Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Tuần 11

4. Qua nghiên cứu về nguyên nhân Đảng phát động cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (19/12/1946) và nguyên nhân Đảng quyết định sử
dụng bạo lực cách mạng trong giải quyết xung đột với Mỹ (1959), làm rõ
giá trị những quyết định trên của Đảng đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc hiện nay.

Nguyên nhân cho cuộc kháng chiến toàn quốc (1946)

Tháng Tám năm 1945, chớp thời cơ “nghìn năm có một”, dưới sự lãnh đạo của Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt
Nam tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc, xóa bỏ
ách cai trị của đế quốc phát xít, đồng thời lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn
năm, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945) - Nhà nước công nông đầu tiên
Đông Nam Á. Nhưng ngay sau đó, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hòng khôi
phục chế độ cai trị như trước (Ngày 6/3/1946, Pháp nổ súng tái chiếm Hải Phòng, ngày
20/11/1946, Pháp đánh chiếm Lạng Sơn, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam lần hai). Trước tình hình đó, hiệp định sơ bộ và Tạm ước Việt – Pháp đã được kí kết
như một chính sách nhân nhượng nhằm bảo toàn và củng cố lực lượng của nhân dân Việt
Nam trước sự lật lọng và đe dọa của thực dân Pháp. Trải qua một thời gian chúng ta nhân
nhượng để ra sức chuẩn bị tiềm lực mọi mặt, Đảng Cộng sản Việt Nam đã triệu tập Hội
nghị Trung ương lần thứ II (từ 17 đến 21/12/1946) tại Vạn Phúc (Hà Đông) và quyết định
phát động cuộc Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược.

Nguyên nhân Đảng quyết định sử dụng bạo lực cách mạng trong giải quyết xung đột
với Mỹ (1959)

Có năm nguyên chính cho việc Đảng quyết định sử dụng bạo lực cách mạng đối với Mỹ:
 Chính sách cai trị thuộc địa tàn bạo của Mỹ ở miền Nam Việt Nam:

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Mỹ thay thế Pháp trở thành kẻ thù chính của nhân
dân Việt Nam. Mỹ ủng hộ chế độ bù nhìn Ngô Đình Diệm, thực hiện hàng loạt
chính sách phản động, đàn áp nhân dân dã man, âm mưu biến miền Nam Việt
Nam thành thuộc địa của Mỹ. Chính sách cai trị thuộc địa bạo bạo của Mỹ đã gây
ra sự phản kháng mạnh mẽ trong nhân dân.

 Thất bại của các hình thức đấu tranh hòa bình:

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhân dân miền Nam đã sử dụng nhiều hình thức đấu
tranh hòa bình để chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm như: biểu tình, tuần
hành, bãi khóa, bãi công,... Tuy nhiên, chính quyền Ngô Đình Diệm đã đàn áp dã
man các hình thức đấu tranh này. Do đó, sử dụng bạo lực cách mạng là con đường
duy nhất để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 Sự phát triển của phong trào vũ trang miền Nam:

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, phong trào vũ trang ở miền Nam phát triển mạnh mẽ.
Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã được củng cố về mọi mặt, có khả
năng đánh bại quân đội Mỹ vàNgô Đình Diệm.

 Tình hình quốc tế thuận lợi:

Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đang dâng
cao. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã được củng cố và phát triển. Điều này
tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước của nhân dân Việt Nam.

 Nhận thức của Đảng về sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ rằng, để giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, chỉ có thể sử dụng bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng là biện
pháp cuối cùng, nhưng là biện pháp cần thiết trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Giá trị của các quyết định phát động Kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1946) và sử
dụng bạo lực cách mạng chống Mỹ (1959) đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền biển,
đảo hiện nay

Hai quyết định lịch sử này thể hiện ý chí quyết tâm, tinh thần bất khuất của Đảng và nhân
dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Đây là nguồn cổ
vũ to lớn cho thếhệ hôm nay tiếp tục giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Hai quyết định đều cho thấy bản lĩnh, trí tuệ lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc đánh giá tình hình, lựa chọn phương pháp đấu tranh phù hợp. Đây là bài
học quý báu để Đảng lãnh đạo đất nước trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện
nay. Bạo lực không phải là phương án đầu tiên và nhân nhượng cũng không phải phương
án tốt nhất, đặc biệt là khi Việt Nam phải đối mặt với kẻ thù lớn mạnh trong bối cảnh
tranh chấp về biển đảo. Cách đối ngoại mềm dẻo nhưng khéo léo của Đảng trong quá khứ
chính là tấm gương, là sách lược để người dân và lãnh đạo Việt Nam noi theo.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp và chống Mỹ cứu nước năm xưa là những trang
sử hào hùng của dân tộc, khẳng định vị thế quốc tế của Việt Nam. Niềm tự hào dân tộc là
động lực mạnh mẽ để thế hệ hôm nay đoàn kết, chung sức bảo vệ biển, đảo quê hương.
Biển, đảo là tiềm năng to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo là góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá, tạo điều kiện cho phát triển
bền vững.

You might also like