 Bị bỏ rơi bên một cái lò gạch hoang. Ngay từ giây phút chào đời đã bị vứt ra ngoài
lề cuộc sống.
 Nếu không có sự cưu mang của những người nông dân nghèo làng Vũ Đại: anh thả
ống lươn, bà góa mù, bác phó cối không con thì đứa trẻ không thể lớn lên thành Chí
Phèo. (đoạn này SGK lược bỏ)
 Trải qua quãng đời tuổi thơ đầy bất hạnh, Chí Phèo trưởng thành, làm canh điền cho
nhà Lí Kiến, sống bằng sức lao động chân chính, bằng lòng tự trọng, có một ước mơ
bình dị, chính đáng: có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê, vợ cuốc mướn, bỏ lại 1
con lợn nuôi để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng.
 Chí Phèo là 1 người nông dân lương thiện.
- Giai đoạn đầu tiên của cuộc đời Chí Phèo chỉ được nói lướt qua bằng mấy câu mở đầu tác
phẩm. Mãi đến cuối truyện những chi tiết về thời trai trẻ mới xen thoáng qua vào dòng hồi ức
của Chí Phèo.
 Thời lương thiện quá ngắn ngủi và xa xôi, chỉ hiện lên như những ấn tượng nhợt nhạt, những
khát khao ko thể chạm đến.
- Giai đoạn 2: Từ khi Chí Phèo ra từ tới khi gặp Thị Nở
- Vì ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đẩy người thanh niên lương thiện vào tù. Nhà tù thực dân đã
tiếp tay cho cường hào, biến Chí Phèo thành 1 người khác hẳn.
- Những thay đổi của Chí Phèo:
+ Nhân hình: Sau 7, 8 năm đi tù, Chí Phèo trở về làng trong ngoại hình gớm ghiếc: Cái đầu
cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà lại rất cơng cơng, mặt vằn dọc vằn ngang
đầy những sẹo,…  Dấu hiệu đầu tiên cho thấy đây không phải là 1 anh Chí Phèo lương
thiện thủa nào.
+ Nhân tính:
Page | 76
Hành động: rạch mặt ăn vạ như 1 nghề kiếm sống
Trạng thái: say triền miên
 Bản chất lưu manh ngày càng được khắc họa đậm nét: rạch mặt ăn vạ như 1 nghề kiếm sống,
trạng thái say kì lạ triền miên: “hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn
say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say
nữa, say vô tận”.
TIẾNG CHỬI CÓ MỘT KHÔNG HAI:
Hoàn cảnh: Cứ rượu xong là chửi
Đối tượng chửi: cố ý sắp xếp theo 1 trình tự: từ đối tượng vu vơ, không đâu: trời, đời, đến
những đối tượng xác định là làng Vũ Đại, đứa nào ko chửi nhau với hắn, đứa nào đã đẻ ra
thân hắn.
Mức độ xúc phạm: ngày càng nặng nề. Càng nghe tiếng chửi, người ta càng thấy phi lí.
Giọng chửi: ngày càng tức tối, phẫn uất: tức thật, thế này thì tức thật, tức chết đi được mất.
Thái độ dân làng: ko ai lên tiếng, chắc nó trừ mình ra.
 Tiếng chửi của 1 kẻ tha hóa về nhân cách, nhân phẩm.
- Phía sau tiếng chửi là tiếng nó đầy đau khổ tuyệt vọng của 1 con người mơ hồ ý thức bản
thân bị loại ra khỏi cộng đồng người. Thái độ ứng xử của dân làng đã khẳng định Chí Phèo
đã bị gạt ra ngoài lề cuộc sống làng Vũ Đại. Chửi là 1 cách cuối cùng để Chí Phèo giao tiếp
với cuộc đời. Những cái cách cuối cùng ấy cũng bị khước từ. Lời chỉ dẫn: “Bao giờ cũng thế,
cứ rượu xong là hắn chửi” cho biết việc Chí Phèo chửi như thế không phải là cá biệt. Nó diễn
ra hàng ngày nhưng cả cộng đồng vẫn làm ngơ, quay lưng, khép lòng, dửng dưng, vô cảm.
- Đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo chỉ có 3 con chó dữ
 Chí Phèo bị hạ xuống hàng loại thú vật.
- Tiếng chửi đầy xúc phạm kia đâu còn chỉ là tiếng chửi của 1 kẻ lưu manh mà thực sự trở
thành “tiếng hát lộn ngược của 1 tâm hồn méo mó” đang khao khát được đối xử, giao tiếp
như 1 con người.
- Quan hệ của chị Dậu với hàng xóm láng giềng: quan hệ của những người cùng giai cấp, có ý
thức giúp đỡ, đùm bọc nhau.
QUÁ TRÌNH LƯU MANH HÓA
- Những lần Chí Phèo gặp Bá Kiến:
+ Lần đầu đến nhà Bá Kiến: Chí Phèo đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng lại ra về trong tâm
trạng hả hê sau bữa cơm rượu.
+ Sau khi đòi được nợ cho Bá Kiến ở nhà Đội Tảo, Chí Phèo hoàn toàn trở thành công cụ mù
quáng của Bá Kiến
 Chí Phèo đã trở thành nạn nhân cho hiện tượng phổ biến trong XH: Khi những người nông
dân vốn lương thiện nhưng bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa, sẵn sàng cố cùng liều thân thì
rất dễ bị bọn thống trị lợi dụng, mua chuộc, từ đối lập đến trở thành tay sai cho chúng.

Giai đoạn 3: Từ gặp Thị Nở đến đâm chết Bá Kiến rồi tự sát.

QUÁ TRÌNH LƯU MANH HÓA.

Page | 77
- Tư cách mõ: anh cu Lộ vốn hiền lành, vì hoàn cảnh xô đẩy, tham lam mà mất đi tư cách, trở
thành mõ chính tông, từ bỏ tư cách người chỉ vì một Tư cách mõ.
- Trẻ con ko được ăn thịt chó, Trẻ con ko biết đói: Ông bố vì thỏa mãn cái dạ dày mà đày đọa
vứt bỏ nhân cách, lương tâm.
- Một bữa no, Sao lại thế này: cái nhục, nỗi thê thảm của con người vì đói mà bất chấp sĩ diện.

VẺ ĐẸP TÂM HỒN, NHÂN PHẨM CAO QUÝ CỦA HẠNG NGƯỜI DƯỚI ĐÁY

- Vẻ đẹp phẩm chất của con người trong khốn khó, bĩ cực

+ Dì Hảo: hi sinh, nhẫn nhịn, vừa đáng thương, vừa đáng khâm phục. Chăm ẵm nâng niu đứa
cháu thơ bé, nhường nhịn, chịu đựng người chồng bạc ác.

+ Dần: mới 14, 15 tuổi nhưng biết thương bố mẹ “khổ đến chết cũng đành cắn răng mà chịu, ko
dám khóc lóc đòi về”. Sau khi mẹ chết, là chị cả trong nhà, Dần đảm đang cùng bố chèo chống
vượt qua nạn đói. Đi lấy chồng cũng vì hi sinh cho bố, cho em.

+ Lão Hạc: Vì sao Lão Hạc lại chọn cái chết bằng cách ăn bả chó?

. Đó là cách để tự trừng phạt mình, thể hiện sự ăn năn, chuộc lỗi, tạ tội với cậu Vàng, người bạn
bao lâu thủy chung với mình.

VẺ ĐẸP CỦA SỰ THỨC TỈNH NHÂN TÍNH

- Việc gặp gỡ Thị Nở có ý nghĩa gì đối với quá trình thức tỉnh nhân tính của CP? Phân tích ý
nghĩa chi tiết bát cháo hành?
- Nam Cao miêu tả Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn có ý nghĩa gì?

QUÁ TRÌNH THỨC TỈNH NHÂN TÍNH

- Đầu tiên là tỉnh rượu;


Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say. Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh.
Nhờ đó, Chí Phèo nhận thức và thực sự rung cảm trước những âm thanh bình dị: tiếng chim
hót, tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy bình
thường ko xa lạ, nhưng lúc này được CP đón nhận bằng tâm trạng đầy hạnh phúc, trìu mến.
- Sau đó là tỉnh ngộ:

+ Sự quan tâm của Thị Nở đưa CP từ cõi quên trở về cõi nhớ. Nhớ lại những mơ ước bình dị
chân thành của người nông dân lương thiện thủa nào.

+ Về tình trạng bi đát của bản thân: già mà vẫn còn cô độc: ý thức về nỗi cô đơn (trước cảm
nhận được cô đơn nhưng chỉ mơ hồ trong vô thức). Nhận thấy cô độc còn đáng sợ hơn đói rét và
ốm đau.

+ Khi được ăn bát cháo hành của Thị Nở, Chí mới thực sự “thèm lương thiện”: trở lại là con
người.

. Khi thấy thị Nở mang cháo hành sang, Chí rất ngạc nhiên: hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình
như ươn ướt. Vì đây là lần đầu tiên hắn được 1 người đàn bà cho, xưa nay, muốn có cái gì phải
Page | 78
dọa nạt, cướp giật ăn năn: ý thức được tội ác của mình  Cảm nhận vị thơm của cháo: trời ơi,
cháo mới thơm làm sao nghĩ sao đến tận bây giờ hắn mới được nếm mùi vị cháo  nghĩ tới
việc chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay một người đàn bà  nghĩ tới sự nhục nhã khi bị bà
Ba Bá Kiến lợi dụng  thấy lòng thành trẻ con  ôi sao mà hắn hiền (sự chăm sóc khiến con
người trở về hoàn nguyên bản chất lương thiện).  Thèm lương thiện, đặt hết niềm tin vào Thị
Nở: Thị Nở sẽ mở đường cho hắn  Tỏ tình: giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ, hay là mình sang
đây ở với tớ một nhà cho vui.

BÁT CHÁO HÀNH CỦA THỊ NỞ

+ Biểu hiện của sự quan tâm, của lòng tốt và của tình người.

+ Đây là lần đầu tiên Chí được hưởng sự quan tâm hồn nhiên, chân thành, ko đòi hỏi, khiến Chí
ý thức được cả tình người và cả sự hiếm hoi muộn màng của tình người.

+ Chỉ cần một chút quan tâm thực ra rất xoàng xĩnh, bình thường nhưng đủ để CP trút được lốt
quỷ dữ để trở lại làm người lương thiện.

 Ko chỉ có tác dụng giải cảm mà còn làm sống lại cả tình người trong CP.

QUÁ TRÌNH THỨC TỈNH NHÂN TÍNH

- Việc gặp gỡ với Thị Nở đã trở thành bước ngoặt lớn nhất trong cuộc đời CP: lúc đầu CP đến
với Thị Nở bằng bản năng của 1 gã đàn ông nhưng sau đó sự quan tâm ân cần của Thị Nở đã
làm Chí thức tỉnh lương tâm. Cuộc tình 5 ngày thực sự đã trở thành 5 ngày đẹp nhất của cuộc
đời Chí. (Đàn bà ko có men rượu nhưng cũng làm người say. Và hắn say Thị lắm).
- BỊ THỊ NỞ CỰ TUYỆT
Nguyên nhân trực tiếp:

+ Thị Nở là người dở hơi. Đến hôm thứ 6, Thị bỗng nhớ ra Thị có 1 người cô ở trên đời: hãy
dừng yêu để về hỏi cô Thị đã.

+ Bà cô Thị Nở: ngăn cản Thị Nở đến với Chí Phèo: thằng ko cha, thằng chỉ có 1 nghề là rạch
mặt ăn vạ, thằng Chí Phèo.

+ Nguyên nhân sâu xa: định kiến XH. Bà cô Thị Nở là hiện thân cho những định kiến tồi tệ của
làng Vũ Đại: họ chỉ thấy cái lí lịch tội lỗi của Chí Phèo mà ko nhận ra rằng linh hồn hắn đã trở
về. Ngay cả Thị Nở, người duy nhất phát hiện ra bản chất lành như đất của CP cũng bị định kiến
XH sai khiến. Con đường CP trở lại làm người đã bị cắt đứt. Chí Phèo rơi vào tấn bi kịch đau
đớn nhất.

- DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG CP KHI BỊ THỊ NỞ CỰ TUYỆT:

+ Khi thấy Thị Nở giẫm chân xuống đất rồi lại nhẩy cẫng lên như thượng đồng, CP cười, tưởng
Thị đùa mình.

+ Khi nghe TN trút vào mặt tất cả lời bà cô, hắn bỗng ngẩn người (ngỡ ngàng và chợt hiểu ra).

Page | 79
+ Khi Thị ngoay ngoáy cái mông đít ra về, hắn đứng lên gọi lại, đuổi theo nắm lấy tay (như
muốn níu kéo cái hy vọng duy nhất, hi vọng cuối cùng) nhưng bị Thị gạt ra, giúi thêm 1 cái nữa
lăn khoèo.

+ Định đập đầu (bản năng quỷ dữ trở về), uống rượu, càng uống càng tỉnh, thoang thoảng hơi
cháo hành (từ bát cháo hành trở thành hơi cháo hành: mong manh, hư thoảng, xa xôi). Hơi cháo
hành là hương vị của tình người, hạnh phúc, lớn lao nhưng ngắn ngủi, mong manh.

BỊ THỊ NỞ CỰ TUYỆT

+ Hắn ôm mặt khóc rưng rức, mấy mươi năm nay CP mới biết khóc và khóc như thế này.

Khóc vì đau đớn, tuyệt vọng. Đây là phút tự ý thức đầy đủ nhất tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người.

(Nam Cao rất tin vào nước mắt của con người. Với Nam Cao, nước mắt là biểu hiện của tình
người, sự thức tỉnh của con người đều bằng nước mắt và cùng nước mắt. CP còn khả năng khóc,
có nghĩa là còn khả năng trở lại làm người lương thiện).

GIẢI QUYẾT BI KỊCH:

+ Đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tại đây, CP đã nhận thức rõ bi kịch của mình: Ai cho tao
lương thiện, làm thế nào để mất được những vết chai trên mặt này, tao ko thể làm người lương
thiện nữa.

+ Sau khi giết BK, CP tự kết liễu đời mình, cái chết của CP cho thấy CP đã lâm vào bế tắc ko lối
thoát, vì XH ko cho hắn trở lại lương thiện. Cái chết cũng cho thấy, khi ý thức nhân phẩm đã trở
về, Chí Phèo ko bằng lòng với kiếp thú vật nữa, CP đã chết trên ngưỡng cửa trở về lương thiện.

+ Trước đây, để bám lấy cuộc sống, CP đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây, khi ý thức nhân phẩm trở
về, CP ko thể sống như cũ nữa và buộc phải tự mình thủ tiêu cuộc sống của mình.

QUÁ TRÌNH THỨC TỈNH NHÂN TÍNH

- GS. Nguyễn Đăng Mạnh: NC hay băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, thái độ khinh trọng với
con người, bất bình trước tình trạng con người bị lăng nhục chỉ vì nghèo đói. Tác phẩm xuất
sắc của ông trực diện đặt ra vấn đề này và ông quyết đứng ra minh oan cho nhân vật (CP,
Một bữa no, Lang Rận). Đây là nét hấp dẫn trong phong cách Nam Cao.
- Để giải quyết vấn đề này, Nam Cao thường buộc phải đặt nhân vật của mình vào tình thế
cheo leo nơi ranh giới giữa con người và thú vật. Người đọc có cảm giác như đứa trẻ trong
rạp xiếc lo lắng nhìn bước chân người tài tử đang diễn trò leo dây giữa khoảng không. Nam
Cao không làm xiếc ngôn từ, không làm trò kĩ thuật, ông tự thử thách mình về tư tưởng bằng
cách buộc mình đi lại một cách mạo hiểm trên bờ vực thẳm: trên này là chủ nghĩa nhân đạo,
dưới kia là thái độ nhục mạ con người, trên này là chủ nghĩa hiện thực, dưới kia là chủ nghĩa
tự nhiên.

NAM CAO VÀ NGÔ TẤT TỐ

Page | 80
- Định kiến XH
- Thân thế: NTT: chỉ bị đánh đập; NC: bị hủy hoại.
- NTT là bi kịch vật chất; NC: bi kịch tinh thần.
- NTT: người nông dân không xấu xí; NC: người nông dân xấu xí.
- NTT: bi kịch được miêu tả qua xung đột; NC: đi sâu vào tâm lí.

C. TỐ CÁO, VẠCH TRẦN BẢN CHẤT NHAM HIỂM CỦA GCTT

Bá Kiến: tên cường hào, địa chủ, ác bá điển hình.

- Do già đời đục khoét, từ chức lí trưởng, trở thành chánh tổng, chánh hội đồng kỳ hào, huyện
hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu.
- Thét ra lửa, khét tiếng đến cả trong hàng huyện, cáo già, lọc lõi.
- Khám phá ra sự thật kì lạ: “Ở cái đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è cổ làm nuôi bọn lý
hào, nhưng chính bọn lý hào nhiều khi phải ngậm miệng, cung cấp cho những thằng cùng
hơn cả dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”.
- Khám phá ra quy luật “già néo đứt dây”, “đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ
làng mà đi là dại. Mười thằng đã ra đi thì chín thằng trở về với cái vẻ hung đồ, cái tính ương
ngạch học được từ phương xa”.
- Tìm ra thủ đoạn lừa bịp tinh vi: “Một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm
ngầm đẩy người ta xuống suông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế
đòi cho được 5 đồng, nhưng được rồi thì lại vất trả lại 5 hào vì anh túng quá”.
- “Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò”, mượn CP để trị Đội
Tảo, nếu CP bị Đội Tảo trị thì hắn cũng chẳng thiệt gì.
- Dâm đãng: có 4 vợ, thông dâm với vợ binh Chức trong thời gian binh Chức đi lính vắng nhà.

2. ĐỀ TÀI TIỂU TƯ SẢN

- Phản ánh cuộc sống nghèo túng, tủi cực của trí thức tiểu tư sản.
Quên điều độ: những văn nghệ sĩ kiết xác bất đắc chí... “phải bán dần sự sống đi để giữ
cho mình khỏi chết”
Xem bói: chàng thanh niên thất nghiệp trải qua những ngày ăn cháo loãng cầm hơi
Đời thừa
Nước mắt: Điền khóc 1 cách uất ức, tủi hờn khi cảm thấy mình “khổ như 1 con chó vậy”.
Cười: Cố nặn ra cái cười để “giải uất”, “an thần”.
- Phản ánh tấn bi lịch tinh thần đau đớn, xót xa của họ, lí giải nguyên nhân bi kịch.
+ Khát vọng tan vỡ khi va chạm thực tế
+ Trong Hộ đồng thời tồn tại 2 con người: gánh vác tránh nhiệm gia đình; theo đuổi hoài
bão đẹp khi sáng tạo nghệ thuật. Hai con người ấy không chấp nhận nhau và cũng không
thể loại trừ nhau. Để làm nghệ sĩ chân chính thì phải bỏ mặc, tàn nhẫn với vợ con. Để làm
tròn trách nhiệm với gia đình, Hộ phải hy sinh hoài bão, lí tưởng.
+ Sự luẩn quẩn, bế tắc: không thể vi phạm nguyên tắc tình thương: Kẻ mạnh chính là kẻ
giúp đỡ người khác trên đôi vai cảu mình, nhưng cũng không thể nguội lạnh mộng văn
chương  bi kịch dai dẳng, chứng u uất triền miên.

Page | 81
+ Đơi thừa diễn tả bi kịch của con người muốn sống cuộc sống có ý nghĩa, có khao khát
sáng tạo, muốn cống hiến nhưng lại phải sống như 1 kẻ vô ích, một người thừa.
+ Thứ: khao khát một cuộc sống hữu ích “mỗi người chết đi phải để lại chút gì cho nhân
loại”, nhưng phải chết ngay trong lúc sống, chống đỡ mòn mỏi với hoàn cảnh “mốc lên, rỉ
ra, mục ra không lối thoát”.
- Mỉa mai kết cục thảm hại của sự thèm khát hưởng lạc, giàu sang của người TTTTS (Quên
điều độ, Nhìn người ta sung sướng, Trăng sáng, Truyện tình...)
+ Truyện tình: Lưu bỏ người mẹ ở quê trông đợi từng ngày để chạy theo lời hẹn vu vơ
của cô Kha lẳng lơ ích kỉ.
Quên điều độ: Hải đang sống yên ổn trong sự “điều độ” thì bất ngờ gặp Thư, người bạn
cũ nay đã hết sức giàu có.
 Chỉ ra thói hư tật xấu của con người TTS, khẳng định: người TTS không thể được sung
sướng, có niềm vui thực sự khi chạy theo bọn có tiền, ích kỉ, khi phản bội lại tầng lớp mình.
Những ảo tưởng, mong ước không chính đáng.

3. ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT TRONG TRUYỆN CỦA NAM CAO

Mẫu chung của NC khi miêu tả về con người?

(1) Nhân vật của Nam Cao là những nhân vật luôn đi qua những chuỗi bi kịch (ko đến 1 lần), bi
kịch sau bao giờ cũng cay đắng, chua xót hơn bi kịch trước, tận cùng bao giờ cũng là những cái
chết, có thể là những cái chết sinh học, nhưng phổ biến hơn, đau xót hơn là cái chết của nhân
cách.

CÁI CHẾT – NỖI ÁM ẢNH BAO TRÙM

Cái chết sinh mệnh:

- Phản ánh sự bần cùng của con người, bế tắc XH

+ Phần lớn những người chết là người lương thiện, chết 1 cách oan nghiệt (Tố Mai trong
Cảnh cuối cùng, người phụ nữ xấu số trong Nửa đêm, Phúc trong Điếu văn, Lão Hạc, Chí
Phèo,..)

+ Những kẻ ác phải chết không đáng kể.

 Phản ánh XH đầy bất công, ngang trái, ức hiếp


 Phản ánh tấn bi kịch của XH.

Cái chết nhân cách:

“Ta nên sợ cái chết trong lúc sống, cái chết đáng buồn của những con người sống sờ sờ ra đấy,
nhưng chẳng dùng sự sống của mình vào công việc gì” (Cười)

Chứng minh “cái chết trong lúc sống” qua một số nhân vật tiêu biểu?

. Tư cách mõ

. Trẻ con ko được ăn thịt chó


Page | 82
. Đời thừa

. Sống mòn

Lý giải nguyên nhân cái chết

- Do nghèo đói (Anh Đĩ Chuột trong Nghèo, Hiền trong Chuyện người hàng xóm, bà cái Đĩ
trong Một bữa no)
- Do định kiến: Chí Phèo, Lang Rận, Đức (Nửa đêm)
 Đặt ra vấn đề nóng bỏng giữa mối quan hệ của cá nhân và cộng đồng, con người và môi
trường sống, con người sẽ ra sao khi không được chia sẻ, cảm thông?

(2) Nam Cao thường nói về bi kịch của cái đói, miếng ăn, rét, bệnh tật, thân xác, thân thể.

Cái đói: “Con người rất có thể đáng yêu nếu không đói cơm”

- Con người phải ăn những thứ ko giành cho con người (Nghèo)
- Con người phải ăn cách ăn của con vật (Trẻ con không biết đói)
- Con người phải bất chấp nhục nhã, xấu hổ để tìm miếng ăn (Một bữa no, Hai người ăn tết
lạ)
- Cái ăn khiến con người phải bất chấp sức khỏe, mạng sống (Quên điều độ)

(3) Khi con người rơi vào đáy sau của bi kịch thì cũng đồng thời NC nhìn thấy ở họ ánh sáng của
nhân tính.

Cái chết làm tỏa sáng nhân cách (CP, Lang Rận, Lão Hạc)

IV. NGHỆ THUẬT

1. Phân tích, miêu tả tâm lí sắc sảo

- Đặc điểm ngoại hình nhân vật trở thành phương tiện để thể hiện tính cách, tâm lí:

+ Khuôn mặt nhăn nheo, nụ cười mếu, đôi mắt ậc nước của lão Hạc.

+ Dáng điệu ngật ngưỡng, bộ mặt dữ tợn của CP

- Tả thiên nhiên thường được nhìn qua tâm trạng nhân vật, mang đậm nỗi niềm con người:

+ Với óc đầm đìa thơ văn của Điền thì trăng là “liềm vàng”, “đĩa bạc”, “cái vú mộng tròn đầy mà thi
sĩ của muôn đời mơn man”

+Với Chí Phèo đang “bứt rứt... ngứa ngáy” thịt da sau bữa rượu say, trăng “nhễ nhại”, “rời rợi như
là ướt nước... trên những tàu lá chuối ưỡn cong cong thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫy lên đành đạch
như là hứng tình”.

- Thế giới nhân vật có nhiều trạng thái tâm lí, cả người TTTTS và người nông dân

+ Dì Hảo: trạng thái dồn nén lại trong câm lặng

+ Lão Hạc: âm thầm nhẫn nại chịu đựng, băn khoăn tâm sự
Page | 83
+ Chí Phèo: trạng thái tức tối vô thức, điên cuồng phá phách, thức tỉnh.

- NC phát huy sở trường khi đi sâu vào các diễn biến tâm lí phức tạp, trạng thái dở khóc dở
cười đầy tính bi hài kịch. NCH: chú ý từng khoảnh khắc tâm lí, TL: chú ý các trạng thái
cảm xúc cảm giác mơ hồ. NC quan tâm đến quá trình tâm lí với nhiều mâu thuẫn, day
dứt, trăn trở.
Trước NC, các nhà văn chủ yếu nêu kết quả của tâm lí, NC chú trọng vào quá trình đi đến
kết quả đó: Hộ tỉnh dậy cổ khô và rát  với lấy ấm nước (đầy và ấm)  mơ hồ nhớ lại
 vội đi tìm Từ  thấy Từ  hắn khóc.

- Miêu tả quá trình tâm lí về những cái thường ngày, NC mở ra bóng dáng thân phận con
người, bộ mặt XH chứ không theo hướng nấm nháp mớ tâm tư cá nhân vụn vặt

2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Thế giới nhân vật dị dạng, xấu xí

3. Nghệ thuật trần thuật hiện đại

- Kết cấu tác phẩm của NC thường theo diễn biến tâm lí, dòng suy tưởng của nhân vật chứ
ko theo trình tự thời gian (CP, Một đám cưới, Từ ngày mẹ chết, Đời thừa,...)
- Tác phẩm NC có sự chuyển dịch linh hoạt nhiều điểm nhìn trần thuật:

+ Trần thuật khách quan

+ Trần thuật nửa trực tiếp

+ Trần thuật từ điểm nhìn nhân vật.

Nhà văn ít khi trần thuật khách quan mà thường nhanh chóng, tự nhiên trao quyền trần thuật,
giãi bày cho nhân vật.

Chí Phèo: đoạn mở đầu có sự luân chuyển, hòa lẫn thú vị của các điểm nhìn:

+ Người trần thuật khách quan

+ Người nghe CP chửi

+ Dân làng Vũ Đại

+ Chính Chí Phèo

- Kết hợp đối thoại và độc thoại nội tâm:

+ Lời đối thoại bao hàm lời độc thoại

+ Lời độc thoại bao hàm đối thoại ngầm (trong tưởng tượng của nhân vật)

- Giọng điệu: đa thanh: có sự đan xen hòa lẫn nhiều giọng điệu: trong lời của nhân vật này
bao hàm giọng của nhân vật kia.

Page | 84
- Lời văn nửa trực tiếp: không phân định được lời của nhân vật hay lời của người kể
chuyện. Về hình thức, nó có thể là lời của người kể chuyện, nhưng lại mang giọng điệu,
cảm xúc của nhân vật  nhà văn có khả năng đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật, lời
văn tràn đầy cảm xúc, đòi hỏi khả năng đồng cảm, thấu hiểu nội tâm nhân vật.
- Trần thuật đa thanh, hiện đại.

4. Những triết lí qua cảm xúc, giọng điệu trữ tình

- Nội dung triết lí phong phú:

+ Mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh

+ Hạnh phúc ở đời

+ Cách nhìn nhận, đối xử với con người

+ Sứ mệnh của nghệ thuật, văn chương chân chính.

- NC phần lớn viết về những sự việc bình thường hàng ngày, “những chuyện không muốn
viết”, nhưng chủ đề lại có tầm vóc lớn.
- Không triết lí khô khan, cao đạo mà được suy ngẫm, đúc rút qua những điều bình thường của
cuộc sống:

+ Từ một bữa cơm nghĩ đến tình trạng bất công trong XH

+ Từ chuyện mua nhà nghĩ hạnh phúc chỉ là cái chăn quá hẹp

+ Từ cách ứng xử với cái chết của một ông lão, khái quát bài học về cách nhìn con người (Giống
Chekhov)

- Chất triết lí hòa quyện cùng chất trữ tình, nhà văn “cố ý đóng cũi sắt tình cảm” chứ không hề
lạnh lùng.
- Giọng triết lí.

NGÔ TẤT TỐ

I. TIỂU SỬ, CON NGƯỜI

Những điểm đáng lưu ý trong tiểu sử, con người và chỉ ra ảnh hưởng của nó đến sáng tác của
Ngô Tất Tố?

1. Tiểu sử

- Ngô Tất Tố (1893/94 – 1954) quê ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là
thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội).

- Quê hương Ngô Tất Tố vừa là cái nôi văn hóa, vừa là vùng đất của nhiều hủ tục nặng nề.

Page | 85
- Xuất thân: trong 1 gia đình vừa có truyền thống nho học, nhưng cũng là gia đình nông dân
nghèo.

+ Ông là con thứ 2, nhưng là trưởng nam trong 1 gia đình có 7 anh chị em. Lúc còn nhỏ Ngô
Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898 (5 tuổi), Ngô Tất được ông
nội dạy vỡ lòng chữ Hán, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng.

+ Nông dân nghèo: am hiểu cuộc sống người nông dân, cảm thông, trân trọng họ  cái gốc tạo
nên tư tưởng nhân đạo và nhân dân sâu sắc.

- Học vấn:

+ Ông nội: 7 khóa thi hương, chỉ đậu tú tài.

+ Ông thân sinh: 6 lần lều chõng về không.

+ Ngô Tất Tố: Năm 1912, học tư duy Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi
truyền thống (không có điều kiện tiếp nhận bài bản nền văn hóa mới)

- Đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất.


- Đến năm 1915, đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi
hương lần thứ 2, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì, qua được kỳ đệ
nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị.
- Ngô Tất Tố, sớm vứt bút lông, viết bút sắt (biểu tượng của trí thức thời mới).
- Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm báo, viết cho tờ An Nam tạp chí. Nhưng vì thiếu tiền,
tờ báo này phải tự đình bản, Ngô Tất Tố cùng Tản Đà vào Sài Gòn. Dù không thật sự thành
công trong cuộc thử sức ở Nam Kỳ, nhưng tại đây, Ngô Tất Tố đã có cơ hội tiếp cận với tri
thức và văn hóa thế giới ở vùng đất khi đó là thuộc địa chính thức của Pháp cũng như theo
đuổi nghề báo để chuẩn bị sau này trở thành 1 nhà báo chuyên nghiệp.
- Thời kỳ này, ông viết với các bút danh Bắc Hà, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà, Tân Thôn Dân...
- Sau gần 3 năm ở Sài Gòn, Ngô Tất Tố trở ra Hà Nội, tiếp tục sinh sống bằng cách viết bài
cho các báo: An Nam tạp chí, Thần chung, Phổ thông, Đông Dương, Hải Phòng tuần báo,
Thực nghiệp, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Tương lai, Công dân, Đông Pháp thời
báo, Thời vụ, Hà Nội tản văn... với 29 bút danh khác nhau như:Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc
Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhơn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Hy Cừ,...
- 1936 – 1939, Ngô Tất Tố viết nhiều tác phẩm chỉ trích quan lại tham nhũng phong kiến.
Hà Văn Đức, trong bài viết Ngô Tất Tố - Nhà văn tin cậy của nông dân (báo Nhân
dân, ngày 10 thánh 6 năm 1997), cho biết năm 1935, Ngô Tất Tố từng bị chánh sở mật thám
Hà Nội gọi lên “để mua chuộc”, nhưng ông từ chối.
Nhiều lần Ngô Tất Tố bị cấm viết báo và bị trục xuất khỏi Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định.
Năm 1939, chính quyền thuộc địa ra lệnh cấm tác phẩm Tắt đèn. Nhà Ngô Tất Tố ở
Bắc Ninh bị nhà chức trách khám xét và ông bị bắt giam ở Hà Nội vài tháng.
- Sau Cách mạng: đi theo kháng chiến, viết cho báo Cứu Quốc, hăng hái phục vụ Cách Mạng.
+ Năm 1945, Ngô Tất Tố tham gia vào ủy ban giải phóng ở xã Lộc Hà quê ông.

Page | 86
+ Năm 1946, gia nhập Hội văn hóa cứu quốc, lên Việt Bắc tham gia kháng chiến
chống Pháp. Ông đảm nhiệm cương vị Chi hội trưởng chi hội văn nghệ Việt Bắc, hoạt động
ở Sở thông tin khu XII, tham gia viết các báo Cứu quốc khu XII, Thông tin khu XII, tạp chí
Văn nghệ, báo Cứu quốc trung ương... Ngoài ra, ông còn viết văn.
Ngô Tất Tố được bầu vào ủy viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam tại Hội nghị
Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất (1948).

- Được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.

2. CON NGƯỜI

- Với vốn nho học vững chắc cùng sự hiểu biết sâu sắc về nông dân, Ngô Tất Tố được coi là
một trong những nhà Nho “hiện đại” và tiên tiến nhất trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
- “Ông vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được người ta kể vào
hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán có tư tưởng mới” (Vũ Ngọc Phan – Nhà văn
hiện đại)
- Xuất thân Nho học, có vốn Hán học sâu rộng là điều kiện để ông viết hàng loạt công trình
khảo cứu, biên soạn, phê bình dịch thuật.
Luôn giữ phong thái nhà Nho, giữ cho mình tư cách chuẩn mực của nhà Nho truyền thống
(áo dài, khăn xếp, giữa đám trí thức Tây học mặc quần áo Tây).
- Tuy là môn đồ của Khổng Tử nhưng không bảo thủ mà rất thức thời, có tư tưởng cấp tiến,
tuyệt đối không hủ lậu, bảo thủ (điều mà những nhòa nho hủ lậu thường xuyên mắc phải).
+ Nhận ra sự bất lực của lớp Nho sĩ cuối mùa trong cảnh chợ chiều Hán học.
+ Phê phán sự lỗi thời trong giáo lí Nho giáo. Phan Cự Đệ gọi NTT là “một nhà nho bất kính
với Khổng Tử” khi ông phê phán chủ nghĩa trung quân mù quáng, chỉ biết tôn thờ các bậc đế
vương.
+ Phê phán nghiêm khắc phong trào phục cổ, phản đối phong trào phục cổ do thực dân đề
xướng.
+ Ca ngợi Hồ Qúy Ly “có tư tưởng độc lập, không chịu nhắm mắt theo những thành kiến của
cổ nhân”.
- Không có điều kiện tiếp nhận văn hóa Pháp nhưng rất chịu khó học hỏi
- “Mặt khác, với nền văn hóa mới, ông không có điều kiện tiếp nhận cơ bản. Trong hồi ký Bốn
mươi năm nói láo, Vũ Bằng có thời gian cùng làm việc với Ngô Tất Tố từng kể lại: ở ông có
chất thầy đồ cổ lỗ. Nhưng đằng sau vẻ tội nghệp, câu chuyện Ngô Tất Tố học tiếng Pháp với
Vũ Bằng có nét gì đó khiến cho người ta kính trọng”.
(Vũ Bằng dạy NTT tiếng Pháp: danhdong – cái đỉnh đồng, lanhnhanh cái tàu điện, lơ sơ vơ là
anh sợ vợ, laboratoire là Lã Bố ra tòa)
- Là người chính trực, ngay thẳng, chú trọng nhân cách, khí tiết. Trong làng, NTT từng là
người dám đứng lên chống lại những hủ tục thối nát, những chức sắc hống hạch, phách lối.
“Phú quý thì không thể làm nhà văn. Đã làm nhà văn thì đừng mong gì phú quý”.
- Dù ở thành phố, là 1 nhà báo, nhưng NTT vẫn mang đậm chất nông dân trong cách ăn mặc,
sinh hoạt, suy nghĩ. Am hiểu nông thôn, nỗi cơ cực của người nông dân, trân trọng những
phẩm chất tốt đẹp của họ.
- Không chạy theo hình thức màu mè bề ngoài, thích sự giản dị, thực chất.
Page | 87
“Ngô Tất Tố với chiếc áo the đã sờn, chiếc khăn xếp không có tuổi, cây ô đen tương
đối, đôi giày trăng trắng gọi là, đủng đỉnh từ nhà quê ra thành phố”
Sở dĩ đoạn phác họa ấy đáng tin cậy, vì nó cho thấy không chỉ phong thái bề ngoài,
mà còn cả cốt cách NTT. Có vẻ như ông không có tuổi. Ông đứng ngoài thời gian, đứng
ngoài mốt. Trong một XH nhố nhăng lộn xộn, ông dễ dàng lẩn đi, né tránh mọi phiền phức,
chỉ để hết tâm sức vào công việc. Điều quan sát này lại càng đúng nếu ta nhìn kỹ vào cách
viết của ông.
Trong văn chương, ông không thuộc loại người quá tẩn mẩn chăm sóc hình thức, và
để nhiều công sức vào việc tìm tòi các phương cách biểu hiện.
Mải miết với những sứ mệnh XH mà con người nhà nho còn tít sâu trong ông, buộc
ông phải giữ bằng được – và có kẽ cũng là mải miết với việc kiếm sống – ông không bao giờ
ngả sang phía duy mỹ.
Sở dĩ ông ko thể chịu được Thơ mới, vì theo ông, không việc gì phải quá lo lắng đến
hình thức, cứ thơ Đường luật mà làm đã đủ lắm rồi. Người ta có thể chê ông là cổ điển, là thủ
cựu, song lại phải kính trọng ông đã tự trọng, không hùa theo đám đông, dù đó là đám đông
có 1 y phục hiện đại”. (Vương Trí Nhàn)

II. VỊ TRÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ TRONG NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC.

Vì sao có thể nói NTT là 1 nhà văn hóa lớn?

1. Nhà báo

- NTT là 1 nhà báo cự phách, viết cho hầu hết các nhà báo từ Bắc, Trung, Nam.

Người ta tìm thấy 1.350 tác phẩm (gần 4.500 trang) đã đăng báo của Ngô Tất Tố với 59 bút
danh khác nhau. Năm 2005, tại hội thảo Những phát hiện mới về thân thế và tư cách văn hóa
của NTT, một thống kê khác được công bố cho biết trong 28 năm làm báo và tạp chí với 29 bút
danh.

Di sản báo chí của NTT trở thành những tư liệu phong phú, chi tiết, phản ánh toàn diện và
trung thực XH Việt Nam đầu tk XX

2. Dịch thuật

- Là 1 trong những dịch giả có uy tín về văn thơ cổ của Trung Hoa và Việt Nam, để lại những
bản dịch trứ danh như Hoàng Lê nhất thống chí, nhiều bài thơ Đường của Thôi Hiệu, Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Vương Chi Hoán...
- Phong cách dịch thuật: sát nghĩa, không bay bổng.

3. Nhà khảo cứu

- NTT sưu tập, biên soạn và nghiên cứu rất sâu sắc nhiều lĩnh vực khác nhau trong di sản Hán
học phương Đông.
- Với sở học uyên bác và phương pháp làm việc cẩn trọng, ông đã để lại nhiệu công trình có
giá trị lâu dài như: Mặc Tử, Kinh dịch, Thi văn bình chú...
- Ông được coi là viết ra những cuốn sách giải độc (dễ đọc, dễ hiểu).
Page | 88
4. Nhà văn

- Tác phẩm “Tắt đèn” ra đời được đón nhận rất nồng nhiệt, được đánh giá là nhà văn hiện thực
xuất sắc theo trường phái vị nhân sinh.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng khen ngợi Tắt đèn là “một tiểu thuyết có luận đề XH hoàn toàn
phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy”.
Phong Lê, trên Tạp chí Sông Hương tháng 12 năm 2003, gọi những tác phẩm viết về nông
thôn của Ngô Tất Tố là “một nhận thức toàn diện và sâu sắc, đầy trăn trở và xúc động về
cảnh ngộ và số phận người nông dân VN” đạt đến “sự xúc động sâu xa và bền vững”.
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, trong bài Ngô Tất Tố và một cách thích ứng trước
thời cuộc (trích Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,
2005) viết: Tắt đèn là 1 thiên tiểu thuyết “rất xúc động” khiến người đọc có thể “nhiều phen
ứa nước mắt”.

- Về tiểu thuyết Lều chõng

+ Lều chõng là 1 thiên phóng sự tiểu thuyết về chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến trong
những ngày cuối cùng, dưới triều Nguyễn, miêu tả tấn bi kịch của những nhà nho có tài trong
XH phong kiến, được coi là lời chỉ trích sâu sắc những tồn tại của nền văn hóa cũ.

Lời giới thiệu Lều chõng (nhà xuất bản Văn học, 2002: “Tác phẩm của NTT như 1 lời cải
chính, hơn thế, 1 bản tố cáo chế độ khoa cử lỗi thời và thấp thoáng sau mỗi chương, mỗi hàng
chữ là 1 nụ cười chế giễu, có khi là tiếng cười ra nước mắt”

Tuy nhiên, Lều chõng ko chỉ mang ý nghĩa phê phán. Vương Trí Nhàn: “Trong Lều chõng,
chúng ta thấy Hà Nội hiện lên vớ nhiều nét đẹp, người Hà Nội từ cô hàng bán giấy cho đến
những ông chủ quán trọ đều hết sức tài hoa, lịch thiệp,... còn những kẻ được coi là nhân tài các
tỉnh đến Hà Nội thi thố, họ tìm thấy ở đây cơ hội giao tiếp trò chuyện, “đấu” với nhau để kiểm
tra sức học, trình độ của mình. Lều chõng còn phảng phất trong nó chất tự truyện về tuổi thanh
xuân của chính tác giả”.

III. Sự nghiệp sáng tác của NTT

1. Phóng sự: Tập án cái đình và Việc làng

- Việc làng viết về điều gì?

Nghệ thuật viết phóng sự của NTT qua Việc làng?

So sánh với các nhà phóng sự đương thời.

2. Tiểu thuyết

2.1. Lều chõng

a. Bối cảnh

Page | 89
- Những việc xảy ra trong Lều chõng từ giữa thế kỉ 19 (thời Minh Mạng thứ 12 – 1831) đến ngày
thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta (Kiến Phúc – Giáo thân 1884)

- XH phong kiến khủng hoảng,khởi nghĩa nông dân, nạn ngoại xâm đe dọa nhưng nhà Nguyễn vẫn
duy trì chế độ giáo dục nhồi sọ, giáo điều, sao chép cổ nhân không hề sáng tạo.

-> Chính sách tuyển lựa nhân tài quá lạc hậu.

b, Nội dung.

So sánh với các tác phẩm cùng thời viết về nghiệp lều chõng và chứng minh Lều chõng của NTT là
tác phẩm viết để chống lại phong trào Phục cổ?

Lều chõng

Ngày nay nghe đến hai tiếng “Lều”, “Chõng” có lẽ nhiều người sẽ lấy làm lạ vì những vật ấy
từ biệt chúng ta mà đi đến chỗ mất tích đã gắn bó ba chục năm nay.

Nhưng mà trước hơn hai chục năm đi ngược trở lên, cho đến hơn một nghìn năm, “Lều”,
“Chõng” vaanc làm chủ vận mệnh của giang sơn cũ kỹ là người ta vẫn khoe là “bốn nghìn năm văn
hiến”. Nhưng ông ngồi trong miếu đường làm rường làm cột cho nước nhà, những ông ở nơi tuyền
thạch làm khuôn mẫu cho đạo đức phong hóa, đều ở trong đám lều chõng mà ra. Lều chõng với
nước Việt Nam không khác một ông tạo vật, đã chế tạo đủ các hạng người hữu dụng hoặc vô dụng.
Chính nó đã làm cho nước VN trở nên một nước có văn hóa, rồi lại chính nó đã đưa nc Việt Nam
đến cõi diệt vong. Vì nó, nước VN trong một thời kì rất dài đã phát hiện ra nhiều cả (Ngô Tất Tố)

Lều chõng: *Bài học về giáo dục: sáng tạo, độc lập, tránh đi lại vết xe đổ của ông Nghè trong lều
chõng.

2.2: Tắt đèn

-Vì sao khi mới ra đời, Tắt đèn được đánh giá rất và trở thành tác phẩm điển hình? Hiện tại tác
phẩm này được đánh giá như thế nào?

-Trong Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa viết về chị Dậu của NTT, Trần Đăng Khoa chê
NTT trong Tắt Đèn, so sánh chị Dậu bán con để cứu chồng, so sánh không bằng Fantine, để có tiền
gửi về cho con còn phải bán răng, bán tóc, bán thân. Bình luận ý kiến của Trần Đăng Khoa qua Tắt
Đèn?

-Nghị luận viết tiểu thuyết của NTT qua Tắt đèn?

A, Hoàn cảnh ra đời

-Được phát triển từ truyện ngắn “Một ổ chó và một đứa con” (1936), đc đăng dài kì trên báo Việt nữ
(số ra từ 1-8-1937), đến 19 thì in thành sách.

Page | 90
-Ra đời trong thời kì Mặt trận dân chủ, vấn đề nông dân và vấn đề sưu thuế đặc biệt được quan tâm.
Tắt đèn- tiếng nói nghệ thuật của NTT đã hòa với tiếng nói đòi cải cách dân chủ, đấu tranh giải
quyết vđề đời sống nông dân của toàn xh.

*Mới ra đời Tắt đèn được đánh giá rất cao và trở thành tác phẩm điển hình vì:

-Đánh giá cao, hoan nghênh nhiệt liệt:

+Vũ Trọng Phụng: “Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết có luận đề xh, hoàn toàn phụng sự dân quê, một
áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy, mà lại của một tác giả đã đc cái may mắn hơn
nhiều nhà văn khác là đã sống nhiều ở thôn quê”.

+Phú Hương: NTT đã “thành công một cách vẻ vang hết sức”.

- Lí giải:

+Tắt đèn đã đáp ứng đc vấn đề thời sự mặt trận dân chủ: vấn đề nông dân, đặc biệt là vấn đề sưu
thuế. Năm 1937, cũng là năm Tắt Đèn đăng tải trên báo Việt nữ, tác phẩm Vấn đề dân cày của
Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp ra đời, phơi trần trước dư luận sự thực của nông thôn. Báo chí số
nào cũng đăng những bản thỉnh cầu của nông dân vì sưu thuế.

->Tắt đèn là bản dự thảo dân nguyện đc viết bằng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật.

+Tác phẩm này ra đời vào thời kì mặt trận dân chủ, con người đã được đề cao, người nông dân đc
đề cao, Tắt Đèn đề cao người nông dân, đề cao lòng tự tôn của con người.

*Về sau, TĐ ko còn giữ đc vị trí số 1 nữa, bởi giai đoạn sau xh đã qua thời đó (sưu thuế bóc lột).

b. Giá trị nội dung tiểu thuyết Tắt đèn

*Phản ánh hiện thực đen tối của xh, đặc biệt là tố cáo chế độ thuế thân (Giá trị hiện thực)

-Tác phẩm là câu chuyện thảm thương của 1 gia đình nông dân vì một cái thẻ sưu, ko nói tới tình
trạng người nông dân bị cướp đoạt ruộng đất, bóc lột địa tô, ko đề cập tới thảm hại thiên tai, vỡ đê,
lụt lội, mất mùa, đói kém, rơi vào cảnh phải lìa bỏ quê hương ra vùng mỏ hay đi làm đồn điền cao
su, mà đưa người đọc vào thẳng hòan cảnh ngột ngạt, căng thẳng của làng Đông Xá trong vụ thuế:

Tắt đèn:

+Từ tờ mờ sáng, cổng làng đã bị đóng chặt, việc đồng áng bị đình đốn.

+Tiếng mõ, tiếng trống thúc sưu, tiếng thét đâm, thét đánh náo động.

“Quanh chị Dậu, quanh cái thẻ sưu thuế người, cả một hệ thống thiên la địa võng bóc lột sự sống,
bức tử sự sống” (Nguyễn Tuân)

->Hoàn cảnh điển hình, ko khí ngột ngạt, căng thẳng của một làng quê trong mùa sưu thuế. TĐ tập
trung xoáy vào nạ thuế thân, thứ thuế quái gở, dã man của chế độ thuộc địa.

Page | 91
- Chọn viết về nạn sưu thuế và dồn câu chuyện trong một vụ thuế, NTT đã phản ánh hiện thực nông
thôn trong thời điểm gay gắt giữa người dân lao động nghèo khổ và các thế lực thống trị.

- Gia đình chị Dậu vốn dư giả, nhưng vì liền lúc mẹ và em trai anh Dậu qua đời, anh Dậu dù đã hết
sức tiết kiệm nhưng vẫn phải tiêu quá nhiều tiền cho hai đám ma. Sau khi đám ma xong, anh Dậu
mắc bệnh sốt rét ko làm gì đc, mọi gánh nặng dồn lên chị Dậu khiến gia cảnh lâm vào hạng cùng
đinh nhất làng.

- Mùa sưu đến, chị Dậu phải chạy vạy để nộp cho chồng nhưng ko kiếm đâu ra, anh Dậu dù bị ốm
nhưng vẫn bị bọn cai lệ cùm kẹp lôi ra giam ở đình làng. Cuối cùng, chị Dậu buộc phải bán đi cái Tí
và ổ chó mới chưa kịp mở mắt cho vợ chồn Nghị Quế thôn Đoài lấy hai đồng nộp sưu. Nhưng vừa
đủ tiền nộp xong suất sưu cho chồng, bọn cai lại ép chị nộp sưu cho em trai anh Dậu với lí do chết
ở năm tanhuwng lúc đó lúc năm tây đã sang năm mới.

- Sưu thuế làm khốn khổ điêu đứng bao nhiêu gia đình. Vì không có tiền nộp sưu, chị Dậu phải nhẫn
nhục chịu đựng những quả phật thủ của bọn lính tráng, suýt bị tên chi phủ Tư Ân làm nhục, gia đình
tan nát, lâm vào cảnh đứt ruột bán con.

- Chế độ thuế thân của chế độ cũ không chỉ làm điêu đứng người sống mà ngay cả những kẻ đã chết
cũng không được yên mồ yên mả, còn dựng cả người chết dậy để truy thu thuế.

- Cảnh “thiếu thuế mất vợ, thiếu nợ mất con”

* Phê phán bộ máy giai cấp thuống trị, chỉ ra mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn.

- Địa chỉ: keo kiệt

- Cường hào: bất nhân thô lỗ tham ăn tục uống

- Quan lại: dâm ô vô liêm sỉ

- Lính tráng: đểu cáng côn đồ

( Hai vợ chồng Nghị Quế thi nhau quát nạt, mạt sát, chì chiết, đay nghiến mẹ con chị Dậu, ép cái Tý
ăn nốt chỗ cơm thừa của chó, đặt bên cạnh chi tiết hai vợ chồng hắn săn đón ôn tồn hỏi han đàn chó
-> Bản chất hiện rõ nét)

*Thương xót trân trọng người lao động, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

- Thương sót cho số phận người phụ nữ nghèo và trẻ em nghèo

+Nước mắt của chị Dậu

+Tiếng van của cái Tý

*Tắt đèn là một tác phẩm gây xúc động cho người đọc

- Ngay trong văn xuôi 1930-45, bên cạnh NTT còn có nhiều tác gải khác với những trang sách có
sắc thái thẩm mỹ khác: cái dễ dàng hồn hậu ở Thạch Lam, cái ôm trùm rộng lớn ở Vũ Trọng
Phụng, những khám phá tâm lý nhiều chất hiện đại ở Nam Cao. Song, những giọt nước mắt khi
Page | 92
đọc Tắt đèn thì không bao giờ tôi quên. Để có một tác phẩm lớn, có lẽ là còn cần tới nhiều yếu tố
khác, chưa ai có thể nói là biết đầy đủ, còn như đối với một tác phẩm chân chính thì cái khả năng
gây xúc động này chính là yêu cầu thứ nhất.

- U bán con thật đấy ư? Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng đem bán con đi, tội nghiệp.
U để con ở nhà chơi với em con.

- Dần có thương chị không ? Dần có nhớ chị không ? U bán chị rồi, Dần ở nhà chơi với Tỉu vậy. Nó
khóc thì Dần dỗ nó, không được đánh nó đấy nhé. Bao giờ nó lớn thì Dần rủ nó sang nhà cụ Nghị
với chị. Thôi Dần ở nhà, chị phải đi với u đây, chị không được về nữa đâu, Dần ạ!

- Tiêu biểu cho số phận người phụ nữ nông dân: đẹp người đẹp nết nhưng cuộc đời nhiều oan trái

- Phẩm chất truyền thống:

+ Lòng yêu chồng thương con, vị tha giàu đức hi sinh.

Thương chồng ốm đau bị cùm trói, đánh đập. Tìm mọi cách cứu thoát chồng

Sẵn sàng chịu đòn roi thay chồng

Khi bị giải lên huyện tay bị trói vẫn trăn trở vì chồng con: “Chồng ta hôm nay có đứt cơn sốt rét hay
không? Cái Tỉu từ sáng đến giờ xin ai bú được? Thằng Dần có chịu chơi ngoan hay lại gào khóc
quấy bố? Cái Tý ở nhà lão Nghị có được yên thân hay không hay bị chửi bị đòn”

*Vẻ đẹp hình tượng nhân vật chị Dậu

Chị Dậu

-Cái mới: sức chiến đấu mạnh khỏe, tinh thần lạc quan gan dạ

Nguyễn Tuân : văn NTT cứ đọc không thôi cũng thấy nó khỏe rồi. Nay chuyển thứ văn học hiện
thực phê phán đó sang điện ảnh càng thấy nó ghê, nó dữ dội.

Chị Dậu

 Trong văn học công khai đương thường, chị Dậu là người phụ nữ khỏe mạnh, tươi
sáng nhất, dám một mình quật ngã hai kẻ nam giới.

 Chị Dậu tiềm tàng khả năng phản kháng ngoan cường, bị dồn đẩy đến mức đường
cùng, để bảo vệ tính mệnh cho người chồng đang ốm yếu, chị vùng lên đánh lại cai lệ
và người nhà lí trưởng. Hành động tuy bất ngờ nhưng lại hoàn toàn phù hợp với sự
phát triển logic tính cách của chị.

Tắt đèn

c, Nghệ thuật tiểu thuyết NTT qua Tắt đèn:

*Chú trọng sự kiện: chỉ hơn 100 trang nhưng sự kiện dồn dập, không khí oi bức

*Kết cấu chặt chẽ, tình tiết mạch lạc


Page | 93
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

Tắt đèn

-Xây dựng được những điển hình bất hủ, đại diện cho tầng lớp giai cấp: Nghị Quế.

(?) Nghị Quế được miêu tả những tính xấu nào?

Tắt đèn

+) Tính trọc phú: không thèm biết chữ

Trang trí kiến trúc nhà cửa, cách ăn ăn uống học đòi rởm. Đồng hồ tây có bao giờ sai.

+) Tính keo kiệt bủn xỉn:

“Dọn mâm! Bà đã đếm rồi!Đúng đủ 14 miếng giò! Thiếu miếng nào là mày chết với bà”

“ Suốt năm chí tối không phải thết một ông khách nào trừ hai ngày giỗ cha và giỗ mẹ”

Cò kè mặc cả từng hào khi mua đứa con và ổ chó, khi trả tiền cố tiền cố tình đếm thiếu mấy đồng
xu.

Tắt đèn

+)Tính độc ác, bất nhân:

Cho chó ra cắn chị Dậu; đay nghiến, xỉ vả cái Tý khi nó khóc không chịu ăn: “ Mày ăn cơm chó nhà
bà cũng không đáng đâu. Con chó nhà bà được mấy chục, con người như mày, bà chỉ mua có một
đồng đấy thôi”.

Tắt đèn

(?) Em hiểu thế nào là nguyên tắc một chiều trong nghệ thuật xây dựng nhân dựng nhân vật của
NTT. Vì sao nói nghệ thuật xây dựng nhân vật của ông tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc một chiều
?

Tắt đèn

+ Hệ thống nhân vật được chia thành các tuyến chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thì
hoàn toàn tốt, phản diện thì hoàn toàn xấu, chưa có khả năng đi sâu và ngóc ngách tâm lý phức tạp.

Ví dụ: Cho dù thế nào cũng không để chị Dậu vẩy bẩn.

Chị Dậu khóc: bên đám lông mày cong rướm, mấy sợi tóc mai thả rủ xuống, hình như làn khói
thuốc là phớt phơ bay trước khuôn gương. Và trên cái gò má đỏ bừng vài dòng nước mắt thánh thót
đuổi nhau, chẳng mấy khác giọt sương buổi mái lánh động trong cánh hoa hồng mới nở.

Tắt đèn

-Nghệ thuật tự sự: lựa chọn, xây dựng được những tình tiết tiêu biểu, điển hình:

Page | 94
+Chi tiết vợ chồng Nghị Quế ép cái Tý ăn nốt chỗ cơm thừa được đặt cạnh chi tiết hai vợ chồng săn
đón, hỏi han đàn chó.

+Chi tiết cái thẻ sưu của em chồng được dấu kín đến khi chị Dậu khánh kiệt mới xuất hiện.

+Hành động đánh trả tên cai lệ-> Tức nước vỡ bờ.

+Đoạn cái Tý dặn dò các em trước khi theo mẹ đến nhà Nghị Quế” Nhiều phen tôi đã ứa nước mắt”
(Vương Chí Nhàn)

Tắt đèn

*Ngôn ngữ:

-Tuy uyên thâm nhưng NTT không rơi vào tầm trương chích cú, không ưa lối văn bát cổ cũng như
cái học huấn hỗ. Ở thời NTT mới xuất hiện người ta không khỏi ngạc nhiên thấy một ông đồ xứ chữ
Nho mà viết văn như văn Tây.

Nên đặt NTT trong tương quan với một số nhà Nho thế hệ trước: Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Bá Học,
Tả Đà, Hoàng Ngọc Phách, đặt trong dòng các nhà nho đi đến văn học hiện đại thì sẽ có thêm cái
nhìn để nhận ra đóng góp của NTT: Phải xem xét ông trong nhóm nhà Nho chuyển sang viết văn
Quốc Ngữ mới thấy rõ phong cách của NTT.

Page | 95
NGUYỄN CÔNG HOAN

1. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan

- Đọc tiểu thuyết Bước đường cùng.

- Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan: Oằn tà roằn, Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu:
trả nghĩa mẹ, Mất cái ví, Kép Tư Bền, Đào kép mới, Chiếc quan tài, Đồng hào có ma, Tinh thần thể
dục, Được chuyến khách; Người ngựa, ngựa người; Cái vốn sinh nhai.

- NCH, đời viết văn của tôi.

2. Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan

- NCH – tác gia và tác phẩm (Lê Thị Đức Hạnh biên soạn)

I. VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ VÀ CON NGƯỜI

1. TIỂU SỬ

- Sinh ngày 6/3/1903 trong một gia đình quan lại xuất thân khoa bảng bắt đầu thất thế  ảnh
hưởng đến quan điểm đạo lí, đạo đức phong kiến trong các tieur thuyết của NCH.
- Quê: làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Văn Giang, tỉnh Hưng
Yên)
- Cha: Nguyễn Đạo Khang, đỗ tú tài, làm huấn đạo. Bác ruột Nguyễn Đạo Quán làm tri
huyện, sau thăng tri phủ, tuy làm quan nhưng thanh đạm, là nguyên mẫu của nhân vật Lê Sĩ
Cư trong tiểu thuyết Thanh đạm.
- Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng nhiều từ người bác và bà nội, người bác luôn chăm sóc
việc học hành cho con cháu, thích sưu tầm phương ngôn, tục ngữ, ca dao, ngụ ngôn, soạn
sách dạy chữ Nho bằng đề tài VN. Bà nội thường kể cho NCH nghe truyện Nôm, thuộc nhiều
thơ Đường.
- Bà nội là người thông minh, dòng dõi nhà nho, nên thuộc rất nhiều thơ phú. Tối tối trước khi
đi ngủ, bà thường ngâm nga rồi dạy truyền khẩu cho các cháu. Niêm luật của thơ ca, nhạc
điệu của ngôn ngữ được luyện vào tai cậu bé là cha tôi ngay từ ngày ấy (Lê Minh).
- Sinh trưởng trong gia đình quan lại, NCH được tai nghe mắt thấy đủ mọi chuyện chốn quan
trường, chứng kiến các tấn kịch diễn ra hàng ngày ở nơi công đường, phòng nha trại lính 
vốn sống quý giá để ông viết về đề tài quan lại, lính tráng sau này.
- NCH tốt nghiệp trường Sư phạm, từ 1926 vừa dạy học, vừa viết văn tới CMT8. Cuộc đời dạy
học long đong, thuyên chuyển nhiều nơi giúp ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều cha mẹ học
sinh, chứng kiến đủ hạng người giàu nghèo sang hèn trong XH, được đến nhiều vùng đất,
nhiều cảnh đời, tạo nên vốn sống phong phú.
- 1928 gia nhập VN Quốc dân Đảng. Thời kì Mặt trận Dân chủ, NCH chịu ảnh hưởng của 1 số
chiến sĩ cộng sản ở Nam Định, viết tiểu thuyết Bước đường cùng để trả nợ lòng với họ. Cuốn
tiểu thuyết có tư tưởng tiến bộ, bị chính quyền thực dân cấm, nhà văn bị theo dõi, truy tố.
1945 NCH bị bắt vì hoạt động CM và gia đình tham gia CM
- Sau CM, tiếp tục sáng tác, mất năm 1977, được truy tặng giải thưởng HCM.

Page | 96
2. CON NGƯỜI

- Là người có năng khiết trào phúng bẩm sinh, ngay từ nhỏ đã chứng tỏ sự tinh nghịch,
thích khôi hài, hay chế giễu: “Tính cách con người tôi là nghịch ngợm, ranh mãnh, hay
chế nhạo”. (Lấy ngày ¼ là ngày sinh của mình vì muốn ngày sinh tháng đẻ có ý nghĩa dối
trá).
- Từ nhỏ đã nghịch ngợm. Vốn không tin vào trời phật, cúng bái, một lần nhà có cỗ, NCH
cùng anh họ nhón vụng thức ăn bầy trên mâm cúng, để thử xem có bị thần vặn cổ như lời
dọa của người lớn không.
- Thích đọc hài kịch Molie, bắt chước Molie, “làm hài kịch” rồi cùng anh em trong nhà
diễn kịch, “chỉ có mục đích làm cho mọi người sặc sụa”.
- Có sở thích “ban ngày thì đứng ở sân công đường hàng giờ để nhìn và để nghe, ban tối thì
xuống trại lệ, trại cơ nằm kề đùi với lính tráng để hỏi chuyện họ”. Cá tính tinh nghịch,
thích khôi hài như thanh nam châm nhạy bén hút những mẩu chuyện ở công đường trại
lính  kho tài liệu vô giá để nhà văn sáng tác.
-  Năng khiếu trào phúng bẩm sinh, cá tính ưa hài hước được nuôi dưỡng, mài sắc trong
môi trường sống từ thủa ấu thơ đã phát triển mạnh mẽ khi bắt rễ vào mảnh đất hiện thực
Việt Nam trước CM, tạo nên phong cachs trào phúng đặc sắc của NCH.

II. QUAN ĐIỂM NHÌN NHẬN HIỆN THỰC CỦA NCH

Em hiểu thế nào là quan điểm giai cấp và quan điểm giàu nghèo?

1. QUAN ĐIỂM XH

- NCH nhìn hiện thực từ quan điểm giàu nghèo: tác phẩm của ông đều xoay quanh sự đối
chọi giữa kẻ giàu và người nghèo: “Sự xung đột giữa kẻ giàu và người nghèo là cái cốt
của hầu hết các truyện ngắn, truyện dài của NCH”.
- NCH luôn đứng về phía người nghèo khổ, cho dù họ có phạm tội ông cũng đứng ra bào
chữa, thanh minh, cãi trắng án cho họ (Thằng ăn cắp, Bữa no... đòn, Thế cho nó chừa).
Ngược lại, ông lật tẩy, phơi bày bản chất ăn cắp đểu giả, ti tiện của bọn nhà giàu (Thằng
Quýt, Thằng ăn cướp).
- Đả kích bọn thực dân, quan lại, tư sản, địa chủ, cường hào, lính tráng chủ yếu với 2 tội:

+ Cậy quyền thế ức hiếp

+ Tham lam vô độ

Bọn chúng nhất loạt đều to béo, bởi ăn bẩn. Hàng loạt truyện ngắn của NCH chỉ xoay quanh
các mánh khéo ăn bẩn của bọn quan lại cường hào nhưng ko hề trùng lặp.

Quan điểm giàu nghèo được mài sắc, có xu hướng vươn tới quan điểm giai cấp trong hoàn
cảnh XH thuận lợi như thời kì Mặt trận dan chủ Đông Dương.

Nhưng nhiều trường hợp, chưa phải là quan điểm giai cấp chính xác.

NCH đứng về phía người nghèo nhưng ko phải lúc nào cũng đứng trên lập trường của họ,
nhiều khi phóng đại cái nhếch nhác, bẩn thỉu của họ.
Page | 97
2. Quan điểm luân lí đạo đức

- Căm ghét, khinh bỉ XH thực dân, bọn quan lại, những nhố nhăng, quái thai của XH mới giày
xéo lên truyền thống đạo đức của dân tộc. Ông đả kích mạnh mẽ bọn quan lại hãnh tiến vô
liêm sỉ, bọn tư sản, thanh niên chạy theo lối Âu hóa nhố nhăng  Thống nhất với quan điểm
giàu nghèo.
- Xung quanh vấn đề phụ nữ, hôn nhân gia đình, quan điểm luân lí đạo đức của ông bị chi phối
mạnh mẽ bởi tư tưởng phong kiến bảo thủ, bộc lộ cái nhìn thành kiến ác cảm với phụ nữ (Cô
Kếu gái tân thời, Cô giáo Minh, Thanh đạm, Danh tiết,...)

+ Thể hiện xung đột giữa 2 thế hệ: già và trẻ, hai giới tính: nam và nữ, vợ cả và vợ lẽ.

+ Luôn đứng về phía người già, nam giới, vợ cả để phê phán. Nhân vật diễn trò thường là nữ
giới, người trẻ, vợ lẽ (Oằn tà roằn, Thế là mợ nó đi Tây, Nỗi vui sướng của thằng bó khố nạn,
Vợ lẽ của bạn tôi, Truyện trung kỳ).

III. Tiểu thuyết NCH

- Tiểu thuyết NCH phản ánh nhiều mặt của XH Việt Nam trước CM, được viết bằng cả bút
pháp hiện thực và lãng mạn. Trước 35, có xu hướng lãng mạn. Từ 35 – 39 có xu hướng hiện
thực. Từ 40 – 45, có xu hướng đạo lí phong kiến.
- NCH đặt nhiều công phu vào truyện ngắn. Nhiều truyện dài ông viết vội đăng báo, quên mất tên
nhân vật phải nhờ tòa báo điền hộ. Ngay Bước đường cùng, chỉ viết trong 16 ngày, ở 20 trang
đầu, do chưa nghĩ ra chuyện ông loanh quanh mãi với chuyện đẻ đái, mất gà.
- Tiểu thuyết của NCH giống như các truyện ngắn kéo dài, chỉ thành công ở tùng chương, từng
đoạn. Nhược điểm lớn nhất là ông coi trọng cốt truyện hơn tính cách, tính giáo huấn quá rõ.
Nhân vật là nhân vật loại hình, đơn phiến, ít cá tính, mang tính minh họa cho các phương diện
phẩm chất đạo đức thiện – ác, tốt – xấu, chính diện – phản diện nào đó.
- Tiểu thuyết nổi tiếng nhất: Bước đường cùng

IV. TRUYỆN NGẮN CỦA NCH

1. quá trình sáng tác

a. 1929 – 1935

- NCH bắt đầu viết truyện ngắn từ đầu những năm 20, nhưng từ 1929 trở đi thì được chú ý.

Kép Tư bền gồn 15 truyện, sáng tác khoảng từ 29 – 35 gây tiếng vang lớn, làm nảy sinh cuộc
tranh luận về quan điểm nghệ thuật giữa Hải Triều và Hoài Thanh.

Với Kép Tư bền, NCH là 1 trong những người mở đầu và cắm ngọn cờ chiến thắng cho chủ
nghĩa hiện thực.

- NCH tập trung làm nổi bật sự xung đột giàu nghèo, phơi bày sự bất công thối nát của XH

+ Vạch trần bộ mặt tàn ác, đểu cáng của những kẻ giàu có, có tiền có quyền.

VD:
Page | 98
Răng con chó của nhà tư sản:

Miêu tả người ăn mày: “Cái bị bẹp há hốc miệng, nằm chờ bên cạnh cái dạ dày lép kẹp”.

Miêu tả con người và con chó giành nhau 1 miếng ăn:

“Con chó cũng giương mắt nhìn lại thằng người. Thành ra đĩa cơm nằm ở giữa, người tiến thì
chó cũng tiến, người lui thì chó cũng lui: Hai bên hầm hè nhau, người lườm chó, chó lườm
người”.

“À mày đánh gẫy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, ông đền mạng. Bất quá ba chục
bạc là cùng!”

+ Thể hiện tình cảnh khốn cùng, thảm thương của người dân nghèo thành thị: phu xe, ăn mày,
lưu manh, gái điếm, con sen, thằng quýt.

VD:

Thằng ăn cắp, Được chuyến khách, Thanh! Dạ!, Ngựa người và người ngựa, Kép Tư Bền.

Hai cái bụng

Ngựa người và người ngựa: bi hài kịch giữa anh phu xe gặp cô gái điếm, cả 2 đều cần bắt
khách, xung đột hạ màn khi cô gái giang hồ chuồn mất, bật ra tiếng cười, nhưng đó là tiếng cười
đau xót cho những kiếp “ngựa người và người ngựa”.

 Ở chặng này, tầm bao quát hiện thực còn hạn chế, chủ yếu phản ánh hiện thực đời sống ở
thành thị, mới chỉ phê phán nhà giàu mà bất nhân trên phương diện đạo đức.
Thái độ với người nghèo, đối với phụ nữ chưa thực sự được trân trọng.

b. Chặng 1936 – 1939

- Truyện ngắn NCH đạt đỉnh cao về tư tưởng, nghệ thuật.


- Đề tài, đối tượng mở rộng, nói đến cả công nhân, thực dân, vua chúa.

Đào kép mới:

Kể về 1 rạp hát quảng cáo rùm beng là có tính hát mới, rạp mới chấn chỉnh, đào kép mới, nhưng
thực chất thì vẫn tích hát cũ, đào kép cũ đổi vai cho nhau, để ám chỉ sự tuyên truyền của thực
dân Pháp về việc đổi mới triều đình Bảo Đại.

- Vẫn chĩa mũi nhọn trào phúng vào tầng lớp quan lại, địa chủ, cường hào, nhưng viết đúng,
trúng, trào phúng cay nghiệt hơn.
Tuy vẫn nhằm vào đối tượng cũ nhưng đòn đả kích giai đoạn này nhiều khi đụng được đến
bản chất giai cấp của chúng. Sức tố cáo vì thế mãnh liệt hơn, ý nghĩa khái quát sâu rộng hơn
(Sáu mạng người, Thịt người chết, Tấm giấy một trăm,...)
Nhiều tác phẩm đánh thẳng vào bọn thực dân và những chính sách xảo quyệt của chúng
(Sáng, chị phu mỏ, Đào kéo mới, Tinh thần thể dục).
+ Châm biếm thói dâm ô của quan lại: Vẫn còn trịnh thượng, Chiếc đèn pin, Nạn râu

Page | 99
+ Vạch trần thói ăn cắp ti tiện, bỉ ổi, trắng trợn
Đồng hào có ma, Thằng ăn cướp, Thịt người chết, Ngượng mồm, Gánh khoai lang,
Chính sách thân dân,...
Mỗi truyện là 1 thủ đoạn ăn bẩn bỉ ổi của bọn quan lại.
+ Tố cáo tội ác giết người đẫm máu của 1 viên quan:
Sáu mạng người
+ Đả kích những cải cách lừa bịp của bọn thống trị: Đào kép mới
+ Lật tẩy chủ trương thể dục thể thao bịp bợm của chính quyền thực dân: Tinh thần thể dục
 Ở chặng này, sự đối lập giàu nghèo đã tiến gần đến quan điểm giai cấp.
- Viết về những người nghèo khổ có sự phát triển cả bề rộng và chiều sau: nhân vật không chỉ
có ăn mày, phu xe, gái điếm mà có cả nông dân, công nhân. Thái độ của nhà văn với họ cũng
cảm thông, trân trọng hơn, không chỉ mô tả họ như nạn nhân tiêu biểu mà còn phát hiện ra
bản chất ngoan cường, bất khuất của họ.
VD: Sáng, chị phu mỏ: khẳng định vẻ đẹp tinh thần của nhân vật Sáng: lòng hiếu thảo,
ý thức về nhân phẩm, tinh thần phản kháng mãnh liệt chống lại chủ Tây dâm ác (1938)
Bước đường cùng: anh Pha phang đòn gánh vào đầu Nghị Lại (1938)
- Tôi cũng không hiểu tại làm sao (I),
- Tôi cũng không hiểu tại làm sao (II)
(hai trong số ít tác phẩm viết về nỗi nhục của người dân nô lệ): thể hiện xung đột trong nội
tâm nhân vật, giữa lòng tự trọng của người có học và thái độ hèn nhát của kẻ mất tự do, thể
hiện cái nhục của người nô lệ: “Cái kiếp chúng mình như thế. Nô lệ thì còn đâu nhân cách
mà giữ. Chúng mình nên đành chịu, chứ biết làm thế nào”, thức tỉnh tinh thần tự trọng của
người dân nô lệ.

c. Chặng 1940 1945

- Có vài truyện ngắn có giá trị, nhưng nhìn chung là chặng đường sa sút.
- Hoàn cảnh XH ngột ngạt khiến nhà văn không còn kiên định lập trường của chủ nghĩa hiện
thực: “Đời viết văn của tôi, cho đến năm 1943, có thể gọi là tàn tạ, sắp chết”.

2. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NCH TRONG TRUYỆN NGẮN

 Nhân tố tạo nên phong cách nghệ thuật NCH


- Tố chất năng khiếu trào phúng bẩm sinh, tính khôi hài, hay chế giễu mọi người.
Lấy ngày sinh là ngày 1/4 , ngày cho phép nói dối, khai lậu 2 tuổi.
- Môi trường sống: Xuất thân trong gia đình quan lại, biết nhiều câu chuyện chốn công đường,
trại lính.
- Hoàn cảnh hiện thực XH Việt Nam n1930 – 1945
 Biểu hiện phong cách NCH

a. Cái nhìn mới mẻ, độc đáo, có tính phát hiện đối với con người và cuộc sống

Nam Cao: cuộc đời là sự chết mòn, dùng sống mòn để nói về những cái chết khi đang sống

Vũ Trọng Phụng: đời là sự vô nghĩa lí, XH khốn nạn, chó đểu.

Page | 100
NCH: đời là 1 sân khấu hài kịch, một tấn trò hề lố lăng, giả dối.

 “Sống dưới chế độ thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa bịp, đáng khôi
hài” (Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, 1971).
 Có những vụ trộm rất bất ngờ:
 Cái ví ấy của ai: Các ông huyện, ông đốc, bà tham, bà cử sang trọng, lịch sự, nói tiếng Tây,
khiêu vũ tưởng chỉ có say vì nhạc, mê vì tình, nhưng lại xoay ra lần ví của nhau
 Thằng Quýt: tố cáo 1 ông phán ăn cắp tiền của đầy tớ 1 cách đểu giả, độc ác
 Cụ Chánh Bá mất giầy: dựng lên chuyện mất cắp để thực sự ăn cắp 1 đôi giày mới.
 Đồng hào có ma: Đê tiện nhất: quan huyện oai vệ lại đi ăn cắp 1 đồng hào đánh rơi của người
dân nghèo, ăn cắp giữa công đường.
 Li kì hơn, trong Thằng ăn cướp: quan huyện ăn cướp của 1 thằng ăn cướp đến nỗi nó phải
giải nghệ vì lỗ vốn to với quan lớn.
 Vô đạo:

Xuất giá tòng phu

Báo hiếu: trả nghĩa cha

Báo hiếu: trả nghĩa mẹ

- Thái độ của nhà văn: chế giễu, mỉa mai, châm biếm, đả kích bọn quan lại, bọn tư sản, cường
hào ác bá, thanh niên nam nữ hư hỏng đua đòi theo lối sống Âu hóa,...
Những cái xấu, cái ác của chúng là sựu lăng nhục đối với những giá trị đạo đức, văn hóa cổ
truyền của dân tộc.

b. Phát hiện ra những mâu thuẫn, tạo dựng được các tình huống trào phúng độc đáo, oái oăm:

- Truyện cười NCH thường là những truyện rất ngắn, ông ko có khả năng tổ chức “chuỗi cười
dài” kiểu Số đỏ, ông thường tạo ra 1 tình thế có tính hài hước. NCH nhạy bén với các loại
mâu thuẫn, đây là đặc điểm của óc quan sát, trí tưởng tượng, tư duy nghệ thuật của NCH

Chỉ ra 1 kiểu mâu thuẫn trào phúng/ xung đột kịch trong 1 truyện ngắn của NCH?

+ Mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng (bề ngoài và bên trong, vỏ và
ruột)

 Báo hiếu: trả nghĩa cha: vỏ chí hiếu, ruột đại bất hiếu
 Báo hiếu: trả nghĩa mẹ
 Mâu thuẫn giữa cái tâm bất hiếu, bất nghĩa với biểu hiện hết sức hiếu nghĩa của 1 ông quý
tử.
 Đồng hào có ma: vỏ oai vệ, ruột lưu manh
 Một tấm gương sáng: vỏ tiết hạnh, ruột dâm ô
 Cái ví ấy của ai? Mất cái ví, Thằng điên: Vỏ lịch sự sang trọng, ruột xỏ xiên bần tiện
 Chính sách thân dân: bề ngoài nhân đức, bên trong bất nhân
 Thế là mợ nó đi Tây: bề ngoài tiết hạnh, bên trong hư hỏng
Page | 101
 Loại mâu thuẫn chính, chiếm đại bộ phận trong truyện ngắn trào phúng của NCH

+ Mâu thuẫn giữa mục đích ý nghĩa và bản chất: mục đích ý nghĩa có vẻ tốt đẹp, cao sang nhưng
thực chất lại xấu xa, thảm hại

 Tinh thần thể dục


 Mục đích bề ngoài: rất vui, rất thoải mái của việc tổ chức xem bóng đá
 Thực chất: đó là tai họa ghê gớm với đời sống đầu tắt mặt tối của người dân cày, khiến
những kẻ tổ chức phải dùng các biện pháp cưỡng bức hùng hổ nhất

+ Mâu thuẫn giữa hi vọng và thất vọng, niềm tin và nỗi buồn

 Hi vọng càng cao, thất vọng càng lớn


 Ngậm cười
 Ngựa người và người ngựa: tình thế oái oăm giữa cô gái điếm và anh phu xe dựa vào nhau,
hi vọng kiếm được chút may mắn cuối cùng của 1 năm bất hạnh, hóa ra càng kéo nhau đi sâu
hơn vào con đường bất hạnh
 Một tin buồn: mâu thuẫn giữa niềm vui của ông chủ hiệu xe đòn đám ma và nỗi buồn của
những gia đình có người đau ốm.

+ Mâu thuẫn giữa phúc và họa: chiếm số ít, nhân vật được mô tả là người gặp điều may mắn, hạnh
phúc, nhưng thực ra gặp phải tai họa

 Hé! Hé! Hé!


 Thật là phúc...
 Được chuyến khách

+ Mâu thuẫn nguyên nhân – kết quả: nguyên nhân nhỏ, kết quả to, nguyên nhân tầm thường, kết quả
nghiêm trọng.

 Thằng ăn cắp: thằng ăn cắp bị đám đông đuổi bắt, đánh đập dã man (kết quả nghiêm trọng),
chỉ vì nó ăn hai xu bún riêu rồi nó chạy, ăn quỵt tiền khiến bả bán bún riêu hô hoan là “thằng
ăn cắp” (nguyên nhân nhỏ)
 Thế cho nó chừa
 Nỗi lòng ai tỏ
 Lại chuyện con mèo
 Các mâu thuẫn, xung đột này tạo nên chất kịch trong truyện ngắn NCH
 Xung đột là chất liệu cơ bản của kịch. Mỗi truyện của Nguyễn Công Hoan là 1 vở kịch, sự
đối lập, mâu thuẫn được dùng như một nguyên tắc để xây dựng mối quan hệ giữa các nhân
vật, tình tiết.
 Mâu thuẫn trong Kép Tư Bền: kịch lồng trong kịch:
. (xung đột nhân vật: giàu - nghèo, chủ - tớ, xung đột tình huống: phải diễn trò cười cho thiên
hạ trong khi anh ta cần khóc nhất. Mâu thuẫn giữa hoàn cảnh đáng khóc (bố chết) và tình thế
buộc phải cười (đóng vai hề) vì đã trót bán tự do cho kẻ có tiền.
. Người kép: tài hoa, hiếu thảo nhưng nghèo túng
Page | 102
. Người chủ rạp ko xuất hiện mà 1 bạn diễn đưa xấp tiền vào tay Kép Tư Bền có ý nghĩa gì?

c. Thủ pháp cường điệu phóng đại: phóng đại cái xấu xa của con người, tạo nên những bức chân
dung biếm họa

- Nghệ thuật trào phúng thường có 2 lối gây cười:

+ Gây cười gián tiếp: trình bày khách quan, bình thản sự việc, để cho người đọc tự rút ra kết luận
trào phúng từ cái vô lí, vô nghĩa, lố bịch, ngu xuẩn của hiện thực được phản ánh (thường thấy ở
phong cách thâm trầm, kín đáo)

+ Gây cười trực tiếp: nhà văn công khai vai trò bố trí sắp xếp của mình, thường dùng lối phóng
đại để làm nổi bật chất hài hước (NCH thuộc loại thứ 2)

- Lối cường điệu làm biến chất sự vật:

+ “Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người làm bà lớn. Nên chẳng mấy
chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu. Chỉ riêng bộ mặt cũng đã đủ long trọng. Người ta tưởng
chiếc bánh giầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngựm và ngay đầu quả chuối, nằm dài hai
múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào
chốn nát bàn, thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm, sâu như bụng dạ một người đàn
bà” (Đàn bà là giống yếu)

+Vật hóa tả người:

Sử dụng nguyên tắc vật hóa, lố bịch hóa, kệch cớm hóa nhưng nhân vật phản diện, tô đậm
phần “con” lấn át phần “người”.

“Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông, đố ai dám bảo là một người. Nếu người ta chưa nom rõ
cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc, và bốn chân tay ngắn chùn chùn, thì phải bảo là một
đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem cất đi” (Phành phạch).

- Mức độ phóng đại sao cho hợp lí thể hiện tài năng của nhà văn, có những phóng đại chưa đủ
gây cười, có cái phóng đại quá độ mất đi sự chân thực của hình tượng.

. NCH trào phúng 1 cách bộc trực, bạo khỏe, gần với nghệ thật dân gian, nhưng nhiều khi để cho
ngời bút vượt quá độ cần thiết, tạo ra đc nhiều trận cười khoái trá.

. Nhưng nhiều khi ông vượt quá ngỡng cho phép, do mai chạy theo tiếng cười, chạy theo hình
thức, coi nhẹ nội dung nên tác phẩm mang thiên kiến chủ quan: vấn đề phụ nữ, người nghèo
(Bữa no ... đòn, hai cái bụng, Chiếc quan tài)

e. Nghệ thuật kể chuyện: cốt truyện li lì hấp dẫn, giàu tính kịch.

Đối với việc một nhà văn trào phúng, việc tìm ra mâu thuẫn trào phúng có ý nghĩa quyết định
như việc tìm ra tứ thơ với một nhà thơ.

- NCH tài hoa trong tổ chức cốt truyện, ít chú ý tính cách, tâm lí. Biết cách dẫn dắt tình tiết sao
cho mâu thuẫn trào phúng, tình thế hài hước bật ra ở cuối tác phẩm một cách đột ngột, bất

Page | 103
ngờ.

Nhiều khi để cho cốt truện li kì, hấp dẫn nhà văn sẵn sàng hi sinh cả tính hợp lí, chân thực
trong quá trình diễn biến tâm lí nhân vật.

Thủ thuật: đánh lạc hướng người đọc khỏi cái đích thật sự của câu chuyện:

+Dùng một nhân vật đóng vai người trong cuộc hay người chứng kiến, người này thường thật
thà, ngớ ngẩn nhưng lại mang tất cả cái hóm hỉnh, ranh mãnh của nhà văn (Lại chuyện con mèo,
Nỗi lòng ai tỏ, Oằn tà rroằn, Cái lò gạch bí mật, ...)

. Oằn tà rroằn: nhân vât Bắc.

- Hai cái bụng: nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, mô tả 2 đoạn tách biệt, không liên quan gì đến
nhau, ko một câu so sánh, nhưng đọc xong cả truyện, thấy đối lập, mỉa mai. Phần đầu: tình
cảnh thằng bé ăn mày lang thang, đói rách, bẩn thỉu đến “bất thành nhân dạng”.

- Phần sau: một bà béo quá đến nỗi “cổ rụt, má chảy, bụng xệ”, có hàng dãy nhà cho thuê với
hàng trăm mẫu ruộng. Mắc bệnh “không đói cho”, vì từ hôm đi ăn cỗ cưới con bạn, bà bị éo
ăn những bóng, mực, long tu, nên đến nay bụng bà vẫn cứ bình bịch không đói cho.

- Phản ánh hai hạng người: kẻ ăn không hết, người lần ko ra.

- Câu kết đoạn dưới “bà ấy chỉ thèm ăn được”, làm độc giả liên tưởng đến câu kết đoạn trên:
“nó chỉ thèm được ăn”.

g, Ngôn ngữ đậm chất trào phúng

- Ngôn ngữ quần chúng đc chọn lọc, nâng cao, đậm chất ca dao, tục ngữ.

- Giản dị, giàu hình ảnh hay so sánh, ví von khiến người đọc có những liên tưởng thú vị.

“Xe thứ bảy, thì một cô xấu nhưng tân thời, mặt phấn má hồng, môi đỏ, rẽ lệch, chiếc áo căng
lườn, trông tức anh ách như một bài thơ thất luật: (Đào kép mới)

“Mĩ thuật nhất là cái ngực đầy như cái ví của nhà tư bản, chứ ko như cái óc của ông Nghị ngay
cả trước ngày họp hội đồng” (Samandji)

- Mỗi loại nhân vật đều có sắc thái ngôn ngữ riêng.

- Câu văn thường mang mâu thuẫn hài hước đối chọi bên trong

+ “Nàng vì quá nhẹ dạ, nên phải nặng lòng, cái khối lo nó đương nằm co ro ở trong bụng. Chàng
lo vì vô tình định đoạt thỏa bụng muốn, bây giờ phải cố tình đẩy cái khong muốn ra” (oằn tà
rroằn)

+ “Đối với lời nói ngọt ngào của quan phụ mẫu này, người ta sợ như gà phải cáo” (Chính sách
thân dân)

+ “Tí người chết thì mình sống làm sao” (Một tin buồn)

Page | 104
+ “Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn”, “Sự thành công của anh cu Bản đã làn vợ anh góa
chồng” (Ngậm cười)

- Cách dùng từ:

+Dùng từ Hán Việt có sắc thái trang trọng và từ thuần Việt có sắc thái thông tục để làm bật ra
tếng cười:

“Thì lúc ấy, trên vờ đầm, quan huyện tư pháp là một, cụ lục sự là hai, cậu lính lệ là ba, cùng
trịnh trọng làm việc và cùng trịnh trọng khạc nhổ” (Thịt người chết)

Trịnh trọng (từ Hán Việt)

Khạc nhổ (Từ thuần Việt)

Đã khạc nhổ thì không thể trịnh trọng, sự đối lập này nhằm mỉa mai về cách “làm việc” của quan
huyện tư pháp.

+Dùng từ trang trọng để chỉ những việc không trang trọng:

“Cái áo dài vải tây đen nay chỉ còn giữ đc màu nước dưa, thì ở lưng, vai, tay, ngực bướp ra,
mà năm khuy thì về hưu trí bốn. Mỗi chỗ rách là kỉ niệm một tận đòn mê tơi, kết quả của một
kỳ công về sự nghiệp trong đì sống của nó” (Bữa no đòn)

- Nói vòng: nói A nhưng để độc giả thấy rằng điều mình muốn nói ko phải là A (đánh lạc
hướng)

+ “Tang vật đó to bằng vành khăn đàn bà, cuộn quanh lù lù trên mặt đất thành một bãi, đầu
hình búp măng, màu vàng, mà đứt đuôi là có hơi ngạt, thôi thối”. (Cái lò gạch bí mật)

Đọc lên, người đọc biết ngay là vật gì, nhưng cách nói vòng gợi liên tưởng thú vị.

+ “Nhất là mũi ông ko thể lúc nào tránh đc mà ko giao thiệp với cái không khí đc êm đềm”
(Thầy cáu)

Nếu nói rằng: “Nhất là mũi ông ko thể tránh đc mũi thối” thì chất hài sẽ giảm hẳn.

- Câu văn thường ngắn gọn, lặp lại cú pháp nhằm mục đích tăng kịch tính.

“Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch Như mưa vào đầu. Như mưa vào lưng. Như mưa vào chân nó ”
(Bữa no đòn).

“Xong đâu đấy, cô lận đôi giày mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước tú gương mà đứng, cô quay
đằng trước, cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại, Cô uốn éo. Cô thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô
ngắm. Cô bàn. Cô bình pẩm... Cô khoái lắm!” (Cô Kếu, gái tân thời)

“Nào hoa tại, nào hột vàng, nào tráp đồi mồi, nào ống nhổ sứ, ai trông cũng đoán đc là nhà
giàu” (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ)

+Lời văn mang tính nhạt

Page | 105
Nhại văn hành chính, công vụ: Tinh tần thể dục, chính sách thân dân

Nhại văn báo chí công luận: Một tấm gương sáng, Ông chủ báo chẳng bằng lòng.

Nhại văn cáo phó: báo hiế: trả nghĩa mẹ

Nhại văn trữ tình lãng mạn: Thế là mợ nó đi tây

Nhại vă trinh thám: Cái lò gạch bí mật

Nhại giọng hát tuồng: Đào kép mới

Nhại giọng tiểu thư: Nỗi lòng ai tỏ

Nhại giọng con buôn thớ lợ: Hé! Hé! Hé!

Page | 106
VŨ TRỌNG PHỤNG

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Những nét chính trong tiểu sử, con người VTP

2. Giá trị hiện thực và thành tựu Nthuật nổi bật của tiểu thuyết Giông tố và phóng sự Cơm thầy cơm

3. Đối tượng trào phúng, cung bậc tiếng cười trào phúng, nghệ thuật trào phúng trong Số đỏ.

4. Cá tính sáng tạo của VTP

5. Đặc điểm chủ yếu của tiểu thuyết VTP

6. Soạn giảng Hạnh phúc của 1 tang gia

I. TIỂU SỬ, CON NGƯỜI

1. Tiểu sử

- Vũ Trọng Phụng sinh năm 1912 tại Hà Nội

- 1927, VTP đỗ bằng tiểu học nhưng vì nghèo phải thôi học đi làm. Ông làm thư kí nhà Gô đa được
2 tháng thì mất việc, sau xin được chân đánh máy chữ cho nhà in Viễn Đông, tất cả được 2 năm. 2
lần VTP mất việc đều vì tội ham viết truyện, đánh máy bản thảo truyện trong giờ làm việc, nhưng lí
do chính có lẽ vì khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 dẫn đến sa thải hàng loạt viên chức (đặc biệt ở
các sở tư của thực dân, tư bản). Từ đó chuyển hẳn sang làm báo, viết văn, trong văn chương của
VTP có sự nắm bắt tinh nhạy của người làm báo.

VTP viết cho rất nhiều tờ báo: Hà thành Ngọ báo, Nhật tân, Tiểu thuyết thứ bảy, Sông Hương,
Đông Dương tạp chí,... viết đủ thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, xã luận, bút chiến, phê bình,...
ngoài ra còn dịch vài tác phẩm của V. Hugo. Thường dùng 2 bút danh là VTP và Thiên Hư.

- Đầu 1938, VTP lấy vợ, đến cuối năm có con. Cuộc sống bấp bênh, nghèo túng, bị bệnh lao
nặng.
- 13/10/1939, VTP mất vì bệnh lao tại nhà số 73 phố Cầu Mới, Ngã Tư Sở, nơi ông về ở trong
vài tháng cuối đời. 4 tháng trước đó ở nhà bên cạnh, số 71, Tản Đà đã qua đời. VTP để lại 1
bà mẹ già , người vợ trẻ và đứa con gái chưa đầy 1 tuổi.

2. CON NGƯỜI

- Sớm bộc lộ năng khiếu và sự ham mê văn chương từ nhỏ: giỏi vẽ, biết đánh đàn nguyệt, soạn
cải lương, thích làm thơ.
- Sống khuôn phép, mực thước (ảnh hưởng từ sự giáo dục theo lễ giáo phong kiến của mẹ),
(VTP luôn áo the, khăn xếp, giàu tự trọng, vay tiền ai phải trả) nhưng trong sự khuôn phép ấy
ẩn chứa sự phẫn uất ko nguôi, phản ứng gay gắt với lối sống Âu hóa rởm.
- Sớm hình thành sự bất mãn, phản ứng gay gắt, bi quan với XH, do:

+ Tuổi thơ cực khổ, nghèo gia truyền, 2 lần bị sa thải


Page | 107
+ Chí lớn nhưng sinh bất phùng thời: thế hệ VTP vừa trưởng thành đã chạm trán những biến
động gay gắt: khủng hoảng kinh tế 29 – 33, khủng bố trắng 30 – 31, thoái trào CM 31 – 33. Ở
thành thị, phong trào Âu hóa rầm rộ, kéo theo lối sống ăn chơi, đàm điếm, trụy lạc.

+ Môi trường sống và nhân loại xung quanh VTP: gần như chỉ sống ở phố hàng Bạc, xung quanh
là cả 1 XH ăn chơi, bịp bợm, trụy lạc, vua thuốc lậu, me Tây hạng sang, tiệm hút, sòng bạc, nhà
thổ.

- Vì vậy, tuy nghèo khổ nhưng VTP ít có điều kiện gần gũi gắn bó người dân nghèo, ít thấy
được phẩm chất tốt đẹp của họ. Tầng lớp bình dân xung quanh VTP lại khá phức tạp, thường
là dân nghiện, cờ bạc bịp, ma cô, gái điếm, con sen, thằng quýt. Khi viết báo thâm nhập thực
tế, ông thường đi vào ổ bạc bịp phố Hàng Cá, tiệm hút gác chú Sềnh, trại lính lê dương Thị
Cầu với các me tây rẻ tiền,... Tóm lại, nhân loại xung quanh VTP hoặc là thượng lưu có tiền
trâng tráo chó đểu, hoặc là hạ lưu đê tiện cặn bã của XH.
- Tâm trạng bi phẫn của VTP cũng là tâm trạng của lớp thanh niên trí thức TTS thế hệ 30,
khao khát khẳng định cá nhân nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất, những kẻ “nặng nghiệp văn
nhân, chết vẫn ngậm hờn ko đạt chí” (Tchia – câu đối khóc VTP – Tao đàn, số đặc biệt về
VTP tháng 12/1939)
- Mê tín, tin tướng số. Cảm thấy hoang mang chóng mặt trước tấn trò đời quay cuồng vô nghĩa
lí, tin cả những điểm triệu may rủi đôi khi khá vu vơ (Vũ Trọng Phụng lấy bút danh: Thiên
Hư)
 Tâm trạng phẫn uất và tư tưởng bi quan định mệnh là những yếu tố nổi bật trong tâm hồn và
thế giới quan của VTP đã chi phối sáng tác, tư tưởng của nhà văn.

II: QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT

- Câu nói được cho là bộc lộ rõ nhất quan điểm nghệ thuật của VTP thể hiện trong 1 bài bút
chiến với các cây bút Tự lục văn đoàn: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, tôi và
những nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”…

- Các ông muốn theo tiểu thuyết tùy thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe nhất là sự giả dối.
Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì cũng đứng sự thực”.

- Xác định rõ nhiệm vụ của văn chương: tả lại “sự thực ở đời”, “tả thực cái xã hội khốn nạn,
công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của
dân nghòe bị bóc lột”, “chạy xa sự thực bằng những danh từ đểu trá của văn chương”.

- Quan điểm nghệ thuật của VTP gần gũi với quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh.

III. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

-Ông cũng nhanh chóng đc giới phê bình đánh giá là “một nhà tiểu thuyết “trác việt” (Hoàng
Thiếu Sơn). Với: Giống tố (1936), Số đỏ (1936), Vỡ đê (1936), Làm đĩ (1936), Lấy nhau vì tình
(1937), Trúng số độc đắc (1938),…

- Ngoài dịch kịch nói từ các nhà văn Pháp ông còn viết kịch. Vở kịch “không một tiếng vang”
(1931) của ông đc coi là tác phẩm mở đầu cho trào lưu hiện thực trong văn học VN.
Page | 108
- Vũ Trọng Phụng còn là tác giả của hàng trăm truyện ngắn, bài báo, tiểu luận, bút chiến,..

1. Phóng sự: Cơm thầy cơm cô

a. Giá trị hiện thực

- Là tập phóng sự xuất sắc nhất của VTP, viết về thân phận, cảnh đời cơ cực, tủi nhục của
những người đi ở

- Nhìn Hà Thành từ phía cổng hậu tối tăm, hôi hám, từ đó khám phá thế giới “cơm thầy cơm
cô”, mặt trái của gia đình thị dân

 Cảnh đời khốn khổ của những người đi ở:

- Người nông dân phải từ bỏ quê hương bản quán:

VTP theo dõi cuộc “hành hương của những đoàn người rách rưới, lam lũ kéo về Hà Nội: những
người nông dân bị xua đuổi khỏi quê hương bởi đủ thứ tai họa: nạn bão lụt, hạn hán, nạn sưu cao
thuế nặng, nạn quan lại cường hào, nạn đình đám xôi thịt,… Họ hướng về Kinh thành – cái vùng
ánh sáng rực rỡ đêm đêm vẫn hiện lên ở phía chân trời – mà dấn bước, chẳng quản nắng mưa,
đói khát, nhưng mong tìm được chốn thiên đường ấy công ăn việc làm và miếng cơm manh áo.
Nhưng Hà thành hoa lệ đã vẫy gọi họ đến với nó chỉ “để chết đói một lần thứ hai sau khi bỏ cửa
bỏ nhà. Nó làm cho một bọn trẻ đực vào nhà hỏa lò với một bọn trẻ cái làm nghề mại dâm”.

- Con sen đứa ở bị phải ra chợ bán người, trở thành những thứ “hàng tươi sống”

Khi chưa có người mua, con người bị tước đoạt giá tị người, trở thành một món hàng nâng lên
đặt xuống

Người mua: dè bỉu, bĩu môi, phát khùng, gắt gỏng, đắn đo, giả bộ bỏ đi để dìm giá

Kẻ bán: tinh ranh, lọc lõi, khi khoan, khi nhặt, lúc hồ hởi, lúc lạnh lùng, để giữ bằng được giá
vừa rao bán

Giá của con người không hơn gì con vật. Nam phụ lão ấu rách rưới, đói khát được chào bán
bằng giá rẻ mạt nhất

Bãi chứa “hàng tồn kho” vì ế ẩm: nơi sân sau của những quán cơm mạt hạng, người ta phải nằm
ngồi bên những cống rãnh, những đống rác sặc mùi cá thối, mùi phân nước tiểu, đờm dãi, mùi
bùn và rêu lưu niên

- Khi được mua để trở thành con đòi đứa ở: chịu cảnh “ăn đòi làm no”, bị ngược đãi, ức hiếp,
bị quỵt tiền công

“Tôi phải gánh đầy ba bể nước, bổ hết hai tạ củi. Nước gánh đầy bể rồi, củi chất chật bếp rồi là
bà chủ kiếm chuyện chửi mắng suốt ngày cho mình không ở được nữa mà phải xin thôi” và cố
nhiên “không trả tiền công”. (Một đứa ở bị ho lao)

Con sen Đũi: “phải ăn đói, làm no và mỗi ngày, giặt độ ba chậu quần, trong thơm nức nững mùi
ô uế”, 13 tuổi bị hãm hiếp, bị mụ chủ “nhét giẻ vào mồm”, “giữ hai chân”, “cho thẳng oẳn cứ
Page | 109
việc hiếp lấy hiếp để”

 Phơi bày mặt trái của xã hội thị dân

- Phơi bày tấn bi kịch khiến người ta phải “hãi hùng kinh ngạc về loài người”:

+ Con bất hiếu, nhiếc móc cha vì miếng ăn, vợ nhục mạ, chửi chồng, chồng lừa gạt vợ

+ một ông chủ “nuôi chó thì tử tế mà nuôi bố thì không tử tế”

+ “Ông gọi bà bằng tên những giống vật, và bà lại lấy những chỗ hiểm, trong thân thể người đàn
bà ra đặt danh từ và trạng từ lại cho cái mặt phúc hậu của ông”.

+ ông chủ cự bà chủ sao lại không dặn con sen đi mua 1 hào thịt quay thì phải mua hai lần, mỗi
lần một gói năm xu, để cho nhà hàng phải thêm thì mua được rẻ. Bữa ấy, giận cá chém thớt, ông
chủ cứ gọi sen ra táng cho 12 cái bạt tai, mặc dầu nó chẳng đáng tội tình gì

+ Một gia đình ông chủ 6 người lúc ăn cơm ngồi cùng nhau nhưng không ai đưa đũa “xâm phạm
đến món ăn của kẻ khác”. Một hôm “nàng dâu để phần trồng một đĩa chả rươi, chẳng may ông
bố chồng ăn cơm trước đã dúng đũa vào. Đi làm về, ông con trai mở lồng bàn thấy món mĩ vị
kia tại bị… thất tiết, bèn quát ầm lên”, nghi ngờ bố chồng và con dâu.

- Sự tha hóa của những người dân quê vốn hiền lành, lương thiện

Một thằng “cơm thầy cơm cô” chính hiệu bị ông cụ già của chủ đánh chửi, lập tức nghĩ ra kế:
đem cứt chó đổ lên đầu cái phản dưới bếp chỗ ông cụ ngủ. Thế là lão già trúng kế, tìm xe điếu
vụt cả ba con chó (những con chó mà lão quý hơn cả bố đẻ).

Con sen Đũi cho cậu con nhà chủ vào tròng bằng cách “rình những lúc đêm khuya, cậu mà
cầm đèn đi vào nhà sau thì trên tấm chõng tre hai cái đùi nõn trắng hếu của con sen, lại cứ phô ra
như đầu xảo! Từ đêm ấy trở đi có đêm cậu đi tiểu có đến tám mươi nhăm lần. Đến lần tám mươi
sáu, cậu vừa nhịn thở, rón rén để tay vào cái đùi non thì con sem nhỏm ngay dật, tỉnh ngủ một
cách bất ngờ… cậu phải bịt miệng nó một đồng bạc”.

 Cơm thầy cơm cô thể hiện tầng lớp bọn thằng nhỏ con sen đểu cáng, xỏ lá, “100 người
nghèo rơi vào tay Vũ Trọng Phụng thì 99 người trở thành lưu manh ma cô, gái điếm. Cái
nhìn của Vũ Trọng Phụng có phần hiện thực nhưng đồng thời cũng là một cái nhìn bi
quan với xã hội”

 Dưới cái nhìn bi quan của nhà văn, xã hội thị dân hiện lên là một thứ cạm bẫy để con
người lừa gạt, hãm hại, làm cho nhau khốn khổ, khốn nạn, coi đồng tiền là trên hết. Đồng
tiền làm tha hóa mọi tầng lớp trong xã hội

 Xã hội dâm loạn, lố bịch

“Những con sen bị ôn Tham hiếp dâm”, “có thằng nhỏ hiếp dâm con gái ông Tham”, “phu xe
được ngủ giường Hồng Kông với bà chủ”, “những thằng nhỏ được kì lưng cho các tiểu thư”,
“Có những người đầy tớ bị chủ nhà đánh chết, những con sen được ông chủ quý hơn vợ. Có

Page | 110
những thằng nhỏ bỏ thuốc độc định giết cả nhà chủ, có anh bếp bếp nhổ đờm vào nồi cá kho. Có
những vú già quyền hành như mẹ “cậu mợ”.

 “Người phu xe biết hết mọi sự độc ác của loài người hơn là một học giả”

 “Một kẻ đi ở (…) biết rõ những tính tình của loài người hơn là một văn sĩ tả chân”

 VTP “đã quan sát, đã thuậ kể bằng những con mắt và tấm lòng của những người phu xe
ấy, những người đi ở ấy” (Nguyễn Đăng Mạnh). Phóng sự của VTP thể hiện tấm lòng đau
đớn và đầy căm phẩn trước cái xã hội xây dựng trên sự bất công và dưới sự điều khiển
của đồng tiền

b. Nghệ thuật

- Chân sát, tỉ mỉ như chiếu trước người đọc những đoạn phim vừa có giá trị tư liệu, vừa có giá
trị nghệ thuật, thể hiện óc quan sát mau lẹ, sắc sảo

- Phóng sự có thiên hướng tiểu thuyết hóa và giàu kịch tính

- Có khả năng kí họa tài tình, phác thảo chân dung nhân vật, có tài miêu tả đám đông nhốn
nháo

- Sáng ra nhân vật “tôi”, không phải VTP nhưng lại rất VTP; ăn nói hóm hỉnh, ví von bất ngờ
sắc sảo, nhận xét, lời bình thông minh, có duyên

- Lời kể chuyện linh hoạt, tự nhiên, có tính đối thoại, nhiều khi như tranh cãi trực tiếp với
người đọc

1: Phóng sự: Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Kĩ nghệ lấy tây

2: Tiểu thuyết

VTP có nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó có Số đỏ, Giông tố đc coi là kiệt tác.

2.1: Giông tố

- Khả năng bao quát hiện thực rộng lớn

- Chiều sâu mới trong việc phản ánh hiện thực và phân tích XH.

- Cảm nhận sâu sắc về sự biến động, quay cuồng, đảo điên, của 1 XH vạn ác, bất công ,"vô
nghĩa lí"

- Thành tựu nghệ thuật nổi bật.

2.2. Số đỏ

* Lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết Số đỏ: phức tạp, nhiều luồng ý kiến đối thoại:

- đánh giá cao


Page | 111
+ Nguyễn Đình Thi: VTP là nhà tiểu thuyết trác tuyệt của văn học Việt Nam. Số đỏ: là tiểu
thuyết vô tiền khoáng hậu.

+ Trương Tửu: Số đỏ là tiểu thuyết tả chân đến tàn ác, trào phúng đến chua xót.

+ Nguyễn Khải: là cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học.

- Không đánh giá cao:

+ Vũ Ngọc Phan: ko đánh giá cao Số đỏ, " tài trào phúng, hoạt kê ko đc cao cho lắm”.

+ Hoài Thanh: " cuộc đời đâu đẹp đến thế để bôi nhọ thêm, dù sao con người đâu xấu xa đến
thế.Văn chương hạ cấp, đồ rác rưởi” ->ko hơp gu Hoài Thanh.

2.2: Số đỏ

A, Đối tượng trào phúng:

Trào phúng là nghệ thuật tạo nên tiếng cười có ý nghĩa xh, một nhà văn trào phúng tài năng phải
vạch ra đc mâu thuẫn trào phúng, xây dựng tình huống trào phúng độc đáo, chân dung trào
phúng đặc sắc, ngôn từ trào phúng.

Đối tượng trào phúng của Số đỏ.

(1) Số đỏ phê phán toàn bộ những mặt xấu xa của lối sống tư bản ở thành thị, đặc biệt là tầng lớp
ông chủ, bà chủ, trưởng giả thành thị, phong trào cải cách xh, thể thao văn hóa giả dối.

 Sự nhất quán giữa các cây bút trào phúng: Tinh thần thể dục (NCH), Hội Tây (N,
Khuyến)

Sinh hoạt đàng điếm, trụy lạc

Thói huênh hoang bịp bợm

Những thủ đoạn làm tiền bẩn thỉu

Phong trào Âu hóa, thể thao, giải phóng nữ quyền, thơ mới, nghệ thuật hũ nút.

Những tổ chức do thực dân đỡ đầu: Hội Chấn hưng Phật giáo, sư hổ mang, Hội Khai trí tiến đức.

Bọn lang băm

Giới cảnh sát

Bộ máy chính quyền thực dân: Từ cảnh sát đến phủ toàn quyền, quan toàn quyền, Thống sứ, vua
ta, vua Xiêm.

Số đỏ đưa ra 1 loạt chân dung biếm họa sinh động:

Me Tây dâm đãng

Cô gái mới lãng mạn hư hỏng


Page | 112
Ông chu hiệu may làm “cách mệnh trong vòng pháp luật” bằng những mốt y phục tối tân.

Nhà mỹ thuật hăng hái cổ động Âu Hóa nhưng cấm ngặt vợ con ko đc mặc tân thời.

Cố Hồng hiếu danh hủ lậu đần độn

Vitor ban- chủ khách sạn bồng Lai kiêm Vua thuốc lậu

Đốc tờ Trực Ngôn, đồ đê Freud, Giô dép Thiết.

(2) Sự ngô nghê, ngớ ngẩn, nhệch nhác của mọi hạng người trong xh: Dựng lên thế giới nhân vật
đầy hài hước, ai cũng đáng cười, hướng đến cái ngô nghê, ngớ ngẩn, nhếch nhác của nhiều
lớp người, ko phân biệt tầng lớp, lứa tuổi, giới tính. Từ em Chã đến cụ cố tổ, từ trí thức đến
bình dân, từ nhà sư đến cảnh sát,..

 Ko chỉ phê phán một giai cấp, phê phán cái đáng cười ở bất cứ người nào, quốc gia nào.

(3) Nhân vật Xuân Tóc Đỏ: đối tượng chủ yếu

(?) Xuân Tóc Đỏ có gốc gác là người bình dân, vậy mục tiêu của Số đỏ có cham biếm tầng lớp
bình dân ko?

Chí Phèo của Nam Cao là người nông dân nhưng ko điển hình cho người nông dân mà là người
nông dân đã bị tha hóa.

Xuân Tóc Đỏ gốc gác là bình dân, nhưng hoàn cảnh, môi trường sống đã quy định tính cách
nhân vật: ko cha, ko mẹ, lăn lội kiếm sống-> nhào nặn Xuân Tóc Đỏ-> “tinh quái thạo đời”, ko
phải người bình dân theo nghĩa thông thường nữa mà đã thuộc lớp cặn bã của xh, mà nhanh
chóng hòa nhập vào tầng lớp thượng lưu

Phơi bày +bản chất thật của tầng lớp trưởng giả thành thị.

+bản chất thật của tầng lớp cặn bã xh

Bề ngoài khác nhau nhưng bản chất giống nhau, tuy 2 là 1.

b. Cung bậc tiếng cười trào phúng: đa dạng, đây là vấn đè cơ bản của nghệ thuật trào phúng.

- Tiếng cười thứ nhất: tiếng cười hài hước, khôi hài, tác giả của hình tượng tiếng cười hài hước
có khi thiện cảm với đối tượng của mình nhưng vẫn chỉ ra hạn chế của nó.

VTP hài hước khi nói đến chị hàng nước, u già nhà bà phó Đoan, ko nhầm mục đích tiêu diệt đối
tượng, mà mang tính chất bông lơn đùa vui.

- Tiếng cười thứ hai: tiếng cười châm biếm đả kích gay gắt, lịch sử văn học khi sử dụng tiếng
cười châm biếm nhìn chung là chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân dân lao động, tư tưởng tiến
bộ của nhân loại. Là ngón đòn tiêu diệt chứ ko còn là đùa vui nhẹ nhàng.

“Văn chương VTP sặc mùi tiêu ớt” (Trương Tửu)

Page | 113
“Cái cười xh: Số đỏ ko phải là cái rúc rích, rải rác mà chính đó là tiếng cười lớn, bùng lên như 1
lời gầm thét phẫn nộ” (Văn Tâm)

Số đỏ là cuốn tiểu thuyết đa cung bậc, tiếng cười.

C, Nghệ thuật trào phúng trong Số đỏ

Là nghệ thuật tạo ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán: phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng,
dựng lên những tình huống trào phụng độc đáp, dùng thủ pháp phóng đại để làm nổi bật mâu
thuẫn đó khiến cho đối tượng càng trở nên đáng cười (chú ý đoạn trích: hạnh phúc của 1 tang
gia).

Hạnh phúc của một tang gia: giả dối: hạnh phúc vì tiền, hạnh phúc vì đc phô phang sự chí tình
chí hiếu.

- Mâu thuẫn trào phúng trong Số đỏ là mâu thuẫn giữa bản chất và hình thức: bản chất bất
nhân, dâm ô, đểu cáng, rởm hợm, và hình thức son phấn lòe loẹt.

- Nhân vật trào phúng điển hình:

Phó Đoan thủ tiết với 2 đời chồng, cố Hồng, Xuân Tóc Đỏ.

+Thiên về ngoại biên: Phó Đoan cưa sừng làng nghé, “trạc ngoại tứ tuần mà y phục còn trai lơ
hơn các thiếu nữ”, em chã: lớn tồng ngồng mà vẫn em chã.

+Tô đậm những nét tính cách lố lăng, quái gở của nhân vật:

Phó đoan hỏi dồn khi nghe có bác sĩ toan hiếp bệnh nhân, thương cảm cứu Xuân vì tội nhìn trộm
cô đầm thay váy, Phó Đoan vào buồng tắm vẫn khêu gợi Xuân->phê phán cái dâm của con
người.

Cố Hồng: “biết rồi khổ lắm nói mãi”.

Xuân Tóc Đỏ: bản chất lưu manh, đểu giả, bịp bợm: 9 tuổi ở nhà bác họ, bị đanh và đuổi đi vì
nhìn trộm bác gái tắm. Khi nhặt ban quần bị băt quả tang nhìn trộm cco đầm thay váy. Có cơ hội
là tán tỉnh từ chị hàng mía đến mệnh phụ. Ngôn ngữ vỉa hè: mẹ kiếp, nước mẹ gì, tình bỏ mẹ ra
ấy,…ngay cả khi đã là thượng lưu trí thức vẫn ko tư bỏ đc ngôn ngữ ấy. Ko hiểu gì về văn minh
Âu hóa nhưng lại luôn rao giảng về âu hóa văn minh. Dùng nhiều thủ đoạn để trục lợi cho bản
thân: nhét truyền đơn vào tú hai nhà thể thao Hải, Thụ để loại họ giật giải quán quân.

- Thủ pháp phóng đại.

- Tóm lại: XTĐ luôn gặp may, nhưng sau cái may đó là cái tất yếu mang tính quy luật. Bản
chất lưu manh của Xuân đã hợp với bản chất giả dối, bịp bợm đồi bại của xh.

IV: Cá tính sáng tạo và đặc điểm tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng

1. Cá tính sáng tạo: 3 phương diện

Page | 114
- Cái nhìn độc đáo của VTP đối với con người, cuộc đời: “XH này tôi chỉ thấy là khốn nạn:
quant ham, lại nhũng, đnà bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn si đầu cơ xảo quyệt, mà
cái xa hoa chơi bời của bọn nhà giàu thì thật là những câu chửi rửa vào cái xh dân quê, thợ
thuyền bị lầm than, bị bóc lột”.

- “Tiểu thuyết là sự thật ở đời” ->sự thật ở đời là những cái xấu xa, giả tạo-> tạo nên xh “khốn
nạn, chó đểu”.

- Cái nhìn này nhất quán với quan niệm sáng tạo.

->VTP là nhà văn có biệt tài khám phá mặt trái XH, có ý nghĩa phê hán sâu sắc.

- VTP nhìn vào đâu cũng thấy cái dâm của con người. Đây là nét rất riêng của VTP bị chi phối
bởi quan niệm định mệnh sinh lí, coi đây là thuộc quyền của tạo hóa, đạo lí nhân phẩm ko có
nghĩa lí gì trước đòi hỏi của bản năng tính dục.

+Khi nào VTP tô đậm bản năng sinh lí của nhân vật nhưng thống nhất với bản chất xã hội của
nhân vật, khi đó tạo nên những điển hình có ý nghĩa xh sâu sắc. vd: Xuân Tóc Đỏ, Nghị Hách.

+Khi nào các nhà văn quá tin vào chủ nghĩa tính dục, nhấn mạnh vào vai trò của tính dục trong
đời sống con người thì nhà văn chông chênh, có thể chệch khỏi những lập trường CN hiện thực.

Trường liên tưởng của VTP bộc lộ niềm phãn uất khôn nguôi, bộc lộ qua những hình ảnh so
sánh.

- Trí tượng tượng phong phú, độc đáom đóng vai trò quan trọng.

Dù muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời, VTP vẫn rất hư cấu, khai thác hiện thực chủ yếu bằng cách
gián tiếp. Đọc VTP thấy ông truyền vào tư liệu nguồn năng lượng của mình.

Giông tố: VTP sử dụng nguyên mẫu nhưng ko miêu tả nhân vật nguyên mẫu mà cường điệu đặc
tính của loại nhân vật đó.

2 khả năng xảy ra:

+khi nào trí tưởng tượng nhà văn bám sát sự phát triển logic của nhân vật, phù hợp chân lí đời
sống thì sẽ tạo ra những điển hình xuất sắc.

+Khi nào cường điệu nhưng ko bám sát vào logic nội tại, phù hợp chân lí khách quan, sẽ tạo ra
những nhân vật giả mạo, méo mó.

VD: Ông già Hải Vân trong Giông tố là một thất bại trong xd nhân vật của VTP.

2. Đặc điểm tiểu thuyết VTP

- Khả năng bao quát hiện thực rộng lớn: Nam Cao: thế giới vi mô, VTP: bao quát nhiều mảng
hiện thực, cuộc sống của nhiều giai tầng xh từ nông thôn đến thành thị, tầng lớp thống trị đến
những hạng người dưới đáy xh, đặc biệt là xh đô thị và tầng lớp thị dân.

- Cuộc sống xây dựng từ cái ngẫu nhiên, bất thường.


Page | 115
Lựa chọn kiểu cốt truyện đc xây dựng trên cơ sở miêu tả những hành động bên ngoài của nhân
vật.

Cuộc sống là những chuỗi biến cố, sự kiện, tình huống ngẫu nhiên, bất ngờ, làm đảo lộn tất cả.

-Cảm hứng phê phán gay gắt

-Nhân vật chịu ảnh hưởng từ môi trường

-khả năng tổng hợp thể loại lớn.

Page | 116
NGUYỄN TUÂN

I. Tiểu sử, con người

1. Tiểu sử

Sinh ngày 10.7.1910 tại phố Hàng Bạc Hà Nội trong 1 gđ nhà Nho khi Hán học đã tàn.

- Gia đình: có truyền thống Nho học: Nguyễn Tuân là con quý tử của cụ Tú Hải Văn, ảnh
hưởng trực tiếp đến Nguyễn Tuân ở gien văn và tính khí.
- + Gien văn: chất tài hoa trong các thú chơi (bố là nguyên mẫu để Nguyễn Tuân xây dựng
nhiều nhân vật trong Vang bóng 1 thời);
- + Tính khí: cao ngạo: NT được giáo dục theo tinh thần nhà Nho: coi trọng khí tiết.
- Thân sinh Nguyễn An Lan (cụ Tú Hải Văn): “một nhà nho đậu khoa thi Hán học cuối dùng,
rồi suốt đời ôm nỗi bất đắc chí trong cảnh đi làm 1 viên chức nhỏ ở tòa sứ các tỉnh dưới chế
độ thuộc địa của Tây” (Nguyễn Đình Thi)
- Từ nhỏ, NT “đã được nuôi trong nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, với những phong tục, nề
nếp, với cách ăn ở vui chơi từ 1 thời xưa đang tàn dần và biến đổi, ngổn ngang vì sự xâm
nhập của văn minh máy móc và hàng hóa từ phương Tây ào đến”. (Nguyễn Đình Thi)
- Quê hương:

+ sinh quán (nơi sinh): phố hàng bạc, nơi có nhiều lễ hội. 2 hoạt động:

Thi hoa thủy tiên: hãm hoa thủy tiên để nở đúng giao thừa, bình thường lấy hoa thủy tiên nở
đúng để so với đồng hồ, Nguyễn Tuân phóng đại: thấy hoa thủy tiên nở nhiều người xoay lại
đồng hồ; Đấu chim họa mi.

+ Quê quán: làng Nhân Mục (gọi nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Hà Nội.

- Xê dịch:
Tuy quê ở Hà Nội nhưng từ nhỏ đã theo gia đình sống nhiều năm ở các tỉnh và thành phố
miền Trung. Ngay từ thời niên thiếu đã xê dịch nhiều nơi, ở lâu nhất là Thanh Hóa, để lại
nhiều dấu ấn trong các tác phẩm và đề tài “chủ nghĩa xê dịch”.
- Học vấn: Có truyền thống hiếu học. Phẩm chất hiếu học khiến 1 người thất học trở thành
uyên bác.
NT học đến cuối bậc Thành chung (THCS hiện nay), điển hình số 1 cho lớp nhà văn thế hệ
32: bị đuổi học sớm; thời nhỏ học chữ Hán, sau học chữ Tây và quốc ngữ; Học thành chung,
sau đó bị đuổi học vì tham gia bãi khóa phản đối mấy giáo viên người pháp nói xấu người
Việt, bị bắt do đầu têu, từ đó NT ko được đi học trong bất cứ nhà trường nào, không được
nhận ở bất cứ công sở nào trong nhà nước bảo hộ.
Việc NT bị đuổi khiến ông phẫn chí, tự học  Uyên bác trở thành nét tiêu biểu trong phong
cách NT
- Nhiều lần bị bắt giam:

Page | 117
+ 1930, cùng bạn học vượt biên Lào, sang Thái Lan, đến Băng Cốc thì bị bắt đưa về giam tại
Thanh Hóa.
+ Hết hạn tù, tiếp tục “xê dịch” định vào Nam, nhưng mới tới Vinh thì bị bắt đưa về quản
thúc ở Thanh Hóa.
 Khủng hoảng, bế tắc, thời gian này NT tìm lối thoát trong cuộc sống ăn chơi phóng túng.
+ 1941 bị bắt giam lần nữa vì giao du với những người hoạt động chính trị.
- sau CMT8, NT đến với CM, tham gia kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn
học mới. 1950, kết nạp Đảng. 1948 – 58: Tổng Thư kí Hội văn nghệ VN. Mất ngày
28/7/1987 tại HN.
2. Con người
Là người trí thức, nghệ sĩ có bản lĩnh, nhân cách, giàu lòng tự trọng, có tinh thần dân tộc.
+ Trân trọng những giá trị cổ truyền của dân tộc.
+ Yêu tha thiết tiếng Việt, có ý thức làm giàu làm đẹp tiếng việt
- Có ý thức cá nhân cao: thích thể hiện mình. Viết văn là cách khẳng định cá tính độc đáo.
- Ham thích xê dịch: NT có lối sống tự do, phóng khoáng, ham mê thanh sắc, thích đi tìm cảm
giác mới lạ.
- Coi trọng cái đẹp
- Yêu ghét rạch ròi

II. Qúa trình sáng tác

1. Thời kì trước CMT8 – 1945

- Cầm bút khoảng đầu những năm 30 nhưng phải đến 1938 mới gây được tiếng vang. Tài năng
được khẳng định qua các tác phẩm: Một chuyến đi (1938), Thiếu quê hương (1940) Quê
hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), đặc biệt là Vang bóng 1 thời (1940)
- 3 đề tài chính:

+ Chủ nghĩa xê dịch: Một chuyến đi, Thiếu quê hương, Tùy bút I, II

+ Vẻ đẹp “vang bóng 1 thời”

+ Đời sống trụy lạc

 Chủ nghĩa xê dịch:


- Là 1 thuyết phương Tây, được Friedrich Nietzsche, Andre Gide, Paul Morand,… đề xướng,
chủ trương đi không cần mục đích, nơi đến, chỉ cốt luôn thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ
và thoát li mọi trách nhiệm với gđ, XH. Chủ nghĩa xê dịch là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân
bế tắc, cực đoan, phản ứng lại trật tự XH đương thời một cách vô trách nhiệm, muốn thoát
khỏi mọi ràng buộc, nguyên tắc, đạo đức, luân lí, chối bỏ trách nhiệm, bổn phận với gđ, quê
hương, đất nước.
- Một chuyến đi: tập hợp loạt bài du kí đăng trên tiểu thuyết thứ bảy dưới tiêu đề Những truyện
ngắn đã sống bên cạnh phim “Cánh đồng ma” tại Hương Cảng

+ Ghi lại 1 cách tài hoa, sắc sảo, chân thực những nét riêng của cảnh vật, phong tục sinh hoạt
của con người trên đất Hương Cảng.

Page | 118
+ sử dụng thể tùy bút, du kí tài tình: phóng túng, lấy cái tôi làm nhân vật trung tâm.

+ Cái tôi xê dịch và hưởng lạ, coi cuộc đời chỉ như 1 trường du hí.

+ giọng văn: khi trang nghiêm, cổ kính, khi đùa cợt bông phèng, khi trầm bổng, khi xô bồ bừa
bãi như ném ra trong 1 cơn say chếnh choáng, khinh bạc

Thiếu quê hương:

- Bạch ko phải là tín đồ tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa xê dịch, mà chứa đựng nhiều mâu
thuẫn. Có lúc quả quyết phải đoạn tuyệt với vợ con, với nhà, với quê hương bản quán, nhưng
nhiều khi lại dằn vặt vì điều đó.

Với vợ: “Ngồi trên một con tàu mà cứu phải lo nghĩ băn khoăn về 1 người có quyền
nhớ mình, có quyền buồn bã vì mình nếu người li phụ ấy lại ốm tương tư nữa thì bao
nhiêu trách nhiệm sẽ đổ lên đầu tên lữ khách đã phạm vào cái tội lãng mạn thèm nhớ
một con đường dài, mơ tưởng đến 1 vùng nước rộng”

Bới lông tìm vết để kiếm cớ li dị với vợ, vì “chỉ có li dị gỡ thoát đời Dung ra khỏi
cuộc sống của Bạch thì mới hết bận bịu, thì Bạch mới trở lại bản ngã của Bạch
được”, nhưng trong sâu thẳm đáy lòng, lại tự xấu hổ bởi việc bới lông tìm vết của
mình “thật ko xứng đáng 1 tí nào với cái vẻ ngây thơ thành thực của vợ chàng”.

Với cha: “Lòng thương cha ai mà ko nặng”.

- Thiếu quê hương: đẩy chủ nghĩa xê dịch lên đỉnh cao
- + Đề từ: Ta muốn sau khi ta chết đi có người thuộc da ta làm chiếc va li” (Paul Morand)
- + Nhân vật Bạch, 1 người mắc bệnh xê dịch, luôn thèm đi và chỉ đi mới cảm thấy mình đang
sống.
“Đi, tức là tất cả. Đi, tức là hạnh phúc. Tất cả thèm thuồng, ham muốn, hăm hở của Bạch đều
quay về 1 mối, một ý đi. Còn bao nhiêu cái khác, Bạch vui lòng để phần, để dành cho người
xung quanh. Riêng đối với chàng, những dục vọng về danh phận, những bổn phận và tài tình
đối với đất cát quê nhang, những phụng sự về nghệ thuật, những vui sống trong kiến thiết,
nhất nhất chàng đều chểnh mảng cả.”
Đi để “thay đổi thực đơn cho giác quan”.
 Trong sâu thẳm, Bạch vẫn kính cha, thương vợ, gắn bó với quê hương. Chính tấm lòng gắn
bó với quê hương nên mới thấy thấm thía sự tù túng của môi trường sống quẩn quanh, tù
đọng, ko khí ngột ngạt bế tắc của XH thuộc, cảm thấy đau khổ khi mình đang sống trên quê
hương mà vẫn thấy “thiếu quê hương” trong hoàn cảnh mất nước.
+ Nhiều trang viết tài hoa, ghi lại 1 cách chân thực, tinh tế cảnh sắc thiên nhiên, phong vị đất,
những cảnh sinh hoạt với những nét độc đáo khác nhau ở nhiều vùng quê trên đất nước ta.
“NT, con người luôn cảm thấy “thiếu quê hương” ấy, thực ra lại gắn bó tha thiết với quê
hương mình bằng biết bao sợi dây tình cảm tế nhị. Mà chính vì tha thiết với qh nên mới cảm
thấy bơ vơ trong hoàn cảnh mất nước và mới có tâm trạng khắc khoải day dứt “thiếu quê
hương” (Nguyễn Đăng Mạnh – Lời giới thiệu tuyển tập NT – taajo 1, NXB Văn học, Hà Nội,
1981)

Page | 119
 Vẻ đẹp vang bóng 1 thời: Vang bóng 1 thời, Tóc chị Hoài
- Vang bóng 1 thời (1940)
Ý nghĩa tiêu đề tập truyện: Vang bóng 1 thời: hoài niệm về những vẻ đẹp xưa
 Vang: dư âm/ Bóng: dư ảnh  Những dư âm và dư ảnh của 1 thời đã qua

+ Gồm 11 truyện ngắn, lần lượt đăng trên tạp chí Tao Đàn và Tiểu thuyết thứ bảy từ 1939, NXB
Tân Dân Hà Nội in lần đầu năm 1940

+ Đó là thời thực dân Pháp vừa đặt xong ách đô hộ lên đất nước ta, phong trào Cần Vương thất bại,
những anh khóa thi nốt khoa thi Hán học cuối cùng, những Nho sĩ cuối mùa trở thành lớp người lạc
lõng.

+ Đối tượng: những vẻ đẹp xưa, thói quen, cung cách sinh hoạt, những kiểu ăn chơi cầu kì, phong
lưu, đài các của những con người tài hoa

 Thú chơi lan, chơi cúc, uống rượu “thạch lan hương”, đánh bạc bằng thơ và hát ả đào trên
sông hương
 Thú nhấm nháp chén trà sớm mai với những nghi lễ thiêng liêng, thú vui ngày xuân mời
khách đến thưởng hoa nhắm rượu với thứ kẹo ướp hương lan.
 Thói quen “thắp nến bạch lạp để đọc Đường thi sách thạch bản”.
 Thú đánh bạc bằng thơ dưới trăng rằm trên mặt sông, tiếng ngâm thơ “âm hưởng trên mặt
nước lạnh… như tiếng vang của 1 hội Tao đàn nào”.
 Nhân vật chính: Những Nho sĩ Hán học suy tàn, họ ko phải là nhà Nho hành đạo, cũng ko
phải nhà Nho tài tử, mà là những con người tài hoa bất đắc chí. Hành động của họ ko phải
phò vua giúp đời mà toàn bộ tài hoa, tâm huyết của họ dồn vào các thú chơi.
 Họ đáng trân trọng vì ko chịu a dua theo thời, chạy theo danh lợi mà vẫn cố giữ thiên lương
và sự trong sạch trong tâm hồn. Họ thể hiện sự đối lập với XH phàm tục bằng cái tôi tài hoa,
ngông nghênh, phô diễn lối sống đẹp, thanh cao để phản ứng với trật tự XH đương thời.
Nổi bật là Huấn Cao, bất tử hóa cái đẹp và Nthuật, ung dung bước vào cõi vĩnh hằng, mâu
thuẫn với cuộc đời ô trọc.
 Nguyễn Tuân rất trân trọng những giá trị dân tộc.
 Giá trị:
+ giúp người đọc hôm nay hiểu về quá khứ: phẩm chất văn hóa của con người VN: sành điệu
về nghệ thuật sống, tinh tế trong cảm thụ, tài hoa trong chế tác.
+ khả năng phân tích đối tượng ở 1 tầm cao văn hóa: NT là người đầu tiên “nêu lên cái đẹp ở
khía cạnh kĩ thuật” (mĩ thuật hóa kĩ thuật), miêu tả các thao tác đầy tính hoa mĩ (Chém treo
ngành).
+ Viết về cái tài hoa 1 cách tài hoa. Tài hoa vừa là đối tượng, vừa là phương tiện Nthuật tiếp
cận.
“Đọc Vang bóng 1 thời của NT chúng ta có cảm tưởng như ngắm những bức tranh cổ”
(Vũ Ngọc Phan – Nhà văn hiện đại)
Nghệ thuật: vẽ người, dựng cảnh, tạo dựng những bức tranh có vẻ đẹp héo úa, hắt hiu
về 1 thế giới lụi tàn đạt tới trình độ bậc thầy của ngời bút tài hoa, tinh tế.

Page | 120
 Hạn chế: “Chỗ tiêu cực của tác phẩm là đề lên như là mẫu mực sống lối ăn chơi cầu kì, đài
các của lớp quý tộc cũ tuy đã thất thế, đầu hàng nhưng vẫn cố khẳng định bằng nghệ thuật
hành lạc, hơn đời dù ko che dấu được cái hắt hiu, héo úa của những kiếp sống đang tàn lụi”
(Nguyễn Đăng Mạnh).

(*) Đề tài ẩm thực:

. các tên tuổi được coi là cự phách: Tản Đà, Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân

. Tản Đà: viết ẩm thực để bộc lộ chất tài tử trong nhà Nho cuối mùa, chất thanh đạm đã được mỹ
thuật hóa: trước khi ngon miệng phải ngon mắt. Mỗi mâm cơm của TĐ như 1 bức tranh tĩnh vật,
ăn ít chơi nhiều. Nhìn ngắm đã là ẩm thực.

. Vũ Bằng: chỉ viết về ẩm thực khi xa Bắc vào Nam, viết về món ăn HN bộc lộ nỗi khắc khoải
của 1 người xa xứ.

Tlam: mỗi món ẩm thực là 1 tài sản tinh thần của dân tộc, gói ghém chưng cất các hương vị
nghìn đời của dân tộc. Hồn dân tộc có trong những món ăn bình dị: bún chả, bún ốc, cốm,…

. NTuân: mỗi món ẩm thực là sản phẩm của sự tài hoa, là thành phẩm của dân tộc tài hoa, biểu
thị văn hiến Việt.

2. Thời kì sau CMT8 – 1945

- Sau CM: Nguyễn Tuân ko đối lập xưa và nay nữa mà thấy được sự nối tiếp quá khứ, hiện tại,
tương lai. Ông thấy cái thật bây giờ đẹp và cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc sống hiện tại.
- Chất tài hoa nghệ sĩ k chỉ có trong lớp người đặc tuyển mà còn có trong đại chúng nhân dân.
- Đề tài:
+ Chiến đấu
+ Xây dựng
 Kết luận:
- Quá trình sáng tác của NT vừa phong phú vừa nhất quán
- Bộc lộ tâm huyết của 1 người ngay lúc chán chường nhất cũng gắn bó với cuộc đời.
- Quá trình sáng tác để lại 1 di sản lớn: 1 tư tưởng độc đáo, phong cách độc đáo, một vốn tri
thức về con người, cuộc đời khá sâu sắc.

III: Phong cách nghệ thuật

“Tuân sở dĩ có một địa vị xứng đáng trên văn đàn như hiện nay chính là vì anh có một cá tính
riêng, một dấu riêng, một cách nhìn riêng, suy nghĩ riêng, diễn tả riêng,..” (Vũ Bằng)

1. Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.

- Người đầu tiên nói vậy là Nguyễn Đình Thi khi viết điếu văn cho Nguyễn Tuân

- Trước CM: tìm kiếm vẻ đẹp của 1 thời vang bóng, cái đẹp hoài cổ, hoài niệm đối lập với
thực tại. Ko tìm thấy vẻ đẹp trong hiện tại, nên đi tìm cái đẹp vang bóng, những bông hoa
cuối mùa.

Page | 121
 Nhân vật của NT có ông Phú, ông Nghè, ông Thượng, ông Ấm nhưng ko phải lớp quan
lại hám lợi ô trọc, mà là 1 hạng người biết sống thanh cao, biết hưởng thụ.
 “Lều chõng” cũng viết về chế độ khoa cử phong kiến, nhưng khác với Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân tập trung viết về những thói quen, cung cách sinh hoạt, kiểu ăn chơi cầu kì,
phong lưu đài các của những con người tài hoa.

- Cách viết của NT về đề tài hoài cổ có gì khác với các nhà văn cùng thời? (so sánh với Lều
chõng (Ngô Tất Tố) – viết về đề tài khoa cử thời xưa, Thanh đạm (Nguyễn Công Hoan),
Nhà nho, bút nghiên (Chu Thiên)?

VANG BÓNG MỘT THỜI

- Nguyễn Tuân đã tìm thấy cái đẹp trong lối sống cầu kì của một lớp người xưa.

+ Ca ngợi, lí tưởng hóa cuộc sống của các ông nghè, ông cử, hay miêu tả những thú vui uống trà,
thả thơ, đáng thơ.

+ “VBMT là một sản phẩm đáng quý, đánh dấu bước đường trở lại tìm những cái đẹp xưa mà
các nhà văn ta thường xao nhãng” (Thạch Lam).

Những chiếc ấm đất, Hương cuội, Chén trà trong sương sớm: thú uống trà của các cụ xưa ko
phải chỉ một cử chỉ ăn uống tầm thường, mà là một hành vi đặc biệt, có lễ nghi và nhịp điệu rõ
ràng, phảng phất tục uống trà của người Nhật.

Cụ Ấm sáng nào cũng uống nước trà và mỗi lúc uống xong lại bắt người trưởng nam “dở tập cổ
văn ra bình lại cả bài Trà ca của Lư Đồng”, “thích uống trà trong sương sớm và pha trà với thứ
nước đọng trên lá sen”.

- Cái đẹp của tài năng (Huấn Cao)

- Cái đẹp của lòng người:

Ngôi mả cũ: cái đẹp của lòng người, theo Thạch Lam là “truyện ngắn hay nhất toàn tập, đưa
chúng ta đến hương vị cũ kĩ và nhẫn nại của một sự hi sinh”.

(?) Cái đẹp đứng trên mọi thiện ác

NT “muốn đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở đời” (NĐM)

Ném bút chì: tài ném bút chì của Lý Văn: trong chốc lát phóng lưỡi mai đánh vụt tới đám gà
trước mặt, tức thi cả bọn chạy tới xách lên một con gà “giơ cao con gà gãy mất hai chân. Vết
thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối và cặp giò chưa lìa hẳn, vẫn còn đinh vào đùi bởi làn
da hoen máu”.

Chém treo ngành: “Chỉ cần một nhát, đầu vẫn diinhs vào cổ bằng làn da cổ đó”.

“Vô hình chung nhà văn đã đi tìm cái đẹp ngay cả trong những hành động tàn bạo, đao phủ”
(PCĐ).

Page | 122
2. Nguyễn Tuân nhìn thế giới, con người từ góc độ văn hóa nghệ thuật, theo tiêu chuẩn tài
hoa, nghệ sĩ

- Tài hoa vừa là đối tượng vừa là phương tiện thể hiện của Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân
viết về cái tài hoa một cách tài hoa, tạo nên một thứ văn tài hoa.

- Tài hoa là đối tượng: Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân phần lớn là những con người
tài hoa, nghệ sĩ.

- TCM: những lớp người đặc tuyển của thời xưa: ông tú, ông nghè, ông cử,..

- SCM: quần chúng nhân dân, những người bình thường nhất như ống lái đò, anh bộ đội,
chị dân quân, họ làm công việc lao động bình thường một cách tài hoa nghệ sĩ.

Tài hoa cũng là mật mặt của cái đẹp. Nguyễn Tuân trân trọng những con người tài hoa, say mê
chiêm ngưỡng nâng niu họ.

+Uống trà một cách tài hoa: Pha trà, uống trà một cách sành điệu (Chén trà trong sương sớm,
Cái ấm đất): uống trà là một nghệ thuật, một sinh hoạt mang tính văn hóa.

+Đánh thơ, thả thơ một cách tài hoa: mỗi chữ là một quá trình tư duy, hoặc ít nhất phải nhớ được
từ trong kho tàng thi ca diệu nghệ của phương đông.

+Tài thư pháo: chữ ông Huấn “đẹp lắm vuông lắm”, “có đc chữ ông Huân mà treo là một vật báu
trên đời”. Cái tài đi cùng nhân cách cao thượng thì càng đáng kính trọng.

Thế giới nhân vật tài hoa, nghệ sĩ

Cái tôi tài hoa lãng tử.

Thế giới nhân vật đc khách thể: những con người tài hoa nghệ sĩ

- Những người hành nghề nghệ thuật:

+Nhà thơ (đánh thơ, thả thơ)

+Ca sĩ (cô Tâm trong chiếc lư đồng mắt cua)

+Thư pháp: Huấn Cao

(Số lượng ko nhiều)

 Phần lớn là những người làm nghề khác nhưng sống một cách nghệ thuật: nâng hứng
thú của mình lên mức nghệ thuật.

 “Những chiếc ấm đất”: ăn mày nghệ sĩ (từ motip truyên “Bốn tửu đồ” (Pháp)

 Nâng thao tác nghề nghiệp lên thành nghệ thuật người lái đò sông Đà Nguyên Tuân
thường mĩ hóa các kĩ thuật

 Thế giới nhân vật: nghệ sĩ.


Page | 123
Những người ko làm nghề nghệ thuật nhưng sống một cách nghệ thuật.

Nhân vật điển hình: chị Hoài, Huấn Cao

*Huấn Cao: Vẻ đẹp tài năng/ Vẻ đẹp khí phách anh hùng dũng liệt/ Vẻ đẹp thiên lương

3. Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác

- Tài hoa: Tài hoa trong dựng cảnh, dựng người và xd những so sánh, liên tưởng biến hóa.
Văn tài hoa vừa trọng ý, vừa trọng hình, vừa trọng nhạc, vừa trọng lời.

- Uyên bác: hiết biết rộng, uyên thâm là hiểu biết sâu, hệ thống về một lĩnh vực nào đó. Sự
uyên bác đến từ tri thức hàn lâm và đến từ trường đời, sự uyên bác của Nguyễn Tuân chủ
yếu đến từ trường đời. Nguyễn Tuân vận dụng nhiều kiến thức thuộc lĩnh vực khác nhau
để viết, làm phong phú giàu có cách diễn đạt.

- Văn Nguyễn Tuân sau cm thường pha chất khảo cứu, chứa đựng nội dung thông tin
phong phú, đa dạng.

4. Nguyễn Tuân có sở trường về tùy bút

- Nguyễn Tuân có công lao khi thúc đẩy thể tùy bút lên đỉnh cao.

- Tùy bút Nguyễn Tuân giàu chất hiện thực và trữ tình, khác Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu
chất lí luận.

5. Nguyễn Tuân là bậc thầy của ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật.

- Văn Nguyên Hồng như một đoàn tàu chậm (dài, nhiều phụ đề, coi trọng hình ảnh)

- Văn Nguyễn Tuân như một tòa lâu đài, mỗi lơi của Nguyễn Tuân đều “trác việt” (Tạ Tỵ),
tựa như những nét khác của người thợ kim hoàn lên bề mặt đá quý của ngôn từ.

- Nguyễn Tuân có kho từ vựng phong phú, có khả năng tổ chức câu văn xuôi giàu giá trị
tạo hình, co duỗi nhẹ nhàng.

- Khi viết VBMT, nhịp điệu câu văn thong thả, nhạc điệu êm ả, tạo không khí cổ kính cho
truyện.

6. Giọng điệu

- Vừa trang nhã cổ kính vừa sắc sảo hiện đại

- Vừa ngậm ngùi luyến tiếc

- Giọng khinh bạc đệ nhất trong văn giới hiện đại (Vũ Ngọc Phan)

- Do cá tính con người ông.

Page | 124
Page | 125

You might also like