Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 7 - Pháp luật đại cương
Nhóm 7 - Pháp luật đại cương
+ Động cơ vi phạm: là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Có các động cơ như động cơ đê hèn, động cơ vụ lợi, động cơ báo thù…
+ Mục đích vi phạm: là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ chủ thể mong muốn đạt
được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là yếu tố thê hiện rõ tính chất nguy hiểm
của hành vi. Tuy nhiên, không phải lúc nào kết quả đạt được trong thực tế cũng trùng
với mục đích chủ thể vi phạm muốn đạt được.
VD: Công ty X xả nướ c thả i chưa qua xử lí ra sông nhằ m mụ c đích tiết kiệm chi phíxử lí nướ c thả i.
Vi phạm pháp luật là hành vi làm trái luật, có lỗi và do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Dựa theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, vi phạm
pháp luật được chia thành các loại sau đây:
- Vi phạm hình sự là hành vi trái pháp luật được quy định trong pháp luật hình
sự, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại những quan
hệ xã hội quan trọng nhất, theo quy định của pháp luật phải bị xử lí hình sự.
Ví dụ, anh A phạm tội giết người bị tòa án nhân dân huyện B xử tử hình. Vậy,
A vi phạm pháp luật hình sự.
- Vi phạm hành chính là hành vi trải pháp luật, có lỗi, do cá nhân, tổ chức có
năng lực pháp lí thực hiện, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không bị coi là
tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lí hành chính.
Ví dụ: A vượt đèn đỏ, vi phạm luật giao thông đường bộ. A bị cảnh sát giao
thông xử phạt 300.000 đồng theo quy định của nghị định 100/2019/NĐ-CP. Như vậy,
A vi phạm pháp luật hành chính.
- Vi phạm kỉ luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được xác lập trong nội bộ cơ
quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lí nhà nước.
Ví dụ: A là lãnh đạo một cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Trong
quá trình tiếp dân A có lời lẽ, cử chỉ xúc phạm B. A bị kỷ luật với hình thức cảnh cáo.
Như vậy hành vi của A là dạng vi phạm kỉ luật nhà nước.
- Vi phạm dân sự là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lí thực hiện, xâm phạm quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân gắn với tài sản,
quan hệ nhân thân phi tài sản.
Ví dụ: A ký hợp đồng bán cho B toàn bộ sản lượng vải thiều của mùa vụ chính.
Đến mua vụ chính, A không bán cho B (vì giá vải thiều tăng cao). A vi phạm dân sự và
phải bồi thường theo thỏa thuận trong hợp đồng đã ký hoặc theo pháp luật.
KẾT LUẬN
Như vậy, hành vi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp lu ật,
nhưng hành vi trái pháp luật chưa chắc đã là hành vi vi phạm pháp luật.
Hành vi trái pháp luật chỉ là một trong những điều kiện cần để cấu thành hành vi vi
phạm pháp luật. Ngoài yếu tố đó, một hành vi được xác định là vi phạm pháp luật khi
hành vi đó do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện vàcó khả năng chịu trách
nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Đó có thể là trách nhiệm dân sự, trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính tùy thuộc vào mối quan hệ xã hội mà chủ thể
thực hiện hành vi trái pháp luật xâm phạm.
Từ việc phân tích những vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và các yếu tố cấu thành
vi phạm pháp luật thông qua ví dụ cụ thể trên, có thể thấy rằng không phải bất kì hành
vi trái pháp luật nào cũng bị xem là hành vi vi phạm pháp luật. Một hành vi được xem
là vi phạm pháp luật khi và chỉ khi hành vi đó đảm bảo đầy đủ các yếu tố cấu thành
của vi phạm pháp luật và các yếu tố khác theo quy định của pháp luật. Trong quá trình
điều tra các vụ án, các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền áp dụng luật cần
phân tích chính xác tránh trường hợp bỏ sót tội phạm hoặc xử phạt sai, áp dụng chế tài
sai đối với người vô tội.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Đại cương về Nhà nước và Pháp luật, NXB Đại học Kinh tế Quốc
dân, 2020.
ThS. Tào Thị Quyên, “Bàn về lập hiến, Cổng Thông tin điện tử Quốc hội Nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.