Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Hoàn cảnh sáng tác:

“Người lái đò sông Đà” là một áng văn trong tập tùy bút “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Tác phẩm là
thành quả đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng đến miền Tây Bắc rộng lớn
của Tổ quốc. + “Sông Đà” gồm 15 thiên tùy bút và 1 loạt bài thơ tham khảo. + Cảm hứng chủ đạo của tập
tùy bút là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và “chất vàng 10” – thứ “vàng 10” đã qua thử lửa
ở tâm hồn những con người lao động, chiến đầu trên miền núi sông hùng vĩ, thơ mộng. + “Sông Đà” nói
chung và “Người lái đò sông Đà” nói riêng còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong
phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất có khả năng làm lay động người đọc nhiều
nhất.

Hình tượng sông Đà:

Sê-khốp đã từng khẳng định: “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả.
Nếu anh ta không có giọng điệu riêng, anh ta sẽ khó có thể trở thành 1 nhà văn thực thụ”. Lối đi riêng,
giọng điệu riêng chính là nét riêng biệt, độc đáo, mới mẻ trong sáng tác của mỗi nhà văn. Nguyễn Tuân
đã tìm thấy cho mình 1 lối đi riêng, 1 giọng điệu riêng qua thể loại tùy bút. Nhà văn đã đóng dấu cái tôi
độc tấu của mình lên 1 thể loại độc đáo. Hình tượng sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” chính là minh
chứng cho lối đi riêng, giọng điệu riêng của Nguyễn Tuân. - Ngòi bút của Nguyễn Tuân luôn khám phá
thế giới ở phương diện văn hóa – thẩm mĩ và vì thế dòng sông Đà đã hiện lên như 1 công trình mĩ thuật
kì vĩ, tuyệt vời của tạo hóa với 2 ấn tượng sâu đậm: dữ dằn, hung bạo và thơ mộng, trữ tình.

Sông Đà dòng sông hung bạo, hiểm ác:

Là nhà văn của những cảm giác mãnh liệt luôn có hứng thú đặc biệt với núi cao, rừng thiêng, với gió bão
với thách ghềnh dữ dội, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã tung hoành sảng khoái giữa dòng thác ngôn từ.
Nhà văn tài hoa đã khiến ngôn từ dựng lên ghềnh thác, đã khiến nhịp điệu tạo thành sóng gió, dùng
những biện pháp so sánh, nhân hóa dẫn dắt người đọc đến trùng điệp những hình dung, liên tưởng
khiến cho sự hung bạo của sông Đà hiện lên đặc biệt tình cảm, sống động

* Cảnh bờ sông dựng vách thành:

Sự hùng vĩ và hung dữ của sông Đà trước hết thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành; chỉ với 2 chữ
“vách thành” Nguyễn Tuân đã thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa
sông Đà, với vách đá như thành cao, vực thẳm như hào sâu. - Chỉ với 1 hình ảnh “mặt sông lúc ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới có mặt trời”. Nhà văn vừa giúp người đọc hình dung được độ cao cảnh đá 2 bên bờ sông
vừa diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của những khúc sông có đá dựng thành vách. Đá 2 bên bờ sông đã
chắn hết ánh nắng khiến cho không có 1 tia nắng nào rọi chiếu xuống mặt sông trừ lúc đúng ngọ, thật
lạnh lẽo, âm u và ghê sợ. - Chưa hết sự hiểm trở sông Đà còn thể hiện ở hình ảnh “có vách đá thành chẹt
dòng sông như 1 cái yết hầu”. So sánh 1 bộ phận nhỏ hẹp trên ở cổ họng con người. Nguyễn Tuân diễn
tả 1 cách hình ảnh sự nhỏ hẹp của dòng 37 chảy để rồi ẩn sau đó là 1 sự nguy hiểm bởi lưu tốc của dòng
chảy ở những quãng đá chẹt lòng sông Đà là rất lớn. Và để tô đậm thêm cho độ hẹp của quãng sông,
Nguyễn Tuân đã sử dụng liên tiếp 2 hình ảnh miêu tả: “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên
kia vách, có quãng, con nai con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. - Như chưa thỏa mãn với sự miêu
tả trên, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc sâu về độ cao của những vách đá, sự lạnh lẽo u tối của đoạn sông, sự
nhỏ hẹp của dòng chảy bằng liên tưởng độc đáo: “Người trong khoảnh độ qua quãng đó đang mùa hè
mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè 1 cái ngõ mà đứng ngóng vọng lên 1 khung cửa số nào
trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nguyễn Tuân đã lấy hè phố để tạo mặt sông, đã
lấy nhà cao để gợi vách đá, đã lấy đèn điện để gợi cái âm u. Nhà văn đã so sánh cái cảm giác của con
người giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với 1 khoảnh khắc của đời sống hiện đại, giữa chốn đô thành
thật xa mà lại gần, thật lạ mà lại quen. Phải là người có óc tưởng tượng sáng tạo, có trường liên tưởng
phong phú, Nguyễn Tuân mới có thể tạo ra những đoạn văn độc đáo, thú vị đến vậy.

* Cảnh sóng nước ở mặt ghềnh Hát Loong:

Sự hung dữ của Đà giang tiếp tục được tô đậm ở sóng nước mặt ghềnh Hát Loong. Chỉ với 2 câu văn
nhưng với sự kết hợp những thủ pháp nghệ thuật Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên tính cách hung bạo
của sông Đà. Nhà văn đã biến sông Đà thành 1 sinh thể dữ dằn, 1 kẻ chuyên đi đòi nợ. Điệp từ “xô” kết
hợp với thủ pháp điệp vòng, các thanh trắc liên tiếp “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” đã tạo nên
âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy vừa hợp sức của sóng, của gió, của
đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn. Có người từng cho rằng: “văn xuôi cũng có
nhịp điệu riêng của nó” và câu văn của Nguyễn Tuân chính là minh chứng cho lời nhận xét đó. Câu văn
đang đi những nhịp ngắn, nhanh, mạnh, dồn dập bỗng duỗi dài ra theo lối tăng tiến: “Cuồn cuộn luồng
gió vùn kè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây”
khiến cho những cảnh động của sông, gió và đá ngày càng lớn tạo nên 1 mối đe dọa thực sự đối với bất
cứ người lái đò nào đi qua đó những ghềnh sông đó. Từ láy “gùn ghè” đã góp phần thể hiện sinh động
sự hung bạo, lì lợm và cường bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người. Chính vì thế mà
cuối đoạn văn, Nguyễn Tuân đã hạ 1 câu: “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền ra”.

* Hút nước ở quãng Tà Mường Lát:

Đem lại ấn tượng mạnh mẽ hơn cho sự hung bạo của sông Đà là hình ảnh những hút nước ở quãng Tà
Mường Lát phía cuối Sơn La. - Có thể nói bất cứ ai cũng có thể hình dung ít nhiều về chỗ nước xoáy xiết
trên sông nhưng chắc hẳn nó chưa thể độc hiểm bằng những cái hút nước mà Nguyễn Tuân đã khắc họa
trong trang văn của mình. Bằng những biện pháp so sánh, nhân hóa, bằng lối kể và trí tưởng tượng bất
ngờ, nhà văn đã khiến cho những cái hút nước hiện hình dưới nhiều góc độ khác nhau. Đồng thời giúp
người đọc cảm nhận được tất cả sự ghê gớm và độc đáo của mình. - Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
những cái hút nước sông Đà “giống như những cái giếng bê tông thả xuống lòng sông để chuẩn bị làm
máng cầu lúc thì nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sào lúc thì nước ặc ặc lên như vừa rót dầu”.
Chỉ cần 1 loạt các động từ: “thờ, kêu, sặc, rót dầu” kết hợp với từ láy “ặc ặc” đã nói lên cái cường lực ghê
gớm của những cái hút nước. Âm thanh của hút nước giống như âm thành gầm rít trong cổ họng của 1
con quái vật đang giận dữ đến ghê người. - Nhưng Nguyễn Tuân không chịu dừng lại ở đó. Bằng vốn
sống phong phú, trí tưởng tượng, sáng tạo, nhà văn đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những cái thác
nước bằng 2 hình ảnh khi so sánh gián tiếp khi so sánh trực tiếp. + “Thuyền vút qua hút nước phải phóng
thật nhanh y như là ô tô chạy ấn ga cho nhanh để vụt qua 1 quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”.
Nguyễn Tuân đã kết hợp kiến thức của ngành giao thông với 1 liên tưởng thực tế đầy hãi hùng đậm sự
nguy hiểm và cảm giác sợ hãi đến tột độ cùng. 38 + Còn khi ngồi trên thuyền vụt qua thác nước nhà văn
cũng giúp người đọc hình dung 1 cách cụ thể về hình ảnh: “những con thuyền những bè gỗ bị hút xuống
hút nước ngay lập tức bị chồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi, đi ngầm xuống lòng sông đến mười phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Đó là hình ảnh đầy chất hiện thực mà bất cứ ai khi đọc đều có
thể hình dung ra sự tàn nhẫn của những cái hút nước. - Chưa thỏa mãn với điểm nhìn từ trên xuống,
Nguyễn Tuân đã phát huy trí tưởng tượng của mình bằng 1 sự liên tưởng độc đáo. Nhà văn đã tưởng
tượng ra “1 anh bạn quay phim táo tợn muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả đã dũng cảm ngồi vào 1
chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền, cả mình cả máy quay xuống tận cái đáy hút sông Đà và
từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành để thu vào trong ống kính một cột nước cao đến vài sải, xanh
ve 1 áng thủy tinh khối đặc dày”. Rõ ràng bằng những trí thức về nhiều lĩnh vực khác nhau: giao thông,
điện ảnh đã giúp Nguyễn Tuân có cái nhìn đa chiều về 1 hình tượng, đồng thời làm cho nó hiện hình rõ
nét và đọng lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc. Chắc hẳn khi tới tham quan sông Đà qua những
trang văn của Nguyễn Tuân ta sẽ không thể quên cảm giác sợ hãi khi bị khối pha lê nước khổng lồ sắp vỡ
tan đổ xuống cái cảm giác sợ hãi như đang ngồi trên 1 chiếc lá rừng tay ghì chặt lấy mép lá và bị vứt vào
1 cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa được rút lên cái gậy đánh phèn.

* Âm thanh của thác nước

- Hùng vĩ, dữ tợn sông Đà còn hiện lên ở những thác nước Đà giang. Sông Đà có tất cả 73 con thác trải
dài, từ biên giới Việt – Trung về với thác bờ. Nếu sóng nước ở mặt ghềnh Hát Loong đã khiến sông Đà
như 1 kẻ lưu manh lúc vào cũng thích gây gổ cũng muốn đòi nợ xuýt những người lái đò thì tới những
cái thác nước sông Đà lại trở thành những kẻ mang trong mình sự bất mãn, bực bội và sợ hãi hơn khi
sông Đà còn trở thành thảm họa của thiên nhiên, núi rừng. - Âm thanh của thác nước dẫu còn xa lắm
mới tới nhưng đã nghe thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên khiến sông Đà như 1 con quái vật
khổng lồ rống lên âm thanh hùng hãi. Âm thanh ấy “khi thì là oán trách gì rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích bằng 1 giọng gằn và chế nhạo”, 1 câu văn ngắn nhưng lại đủ các cung bậc âm thanh
của tiếng thác. Từ đó đã thể hiện 1 vốn từ phong phú, 1 trình độ thẩm âm thanh tinh tế của nhà văn
đem tới cho người đọc 1 cảm giác hãi hùng nhưng cũng đầy hồi hộp và hứng thú. - Không chỉ như vậy
âm thanh của thác nước còn được so sánh với âm thanh rống lên của “1 ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổi lửa, đang phá tuông rừng lửa và rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng”. Bằng biện pháp so sánh kết hợp với liên tưởng mở rộng nhà văn Nguyễn Tuân giúp
cho người đọc như nghe thấu được những âm thanh đa dạng của thác nước sông Đà từ đó khắc họa tính
cách hung bạo của con sông. Với việc sử dụng những động từ mạnh: “rống lên”, “đổ lửa”, “phá tuông”,
“gầm thét”, “cháy bùng bùng” khiến cho những câu văn chữ như đập mạnh vào các giác quan của người
đọc từ đó khiến cho tính cách hung bạo của con sông như hằn lên nổi lên thành hình thành khối đang
gào thét trong muôn vàn âm thanh. Cảnh vật cũng như náo động, chuyện động qua hàng loạt ngôn từ,
qua các biện pháp so sánh, nhân hóa. - Lời văn của Nguyễn Tuân cũng thể hiện sự liên tưởng tài hoa và
lối chơi ngông trong cách nói của Nguyễn Tuân. Nếu trong ngũ hành, thủy và hỏa vốn là 2 yếu tố tương
khắc với nhau, dân gian từng có câu: “Kị nhau như nước với lửa”. Thế mà ở đây Nguyễn Tuân lại dùng
lửa để tả nước, lấy núi rừng để tả dòng sông. Từ đó làm nổi bật lên sự tương giao về sức mạnh của
những hiện tượng tự nhiên. Tiếng thác nước như được phóng to lên hết kích cỡ giống như bản nhạc của
thiên nhiên mà được các nhạc khí đều bừng bừng ở đỉnh điểm của 1 cơn phấn khích mãnh liệt, man dại.
Những âm thanh cuồng loạn như thanh điệu hỗ trợ làm cho sự giận dữ của nước sông như lăng lên gấp
bội. Chúng va đập vào vách đá tạo nên 1 sức mạnh hoang dại, ghê gớm, khủng khiếp. Sức mạnh hoang
dại ấy của sông Đà mang đến cho người đọc cảm giác sợ hãi như phải chứng kiến 1 trận động đất chấn
động khiến núi lửa phun trào hay 1 cơn đại hồng thủy với sóng thần cao ngất. Bằng biện pháp nghệ
thuật so sánh, liên tưởng tài hoa, độc đáo, bằng các động từ mạnh, nhà văn Nguyễn Tuân đã làm nổi bật
lên chân dung của con sông Đà hung hãn, quái dị, đáng sợ

* Cánh đá ở trên mặt sông:


Sau một câu văn ngắn giống như 1 tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: “Tới cái thác rồi” nhà văn đã đồng
thời tả cả đá và nước thách trong hình ảnh: “Sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Tính từ “trắng
xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng về gió về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước
như mờ đi trên mặt sông trên 1 diện rộng mênh mông của mặt sông cùng với hình ảnh “chân trời đá”.
Câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ đến choáng ngợp của thác đá sông Đà, cùng
với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng lúc, tấn công uy hiếp con người đã được nhà văn miêu
tả qua 1 hình ảnh nhân hóa đặc sắc: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục ... Mỗi lần có chiếc thuyền nào
xuất hiện ... là 1 số hòn phải nhổm dậy để vồ lấy thuyền”. - Trên cơ sở những quan sát thực tế, bằng trí
tưởng tượng phong phú của mình Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái bí ẩn, hiểm ác của đá sông Đà trong sự
vĩnh hằng của thiên nhiên. Khi ngàn năm mai phục. Đá trên mặt sông đã trở thành những kẻ hợm hĩnh,
hống hách với những “cái mặt không chơi được”: “nhăn nhúm, méo mó” với tính cách ngang tàng, ngỗ
ngược, đứng, ngồi, nằm tùy theo sở thích của đá to, đá bé và đặc biệt chúng đã trở thành 1 đội quân
thiện chiến được tương trợ bởi những boong – ke chìm những pháo đài đá nổi với những thạch trận
nham hiểm và dữ dội. - Sông Đà đã bày những trùng vi thạch trận như những trận đồ bát quái với những
cửa tử mà chỉ có duy nhất 1 cửa sinh: vòng đầu nó bày ra 5 cửa trận trong đó có tới 4 cửa tử, 1 cửa sinh,
cửa sinh nằm lập lờ nơi phía tả ngạn sông (phía trái). Vòng thứ 2, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử, cửa
sinh chuyển phía bờ hữu ngạn (phía phải). Vòng thứ 3, bên phải, bên trái là luồng chết cả, cửa sinh duy
nhất nằm ở giữa hòn đá hậu vệ còn thức. Không những thế mỗi hòn đá trên sông đều là những tên lính
thiện chiến được sông Đà giao nhiệm vụ riêng. Chúng chia ra làm hàng tiền vệ, hậu vệ chúng dàn hàng
ngang để chặn đánh và đòi ăn chết con thuyền đòi vượt qua “đã ở đây hàng ngàn năm vẫn mai phục bền
bỉ kiên nhẫn giữa lòng sông và cứ thấy con thuyền nào đi qua là như 1 đám lưu manh ngỗ ngược và
hung hãn lại giăng tai họa cho những con thuyền trên sông. Chúng nhất tề nhổn dậy vồ lấy thuyền”.
Nguyễn Tuân đã làm sống dậy 1 cách dữ dội hình thù, tính cách của những viên đá vô tri “một hòn ấy
trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi con thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến, 1 hòn
khác lùi lại 1 chút thách thức chiếc thuyền có giỏi thì tiến vào”. Sự kết hợp giữa các trùng vi thạch trận
với sóng nước sông Đà đã tạo nên chân dung loài thủy quái khổng lồ, hung hãn, bạo ngược mà vô cùng
xảo quyệt, nham hiểm. Nó như một hung thần với một sức mạnh hủy diệt ghê gớm. Với lời văn góc
cạnh, với những câu văn giàu tính tạo hình, các động từ mạnh, lối ví von, ẩn dụ, tượng trưng với kiến
thức của các lĩnh vực quân sự, võ thuật,... Nguyễn Tuân đã tạo nên cho người đọc những liên tưởng bất
ngờ, thú vị về sự khôn ngoan, mưu trí, hiểm ác của sông Đà. Nó thực sự là một kẻ thù số 1 trong cuộc
đấu trí, đấu lực với con người.  Có thể thấy dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ (Nguyễn Tuân –
bậc thầy về sử dụng ngôn từ) sự hùng vĩ và hung bạo của Đà giang đã hiện ra với những dáng vẽ khác
nhau, tất cả đều toát lên 1 sự hoang dại, 1 sức mạnh thiên nhiên kỳ vĩ, đó chính là “chất vàng” của thiên
nhiên, của màu sắc sông núi Tây Bắc mà Nguyễn Tuân tìm kiếm. Nhà văn đã không giấu được niềm say
mê, phấn khích trước những hình ảnh, âm thanh kì vĩ của sông Đà. Nhà văn đã say sưa trong khúc tráng
ca mãnh liệt của hàng cây số: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, đã ngỡ ngàng trước âm thanh man
dại đến cuồng loạn của nước thác trong sự so sánh với lửa, đã ghê sợ một cách sảng khoái nước vang
trời thanh la não bạt. Qua sự hung bạo hiểm ác của sông Đà ta cảm nhận được phong cách nghệ thuật
độc đáo của Nguyễn Tuân sự tài hoa, uyên bác, các tôi độc tấu trong thể loại tùy bút, một bậc thầy về
ngôn từ.

Sông Đà – dòng sông thơ mộng, trữ tình

Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ bởi sự tương phản. Trong tùy
bút “Người lái đò sông Đà” sự tương phản hiện hữu trong đối tượng miêu tả bởi làm nên dòng sông Đà
thực sự ngoài chất hung bạo không thể không nhắc đến chất thi vị, trữ tình đằm thắm. Vẫn là dòng sông
ấy nhưng sau khi sông vặn mình vào 1 cái bến cát, khi chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thường
nguồn “xèo xèo tan trên 40 cát” ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã bất ngờ dẫn người đọc đến một
dòng sông êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như miền cổ tích. Sông Đà phảng phất trong mình 1 nét
tính cách rất con người Việt Nam: “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa” (Huy Cận).

* Từ trên cao nhìn xuống

- Nguyễn Tuân là nhà văn của sự uyên bác, nhà văn luôn khám phá, nhìn nhận con người, sự việc ở nhiều
góc độ khác nhau. Và vì thế để làm phát lộ vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà Nguyễn Tuân đã tìm
tới những góc độ khác nhau trong tâm thế của 1 du khách bay tạt ngang trên sông Đà. Nguyễn Tuân đã
trang bị thêm cho mình một góc nhìn, một cách nhìn về con sông Tây Bắc. + Từ trên cao nhìn xuống nhà
văn đã thấy dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc người thiếu nữ kiều diễm: “Con sông Đà tuôn
dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nếu sông Hương trong cảm nhận
của Nguyễn Bính cũng đẹp như một “mái tóc cung nga”: “Cầu cong như chiếc lược ngà Sông dài mái tóc
cung nga buông hờ” Thì trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình”. Hai chữ “áng tóc” đã khiến người đọc cảm nhận dòng sông Đà giống như một tác phẩm nghệ
thuật tuyệt mĩ mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Hơn nữa, hai chữ “áng tóc” còn đi liền với “trữ
tình” cách kết hợp độc đáo đó đem đến cho người đọc một liên tưởng thú vị: sông Đà đẹp như một cô
gái Tây Bắc với mái tóc dài duyên dáng đang thả trong sương khói, mây trời. Chính nhịp cầu, lời văn, chữ
nghĩa đã góp phần gợi tả những nét đẹp thi vị, đặc biệt của dòng sông. Câu văn dài chỉ có một nhịp ngắt
duy nhất kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” vừa gợi tả sinh động độ dài của dòng sông vừa đem
đến cảm giác về sự liền mạch bất tận gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn, tuôn chảy từ những dãy núi
hùng vĩ của vùng biên giới Tây Bắc rồi miên man chảy xuống. Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn
cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc nguồn. Khi so sánh dòng sông như
“áng tóc trữ tình” Nguyễn Tuân vừa tô đậm cái mềm mại, đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính nhưng
không làm mất đi vẻ hùng vĩ, lớn lao của dòng sông. Trong câu văn miêu tả đầy tài hoa của Nguyễn Tuân
ta còn thấy sông Đà còn nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự
tươi tắn, rực rỡ của “hoa ban hoa gạo tháng hai” và đặc biệt là cái ấm áp, thật gần gũi thân yêu của làn
“khói núi Mèo đốt nương xuân”. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say
mê trái tim người nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của đất nước, Tổ quốc bao la sau nữa thì nó gắn bó
gần gũi, thân thiết với cuộc sống, con người. Nhà văn của những vẻ đẹp “vang bóng một thời” đã có sự
thay đổi trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn, lạc lõng, xa xôi, cái đẹp hiện ra ấm áp
giữa cuộc đời, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường của những người lao động đời
thường. Nếu với Tô Hoài mỗi chữ là hạt ngọc thả xuống trang văn thì với Nguyễn Tuân mỗi chữ tựa như
một giọt tinh huyết. Và với câu văn khắc họa vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ta đã cảm nhận rõ hơn cái tinh
hoa trong từng câu chữ của 1 bậc thầy về ngôn từ. + Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được hiện ra qua
những màu sắc đầy biến ảo. Bằng niềm yêu và sự say mê, Nguyễn Tuân đã quan sát dòng sông một cách
công phu, tinh tế trong những thời điểm khác nhau để rồi nhà văn phát hiện ra rằng: “mùa xuân dòng
sông màu xanh ngọc bích chứ nước sông Đà không màu xanh cánh hến như sông Gấm sông Lô”. Đặt
sông Đà trong sự so sánh với sông Gấm và sông Lô không chỉ là một biểu hiện quen thuộc của một nhà
văn thị tải, thích khoe tài hoa, khoe sự uyên bác mà còn là biểu hiện của sự thiên vị, của một niềm yêu
nhưng hơn hết là khẳng định vẻ đẹp của sông Đà. Sông Đà đâu chỉ là một người con gái đẹp của đất trời
Tây Bắc mà sông Đà con biết tự trang điểm cho mình, “biết tự làm mới mình mỗi độ xuân về” cũng giống
như sông Hương cũng biết trang điểm cho mình trước khi trở về với người tình mà nó đang đợi. Và vào
mùa thu “nước sông Đà lừ lừ chín đỏ” cũng là màu đỏ nhưng không phải là màu đỏ phù sa của sông
Hồng mà là màu đỏ của “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”, một sắc đỏ sẫm dữ dội “ở một người
bất mãn bực bội mỗi độ thu về”. Hình ảnh so sánh nước sông Đà “như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa” không chỉ làm hiện 41 lên một màu sắc rất đặc trưng của nước sông Đà trong mùa thu mà còn thể
hiện 1 sức mạnh tiềm tàng, ẩn chứa những đe dọa của một dòng sông vẫn “năm năm báo oán đời đời
đánh ghen với con người”. Vậy mà ngay khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng trữ tình của dòng sông hình
ảnh một sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm nhận của nhà văn
luôn say mê những cảm giác mạnh. Đặc biệt chưa bao giờ Nguyễn Tuân cảm nhận “dòng sông Đà là đen
như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi
cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ” – sông Đen. Bằng sự kết hợp này Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ
đẹp sông Đà mà còn trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến đối với sông Đà, niềm tự hào về con sông xứ sở.

* Từ trong rừng đổ ra sông Đà

- Để thiện hiện sự gợi cảm của 1 dòng sông gần thương xa nhớ nhà văn đã tạo ra 1 tình huống đặc biệt
cho nỗi nhớ, niềm yêu cho những bồn chồn, khát khao vồ vập... Đó là tình huống đi rừng lâu ngày bắt
đầu thấy chỗ thoáng thêm 1 không gian phóng khoáng mênh mông. Khi đó tác giả bất chợt đổ ra sông
Đà để rồi khi gặp lại sông Đà với Nguyễn Tuân như được gặp lại một cố nhân. Hai chữ “cố nhân” vừa là
hình ảnh nhân hóa dòng sông như 1 người bạn vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn cổ kính xưa
cũ của Đường thi. - Đoạn văn tràn ngập cấu trúc so sánh đặc sắc miêu tả dòng sông Đà gợi cảm thông
qua việc bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông, nhìn dòng sông “thấy loang loáng như
trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của người chưa ra đến cửa rừng mới
chỉ thấy từng miếng sáng của dòng sông lấp lóa nắng, thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạc cây mà đã
háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát. Sông Đà tươi mới, trẻ trung như một miếng gương, miếng
sáng. Với Nguyễn Tuân sông Đà không chỉ là một miếng gương trong vắt, phẳng lặng mà còn là một
miếng gương trong tay của lũ trẻ con và trò chơi của một thời tuổi thơ vừa hồn nhiên, trong sáng vừa
ngây ngô, tinh nghịch. Không những thế “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Vậy
là cái trẻ trung, tươi mới, hồn nhiên của sông Đà vẫn ẩn chứa 1 nét đẹp cổ kính, 1 vẻ lãng mạn, huyền ảo
của hoa khói: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Sự liên tưởng của nhà văn làm xao xuyến những
tâm hồn luôn yêu luôn nhớ phong vị Đường thi cổ điển để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng
sông càng gợi cảm khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian mà con như trôi đi trong dòng thời
gian miên viễn, xa xăm của thế giới Đường thi. Sông Đà còn mang một vẻ đẹp rộn ràng, tràn đầy sức
sống: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Một câu văn chỉ nối tiếp các
chủ ngữ kết hợp điệp ngữ “sông Đà” ở cuối mỗi câu đã nhấn mạnh vào niềm say mê, phấn khích tạo cảm
giác như nhà văn đang hân hoan, ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm ùa vào
không gian ấy, thậm chí trông chỉ bình tĩnh để quan sát, lý trí để miêu tả bằng vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị
cuốn đi theo những xúc cảm dồn dập, gấp gáp cuốn đi theo những khao khát, say mê. - Cảm xúc gặp lại
sông Đà cũng được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: “Chao ôi, trông con sông, vui như
thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể thấy, hình ảnh sông Đà
gợi cảm vô cùng trong tâm hồn nhà văn. Qua so sánh: “trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì
mưa dầm”. Nắng như hữu hình nhưng lại là vô thể chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt, “giòn tan” lại
là tính từ dùng để chỉ đặc điểm của những sự vật mong manh, dễ vỡ. “Nắng giòn tan” là 1 ẩn dụ đẹp để
gợi ra cái nắng thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ, nó vừa mong manh vừa quý giá, nó tương phản với cái
u ám, trĩu nặng của bầu trời trong những ngày mưa dầm. Cách so sánh ấy giúp người đọc dễ dàng hình
dung ra cảm giác trìu mến, nâng niu, cùng niềm vui lâng lâng, sảng khoái của nhà văn gặp lại dòng sông.
Sông Đà càng quý giá hơn với nhà văn khi ông so sánh niềm vui tái ngộ với dòng sông cố nhân, như niềm
vui “nối lại chiêm bao đứt quãng”, 1 việc gần như không thể có trong đời người và sự nối lại giấc mơ
càng thi hữu, hiếm quý bao nhiêu càng đem lại cảm giác sung sướng thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của
những khao khát “xê dịch” đã nhiều lần tới sông Đà và bất cứ lúc nào nếu muốn ông cũng có thể tới với
cố nhân của mình. Nếu như qua so sánh có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi
mới, kì diệu như nối lại giấc mơ đẹp, như chưa từng tận hưởng niềm vui chưa từng có trên đời. Lần nào
gặp cũng như đó là lần đầu tiên, lần cuối cùng và là lần duy nhất. Và 42 cuối cùng trong hình ảnh so sánh
khi gặp lại sông Đà “nó đằm đằm, ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Sông Đà đã thực sự trở thành người bạn
cũ, người tri âm với bao kỉ niệm gắn bó trong quá khứ, bao yêu thương trong hiện tại, bao hẹn hò,
chung thủy trong tương lai. Với sự gợi cảm của mình, sông Đà đã thật sự trở thành 1 cố nhân, 1 tình
nhân, dẫu người tình nhân ấy lắm bệnh, lắm chứng, dẫu trái tính, lúc dùi dàng chốc lại bẩn tình gắt gỏng
và thác lũ ngay đấy nhưng vẫn có sức hấp dẫn mê hoặc người người đến kì lạ.

* Điểm nhìn của người khách hải hồ du thuyền trên sông Đà:

- Có lẽ nét trữ tình, thi vị nhất của sông Đà chính là ở sắc thái lặng tờ, hoang dại và vẻ đẹp đó đã được
Nguyễn Tuân cảm nhận từ điểm nhìn của người khách hải hồ du thuyền trên sông Đà. - Mở đầu đoạn
văn là 1 câu văn êm ru trong những thanh bằng “thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Câu văn đã đưa con
thuyền, nhà văn và cả người đọc vào 1 cõi mơ êm đềm, yên ả, 1 cõi hoang sơ, vắng lặng chưa từng có
dấu vết của con người: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Chỉ với 2 câu văn, Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm
đầy chất thơ của quãng sông trung lưu đó là quãng từ thác Tiếu trở ra như một câu tục ngữ Thái đã nói:
“Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”. Sông Đà như được tạo hóa ưu ái với tất cả những gì kì diệu nhất mới
có được vẻ đẹp êm đềm, thơ mộng ấy, một không gian nghệ thuật lặng tờ được mở ra như ru ông khách
sông Đà vào giấc mộng phiêu du. Cái “lặng tờ” được nhấn đi nhấn lại như ước hương rừng gió núi vào
hồn người mà lắng nghe mà cảm nhận mà thưởng ngoạn: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Ngược thời gian 1 thiên niên kỷ về
trước hai tiếng “lặng tờ” dẫn người đọc trở về: “Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” đã có cái
phẳng lặng tờ của con sông cổ thi: “Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” nên mới có cái êm ru mà
Nguyễn Tuân cảm mến. - Mơ màng nhìn dòng sông nghe nước êm trôi ông khách sông Đà bâng khuâng
nhìn ra ven sông bao trùm cảnh vật là 1 màu xanh hoang sơ. Đó là một nương ngô đã nhú lên mấy lá ngô
non đầu mùa, đã có dấu ấn của con người trên màu xanh mỡ màng ấy nhưng thật vô cùng ngạc nhiên
cảnh ven sông vẫn tĩnh lặng không một bóng người chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng trùng điệp
điệp với những nón búp ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát đồi gianh là
một nét vẽ tài hoa làm cho thiên nhiên sông Đà đậm màu hoang dại, cổ tích. Không phải “con nai vàng
ngơ ngác” trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào trong “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư mà chỉ là “một
đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Có lẽ chỉ đến với Nguyễn Tuân ta mới bắt gặp cái
nhìn xanh non, mờ màng ấy, có cách nói, cách tả độc đáo ấy. Nhà văn đã thả hồn mình vào linh vật mà
yêu mến, nâng niu. Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ
mộng hóa cảnh vật. “Bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” là chữ của của nhà văn bậc thầy về ngôn
ngữ này. Nguyễn Tuân không dựa vào trực giác để so sánh. Nhà văn đã dùng tưởng tượng để tạo nên
những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và kì thú gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc để
cùng ông cảm nhận, tận hưởng cái hồn nhiên, thơ mộng của Đà giang. - Rồi từ trong cái không gian
hoang dã ấy của sông Đà, Nguyễn Tuân khao khát sống, khao khát thèm 1 âm vang của thời đại. Từ giấc
mơ của “bờ tiền sử” chuyển sang giấc mơ của 1 tương lai huy hoang qua 1 tiếng còi tàu kỳ diệu, trong
mộng tưởng thật có nhiều say mê: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu”. Nguyễn Tuân yêu sông Đà với cái hồn
nhiên, hoang dại của nó, ông đã nhìn sông Đà như một cố nhân, ông còn thèm ánh sáng của thời đại
chiếu rọi đôi bờ Đà giang đưa người đọc cùng ông bay lên trong ngọn gió ngày mai thổi lại. Chất lãng
mạn trong văn Nguyễn Tuân dìu dịu như hương hoa của 1 bữa tiệc thạch lan hương thuở nào chỉ đủ cho
ta mơ ước về 1 viễn cảnh. - Đó là dư vị là nhã thú mà ta cảm nhận được qua tiếng còi “xếp – lê” mơ
màng. Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ ngẩng đích thực là 1 bài thơ trữ tình
kì diệu, 1 giấc mơ chập chờn, chơi vơi trong cái lặng tờ ven sông. Cái tĩnh lặng của khoảnh khắc giao cảm
thiên tiên giữa ông khác sông Đà với đàn hươu núi đã lên đỉnh điểm trên cái nền xanh của cỏ sương
chăm chăm nhìn người như dòi hỏi lòng người và tạo 43 vật cùng rung động: “con hươu thơ ngộ ngẩng
đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chằm chằm nhìn tôi lừ lừ trên một mũi đỏ”. Hươu nhìn người mà ngơ
ngác, người nhìn hươu mà lâng lâng chìm vào mộng tưởng không 1 tiếng động nhỏ, cả 1 không gian
nghệ thuật trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng, nhiệm màu. Hươu hỏi người hay người hỏi hươu? Một giả
định vừa thực vừa mộng ảo siêu thực mà lãng mạn từ cõi mộng mà trở về thực tại với bao nỗi bồi hồi,
“hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng các tiếng nói riêng của vật lành: “Hỡi ông
khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?””. Có thể nói những nét vẽ của
Nguyễn Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ tài hoa, độc đáo đã gợi tả cái vẻ đẹp hồn nhiên, hoang
dại của đôi bờ sông Đà, đã tạo nên chất thơ, chất mộng ảo dào dạt trong lòng người và thiên nhiên tạo
vật. Câu chữ rất có duyên tạo nên cái hồn của cảnh vật: “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng
cỏ sương”, “chằm chằm nhìn con vật lành”, “tiếng còi sương”. Nguyễn Tuân đã nhìn thiên nhiên với cái
nhìn phát hiện ở những chi tiết dáng vẻ mang tính thẩm mỹ, tài hoa. - Cảnh biến đổi nên câu văn của
Nguyễn Tuân cũng co dãn biến hóa 1 tiếng động nhỏ của con cá dầm xanh cũng làm cho ông khách sông
Đà tỉnh mộng, mượn cái động để diễn tả cái tĩnh và rồi mở ra 1 không gian nghệ thuật mới: “Đàn cá dầm
xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt
biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một
người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà)”. Như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi
tĩnh lặng hơn và đọng lại trong tâm trí người xem cả hình cả sắc chỉ với một câu văn ngắn: “Đàn cá dầm
xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” nhưng đã gợi lên âm thanh, màu sắc, đã khiến
người đọc vừa nhìn thấy, vừa nghe thấy, vừa cảm nhận thấy, nó vừa đầy chất thơ, vừa tả được sắc trắng
như bạc, vừa chỉ rõ hình dáng thoi dài của đàn cá dầm xanh: “tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn
hươu vụt biến”. Ông khách đò vụt tỉnh mộng trở về thực tại với con đò trôi xuôi im ắng lặng tờ. Vốn là 1
nhà văn tài hoa, uyên bác, “giắt đầy mình” những câu văn, câu thơ cổ kim đông tây, “vui thì ông đưa
duyên, buồn thì ông ngâm ngợi” và trong giây phút hòa mình với vẻ đẹp sông Đà Nguyễn Tuân chợt nhớ
tới những câu thơ của Tản Đà: “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Chưa
có nhiều thi sĩ viết hay nhiều về núi Tản sông Đà như Nguyễn Khắc Hiếu. Việc trích dẫn thơ Tản Đà không
chỉ đơn thuần là khẳng định vẻ đẹp của Đà giang mà nó còn mang 1 ý nghĩa tri ân của Nguyễn Tuân dành
cho Tản Đà. - Và khi càng về xuôi sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn
nhìn “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn
Tây Bắc” dòng sông vẫn lững lờ êm trôi như “đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi” và
“con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình
dây cổ điển trên dòng trên”. Cách dùng từ của Nguyễn Tuân rất độc đáo. Mỗi câu mỗi chữ đều phả linh
hồn vào dòng sông, con đò, cảnh vật. Những so sánh, ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho
thấy 1 tình yêu sông núi thiết tha, 1 cái nhìn đằm thắm, nồng hậu, 1 cái lặng nghe trìu mến, yêu thương.
Nguyễn Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông để cùng với nó lắng nghe mà
nhớ thương những âm vang, những nhịp sống ấm áp của cuộc đời. Ta cảm thấy có 1 dòng sông đang êm
trôi đang lững lờ trong tâm hồn mình bát ngát mênh mông. Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta
bao nhã thú mà còn để lại những dư vị, dư ba là vậy.  Chỉ với 1 đoạn văn ngắn và cũng chỉ với 1 nét
đẹp – vẻ thơ mộng, lặng tờ của Đà giang ở quãng trung lưu thế nhưng ta vẫn cảm nhận được cái hay, cái
đẹp trong văn của Nguyễn Tuân – 1 chất thơ tỏa rộng man mác, 1 ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và
kiến tạo trong tạo hình dựng cảnh trong dùng chữ, đặt câu những so sánh, ẩn dụ, liên tưởng rất gợi. Đây
là 1 đoạn văn hay và đẹp nói về hương sắc đất nước, chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và
uyên bác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân đã để lại dấu ấn trên trang hoa tờ họa này. Người đọc
như cảm thấy mình đang cùng ông khách sông Đà trên con thuyền nhẹ trôi trên Đà giang đang cùng với
Nguyễn Tuân say mê ngắm cảnh đẹp của hương núi hoa ngà và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên
cái lững lờ của dòng sông: dải sông Đà bọt nước lênh đênh.

Hình tượng người lái đò sông đà:

Giới thiệu về người lái đò sông Đà:

- Hình tượng người lái đò là hình tượng trung tâm của áng tùy bút. Nếu thiên nhiên Tây Bắc là “chất
vàng” thì vẻ đẹp con người Tây Bắc là “chất vàng mười” mà Nguyễn Tuân tìm kiếm. - Hình tượng người
lái đò trong 1 tình huống đầy thử thách: cuộc chiến không cân sức giữa 1 bên là sông Đà hung bạo dữ
tợn, bao la sóng nước với 1 bên là ông lão lái đò nhỏ bé đơn độc trên cái thuyền nhỏ thế nhưng chính
trong tình huống thử thách đó ông lão lái đò đã thể hiện được vẻ đẹp phẩm chất của mình, hình như
Nguyễn Tuân đã tô đậm sức hấp dẫn của sông Đà để ngầm đề cao chính người lái đò tài hoa. - Ông lái đò
trạc 70 tuổi là người Lai Châu quê ở ngã tư sông sát tỉnh, là người đã 1 đời ngược xuôi trên sông Đà. Một
tay lão luyện: “trên con sông ông ngược ông xuôi trên 100 lần, chính tay giữ lái độ sáu chục lần”, cuộc
đời của người lái đò đã in dấu ấn và giọng nói trên cuộc đời ông: “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân
ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông nói ào ào như
tiếng nước trước mặt ghềnh sông, gõ lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào
như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhãn giới ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào
đó trong sương mù. Cái đầu bạc quắc cước đặt lên thân hình gặn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện
mạo của ông lái đò chỉ có 1 điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, nếu dùng tay che
mái tóc này đi người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bên chính bờ
sông”. Diện mạo, ngoại hình của người lái đò gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi trái ngược hoàn
toàn với cái tuổi 70 của ông. Đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng trai lực lưỡng, dẻo dai, cường
tráng. - Bằng nghệ thuật tương phản với sông nước Đà giang, Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ đẹp của ông
lái lái đò: 1 con người dũng cảm, mưu trí, 1 người tài hoa nghệ sĩ với nghệ thuật vượt thác ghềnh điêu
luyện.

Vẻ đẹp người lái đò sông Đà:

* Ông lão lái đò là 1 con người từng trải, hiểu biết dày dặn kinh nghiệm về lái đò

- Kẻ thù số 1 của ông lão lái đò chính là dòng sông Đà để tiếp ông khách “không vừa” này sông Đà đã bày
thạch trận trên sông. Với 1 thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử: cửa tử, cửa sinh với các chiến
thuật: đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà, sông Đà đã lắm mưu nhiều kế nham
hiểm mà còn sẵn sàng bóp chết con người. - Ông lão lái đò tuy nhỏ bé nhưng lại sừng sững như 1 viên
tướng trí dũng song toàn trước con thủy quái khổng lồ nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. +
Ông lái đò có 1 năng lực siêu việt trong nghề nghiệp: bằng cách lấy mắt mà nhớ như đóng đinh vào lòng
đất, tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. + Nguyễn Tuân đã đem cả tình yêu của
mình mà để vào hình tượng người lái đò: “Sông Đà đối với ông lái đò như 1 trường thiên anh hùng ca
mà ông đò thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Nhà văn khâm phục
và ngợi ca bằng những liên tưởng so sánh đầy văn chương. Cuộc sống của ông lái đò là 1 bài thơ hào
hùng, lãng mạn đến kì diệu.

* Ông lão lái đò đã trực diện và chiến đấu sông Đà quái thú lắm mưu mô, nham hiểu bằng sự mưu trí
và lòng dũng cảm

- Để miêu tả cuộc giao tranh giữa người với thác dữ Nguyễn Tuân đã có “ngón chơi” động từ độc đáo chỉ
trong vài trang ký nhà văn đã sử dụng tới ngót 300 động từ để đủ sức ganh tài cùng với cơn cuồng nộ Đà
giang và trí lực ông lái phi thường. Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đoạn ngẫu chiến giữa người
và sông nước khiến người đọc nghẹt thở trong cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ của
sông Đà: “rống lên nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, dội, túm, lật ngửa, bóp chặt”... phía
ông lái đò 1 loạt các động từ cùng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: “nắm chặt, ghì cương, bám
chắc, phóng nhanh, lái miết, phóng thẳng, chọc thủng”... Hai trạng thái cho thấy động từ đối chọi, gay
gắt nhưng đọc kỹ vẫn thấy nổi lên thế chủ động của ông lão lái đò. 45 - Sông Đà đã lập nên bao trùng vi
thạch trận để đòi ăn chết cái thuyền, cách gọi tên sự vật bằng cụm từ Hán Việt khiến cho những trang
tùy bút chốc trở thành những áng sư thi hùng tráng đá khiến người lái đò sông Đà phút chốc trở thành
người anh hùng Uylitxơ trong sử thi “Ôđixê” (Hômerơ). + Trong cả 3 trùng vi thạch trận sông Đà đều
không hề giấu diếm sự nham hiểm, độc dữ của mình. Vòng vây thứ nhất nó mở 5 cửa trận, 4 cửa tử, 1
cửa sinh. Của sinh nằm lập lờ giữa tả ngạn sông. Vòng thứ 2 có thêm nhiều của tử, 1 cửa sinh, của sinh
lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Vòng thứ 3 “ít cửa hơn, nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết cả.
Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. + Sông Đà càng nham hiểm,
ông đò càng mưu kế, át lại tiếng sóng nước gào thét là tiếng chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm
lái. Đó là bản tính gan dạ, dũng cảm chỉ có được ở con người tài trí. + Vượt qua trùng vây thứ nhất,
không 1 phút nghỉ tay nghỉ mắt ông lái đổi luôn chiến thuật, đó không chỉ bởi kinh nghiệm nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này mà còn
bởi sự thông minh, nhanh trí của ông lái đò. + Dẫu “sóng thác sông Đà đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất” khiến “ông đò mặt méo bệch đi”. Dẫu mặt nước sông Đà đã châm lửa vào dẫu sóng thế nhưng ông
đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái dũng cảm, ngoan cường vượt qua trùng vây
thạch trận. Ông lái đò đã chinh phục được con hổ nước đầy hung bạo giống như Võ Tòng khi xưa đã ra
tay giết hổ trừ hại cho dân. Sự tài giỏi của ông lái đò đã khiến cho lũ tướng giữ quân sợ hãi. Cái thằng đá
tưởng đứng chiến ở cửa sinh đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng vì bị thua cái thuyền khiêu khích nhỏ
bé, ông lái đò hiện lên như 1 vị tướng bách chiến bách thắng. Ngòi bút của Nguyễn Tuân như 1 máy
quay phim ghi lại trận chiến của ông lão lái đò, sự dũng cảm của ông lái, những chiến thuật phá tan
những trung vi thạch trận của ông lái đò. Nguyễn Tuân diễn tả bằng những ngôn từ biến hóa không
trùng lặp qua đó cái tài của ông lão lái đò đã được cái tài của Nguyễn Tuân kê cao khắc rõ.

* Vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật vượt thác ghềnh điêu luyện

- Nguyễn Tuân là “nhà văn suốt đời đi tìm cái Đẹp”, là nhà văn luôn khám phá con người ở phương diện
tài hoa nghệ sĩ. Ông đã từng tìm về 1 vẻ đẹp “vang bóng 1 thời” để chạm khắc 1 Huấn Cao với nét chữ
vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của 1 đời con người. Và giờ đây Nguyễn Tuân đã hòa mình
vào cuộc sống mới để đi tìm kiếm cái tài hoa nghệ sĩ trong chính những con người lao động đời thời. Cái
chất tài hoa mà ông gọi là “chất vàng 10”. - Ông lái đò không chỉ là một người lao động sông nước bình
thường mà còn là 1 người lao động nghệ thuật – nghệ thuật chèo đò xứng đáng là 1 người nghệ sĩ tài
hoa. + Sự thông minh, tự tin, anh dũng là chưa đủ mà còn cần phải 1 người nghệ sĩ có nghệ thuật chèo
đò điêu luyện mới vượt qua được ghềnh thách đanh ác của Đà giang. Chính tay lái của ông đò đã đạt
đến đỉnh cao của nghệ thuật chèo đò mới giúp ông vượt qua được những cửa ải thần sông, thần đá. Hãy
quay trở lại với đoạn phim ký sự của Nguyễn Tuân, hãy dõi theo từng góc quay của Nguyễn Tuân để cảm
nhận 1 tay lái tài hoa trên sông Đà: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương
lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía
của đá ấy”, với 1 loạt động từ: “nắm chắc, ghì cương lái, phóng nhanh, lái miết”... đâu chỉ khắc họa 1
người lái đò mà còn khắc họa 1 nghệ sĩ với cây bút là cán chèo đang thảo những đường nét trên dòng
sông trắng xóa bọt nước, ông lái còn điêu luyện khi “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông
đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Đó dường như là những nét thanh đậm trên 1 vuông lụa
trắng của Huấn Cao thuở nào. + Nguyễn Tuân đã miêu tả táo bạo nhưng cũng hết sức chân thực trận
chiến của ông lái đò ở vòng vây cuối của thạch trận. Sự hiểm ác của thác đá được nhà văn miêu tả trong
hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá, cánh mở cánh khép đó cũng là cả 1 mặt trận đá trùng điệp trong đó
bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không
ngừng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền chọc thủng 1 luồng sinh duy
nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh cổng đá mở giữa những đợt sóng
dữ dội hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu 46 văn ngắn mà với cách
ngắt câu, sự kết hợp nhiều những động từ và danh từ nối tiếp: “vút, vút, của ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng” đã thể hiện sự điêu luyện, khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con
thuyền dưới bàn tay vừa lái vừa xuyên vừa lượn được của ông đò không chỉ gợi qua những động từ giàu
sắc thái miêu tả, biểu cảm “vút, vút” qua hình ảnh so sánh về 1 mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế
qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua bởi với cách so sánh về 1 “mũi tên tre” xuyên qua làn hơi
nước con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt sông. Tài
năng của ông đò khi ấy đã bao hàm được trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh, thể lực, trình độ điêu luyện
và bản lĩnh kiên cường. Tất cả đều đạt đến mức phi phàm, kì diệu.

* Ông lão lái đò còn là người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị:

Đối với người lái đò hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là 1 phần trong cuộc sống của ông khi vượt
qua gian nguy sóng nước lại tan “xèo xèo” trong trí nhớ, sông nước lại thanh bình. “Đêm ấy nhà đò đốt
lửa trong hang đá, nướng ống cơm lang và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh cũng chẳng ai bàn
thêm về lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”. Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau 1 chặng đường dài cùng
nhân vật của mình đua tranh tài chí với thiên nhiên. Song qua giọng văn nhẹ nhàng ta lại thấm thía thêm
1 vẻ đẹp của người lái đò là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì: “Ngày nào cũng dành lấy cái
sống từ tay những cái thác nên nó không có gì là hồi hộp đáng nhớ”. Cái phi thường đã trở thành bình
thường, phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài từ nghệ sĩ.  Người lái đò sông Đà được
miêu tả trong tác phẩm vừa có cái tư thế của 1 người lao động trí dũng vừa có phong thái của 1 nghệ sĩ
tài hoa. Hình tượng người lái đò đã thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở giai
đoạn sau cách mạng tháng 8. Người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài hoa
nghệ sĩ. Để miêu tả vẻ đẹp hình tượng nhà văn đã sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác
nhau, ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh, câu văn trùng điệp, nhiều nhân hóa, so sánh, ẩn dụ. Qua hình
tượng người lái đò nhà văn đã thể hiện thái độ yêu mến, cảm phục và tự hào trước những con người lao
động bình dị của núi rừng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng 10” quý giá của Tổ
quốc. Qua nhân vật người lái đò sông Đà Nguyễn Tuân cho rằng “chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm
ở nơi xa nó ở ngay trong chính cuộc sống của nhân dân lao động, những người bình dị có trí dũng tài ba
họ có thể tạo hình, tạo mẫu cho nghệ thuật họ là đối tượng của cái Đẹp của ánh sáng thẩm mĩ hiện đại”.

TỔNG KẾT - “Người lái đò sông Đà” là 1 áng văn được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha
của 1 con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng
của thiên nhiên và 1 phần là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. - Tác phẩm còn cho thấy
công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của nghệ sĩ trong việc dùng chữ nghĩa
để tái tạo những kỳ công của tạo hóa và những kỳ tích lao động của con người.

You might also like