Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ


ĐỀ TÀI : “CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0.”

Họ và tên: Chu Vũ Huy


Mã sinh viên: 11222754
Lớp TC: LLNL1106(222)CLC_30

Bắc Ninh – 04/2023


Mục lục
Lời mở đầu........................................................................................................... 2
Nội dung...............................................................................................................3
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0...............................................3
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp 4.0.................................................3
2. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước..........................................................................................................4
II. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0..............................4
1. Khái quát cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.................4
2. Những biểu hiện của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong
bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0.................................................5
3. Nguyên nhân dẫn đến những bước đột phá về mọi mặt của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam ta...............9
III. LIÊN HỆ VỚI SINH VIÊN TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA TRONG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP CHO CÁC VẤN ĐỀ CÒN HẠN CHẾ.......................................10
1. Liên hệ với sinh viên trong bối cảnh này................................................10
2. Một số giải pháp cho những vấn đề còn hạn chế trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam ta.11
Kết luận.............................................................................................................. 13
Tài liệu tham khảo..............................................................................................14

1
Lời mở đầu

2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa

A. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ


a) Quan niệm về dân chủ:

Thuật ngữ “dân chủ” ra đời vào khoảng thế kỷ VII-VI trước Công nguyên.
Khi đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị, sau này được các nhà chính
trị gọi giản lược là quyền lực của nhân dân, hay quyền lực thuộc về nhân
dân. Cho đến ngày nay, nội dung trên của khái niệm dân chủ về cơ bản vẫn
được giữ nguyên. Điểm khác biệt cơ bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ
đại và hiện đại nằm ở tính trực tiếp của mỗi quan hệ sở hữu quyền lực công
cộng và cách hiểu về nội hàm của khái niệm nhân dân.

- Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lenin về dân chủ:


+ Về phương diện quyền lực: Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân
dân là chủ nhân của nhà nước. Điều này cho thấy sự kế thừa của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về nghĩa khởi thủy của khái niệm dân chủ.

+ Về phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị: Dân chủ là 1
hình thức nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ.

+ Về phương diện tổ chức và quản lý xã hội: Dân chủ là 1 nguyên tắc-


nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc dân chủ đi cùng với nguyên tắc tập trung
để hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ: Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lenin và
điều kiện cụ thể của Việt nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển dân chủ
theo hướng

+ Dân chủ là 1 giá trị nhân loại chung.Khi coi dân chủ là 1 giá trị xã hội
mang tính toàn nhân loại, Người đã khẳng định: Dân chủ là dân là chủ và
dân làm chủ.

+ Dân chủ là 1 thể chế chính trị, 1 chế độ xã hội. Người khẳng định: “Chế
độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người làm chủ, mà Chính phủ là
người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

3
=> Từ những cách tiếp cận trên, có thể hiểu: Dân chủ là 1 giá trị xã hội phản ánh
những quyền cơ bản của con người; là 1 hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm
quyền; có quá trình ra đời, phát triển cùng với lịch sử nhân loại.VD: Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt nam do dân, vì dân và được dân làm chủ.

b) Sự ra đời và phát triển của dân chủ:

- Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của dân
chủ mà Anghen gọi là “dân chủ nguyên thủy”, hay “dân chủ quân sự”. Đặc
trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự
thông qua Đại hội nhân dân. Trong Đại hội nhân dân, mọi người đều có quyền
phát biểu và tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc hoan hô, ở đó Đại hội
nhân dân và nhân dân có quyền lực thật sự( tức là có dân chủ) mặc dù trình độ
sản xuất còn kém phát triển.

- Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự ra đời của chế độ tư
hữu và sau đó là giai cấp đã làm cho hình thức dân chủ nguyên thủy tan rã, nên
dân chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với
đặc trưng là dân tham gia bầu ra nhà nước. Tuy nhiên, theo quy định của giai
cấp cầm quyền thì “dân” chỉ gồm giai cấp chủ nô và phần nào thuộc về các
công dân tự do(tăng lữ, thương gia và 1 số trí thức). Đa số còn lại không phải
“dân” mà là “nô lệ”. Họ không được tham gia vào công việc nhà nước. Như
vậy, dân chủ chủ nô về thực chất cũng chỉ thực hiện dân chủ cho thiểu số.

- Cùng với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, lịch sử xã hội loài người bước
vào thời kì đen tối với sự thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, chế
độ dân chủ chủ nô đã bị xóa bỏ, thay vào đó là chế độ độc tài chuyên chế
phong kiến. Ở thời kì này, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền
làm chủ của người dân không có bước tiến đáng kể nào.

- Cuối XIX-đầu XV, giai cáp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự do, công
bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Đây có thể
coi là 1 bước tiến rất dài so với nền dân chủ chủ nô, so với chế độ quân chủ
chuyên chế phong kiến. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế là
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ
của thiểu số những người nằm giữ tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân
lao động.

- Khi CMXH chủ nghĩa Tháng 10 Nga thắng lợi năm 1917, một thời đại mới mở
ra- thời địa quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, thiết lập Nhà nước công-
nông(nhà nước XHCN), thiết lập nền dân chủ vô sản(dân chủ XHCN) để thực
hiện quyền lực của đại đa số nhân dân. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ
XHCN là thực hiện quyền lực của nhân dân-tức là xây dựng nhà nước dân chủ

4
thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo về quyền lợi cho đại đa số nhân
dân.

B. Dân chủ xã hội chủ nghĩa


a) Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

- Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ
trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác-lenin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là 1 quá trình lâu dài, phức tạp và
giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu xuất
hiện 1 nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản.Đó chính là nền dân chủ
vô sản( hay nền dân chủ XHCN).

- Dân chủ XHCN đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và
Công xã Pari, tuy nhiên chỉ đến khi Cách mạng tháng 10 Nga thành công với
sự ra đời của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, nền dân chủ XHCN mới
chính thức được xác lập. Quá trình phát triển của nền dân chủ XHCN bắt đầu
từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, trong đó có sự kế thừa
những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc
những giá trị của nền dân chủ mới.

- Theo chủ nghĩa Mác-Lenin, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách
mạng XHCN nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông
qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. Họ còn cho rằng CNXH không thể duy trì và
thắng lợi nếu không thực hiện đầy đủ dân chủ.

- Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN là không ngừng mở rộng dân chủ,
nâng cao mức độ giải phóng cho người lao động, thu hút họ tham gia tự giác
vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

- Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng lưu ý rằng đây là quá trình lâu dài, khi
xã hội đã đạt đến trình độ phát triển rất cao, xã hội không còn sự phân chia giai
cấp, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa đạt tới mức hoàn thiện, khi đó dân chủ
XHCN với tư cách là 1 chế độ nhà nước cũng tiêu vong.

- Như vậy, có thể hiểu dân chủ XHCN là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền
dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và pháp luật nằm trong
sự thống nhất biện chứng, được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền XHCN,
đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS.

b) Bản chất của nền dân chủ XHCN


 Bản chất chính trị:
5
- Bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp
công nhân thực hiện quyền lực của nhân dân; nhất nguyên chính trị do ĐCS
lãnh đạo; nhân dân lao động có quyền giới thiệu đại biểu tham gia vào bộ máy
chính quyền; đóng góp ý kiến, tham gia công việc quản lý nhà nước,…Như
vậy, có thể thấy dân chủ vô sản vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có
tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc, mà theo quan điểm của Lênin thì
“Dân chủ vô sản gấp triệu lần dân chủ tư sản”.

- Sự khác nhau giữa nền dân chủ XHCN và nền dân chủ tư sản:

+ Bản chất giai cấp: giai cấp công nhân- giai cấp tư sản

+ Cơ chế : Nhất nguyên- đa nguyên (1 Đảng- đa Đảng)

+ Bản chất nhà nước ( nhà nước pháp quyền XHCN- nhà nước pháp quyền tư
sản)

 Bản chất kinh tế:

- Dựa trên sở hữu xã hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội; thực
hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu; kinh tế XHCN
dựa trên sự phát triển lực lượng sản xuất; nâng cao đời sống của toàn xã hội;
coi trọng lợi ích kinh tế của người lao động.

- Sự khác nhau về bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN so với nền dân chủ
tư sản:

+ Chế độ sở hữu xã hội( chế độ công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu- chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu

+ Coi trọng lợi ích kinh tế của người lao động- duy trì sự áp bức, bóc lột, bất
bình đẳng xã hội.

 Bản chất tư tưởng-văn hóa-xã hội:

- Lấy hệ tư tưởng giai cấp công nhân làm chủ đạo trong đời sống tinh thần; kế
thừa; tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại; nhân dân được làm chủ
những giá trị văn hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện
để phát triển cá nhân; kết hợp hài hòa lợi ích giữa cá nhân, tập thể và lợi ích
toàn xã hội. Dưới góc độ này, Dân chủ XHCN là 1 thành tự văn hóa, thể hiện
khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người.

6
- Sự khác nhau về bản chất tư tưởng-văn hóa-xã hội nền dân chủ XHCN so với
nền dân chủ tư sản

+ Hệ tư tưởng: giai cấp công nhân- giai cấp tư sản..

+ Kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích toàn xã hội- đề cao, thổi
phồng lợi ích cá nhân.
=>Với những bản chất nêu trên, dân chủ XHCN trước hết và chủ yếu được thực hiện
bằng nhà nước pháp quyền XHCN, là kết quả hoạt động tự giác của quần chúng nhân
dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ XHCN chỉ có được với điều
kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của ĐCS. Bởi nhờ nắm vững hệ
tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và đưa nó vào quần
chúng, Đảng mang lại cho phong trào quần chúng tính tự giác cao trong quá trình xây
dựng nền dân chủ XHCN; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình, Đảng
nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có
khả năng thực hiện hữu hiệu những yêu cầu dân chủ phản ánh đúng quy luật phát
triển xã hội. Chỉ dưới sự lãnh đạo của ĐCS, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả
chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ đi ngược lại lợi ích của
nhân dân.

2. Xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
a) Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Sự phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

 Sự phát triển về nhận thức:

+ “Dân chủ” lần đầu xuất hiện vào thời Hy Lạp cổ đại với nghĩa “quyền lực
thuộc về nhân dân”.

+ Trải qua 2 cuộc chiến chống giặc ngoại xâm và bảo vệ Tổ quốc cùng con
đường xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội Đảng Cộng Sản lần thứ IV (14-
20/12/1976) đã đưa ra quan niệm: “Xây dựng độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa là xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân lao động có
tổ chức, mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nội dung làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều mặt: Làm chủ về
7
chính trị, kinh tế, xã hội; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản
thân, làm chủ trong phạm vi cả nước, trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở. Quyền
làm chủ tập thể bao gồm tự do chân chính của cá nhân”. Đồng thời, khẳng định
“phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”, coi việc “xây dựng chế độ
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa” là một trong những “nhiệm vụ trung tâm của
cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.

+ Tại Đại hội VI (15-18/12/1986), Đảng ta đã khẳng định, “trong toàn bộ hoạt
động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”, coi “làm chủ tập thể xã hội
chủ nghĩa là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa cần phải được thể
hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống”.

+ Tại Đại hội VII (24-27/6/1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), Đảng ta đã
đưa ra một quan niệm mới về dân chủ: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế
cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua
hoạt động của nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực
tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp
luật và pháp luật bảo đảm”.

+ Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước”.

 Kết quả đạt được:

- Như vậy, cùng với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã có những phát triển mới trong nhận thức về dân chủ và dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ được xem xét trên nhiều khía cạnh: Dân chủ là
chế độ chính trị; dân chủ là một giá trị; dân chủ là phương thức và nguyên tắc
tổ chức xã hội; dân chủ chung đối với xã hội và dân chủ với mỗi cá nhân; dân
chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

+ Về kinh tế: chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp sang xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và các hình thức phân phối đa dạng, chuyển từ mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang xây dựng mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu,

8
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và các hình thức phân
phối đa dạng.

+ Về chính trị: chế độ một đảng lãnh đạo với nhiều đoàn thể nhân dân và tổ
chức xã hội là phù hợp với điều kiện lịch sử và tình hình đất nước, bảo đảm sự
ổn định chính trị làm cơ sở cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước,
thực tiễn cho thấy, trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, dân chủ nói chung và
dân chủ trong lĩnh vực chính trị nói riêng ở nước ta đã được thực hiện ngày
càng tốt hơn và có những bước tiến nổi bật. Các tổ chức trong hệ thống chính
trị đã và đang tiếp tục được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động; nhờ
vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy.

+ Về văn hóa – xã hội: Nhà nước đã bảo đảm cho nhân dân các quyền cơ bản,
như quyền được thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín
ngưỡng, quyền đóng góp ý kiến xây dựng Đảng và chính quyền, quyền tham
gia thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng trong xây dựng đời sống
văn hóa; quyền thảo luận và giám sát các dự án về an sinh xã hội, về xóa đói
giảm nghèo..., ban hành một hệ thống các bộ luật liên quan, như Luật Báo chí,
Luật Xuất bản, Luật Sở hữu trí tuệ..., các nhà khoa học được tranh luận, thảo
luận và phát huy năng lực sáng tạo của mình, đóng góp tích cực vào việc xây
dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

II. THỰC TRẠNG

A. Thực trạng phát huy dân chủ ở Việt Nam

- Thực hiện dân chủ nhân dân là yêu cầu nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Từ ngày thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh
quyền làm chủ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, dân chủ có
nghĩa “dân là chủ” và “người dân làm chủ”, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, quần chúng là động lực của cách mạng. Chính quần chúng nhân dân là
lực lượng cách mạng đông đảo nhất trực tiếp thực hiện đường lối cách mạng,
biến đường lối cách mạng của Đảng thành hiện thực. Người nói, trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”. Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền về
tay nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ”. /Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân./ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân./ Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân./ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc
của dân./ Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra./ Đoàn
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên./ Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, trải qua cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc và sau đó là cách mạng dân chủ nhân dân, cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ
9
nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh chủ trương phát huy dân chủ để
tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước “trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Phát huy tinh thần của Đại hội VI, các
kỳ đại hội tiếp theo cũng nhấn mạnh “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân” và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
là “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân”. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn nhấn
mạnh nhân dân làm chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, không ngừng thúc đẩy đổi mới
chính trị, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành
tựu to lớn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa
bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.

- Nội dung cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức. Ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý và vận
hành nền kinh tế thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế
luôn gắn với bảo đảm công bằng, thực hiện tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa,
phát triển con người, nhằm mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế ngày càng mở rộng.
Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp... Công bằng trong phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Quá trình mở rộng
dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ chính trị, thực hành ngày càng
rộng rãi và thực chất quyền lực chính trị của nhân dân, thông qua cả phương
thức ủy quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp.

- Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân, không có sự
đoàn kết, sáng tạo của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội sẽ thất bại. Dân chủ chính là biểu hiện quan điểm giá trị cốt lõi của chủ
nghĩa xã hội, là nhân tố tạo ra sự ổn định, phát triển và thịnh vượng.

10
B. Ưu điểm, lợi thế trong việc phát huy dân chủ ở Việt Nam

- Việc phát huy dân chủ trong các tổ chức nhà nước có nhiều chuyển biến, tiến
bộ. Quốc hội có những đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc hội đến
hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức
năng lập pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước. Quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ, hiệu quả. Để nâng cao chất
lượng các văn bản pháp luật, Quốc hội đã có nhiều hình thức để lấy ý kiến góp
ý, như tổ chức hội thảo, tọa đàm, phát phiếu…

- Trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội đều tổ chức tiếp xúc cử tri để nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri cả nước. Sau tiếp xúc đều tổng hợp, phân
tích những kiến nghị xác đáng để yêu cầu Chính phủ chỉ đạo giải quyết theo
thẩm quyền. Nhiều khóa gần đây, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các
kỳ họp của Quốc hội, hội đồng nhân dân thật sự sôi nổi, dân chủ, phát huy
được trách nhiệm của đại biểu, được nhân dân cả nước ghi nhận. Định kỳ,
Quốc hội, hội đồng nhân dân tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu bằng hình thức bỏ phiếu kín. Phát
huy dân chủ của Chính phủ tiếp tục có những đổi mới trong hoạch định chính
sách, quản lý vĩ mô, chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện. Ý thức, trách nhiệm
thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành các văn
bản pháp luật được đề cao. Đặc biệt, chính quyền các cấp đã có nhiều tiến bộ
trong tổ chức tiếp dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại,
tố cáo của công dân. Đối với công tác tổ chức cán bộ diện quản lý theo phân
cấp của Đảng đều được tập thể ban cán sự đảng thảo luận dân chủ, bỏ phiếu
kín và quyết định theo đa số. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều
tạo điều kiện và phát huy chức năng tuyên truyền, định hướng dư luận của các
phương tiện truyền thông, như báo viết

- Phát huy dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội cũng có nhiều tiến bộ rõ,
thể chế thực thi các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và cụ
thể hóa. Nhiều văn bản tạo cơ sở pháp lý phát huy quyền làm chủ của các tầng
lớp nhân dân được Quốc hội thông qua, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Trưng cầu ý dân... Những bảo đảm
dân chủ về quyền và nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm của các chủ thể trong xã
hội được luật hóa cụ thể hơn và từng bước thực hiện có kết quả; nhiều chủ
trương, biện pháp đã phát huy vai trò tích cực, chủ động của nhân dân, đẩy
mạnh quá trình dân chủ hóa xã hội. , báo nói, báo hình, báo mạng…

- Phản biện xã hội mang lại kết quả tích cực, phát huy và mở rộng dân chủ, là
phương thức quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Tạo dựng thói quen thảo
luận và bảo đảm quyền tự do ngôn luận để khích lệ cá nhân, các tổ chức tham
gia thảo luận về các vấn đề quan trọng của quốc gia. Xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bao hàm hoạt
11
động giám sát và phản biện xã hội, nhất là phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện hơn các quy
định về quyền giám sát của nhân dân, cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân
trực tiếp giám sát hoạt động của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và
các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước.

C. Nhược điểm

- Tuy nhiên, ở một số nơi, nhận thức và thực hành về dân chủ còn hạn chế, thực
hiện dân chủ cơ sở còn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân chưa hoàn toàn
được tôn trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm để nhân dân thực
hiện vai trò chủ thể của quyền lực. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách” trên thực tế ở một số nơi rơi vào hình thức. Còn tình trạng lạm quyền,
lộng quyền, quan liêu, cửa quyền gây phiền hà cho nhân dân của một số cơ
quan công quyền, cán bộ. Chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành
pháp luật, quy định... Hệ thống pháp luật của Việt Nam có mặt còn chưa đồng
bộ, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân,
ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội...

- Việc phát huy dân chủ ngoài xã hội còn nhiều hạn chế, một bộ phận nhân dân
còn bức xúc, khiếu kiện phức tạp. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của
công dân gửi đến các cơ quan chức năng, như Ban Dân nguyện của Quốc hội,
Thanh tra Chính phủ còn rất cao, nhưng tỷ lệ đơn, thư được giải quyết chưa
được như mong muốn. Theo số liệu của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tỷ lệ
chính quyền không đối thoại với công dân và không dự các phiên tòa đều tăng
qua từng năm. Từ năm 2015 đến 2017, kể từ khi Luật Tố tụng hành chính có
hiệu lực, cả nước có 11.180 quyết định hành chính và hành vi hành chính bị
tòa án hủy toàn bộ hoặc một phần. Các nghị định và pháp lệnh về thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại một số nơi chưa được tổ chức thực hiện tốt.
Những hạn chế, bất cập trên đây có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Về khách quan: Đổi mới là sự
nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài và khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Về chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về
thực hiện dân chủ trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và ngoài xã hội
chưa được quan tâm đúng mức, chậm được lý giải và thể chế hóa đầy đủ về
mặt nhà nước.

- Những hạn chế đó cần sớm được khắc phục để nguyên tắc quyền lực thuộc về
nhân dân và thực hành quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn ngày càng
rộng rãi và thực chất.

 Nguyên nhân của mặt hạn chế về dân chủ ở nước ta

- Thứ nhất, vấn đề dân chủ ở nước ta còn chưa được giải quyết tốt cả về lý luận
lẫn thực tiễn, nhiều vấn đề đặt ra chưa được giải quyết rõ ràng. Điều đó gây
12
khó khăn cho việc thực hành dân chủ. Cụ thể như việc chúng ta chưa làm sáng
tỏ cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mặc dù Đảng
đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ nhưng chưa
phân rõ chức năng lãnh đạo với chức năng quản lý nên vẫn có sự chồng chéo
lên nhau; nhân dân làm chủ như thế nào vẫn chưa rõ và chưa có cơ chế rõ
ràng. Bên cạnh đó, mặc dù chúng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động
lực, nhưng chưa có lộ trình để đạt mục tiêu đó và vẫn coi nhẹ thực hành dân
chủ với tư cách là một động lực của sự phát triển xã hội nên chưa phát huy
được động lực này. Chúng ta cũng chưa có nhận thức đầy đủ về mối quan hệ
giữa dân chủ và kỷ cương nên cả hai đều thực hiện chưa tốt, dân chủ chưa
được phát huy, kỷ cương không được xiết chặt, cả dân chủ lẫn kỷ cương đều
vừa thiếu lại vừa yếu.

- Thứ hai, việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước của chúng ta
chưa tốt nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội, Đảng chưa nêu
được tấm gương về thực hành dân chủ.

- Thứ ba, Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành cho nên việc
thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời. Mặt khác, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực hiện triệt để vai trò
giám sát và phản biện xã hội. Chúng ta còn né tránh và chưa cho phép xây
dựng các thiết chế xã hội để giảm sát và phản biện các vấn đề xã hội. Điều này
ảnh hưởng to lớn tới việc thực hành dân chủ trong xã hội. Ngoài ra, còn có
nhiều nguyên nhân khác nữa, nhưng những nguyên nhân nói trên là những
nguyên nhân chủ yếu của mặt hạn chế dân chủ ở nước ta.

D. Liên hệ với sinh viên và thực thi dân chủ

Có thể nói dân chủ là một phạm trù lịch sử, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất, mục tiêu và động lực của chế độ ta, đất nước Việt Nam ta. Để bảo tồn và
phát huy được vấn đề phạm trù lịch sử này, mỗi sinh viên trước hết cần phải
nhận thức đúng đắn về dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ là dân làm chủ, lấy
dân làm gốc, người có địa vị cao nhất là nhân dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung
ương do dân cử ra. Việc hiểu về dân chủ sẽ giúp bản thân mỗi sinh viên có
được một nền tảng kiến thức tốt không chỉ cho tư tưởng đạo đức chính trị của
bản thân ở hiện tại, mà còn góp phần tạo nên thắng lợi cho công cuộc xây dựng
kiến thiết đất nước tiến lên Xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, việc có một nhận thức
đúng đắn về dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ giúp sinh viên chủ động trong việc tự
bảo vệ mình khỏi những tư tưởng, ý kiến sai trái về dân chủ vẫn đang âm thầm
gây nên sự hiểu lầm giữa quần chúng nhân dân và chính quyền Cách mạng.
Tuy nhiên, chỉ biết và hiểu thôi là chưa đủ, bản thân mỗi sinh viên cần trang bị
cho mình một tư duy phản biện sắc bén về phạm trù dân chủ này. Ngày nay có
không ít kẻ viện cớ “dân chủ”, “diễn biến hòa bình” hòng phá vỡ khối đại đoàn
13
kết dân tộc gây chia rẽ nội bộ của ta, đơn cử như các quan điểm chính sách của
Đảng thường bị các đối tượng xấu xuyên tạc hòng bôi nhọ cán bộ, giảm uy tín
Đảng, thậm chí có không ít video, hình ảnh bị các đối tượng xấu này cắt ghép
chỉnh sửa rồi cho rằng “Việt Nam ta không dân chủ”, điều này là hết sức sai
trái, đi ngược lại với quan điểm của Đảng và Nhà Nước ta. Vì vậy, hiểu và biết
là chưa đủ, ta cần phải vận dụng bằng cách phản biện lại trước mọi định nghĩa
sai trái lệch lạc về dân chủ. Việc này không quá khó, bởi chỉ cần thường xuyên
chia sẻ các thông tin và kiến thức về dân chủ xã hội của nghĩa theo đúng định
hướng và quan điểm của Đảng và Nhà nước cũng là một cách làm thiết thực.
Đồng thời, chúng ta cần phản bác lại các luận điệu sai trái về dân chủ khi bắt
gặp hoặc thông báo cho cơ quan chức năng xử lý.

E. Liên hệ với các nước khác – Nước Mỹ - dân chủ tử bản

1. Hình thức chính thể

- Cộng hòa Tổng thống.

- Thừa nhận hai Đảng phái chính trị hoạt động chủ yếu là Đảng dân chủ và
Đảng Cộng hòa.

2. Tổ chức bộ máy nhà nước

- Khác với Việt Nam là nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực
nhà nước, ở Mỹ thực hiện theo nguyên tắc tam quyền phân lập.

- Việt Nam gồm ba cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Ở địa phương có
Hội đồng nhân dân. Chính phủ là cơ quan chấp hành và là cơ quan hành chính
cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, ở địa phương có các ủy ban nhân dân.
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện xét xử và kiểm sát hoạt
động tư pháp.

- Còn ở Mỹ, Quốc hội ở Mỹ gồm Hạ viện và Thượng viện. Hành pháp gồm
tổng thống, là nguyên thủ quốc gia. Đứng đầu lập pháp là Tối cao pháp viện
Hoa Kỳ.

3. Về quyền con người, quyền công dân

- Lấy nhân dân làm trung tâm, đáp ứng nhu cầu cũng như lợi ích của cá nhân và
tập thể dựa trên cơ sở pháp luật và xã hội.

- Có tất cả 27 tu chính án trong đó 10 tu chính án đầu tiên được gọi là Tuyên


ngôn nhân quyền của Hoa Kỳ

14
- Bảo vệ con người ở các phương diện quan trọng như tôn giáo, sử dụng vũ khí,
dân sự và hình sự,..

15
16

You might also like