Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 158

NỘI DUNG 1: HÀNH VI THƯƠNG MẠI VÀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

1. Hoạt động thương mại? Phân biệt với hoạt động kinh doanh.

- Khoản 1, Điều 3: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác.

- Phân biệt với hoạt động kinh doanh:

+ Theo từ điển tiếng Việt “kinh doanh” được hiểu là tổ chức sản xuất buôn bán sao cho sinh
lợi.

+ Như vậy ở nghĩa phổ thông kinh doanh không chỉ là buôn bán mà bao gồm cả sản xuất.
Hơn nữa, không phải tất cả các hoạt động sản xuất, buôn bán đều là kinh doanh mà chỉ có
những hoạt động sản xuất buôn bán nào có sinh lợi thì được gọi là kinh doanh.

+ có thể kết luận khái quát rằng lợi nhuận là đích cuối cùng của các nhà kinh doanh: bất cứ
hoạt động nào nhằm mục đích kiếm lời trên thị trường cũng là hoạt động kinh doanh.

2. Mối tương quan giữa khái niệm hoạt động thương mại và phạm vi điều chỉnh
của Luật Thương mại 2005?

- Khái niệm hoạt động TM (K1 Điều 3 LTM 2005);

Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

- Phạm vi điều chỉnh LTM ( Điều 1 LTM 2005):

+ Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+ Hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong trường hợp các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này.

+ Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân
thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực
hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này.

=> Kiểu nói về sự tương thích giữa hoạt động thương mại trên thực tế với pvi mà luật tm
2005 chưa điều chỉnh hết vd như kiểu hoạt động đầu tư.
3. Khái niệm, đặc điểm của hành vi thương mại?

- K/n: Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các
bên có liên quan. (Khoản 1, điều 5, LTM 1997; LTM 2005 k có định nghĩa)

- Đặc điểm:

+ hành vi TM khác hành vi dân sự về thời điểm xuất hiện và về tính ổn định.

Về thời điểm xuất hiện: hành vi dân sự ra đời từ rất sớm trong lịch sử loài người kể từ khi con
người tạo ra những sản phẩm dư thừa và có nhu cầu trao đổi lấy những sản phẩm khác loại
của người khác với mục đích thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Còn hành vi thương
mại xuất hiện muộn hơn, mãi đến khi sự phân công lao động trong xã hội đạt đến trình độ
nhất định, trong xã hội suất hiện từng lớp chuyên mua đi bán lại các sản phẩm, hàng hóa với
mục đích kiếm lời thì thương mại mới ra đời.

Các quan hệ dân sự mang tính ổn định và bền vững cao hơn các quan hệ thương mại. Đặc
biệt, các quan hệ dân sự ít chịu tác động hơn của các biến động bên ngoài về chính trị, xã hội
so với các quan hệ thương mại. Chính vì vậy có thể nói hành vi thương mại hay thay đổi, ít
bền vững hơn hành vi dân sự.

+ Hành vi thương mại được thực hiện trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

+ Hành vi thương mại là hành vi mang tính chất nghề nghiệp, được thương nhân tổ chức, cá
nhân kinh doanh thực hiện.

4. Bản chất pháp lý của hành vi thương mại?

Hvi thương mại là hvi có tính chất thương mại (sinh lợi nhuận), làm phát sinh hậu quả pháp
lý trong lĩnh vực thương mại hoặc làm phát sinh quan hệ pháp luật.
Hvi thương mại có 2 yếu tố: Mua vào và bán ra và giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với
nhau. => Tất cả các yếu tố trên phải nhằm mục đích sinh lợi.
Cân nhắc nói thêm hoặc ko: Ngoài ra còn có yếu tố cung cấp dịch vụ thương mại tức là bán
hàng hóa đặc biệt (vô hình) cho người sử dụng dịch vụ

- Pháp luật VN đã ghi nhận hành vi TM băng 1 khái niệm có nghĩa khái quát hơn đó là
hoạt động thương mại (tổ hợp các hành vi TM).
- Dưới góc độ học thuật, khái niệm hành vi thương mại được xem xét ở đây tương ứng
với khái niệm hoạt động thương mại cụ thể (mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư,…)

5. Phân loại hành vi thương mại và ý nghĩa của việc phân loại hành vi thương mại?

*Dựa vào tính chất của hành vi mà chủ thể thực hiện hành vi, hành vi thương mại có thể được
chia ra: hành vi thương mại thuần túy là hành vi thương mại phụ thuộc.

- Hành vi thương mại thuần túy là những hành vi có tính chất thương mại vì bản chất
của nó thuộc về công việc buôn bán hoặc về hình thức của nó được pháp luật coi là tiêu biểu
cho hành vi thương mại. Ví dụ mua hàng hóa để bán lại kiếm lời

- Hành vi thương mại phụ thuộc là hành vi có bản chất dân sự nhưng do thương nhân
thực hiện theo nhu cầu nghề nghiệp hay nhân lúc hành nghề. Ví dụ thương nhân mua phương
tiện trang thiết bị văn phòng để trang bị cho các phòng làm việc của mình là hành vi thương
mại phụ thuộc (do nhu cầu của nghề nghiệp).

- Hành vi hỗn hợp là hành vi thương mại đối với một bên thương nhân nhưng lại là
hành vi dân sự đối với bên kia cá nhân (không có tư cách thương nhân). Ví dụ quan hệ mua
bán hàng hóa giữa thương nhân A với cá nhân B (không có tư cách thương nhân).

*Dựa vào lĩnh vực phát sinh cũng như đối tượng của hành vi thương mại, các hành vi thương
mại có thể chia ra các nhóm hành vi sau:

- nhóm hành vi thương mại hàng hóa,

- Nhóm hành vi thương mại dịch vụ,

- nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực đầu tư,

- nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

6. Phân biệt hành vi thương mại với hành vi dân sự và ý nghĩa của sự phân biệt
này?

Hành vi dân sự Hành vi TM


- Hành vi dsự có trước - Hành vi Tm xuất hiện muộn hơn và kém
ổn định hơi hành vi dân sự
- Về cơ bản không thay đổi trong - Luôn bị ảnh hưởng bởi chính trị
lịch sử
- Thực hiện trong đời sống phục vụ - Được thực hiện trên thương trường để
cho sinh hoạt, tiêu dùng sinh lợi
- K mang tính nghề nghiệp, k phải -Mang tính nghề nghiệp , ổn định và
đăng ký thường xuyên đc thương nhân thực hiên

Hvi thương mại là hvi có tính chất thương mại (sinh lợi nhuận), làm phát sinh hậu quả pháp
lý trong lĩnh vực thương mại hoặc làm phát sinh quan hệ pháp luật.
Hvi dân sự là hành vi của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác trong các quan hệ tài sản và
các quan hệ nhân thân nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Khác nhau: Mục đích của HVTM là nhằm thu lợi, còn của HVDS là nhằm mục đích sinh
hoạt nói chung (trong đó có HVTM).
Môi trường của HVTM là trên thị trường còn HVDS diễn ra trên khắp lĩnh vực của đời sống.
Về tính chất và mức độ ổn định, HVDS mang tính ổn định và bền vững cao hơn. Còn HVTM
chịu sự ảnh hưởng của thực tiễn đời sống kinh tế, chính trị - xã hội nhiều hơn nên cách thức
xử sự của chủ thể thương mại phải thay đổi phù hợp với thay đổi của đời sống kinh tế xã hội
mới.
*Ý nghĩa của sự phân biệt:
Thứ nhất, Phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Cần phải có sự phân biệt về luật thủ
tục giữa dân sự và thương mại; cần những thủ tục tố tụng đơn giản và nhanh chóng của các
Tòa Thương mại để đáp ứng được yêu cầu mang tính đặc trưng của hoạt động thương mại.
Ngoài ra, còn có ý nghĩa xác định thẩm quyền giải quyết của Trọng tài. Các quốc gia trên thế
giới chỉ cho phép Trọng tài được quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương
mại, nếu các bên tranh chấp có thỏa thuận; còn trường hợp tranh chấp phát sinh mang yếu tố
dân sự thì các bên chỉ có thể khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ hai, HVDS và HVTM là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ khác biệt cho chủ thể thực
hiện hành vi bởi môi trường của chúng khác nhau, HVDS mang tính chất chung còn HVTM
mang tính chất riêng. Việc phân định hành vi thương mại và hành vi dân sự còn là cơ sở để
xác định hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ: Nhiều quốc gia trên thế giới quy định hành vi bán
phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, là hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, ý nghĩa trong việc xác định Luật áp dụng => Xây dựng lĩnh vực PL riêng biệt.
7. Có sự kết hợp giữa hành vi thương mại và dân sự trong cùng một giao dịch hay
không? Khái niệm hành vi thương mại hỗn hợp (dân sự - thương mại)? Pháp luật điều
chỉnh như thế nào trong trường hợp này?

Có sự kết hợp giữa HVTM và HVDS, đây là HVTM đối với 1 bên chủ thể nhưng lại là
HVDS đối với chủ thể còn lại. Vd: quan hệ mua bán giữa Công ty A (thương nhân) với ông
B (cá nhân, không có tư cách thương nhân).
=> Quyền & nghĩa vụ của mỗi bên là khác nhau sẽ dẫn tới hậu quả pháp lý khác nhau; trong
ví dụ trên nếu có trường hợp xảy ra tranh chấp thì 1 bên áp dụng LTM còn bên kia sẽ áp dụng
BLDS. LTM cũng k quá coi trọng về mặt hình thức. Ngoài ra còn cần xem xét tới đối tượng
trong quan hệ giữa hai bên cùng hướng tới là gì để xác định pháp luật điều chỉnh.

8. Mối quan hệ giữa thương nhân và hành vi thương mại?


- Thương nhân là người thực hiện hành vi thương mại. Điều đó được thể hiện Khoản 1 Điều 6
LTM 2005 quy định: “1. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.
Thương nhân là chủ thể của hành vi Tm.

- thương nhân thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi
ích của bản thân mk. Căn cứ Khoản 1 Điều 6 LTM 2005

- thương nhân thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên. Căn
cứ Khoản 1 Điều 6 LTM 2005

- thương nhân phải có năng lực hành vi Tm.

Năng lực hành vi thương mại là khả năng của cá nhân, pháp nhân bằng những hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí TM

Điều 17 LTM 1997 quy định“Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo quy
định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân”

- thương nhân phải có đăng ký kinh doanh

Thương nhân là chủ thể chủ yếu thực hiện HVTM, giữa thương nhân và HVTM có mối quan
hệ gắn bó mật thiết bởi HVTM sẽ là cơ sở để xác định bản chất pháp lý của thương nhân.
VD: Giữa thương nhân A và B thường xuyên mua bán hàng hóa thì HVTM lúc này sẽ xác
định thương nhân thường xuyên hoạt động gắn với vai trò liên quan đến hàng hóa.
9. Mối quan hệ giữa luật nghĩa vụ và Luật Thương mại?

10. Nội dung cơ bản các nguyên tắc của Luật thương mại?

6 nguyên tắc:

- Nguyên tắc 1: Điều 10. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong
hoạt động thương mại: Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật
trong hoạt động thương mại.

- Nguyên tắc 2:

Điều 11. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại
1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong
mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động
thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó.

2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện
hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.

- Nguyên tắc 3:

Điều 12. Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các
bên “Trừ trường hợp có thoả thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen
trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải
biết nhưng không được trái với quy định của pháp luật.”

- Nguyên tắc 4:

Điều 13. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại

Trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen
đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với
những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật dân sự.

- Nguyên tắc 5:

Điều 14. Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng

1. Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho
người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính
chính xác của các thông tin đó.

2. Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính
hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh.

- Nguyên tắc 6:

Điều 15. Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương
mại

Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ
thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản.
11. Nguyên tắc áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương
mại quốc tế đối với hoạt động thương mại ở Việt Nam?

Điều 5. Áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế
1. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có
quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác
với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
2. Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp
luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại
quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Điều 13 Nguyên tắc áp đụng tập quán trong hđ tm
Trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen
đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với
những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật Dân sự.
12. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong thương mại?

Điều 11. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại

1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong
mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động
thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó.

2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện
hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.

13. Sự khác biệt giữa nguyên tắc áp dụng tập quán và nguyên tắc áp dụng thói quen
thương mại?

- Nguyên tắc áp dụng thói quen TM

Điều 12. Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các
bên (LTM 2005)

Trừ trường hợp có thoả thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong
hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết
nhưng không được trái với quy định của pháp luật.

- Nguyên tắc áp dụng tập quán

Điều 13. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại (LTM 2005)
Trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen
đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với
những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật dân sự.

Thói quen trong hoạt động thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành
và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc nhiên thừa nhận
để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại.
Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên
một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận
để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
=> Tập quán thương mại có phạm vi rộng lớn hơn cũng như được nhiều chủ thể áp dụng hơn
trong hoạt động thương mại, nội dung của tập quán thương mại cũng rõ ràng hơn so với thói
quen thương mại dẫn tới sự ràng buộc cao hơn về mặt pháp lý.
14. Vấn đề tự do ý chí trong Luật thương mại được thể hiện như thế nào trong pháp
luật hiện hành

-thể hiện: Điều 11 LTM 2005 Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hđ TM

Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại
1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong
mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động
thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó.
2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện
hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.
15. Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng và sự thể hiện
nguyên tắc này trong Luật thương mại?

Điều 14, LTM 2005

Điều 14. Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng

1. Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho
người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính
chính xác của các thông tin đó.

2. Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính
hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh.

16. Nguyên tắc thiện chí, trung thực và sự thể hiện nguyên tắc này trong Luật
Thương mại?
- Thiện chí: thể hiện ở Điều 11 LTM 2005 Nguyên tắc tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong
hđ TM

- Trung thực: thể hiện ở Điều 14 Nguyên tắc tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ng tiêu dùng

Thiện chí gắn liền với trung thực theo hướng phi lừa dối, có nghĩa là nhấn mạnh tới cách thức
hành xử, chứ không nhấn mạnh vào động cơ, mục đích của hành vi.

17. Phân tích mối liên hệ giữa Luật Thương mại 2005 với các luật chuyên ngành
khác.

- Mối quan hệ giữa Luật Thương mại và Luật Dân sự:

Trên cơ sở các quy định chung của Luật Dân sự, Luật Thương mại quy định bổ sung hoặc chi
tiết hoá phù hợp với đặc thù của giao dịch thương mại có mục đích sinh lợi và đặc thù của
các chủ thể.

Mối quan hệ giữa Luật Thương mại và Luật Dân sự trong pháp luật Việt Nam thể hiện thông
qua những khía cạnh cơ bản như sau:

Một là, Bộ luật Dân sự là văn bản quy định về nghĩa vụ và hợp đồng, không có sự phân biệt
chủ thể (kinh doanh hay không kinh doanh) và mục đích (lợi nhuận hay phi lợi nhuận) trong
quy định về hợp đồng dân sự. Luật Thương mại khi quy định về hoạt động thương mại, chủ
yếu chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch thương mại. Không quy
định các vấn đề pháp lý về hợp đồng như giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, đảm bảo
ký kết và thực hiện hợp đồng... Những vấn đề này sẽ thực hiện theo các quy định của Bộ luật
Dân sự.

Hai là, Bộ luật Dân sự quy định về cá nhân, pháp nhân, năng lực pháp luật, năng lực hành vi,
uỷ quyền và đại diện, chấm dứt pháp nhân... Pháp luật thương mại quy định quy chế thương
nhân dành cho tổ chức và cá nhân kinh doanh. Bên cạnh các quy định riêng này của Luật
Thương mại, các quy định chung của Luật Dân sự vẫn có hiệu lực áp dụng với mọi tổ chức,
cá nhân, bao gồm cả tổ chức, cá nhân kinh doanh.

Ba là, do bản chất chung của các giao dịch thương mại và giao dịch dân sự đều hình thành,
thay đổi, chấm dứt trên cơ sở thoả thuận, tự nguyện, tự do ý chí, nên việc giải quyết tranh
chấp thương mại, tranh chấp dân sự tại Toà án đều thực hiện theo thủ tục tố tụng quy định tại
Bộ luật Tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, Luật Thương mại quy định thêm một số phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Toà án, đáp ứng yêu cầu khác nhau của các thương
nhân có tranh chấp trong hoạt động thương mại, đó là giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại, giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải thương mại...

- Mối quan hệ Luật Thương mại Việt Nam và Luật Thương mại quốc tế:

Cùng chung cái “gốc” là Luật Thương mại - điều chỉnh các quan hệ thương mại, diễn ra chủ
yếu giữa các thương nhân, khái niệm Luật Thương mại Việt Nam và Luật Thương mại quốc
tế được sử dụng khá phổ biến với sự phân biệt: Luật Thương mại quốc tế là lĩnh vực pháp
luật thương mại chuyên sâu, gồm tổng thể các quy tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài, bao gồm quan hệ thương mại hàng hoá, thương
mại dịch vụ, thương mại đầu tư và thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Luật
Thương mại Việt Nam gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại diễn
ra chủ yếu giữa các thương nhân trong nước. Tuy nhiên, việc xác định nguồn của Luật
Thương mại quốc tế là pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế cho thấy, Luật
Thương mại quốc tể cũng bao gồm tổng thể các quy định do nhà nước Việt Nam ban hành
hoặc thừa nhận. Do đó, việc phân biệt Luật Thương mại Việt Nam và Luật Thương mại quốc
tế rõ ràng chỉ mang tính tương đối và chủ yếu chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu và đào tạo luật.

- Kiểu như giữa các bên trong quan hệ thương mại phải có thỏa thuận trọng tài thì trọng tài
thương mại mới có thẩm quyền xử lý. Và trọng tài thương mại cũng thường áp dụng các quy
phạm của luật thương mại để giải quyết những tranh chấp giữa các bên.
18. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của hợp đồng thương mại?

- Khái niệm:

Hợp đồng thương mại là thoả thuận giữa thương nhân với thương nhân, thương nhân với các
bên có liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong
hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại.

- Đặc điểm:

+ Chủ thể của hợp đồng TM:

Chủ thể hợp đồng trong lĩnh vực thương mại chủ yếu được thiết lập giữa các chủ thể là
thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên, có đăng ký kinh doanh. Thương nhân là
chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc
thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế).

+Hình thức của hợp đồng tm:


Hình thức hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có thể được thiết lập bằng hình thức lời nói,
bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp
trong hoạt động thương mại và những yêu cầu chặt chẽ trong nội dung của hợp đồng mà pháp
luật quy định nhiều hợp đồng thương mại cụ thể phải được ký kết dưới hình thức văn bản
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản.

+ Đối tượng của hợp đồng tm: là hàng hoá hoặc dịch vụ (công việc)

- Bản chất:

Lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng là lĩnh vực thương mại, bao gồm các lĩnh vực thương
mại hàng hoá và thương mại dịch vụ; một bên chủ thể của hợp đồng phải là thương nhân.
Trong nhiều quan hệ hợp đồng thương mại cả hai bên đều phải là thương nhân như hợp đồng
đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lí mua bán hàng hoá; mục đích của thương nhân khi
tham gia quan hệ hợp đồng là nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình; hình thức
của hợp đồng có thể bằng lời nói, hành vi hay văn bản. Đối với hợp đồng mà pháp luật quy
định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó. Fax, telex, thư điện tử và
các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản.

Hợp đồng thương mại là những hợp đồng riêng trong lĩnh vực thương mại: Khi thoả mãn các
điều kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp đồng thì hợp đồng thương mại mang tính
chất của một hợp đồng kinh tế.

Ví dụ: Các hợp đồng trong hoạt động thương mại được xác lập bằng văn bản giữa các thương
nhân, trong đó, ít nhất một bên là pháp nhân để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Nếu không thoả mãn các điều kiện đó, hợp đồng thương mại chỉ mang tính chất của một hợp
đồng dân sự.

19. Khái niệm, bản chất và hiệu lực của chào hàng?

- Khái niệm: (Khoản 1, Điều 51, LTM 1997)

Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá trong một thời hạn nhất định,
được chuyển cho một hay nhiều người đã xác định và phải có các nội dung chủ yếu của hợp
đồng mua bán hàng hoá: Tên hàng; Số lượng; Quy cách, chất lượng; Giá cả; Phương thức
thanh toán; Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng, ngoài ra các bên có thể thoả thuận các nội
dung khác trong hợp đồng.

Chào hàng gồm chào bán hàng và chào mua hàng.


- Bản chất: Là lời đề nghị giao kết hợp đồng ???

- Hiệu lực của chào hàng:

Thời hạn hiệu lực của chào hàng do bên chào hàng ấn định; nếu không ấn định thì thời hạn
này là 30 ngày, kể từ ngày chào hàng được gửi đi. Bên chào hàng không được thay đổi hay
rút lại chào hàng, trừ trường hợp trong chào hàng có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút
lại chào hàng hoặc bên được chào hàng chưa nhận được chào hàng. Chào hàng hết hiệu lực
khi quá hạn hoặc khi bên được chào hàng thay đổi nội dung chủ yếu của chào hàng.

20. Khái niệm, bản chất và hệ quả pháp lý của chấp nhận chào hàng?

- Khái niệm: Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho
bên chào hàng về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. (K2 Điều 51
LTM 1997)

- Bản chất: Là lời đề nghị giao kết hợp đồng ???

- Hiệu lực pháp lý:

+ K2 Điều 53 LTM 1997 quy định: Thời hạn trách nhiệm của bên chấp nhận chào hàng bắt
đầu từ thời điểm chấp nhận chào hàng được chuyển đi cho bên chào hàng.

+ Điều 54. Chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng

Trong trường hợp bên chào hàng nhận được chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn chấp
nhận chào hàng thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ trường hợp bên chào hàng thông báo
ngay cho bên được chào hàng về việc chấp nhận của mình.

21. So sánh các quy định về chào hàng và chấp nhận chào hàng theo pháp luật Việt
Nam và Công ước Viên 1980.

*Chào hàng:

- Theo pl VN:

Khái niệm: (Khoản 1, Điều 51, LTM 1997)

Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá trong một thời hạn nhất định,
được chuyển cho một hay nhiều người đã xác định và phải có các nội dung chủ yếu của hợp
đồng mua bán hàng hoá: Tên hàng; Số lượng; Quy cách, chất lượng; Giá cả; Phương thức
thanh toán; Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng, ngoài ra các bên có thể thoả thuận các nội
dung khác trong hợp đồng.

Chào hàng gồm chào bán hàng và chào mua hàng.

Bản chất:

Hiệu lực của chào hàng:

Thời hạn hiệu lực của chào hàng do bên chào hàng ấn định; nếu không ấn định thì thời hạn
này là 30 ngày, kể từ ngày chào hàng được gửi đi. Bên chào hàng không được thay đổi hay
rút lại chào hàng, trừ trường hợp trong chào hàng có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút
lại chào hàng hoặc bên được chào hàng chưa nhận được chào hàng. Chào hàng hết hiệu lực
khi quá hạn hoặc khi bên được chào hàng thay đổi nội dung chủ yếu của chào hàng.

- Theo công ước viên 1980

+ Khái niệm:

Điều 14, công ước viên 1980: “Chào hàng là đề nghị rõ ràng về việc kí hợp đồng của 1 người
gửi cho 1 hay nhiều người xác định để bày tỏ ý định muốn bán hoặc muốn mua hàng hoá theo
những điều kiện cụ thể mà việc chấp nhận đề nghị này của bên được đề nghị sẽ hình thành
quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Trong đó, người đề nghị bày tỏ ý chí sẽ bị ràng buộc
bởi lời đề nghị của mình nếu có sự chấp nhận đề nghị đó”.

* Chấp nhận chào hàng:

- Theo pl VN:

+ Khái niệm: Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên
chào hàng về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. (K2 Điều 51
LTM 1997)

+ Bản chất:

+ Hiệu lực pháp lý:

K2 Điều 53 LTM 1997 quy định: Thời hạn trách nhiệm của bên chấp nhận chào hàng bắt đầu
từ thời điểm chấp nhận chào hàng được chuyển đi cho bên chào hàng.

Điều 54. Chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng
Trong trường hợp bên chào hàng nhận được chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn chấp
nhận chào hàng thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ trường hợp bên chào hàng thông báo
ngay cho bên được chào hàng về việc chấp nhận của mình.

- Theo Công ước viên 1980:

+ Khái niệm: Khoản 1 Điều 18 Công ước Viên, theo đó: Chấp nhận chào hàng là sự thể hiện
ý chí đồng ý của người được chào hàng với những đề nghị của người chào hàng.

+ Bản chất:

Về mặt pháp lý, một sự chấp nhận chỉ có giá trị làm phát sinh quan hệ hợp đồng khi người
chào hàng nhận biết được sự chấp nhận của người được chào hàng. Theo quy định của Công
ước Viên năm 1980 thì sự chấp nhận chào hàng của người được chào hàng chỉ có giá trị pháp
lí khi nó được thể hiện bằng lời tuyên bố hoặc bằng hành vi, biểu thị sự đồng ý của mình đối
với nội dung của chào hàng. Như vậy, theo quy định của Công ước thì sự im lặng hoặc không
hành động của người được chào hàng sẽ không mặc nhiên được hiểu là chấp nhận.

+ Hiệu lực:

Khoản 2 Điều 18 Công ước Viên 1980:

” Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được chấp nhận. Chấp thuận
chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy không được gửi tới người chào hàng
trong thời hạn mà người này đã quy định trong chào hàng, hoặc nếu thời hạn đó không được
quy định như vậy, thì trong một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao dịch, trong
đó có xét đến tốc độ của các phương tiện liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một chào
hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các tình tiết bắt buộc ngược lại.”

22. Giao dịch tiền hợp đồng và việc xử lý giao dịch tiền hợp đồng

Đối với các giao dịch HĐ phức tạp chưa thể giao kết hợp đồng ngay thì các bên sẽ tiến hành
những bước chuẩn bị giao kết như thư giao kết, buổi gặp mặt để đi đến giao kết hợp đồng.
Việc thỏa thuận như vậy đc gọi là thỏa thuận tiền hợp đồng.

Nếu k thuộc các trường hợp loại trừ việc áp dụng thỏa thuận tiền hợp đồng thì thỏa thuận ấy
được coi như một phần của hợp đồng.
NỘI DUNG 2: PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA

23. Khái niệm hàng hóa? Bình luận định nghĩa khái niệm hàng hóa trong Luật
Thương mại 2005? So sánh với Công ước Viên 1980 và thông lệ quốc tế?

 Khái niệm hàng hóa: Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì hàng hóa bao gồm
tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền
với đất đai.
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là những hàng hóa có
tính lưu thông và tính thương mại (sinh lời). Nếu các bên giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa là hàng hóa bị cấm lưu thông trên thị trường thì hợp đồng mua bán hàng hóa
đó sẽ bị vô hiệu.
So với khái niệm hàng hóa được quy định trong Luật Thương mại 1997 thì khái niệm
hàng hóa được quy định trong Luật Thương mại 2005 có sự mở rộng hơn. Hàng hóa
theo Luật Thương mại 1997 gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,
hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh
doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán. Hàng hóa trong Luật Thương mại 2005 có
mở rộng thêm cả những động sản hình thành trong tương lai. Mở rộng khái niệm hàng
hóa vừa thể hiện phạm vi điều chỉnh rộng hơn của Luật Thương mại, vừa thể hiện sự
phù hợp với tình hình hội nhập, mở cửa của Việt Nam.
 So sánh:
- chỉ những hàng hóa nào đều được pháp luật quốc gia của các bên kí kết hợp đồng
quy định là được phép trao đổi mua bán thì mới có thể trở thành đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- Theo pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế
chẳng hạn như Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hàng hóa
là đối tượng của mua bán thương mại được hiểu bao gồm những loại tài sản có hai
thuộc tính cơ bản: (i) có thể đưa vào lưu thông, và (ii) có tính chất thương mại. Công
ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa (tại điều 2) chỉ loại trừ (không áp
dụng) đối với một số loại hàng hóa như chứng khoán, giấy bảo đảm chứng từ và tiền
lưu thông, điện năng, phương tiện vận tải đường thủy, đường không, phương tiện vận
tải bằng khinh khí cầu…
24. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa?

 Khái niệm: Các văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam không định nghĩa về hợp
đồng mua bán hàng hóa nhưng dựa trên khái niệm chung về hợp đồng dân sự, hợp
đồng mua bán tài sản (Theo Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng dân sự là
sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự. Điều 430: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán)
và khái niệm mua bán hàng hóa quy định tại Luật Thương mại năm 2005 có thể đưa
ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại (gọi chung là hợp đồng
mua bán hàng hóa) như sau: “Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và
quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.
 Đặc điểm:
- Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân. Chủ thể
hợp đồng là các bên giao kết và thực hiện hợp đồng. Một bên chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa phải là thương nhân. Chủ thể còn lại của hợp đồng mua bán hàng
hóa là thương nhân hoặc có thể không phải là thương nhân.
- Thứ hai, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hàng hóa bao gồm:
+ Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
+ Những vật gắn liền với đất đai.
 Thứ ba, mục đích chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa là sinh
lợi.
 Thứ tư, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo
các quy định đó.
25. Phân biệt hợp đồng mua bán hàng hóa với các loại hợp đồng khác như hợp đồng
dịch vụ, hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng thuê tài sản …?

Nội dung so Hợp đồng mua bán Hợp đồng mua bán tài Hợp đồng dịch vụ
sánh hàng hóa sản (nhà ở,...)
Đối tượng Hàng hóa Tài sản nói chung theo Dịch vụ hợp pháp (dịch vụ
Tất cả các loại động quy định của Bộ luật dân vận chuyển; dịch vụ chăm
sản, kể cả động sản sự. sóc khách hàng;...)
hình thành trong
tương lai;
- Những vật gắn liền
với đất đai
Khái niệm Hợp đồng mua bán -Hợp đồng mua bán tài Hợp đồng dịch vụ là sự thoả
hàng hóa là sự thỏa sản là sự thỏa thuận giữa thuận giữa thương nhân với
thuận giữa các bên, các bên, theo đó bên bán thương nhân hoặc giữa
theo đó bên bán có chuyển quyền sở hữu tài thương nhân với tổ chức, cá
nghĩa vụ giao hàng, sản cho bên mua và bên nhân khác, theo đó bên cung
chuyển quyền sở hữu mua trả tiền cho bên ứng dịch vụ thực hiện công
hàng hóa cho bên mua bán. việc cho bên thuê địch vụ và
và nhận thanh toán; -Hợp đồng mua bán nhà nhận thanh toán, còn bên
bên mua có nghĩa vụ ở, mua bán nhà để sử thuê dịch vụ sử dụng kết quả
thanh toán cho bên dụng vào mục đích khác công việc và thanh toán cho
bán, nhận hàng và được thực hiện theo quy bên cung ứng dịch vụ.
quyền sở hữu hàng định của Bộ luật này,
hóa theo thỏa thuận”. Luật nhà ở và luật khác
có liên quan.
Phân loại Hợp đồng mua bán Đa dạng các loại hợp
hàng hóa; đồng:
- Hợp đồng mua bán - Mua bán tài sản;
hàng hóa quốc tế. - Trao đổi tài sản;
- Thuê tài sản;
- Thuê khoán tài sản…
Chủ thể Có ít nhất 1 bên là Có thể là mọi tổ chức, cá Có ít nhất một bên là
thương nhân; nhân đầy đủ năng lực, có Thương nhân và bên còn lại
Thương nhân bao nhu cầu mua bán tài sản, có thể là cá nhân, tổ chức
gồm tổ chức kinh tế có sự mở rộng hơn rất khác.
được thành lập hợp nhiều so với chủ thể
pháp, cá nhân hoạt trong hợp đồng mua bán
động thương mại một hàng hóa.
cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký
kinh doanh.
Mục đích của Chủ yếu là để kinh Không nhất thiết là có Cung ứng dịch vụ và thu lợi
HĐ doanh thu lợi nhuận mục đích kinh doanh mà nhuận
cho các thương nhân. có thể nhằm nhiều mục
đích khác nhau như :
tiêu dùng, tặng, cho, làm
từ thiện hoặc đơn giản là
vì sở thích…

26. Các điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa?

Những điều khoản cơ bản trong hợp đồng mua bán hàng hóa

✔ Chủ thể: Cần ghi rõ thông tin của các bên như: tên DN, địa chỉ trụ sở chính, tên, chức vụ
của người đại diện theo pháp luật, mã số thuế DN, số tài khoản ngân hàng sử dụng để giao
dịch… theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư. Khi tiến
hành giao kết hợp đồng, các bên có thể liên hệ và yêu cầu đối tác cung cấp bản sao Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư để đảm bảo đúng thông tin và
thẩm quyền ký kết.

✔ Giá: Cần ghi rõ tổng giá trị của hợp đồng. Doanh nghiệp cần lưu ý đồng tiền thanh toán là
Việt Nam đồng, trừ một số trường hợp được Nhà nước cho phép sử dụng ngoại hối trên lãnh
thổ Việt Nam theo quy định của Thông tư 32/2013/TT-NHNN. Ngoài ra một điều khoản mà
các chủ thể hay bỏ qua đó là cách xác định giá khi có biến động, khi có sự kiện bất khả
kháng. Điều khoản này rất quan trọng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

✔ Phương thức và thời gian thanh toán: Các bên cần ghi rõ phương thức thanh toán (chuyển
khoản hay tiền mặt) và thời gian thanh toán cụ thể với số tiền thanh toán của từng đợt. Để
đảm bảo an toàn, các bên có thể mở LC hoặc sử dụng các biện pháp bảo lãnh tại ngân hàng
cho việc thanh toán.

✔ Thời điểm giao nhận: Đối với bên mua, cần quy định rõ những điều kiện kèm theo và thời
điểm cụ thể trong tiến trình mua bán để bên bán thực hiện nghĩa vụ trong việc chuyển giao
hàng theo quy định của hợp đồng.

✔ Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên: Các bên cần chi tiết hóa các nghĩa vụ trong giai
đoạn trước, trong và sau khi thực hiện hợp đồng cũng như thời điểm chấm dứt cụ thể.

✔ Điều khoản ràng buộc trách nhiệm: Các bên có thể dự trù các tình huống đối phương có
thể vận dụng để không thực hiện hợp đồng mà soạn thảo những điều khoản thích hợp, như
trách nhiệm của bên mua khi không thanh toán, hoặc trách nhiệm của bên bán khi không
chuyển giao hàng hóa của hợp đồng.

✔ Thời hạn thực hiện hợp đồng: Trong hợp đồng cần quy định rõ thời điểm bắt đầu có hiệu
lực và chấm dứt, hoặc những căn cứ phát sinh dẫn đến hợp đồng chấm dứt hiệu lực.

✔ Điều khoản giải quyết tranh chấp: Tranh chấp có thể được đưa ra Tòa án có thẩm quyền
hoặc Trọng tài thương mại để giải quyết.

27. Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa?

 Nghĩa vụ giao hàng


Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng

Giao hàng đúng số lượng

Giao chứng từ theo hàng hóa

Giao hàng đúng thời hạn

Giao hàng đúng địa điểm

 Kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng: bên bán phải đảm bảo bên mua có điều kiện
tiến hành việc kiểm tra. Bên mua phải kiểm tra hàng hóa trong một thời gian ngắn
nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép, nếu bên mua không thực hiện việc kiểm tra hàng
hóa trước khi giao hàng theo thỏa thuận thì bên bán có quyền giao hàng theo hợp
đồng.
 Đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hóa: bên bán phải đảm bảo quyền sở hữu, tính
hợp pháp của hàng hóa và chuyển giao quyền sở hữu đối hàng hóa cho bên mua, đảm
bảo hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba.
 Rủi ro đối với hàng hóa: rủi ro về mất mát hư hỏng hoặc hư hỏng hàng hóa được
chuyển cho bên mua kể từ khi hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên
mua vi phạm hợp đồng.
28. Quyền và nghĩa vụ của người mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa?

 các quyền của người mua bao gồm:


 Được bên bán giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng,
chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng
(Điều 34 Luật Thương mại 2005);
 Được bên bán giao hàng đúng địa điểm đã thỏa thuận (Điều 35 Luật Thương mại
2005);
 Được bên bán giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp
đồng (Điều 37 Luật Thương mại 2005). Trường hợp bên bán giao hàng trước thời
hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu các bên
không có thỏa thuận khác;
 Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng
theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Luật Thương mại 2005;
 Bên mua được bên bán đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa. Bên bán có
nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa, thời điểm chuyển quyền sở hữu
hàng hóa được xác định như sau: trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc
các bên có thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua
kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao (Điều 45, Điều 62 Luật Thương mại
2005);
 Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo
hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận (Điều 49 Luật Thương
mại 2005).
 Nghĩa vụ của bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm các nghĩa vụ sau:
 Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận. Bên
mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo
trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật. Bên mua vẫn phải
thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời
điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư
hỏng do lỗi của bên bán gây ra (Điều 50 Luật Thương mại 2005);
 Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên mua phải thanh toán cho bên bán vào thời
điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa (Điều 55 Luật
Thương mại 2005); Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa thuận và thực hiện
những công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng.
29. Những vấn đề pháp lý liên quan tới việc giao hàng hóa?

Nghĩa vụ giao nhận hàng theo hợp đồng mua bán hàng hóa

 Thời gian giao nhận hàng hoá: trong hợp đồng mua bán, yếu tố thời gian luôn được đề
cao và coi trọng. Tiến độ sản xuất, hiệu quả và lợi nhuận kinh doanh liên quan đến đối
tượng trong hợp đồng hầu hết chịu ảnh hưởng từ việc bên bán có giao hàng đúng hẹn
hay không. Chính bởi vậy, khi giao kết hợp đồng, thời gian giao hàng là một trong
những chi tiết các bên phải thỏa thuận rõ ràng.
 Địa điểm giao nhận hàng hóa: Địa điểm giao nhận hàng hóa
Địa điểm giao nhận hàng hóa chính là nơi mà các bên tiến hành hoạt động giao - nhận hàng.
Việc xác định địa điểm giao hàng có ý nghĩa quan trọng, “bởi vì nó liên quan đến chi phí vận
chuyển và gánh chịu rủi ro trong khi vận chuyển”. Trong hợp đồng, nếu các bên có thỏa
thuận về địa điểm giao hàng thì thực hiện theo sự thỏa thuận của các bên. Nhưng nếu trong
hợp đồng các bên không có sự thỏa thuận, thì địa điểm giao hàng được xác định như sau:

i. Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có
hàng hóa đó;

ii. Trường hợp hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ giao
hàng cho người vận chuyển đầu tiên;

iii. Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hóa, nếu vào thời
điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc
nơi sản xuất, chế tạo hàng hóa thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó;

iv. Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán,
nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác
định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán.

 Giao, nhận chứng từ liên quan đến hàng hóa


 Chứng từ liên quan đến hàng hóa là các loại giấy tờ chứa đựng những thông tin về
hàng hóa có tác dụng làm rõ đặc điểm về giá trị, chất lượng, số lượng của hàng
hóa. Chứng từ liên quan đến hàng hóa thường bao gồm hóa đơn thương mại (là
yêu cầu của người bán đòi hỏi người mua phải trả số tiền hàng ghi trên hóa đơn,
trong đó làm rõ đơn giá, tổng giá trị của hàng hóa,…); bảng kê chi tiết (là chứng
từ về chi tiết hàng hóa trong lô hàng, tạo điều kiện cho việc kiểm tra hàng hóa);
phiếu đóng gói (là bảng kê khai các hàng hóa được đặt trong một kiện hàng); giấy
chứng nhận phẩm chất; giấy chứng nhận số lượng; giấy chứng nhận trọng lượng.
 Giao chứng từ là vấn đề quan trọng trong quá trình thực hiện hợp đồng, là cơ sở
để bên mua thực hiện thanh toán đúng thời hạn và là cơ sở để bên mua căn cứ vào
đó tiến hành kiểm tra hàng hóa. Nếu các bên có thỏa thuận về việc giao chứng từ
thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong
thời hạn, tại địa điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận. Trường hợp không có
thỏa thuận về thời hạn, địa điểm giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên
mua thì bên bán phải giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong
thời hạn và tại địa điểm hợp lý để bên mua có thể nhận hàng. Thời hạn và địa
điểm hợp lý mà bên bán phải giao chứng từ có thể là cùng với thời hạn và địa
điểm giao hàng. Hoặc nếu hợp đồng có quy định việc vận chuyển hàng hóa thì bên
bán có thể giao chừng từ cho bên mua sau khi hàng hóa được giao cho người vận
chuyển, nhằm đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của bên mua.
 Khi các bên có thỏa thuận một thời hạn để bên bán giao chứng từ, nếu bên bán đã
giao mà có thiếu sót, và vẫn còn trong thời hạn thì bên bán có thể khắc phục
những thiếu sót đó trong thời hạn còn lại. Tuy nhiên, việc khắc phục này không
được gây bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí cho bên mua, nếu có thì bên mua có
quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi phí bất hợp lý đó.
30. Những vấn đề pháp lý liên quan tới việc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa?

Chứng từ liên quan đến hàng hóa là các loại giấy tờ chứa đựng những thông tin về hàng hóa
có tác dụng làm rõ đặc điểm về giá trị, chất lượng, số lượng của hàng hóa. Chứng từ liên
quan đến hàng hóa thường bao gồm hóa đơn thương mại (là yêu cầu của người bán đòi hỏi
người mua phải trả số tiền hàng ghi trên hóa đơn, trong đó làm rõ đơn giá, tổng giá trị của
hàng hóa,…); bảng kê chi tiết (là chứng từ về chi tiết hàng hóa trong lô hàng, tạo điều kiện
cho việc kiểm tra hàng hóa); phiếu đóng gói (là bảng kê khai các hàng hóa được đặt trong
một kiện hàng); giấy chứng nhận phẩm chất; giấy chứng nhận số lượng; giấy chứng nhận
trọng lượng.

Giao chứng từ là vấn đề quan trọng trong quá trình thực hiện hợp đồng, là cơ sở để bên mua
thực hiện thanh toán đúng thời hạn và là cơ sở để bên mua căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra
hàng hóa. Nếu các bên có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao
chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn, tại địa điểm và bằng phương
thức đã thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn, địa điểm giao chứng từ liên
quan đến hàng hoá cho bên mua thì bên bán phải giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho
bên mua trong thời hạn và tại địa điểm hợp lý để bên mua có thể nhận hàng. Thời hạn và địa
điểm hợp lý mà bên bán phải giao chứng từ có thể là cùng với thời hạn và địa điểm giao
hàng. Hoặc nếu hợp đồng có quy định việc vận chuyển hàng hóa thì bên bán có thể giao
chừng từ cho bên mua sau khi hàng hóa được giao cho người vận chuyển, nhằm đảm bảo
nghĩa vụ thanh toán của bên mua.

Khi các bên có thỏa thuận một thời hạn để bên bán giao chứng từ, nếu bên bán đã giao mà có
thiếu sót, và vẫn còn trong thời hạn thì bên bán có thể khắc phục những thiếu sót đó trong
thời hạn còn lại. Tuy nhiên, việc khắc phục này không được gây bất lợi hoặc làm phát sinh
chi phí cho bên mua, nếu có thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc
chịu chi phí bất hợp lý đó.

31. Những vấn đề pháp lý liên quan tới việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa?

- Quyền sở hữu theo quy định tại Điều 158 Bộ luật dân sự 2015: “Quyền sở hữu bao gồm
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định
của luật.”

- Hàng hóa theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 bao gồm tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai.

- Theo đó quyền sở hữu hàng hóa bao gồm các quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chuyển giao quyền sở hữu hàng
hóa là việc bên bán chuyển giao các quyền nêu trên cho bên mua tại một thời điểm xác định.

Những vấn đề pháp lý liên quan là việc:

- xác định thời điểm bên nhận chuyển giao là chủ sở hữu, được thực hiện quyền của chủ sở
hữu như mua bán, cho thuê, thế chấp, thậm chí tiêu hủy;
- xác định thời điểm chuyển giao các rủi ro.

32. Những vấn đề pháp lý liên quan đến việc chuyển rủi ro đối với hàng hóa?

việc xác định trách nhiệm rủi ro đối với hàng hóa trước hết cần căn cứ vào sự thỏa thuận của
các bên trong hợp đồng. trong tường hợp các bên không có thỏa thuận thì áp dụng quy định
của pháp luật. Luật Thương mại 2005 quy định về cách xác định trách nhiệm về rủi ro đối với
hàng hóa trong các trường hợp tại các điều 57, 58, 59, 60, 61.

Chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định

Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua tại một
địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua
khi hàng hoá đã được giao cho bên mua hoặc người được bên mua uỷ quyền đã nhận hàng tại
địa điểm đó, kể cả trong trường hợp bên bán được uỷ quyền giữ lại các chứng từ xác lập
quyền sở hữu đối với hàng hoá.

Chuyển rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định

Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hoá
và bên bán không có nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc
hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho người vận
chuyển đầu tiên.

Chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà không phải là
người vận chuyển

Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu hàng hoá đang được người nhận hàng để giao nắm
giữ mà không phải là người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được
chuyển cho bên mua thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hoá;

- Khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hoá của bên mua.

- Chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng hoá đang trên đường vận chuyển
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hoá đang trên đường
vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời
điểm giao kết hợp đồng.

Chuyển rủi ro trong các trường hợp khác

Trừ trường hợp có thoả thuận khác, việc chuyển rủi ro trong các trường hợp khác được quy
định như sau:

- Trong trường hợp không thuộc các trườn hợp trên thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng
hoá được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên mua
và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng;

- Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá không được chuyển cho bên mua, nếu hàng hoá
không được xác định rõ ràng bằng ký mã hiệu, chứng từ vận tải, không được thông báo cho
bên mua hoặc không được xác định bằng bất kỳ cách thức nào khác.

33. Những vấn đề pháp lý liên quan tới việc kiểm tra hàng hóa?

- Kiểm tra hàng hóa là việc bên mua tiến hành xem xét, đánh giá về số lượng, chất lượng,
mẫu mã, những đặc điểm.....của hàng hóa sắp được chuyển giao sang cho bên mình. Theo
quy định pháp luật Thương mại thì việc kiểm tra hàng hóa là quyền của bên mua chứ không
phải là nghĩa vụ trách nhiệm. Tức bên bán không có quyền yêu cầu bên mua thực hiện việc
kiểm tra hàng hóa, bên mua có quyền lựa chọn kiểm tra hoặc không kiểm tra hàng hóa.

- Những vấn đề pháp lý liên quan: đảm bảo chất lượng hàng hóa trong hợp đồng mua bán
hàng hóa; xác định trách nhiệm về khiếm khuyết hàng hóa; sự thỏa thuận của các bên về từng
loại hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa để đảm bảo ít rủi ro xảy ra.

Nội dung thêm nếu mọi người muốn trả lời:

- Việc kiểm tra hàng hóa có thể hành trước hoặc cùng với việc vận chuyển và giao hàng.

Nếu việc kiểm tra hàng hóa thực hiện trước khi giao hàng thì việc kiểm tra phải tuân thủ quy
định pháp luật như sau:

+ Đối với bên bán cần tạo điều kiện để bên mua kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng

+ Đối với bên mua việc kiểm tra cần tiến hành trong thời gian ngắn trong hoàn cảnh cho phép

+ Nếu bên mua không kiểm tra hàng hóa trước khi giao thì bên mua tiến hành giao hàng
+ Nếu phát hiện những khiếm khuyết khi kiểm tra hàng hóa thì bên bán phải thông báo cho
bên bán trong thời hạn hợp lý

- Trách nhiệm về khiếm khuyết hàng hóa:

+ Bên mua sẽ phải chịu khiếm khuyết của hàng hóa nếu bên bán đã biết hoặc phải biết khuyết
khuyết về hàng hóa nhưng không thông báo cho bên bán trong khoảng thời gian hợp lý

+ Bên bán phải chịu khiếm khuyết của hàng hóa nếu khiếm khuyết của hàng hóa không thể
phát hiện bằng biện pháp thông thường khi kiểm tra, hoặc bên bán biết được khiếm khuyết
nhưng không thông báo cho bên mua.

- Từ quy định trên ta thấy pháp luật không quy định cụ thể rõ ràng về thời gian kiểm
tra, thời hạn thông báo. Chính vì vậy tránh tranh chấp các bên trong hợp đồng cần tiến hành
biện pháp sau:

+ Quy định rõ về số lượng, chất lượng, mẫu mã, khối lượng, tiêu chí kỹ thuật khi tiến hành
mua bán hàng hóa

+ Quy định cụ thể về quy trình, thời gian kiểm tra hàng hóa, cũng như thời hạn thông báo
khiếm khuyết, trách nhiệm chịu rủi ro

Để thỏa thuận được những điều khoản trên các bên phải căn cứ vào đối tượng mua bán hàng
hóa, cũng như hoàn cảnh điều kiện các bên.

34. Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch mua bán hàng hóa? Các loại hợp đồng mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch mua bán hàng hóa?

Cách hiểu: mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó,
các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất
định qua sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của sở giao dịch hàng hóa với giá thỏa
thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm
trong tương lai.

Phân loại: Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa phải được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.

- Hợp đồng kỳ hạn: (xem câu 37)

+ Hợp đồng kỳ hạn (Contract for forward transaction) là hợp đồng, theo đó, bên bán cam kết
giao và bên mua cam kết nhận hàng tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng. Nói
cách khác là hợp đồng được mua bán theo giá hàng hiện tại nhưng lại thanh toán theo giá
hàng trong tương lai.

+ Nếu bên bán thực hiện việc giao hàng theo hợp đồng thì bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và
thanh toán. Nếu các bên thỏa thuận trong hợp đồng là bên mua có thể thanh toán bằng tiền
mà không nhận hàng thì bên mua, trong trường hợp này, không cần nhận hàng mà chỉ cần trả
cho bên bán một khoản tiền bằng mức chênh lệch giữa giá thỏa thuận trong hợp đồng và giá
thị trường (do sở giao dịch hàng hóa công bố) vào lúc hợp đồng được thực hiện.

+ Ngược lại, nếu các bên thỏa thuận trong hợp đồng là bên bán có thể thanh toán bằng tiền và
không giao hàng thì bên bán phải thanh toán cho bên mua một khoản tiền bằng mức chênh
lệch giữa giá thị trường (do Sở giao dịch hàng hóa công bố) tại thời điểm hợp đồng được thực
hiện và giá thỏa thuận trong hợp đồng.

- Hợp đồng quyền chọn: (xem câu 36)

35. Bản chất và chức năng của Sở giao dịch mua bán hàng hóa? So sánh sở giao dịch
hàng hóa với các website thương mại điện tử như Tiki, Sendo, eBay, Amazon?

- Bản chất: Sở Giao dịch hàng hóa là nơi thỏa thuận và kí kết những hợp đồng đã được tiêu
chuẩn hóa để thực hiện việc mua bán hàng hóa giao ngay hoặc không trực tiếp giao ngay, và
là nơi thỏa thuận việc mua bán quyền chọn bán và quyền chọn mua hàng hóa.

- chức năng: Chức năng của sở giao dịch hàng hóa được quy định tại Điều 67 Luật Thương
mại 2005 cụ thể là Sở giao dịch hàng hóa cung cấp các điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết
để giao dịch mua bán hàng hoá; điều hành các hoạt động giao dịch; niêm yết các mức giá cụ
thể hình thành trên thị trường giao dịch tại từng thời điểm.

36. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng quyền chọn? Quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng quyền chọn?

Khái niệm: Hợp đồng về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên
mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hóa xác định với mức giá định trước
(gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua
quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua hoặc bán
hàng hóa đó. (khoản 3 Điều 64 Luật thương mại 2005)
Đặc điểm: Là một loại hợp đồng được ký giữa bên mua và bên bán đối với một loại tài sản
(có thể là chứng khoán, dầu mỏ hoặc bất kỳ) tại thời điểm hiện tại nhưng việc thực hiện sẽ
được diễn ra trong tương lai.

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng quyền chọn:

Theo quy định tại Điều 66 Luật Thương mại 2005 thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng quyền chọn khi mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch hàng hoá được quy định cụ thể như sau:

- Bên mua quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán phải trả tiền mua quyền chọn để được trở
thành bên giữ quyền chọn mua hoặc giữ quyền chọn bán. Số tiền phải trả cho việc mua quyền
chọn do các bên thoả thuận.

- Bên giữ quyền chọn mua có quyền mua nhưng không có nghĩa vụ phải mua hàng hoá đã
giao kết trong hợp đồng. Trường hợp bên giữ quyền chọn mua quyết định thực hiện hợp đồng
thì bên bán có nghĩa vụ phải bán hàng hoá cho bên giữ quyền chọn mua. Trường hợp bên bán
không có hàng hoá để giao thì phải thanh toán cho bên giữ quyền chọn mua một khoản tiền
bằng mức chênh lệch giữa giá thoả thuận trong hợp đồng và giá thị trường do Sở giao dịch
hàng hoá công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện.

- Bên giữ quyền chọn bán có quyền bán nhưng không có nghĩa vụ phải bán hàng hoá đã giao
kết trong hợp đồng. Trường hợp bên giữ quyền chọn bán quyết định thực hiện hợp đồng thì
bên mua có nghĩa vụ phải mua hàng hoá của bên giữ quyền chọn bán. Trường hợp bên mua
không mua hàng thì phải thanh toán cho bên giữ quyền chọn bán một khoản tiền bằng mức
chênh lệch giữa giá thị trường do Sở giao dịch hàng hoá công bố tại thời điểm hợp đồng được
thực hiện và giá thoả thuận trong hợp đồng.

- Trường hợp bên giữ quyền chọn mua hoặc giữ quyền chọn bán quyết định không thực hiện
hợp đồng trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng đương nhiên hết hiệu lực.

37. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng kỳ hạn? Quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng kỳ hạn?

Khái niệm: khoản 2 Điều 64 Luật thương mại năm 2005: “Hợp đồng kì hạn là thoả thuận,
theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong
tương lai theo hợp đồng”. Như vậy, theo cách định nghĩa truyền thống, hợp đồng kì hạn
giống như những hợp đồng mua bán thông thường, đó là sự thoả thuận, thống nhất ý chí giữa
các chủ thể giao kết để chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và đổi lấy khoản tiền
là giá trị hàng hoá.

Đặc điểm: việc kí kết hợp đồng kì hạn không phải là kí kết trực tiếp giữa người bán và người
mua mà được thực hiện thông qua sở giao dịch hàng hoá với tư cách là cơ quan trung gian.
Khi một người muốn mua hàng hoá qua sở giao dịch, người đó sẽ phải tuân thủ các quy định
pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá cũng như quy
tắc, điều lệ hoạt động của sở giao dịch hàng hoá đó.

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng kỳ hạn:

Theo quy định tại Điều 65 Luật Thương mại 2005 thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng kỳ hạn khi mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hoá được quy định cụ thể như
sau:

- Trường hợp người bán thực hiện việc giao hàng theo hợp đồng thì bên mua có nghĩa vụ
nhận hàng và thanh toán.

- Trường hợp các bên có thoả thuận về việc bên mua có thể thanh toán bằng tiền và không
nhận hàng thì bên mua phải thanh toán cho bên bán một khoản tiền bằng mức chênh lệch
giữa giá thoả thuận trong hợp đồng và giá thị trường do Sở giao dịch hàng hoá công bố tại
thời điểm hợp đồng được thực hiện.

- Trường hợp các bên có thoả thuận về việc bên bán có thể thanh toán bằng tiền và không
giao hàng thì bên bán phải thanh toán cho bên mua một khoản tiền bằng mức chênh lệch giữa
giá thị trường do Sở giao dịch hàng hoá công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện và giá
thoả thuận trong hợp đồng.

38. Những điều kiện và hạn chế đối với thương nhân môi giới mua hàng hóa qua sở
giao dịch mua bán hàng hóa?

Theo quy định tại Điều 69 Luật Thương mại 2005 thì thương nhân môi giới mua bán hàng
hoá qua Sở Giao dịch hàng hoá được quy định cụ thể như sau:

-Thương nhân môi giới mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá chỉ được phép hoạt
động tại Sở Giao dịch hàng hoá khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Chính phủ quy định chi tiết điều kiện hoạt động của thương nhân môi giới mua bán hàng hoá
qua Sở giao dịch hàng hoá.
- Thương nhân môi giới mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá chỉ được phép thực
hiện các hoạt động môi giới mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá và không được
phép là một bên của hợp đồng mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá.

- Thương nhân môi giới mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá có nghĩa vụ đóng tiền
ký quỹ tại Sở giao dịch hàng hoá để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình
hoạt động môi giới mua bán hàng hoá. Mức tiền ký quỹ do Sở giao dịch hàng hoá quy định.

Mặt khác, theo quy định tại Điều 70 Luật Thương mại 2005 thì cấm thương nhân môi giới
hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá thực hiện các hành vi sau:

- Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi thường toàn bộ hoặc một phần thiệt
hại phát sinh hoặc bảo đảm lợi nhuận cho khách hàng.

- Chào hàng hoặc môi giới mà không có hợp đồng với khách hàng.

- Sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho khách hàng.

- Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý việc môi giới hợp đồng theo các nội
dung đã thoả thuận với khách hàng.

- Gian lận, lừa dối về khối lượng hàng hóa trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền
chọn được giao dịch hoặc có thể được giao dịch và gian lận, lừa dối về giá thực tế của loại
hàng hoá trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn;

-Đưa tin sai lệch về các giao dịch, thị trường hoặc giá hàng hoá mua bán qua Sở giao dịch
hàng hóa;

- Dùng các biện pháp bất hợp pháp để gây rối loạn thị trường hàng hóa tại Sở giao dịch hàng
hoá;

- Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật.

==> Căn cứ quy định đã được trích dẫn và phân tích trên đây thì thương nhân môi giới hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hoá không được sử dụng giá giả tạo khi môi giới cho khách hàng.

39. Những hành vi bị cấm trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch mua
bán hàng hóa?

Theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 Luật thương mại 2005 có quy định một số hành vi bị
cấm trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch như sau:
– Nhân viên của Sở giao dịch hàng hoá không được phép môi giới, mua bán hàng hoá qua Sở
giao dịch hàng hoá.

– Các bên liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá không được
thực hiện các hành vi sau đây:

+ Gian lận, lừa dối về khối lượng hàng hóa trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền
chọn được giao dịch hoặc có thể được giao dịch và gian lận, lừa dối về giá thực tế của loại
hàng hoá trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn.

+ Đưa tin sai lệch về các giao dịch, thị trường hoặc giá hàng hoá mua bán qua Sở giao dịch
hàng hóa.

+ Dùng các biện pháp bất hợp pháp để gây rối loạn thị trường hàng hóa tại Sở giao dịch hàng
hoá.

– Đối với thương nhân hoạt động môi giới hàng hóa qua sở giao dịch, ngoài việc không được
thực hiện các hành vi trên còn bị cấm các hành vi sau:

+ Chào hàng hoặc môi giới mà không có hợp đồng với khách hàng.

+ Sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác.

+ Lôi kéo khách hàng ký hợp đồng bằng cách hứa hẹn bồi thường phát sinh hoặc bảo đảm lợi
nhuận cho khách hàng.

+ Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý theo các nội dung đã thỏa thuận với
khách hàng.

Như vậy, pháp luật đã đưa ra quy định cụ thể về các hành vi bị cấm trong mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hoá. Các chủ thể nếu vi phạm bào điều cấm được nêu cụ thể bên trên
thì căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi mà sẽ bị xử lý theo đúng quy định pháp luật.
NỘI DUNG 3: PHÁP LUẬT VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI

40. Khái niệm, đặc điểm dịch vụ thương mại. Phân loại dịch vụ thương mại?

 Khái niệm:

Dịch vụ thương mại là Dịch vụ gắn liền với thương mại nhằm phục vụ cho việc thương mại
(vd. Dịch vụ giao nhận hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa, dịch vụ quảng cáo thương
mại) được quy định trong Luật thương mại.

 Đặc điểm: Dịch vụ thương mại có tính quá trình, không tiêu chuẩn hóa được và không
đồng nhất; nó còn mang tính liên hoàn, kết hợp từ sản xuất, cung cấp và sử dụng dịch
vụ; không cần nắm được, không lưu kho, lưu bãi được.
 Tính vô hình hay phi vật chất

• Dễ thấy tất cả các sản phẩm dịch vụ đều vô hình, do vậy người ta không thể biết được chất
lượng của dịch vụ trước khi tiêu dùng chúng. Không những thế ngay cả chất lượng của dịch
vụ cũng rất khó đánh giá, vì nó chịu nhiều tác động của các yếu tố khác nhau như người bán,
người mua và cả thời điểm mua bán dịch vụ đó.

• Do vậy, để giảm bớt tính không chắc chắn khi tiêu dùng dịch vụ, người mua thường tham
khảo ý kiến của những người đã tiêu dùng dịch vụ, hay họ có thể căn cứ vào địa điểm, nhân
viên, trang thiết bị, thông tin, biểu tượng hay giá cả.

 Tính không thể tách rời ra khỏi nguồn gốc

• Tức là các sản phẩm dịch vụ thương mại có quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời.
Do vậy, khác với sản phẩm vật chất, sản xuất xong mới tiêu thụ được mà ở sản phẩm dịch vụ
quá trình này phải diễn ra đồng thời.

• Dịch vụ thương mại không thể tách rời ra khỏi nguồn gốc của nó cho dù đó là người hay
máy móc. Đây cũng là một điểm hạn chế của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, vì vậy cần có
những quan điểm chiến lược khắc phục sự hạn chế này, ví dụ như nhân viên cung ứng dịch
vụ có thể học cách làm việc với những nhóm đông khách hàng, nhà cung ứng có thể tìm cách
làm giảm thời gian cung ứng dịch vụ hoặc mở rộng mạng lưới phân phối bằng cách đào tạo
nhiều người cung ứng dịch vụ hơn.

 Tính không lưu giữ được

• Dịch vụ thương mại không thể được cất trữ trong kho để làm phần đệm cho sự thay đổi nhu
cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác. Chính vì vậy sản phẩm dịch vụ tuy không mất
chi phí bảo quản trong kho nhưng bên cạnh đó đặc điểm này còn gây nên nhiều hạn chế khác.

• Sẽ không có gì đáng nói nếu nhu cầu về dịch vụ ổn định và dự đoán đựơc chính xác nhưng
nếu nhu cầu dịch vụ thay đổi thất thường thì doanh nghiệp kịnh doanh dịch vụ sẽ gặp khó
khăn rất lớn về khả năng huy động cơ sở vật chất kỹ thuật và nhân lực.

• Do vậy, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thương mại cần xây dựng kế hoạch về nhu
cầu thị trường thật chính xác để có các phương án thích hợp khi nhu cầu thị trường thay đổi
hoặc tăng cao. Giống như trong đợt tết vừa qua hãng Hàng không Việt Nam đã phải thực hiện
hàng loạt chuyến bay không tải từ miền Nam ra miền Bắc, bởi nhu cầu đi một chiều từ miền
Bắc vào miền Nam sau tết tăng quá cao

 Phân loại dịch vụ thương mại:

Phân loại theo tính chất của dịch vụ

a) Dịch vụ có tính chất sản xuất:

Loại dịch vụ này làm tăng giá trị hàng hoá, trực tiếp tham gia góp phần vào thu nhập quốc
dân.

• Vận chuyển hàng hoá cho khách

• Chuẩn bị hàng trước khi bán (như phân loại bao gói, chỉnh lý, pha cắt, chia nhỏ, pha chế,
lắp ráp, sản phẩm…)

• Dịch vụ kỹ thuật lắp ráp, bảo hành, bảo dưỡng, sửa chữa khi sử dụng hoặc cung cấp dịch vụ
cho khách hàng.

• Dịch vụ cho thuê thiết bị, phương tiện (nếu có)


b) Dịch vụ không có tính sản xuất

• Doanh nghiệp giới thiệu hàng hoá để bán trực tiếp hàng hoá đó cho khách hàng thông tin về
sản phẩm, về tổ chức sản xuất về phân phối cũng như năng lực loại dịch vụ này có ý nghĩa rất
quan trọng.

• Kỹ thuật và nghệ thuật truyền thông bằng các phương tiện khác nhau trong không gian theo
thời gian hàng hoá về dịch vụ về tổ chức quản lý và các nguồn lực cho khách hàng. Các
phương tiện quảng cáo rất đa dạng và phong phú (như báo, Cataloge, các ấn phẩm đài, vô
tuyến, Internet, áp phích…) hình thức thể hiện quảng cáo lời viết chữ, nói, âm thanh, ánh sắc
hình ảnh màu sắc…

• Triển lãm hội chợ thương mại: vừa giới thiệu quảng cáo, vừa bán hàng và nghiên cứu thị
trường, tổ chức hội nghị, hội thảo ký kết các hợp đồng các dịch vụ thuộc loại này không trực
tiếp tạo ra thu nhập quốc dân nhưng lại góp phần gia tăng thu nhập quốc dân trong sản xuất

a) Dịch vụ trong giai đoạn mua

• Thực chất đây là dịch vụ trong khâu cung ứng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Tuỳ
từng loại “đầu vào” khác nhau của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể và cần thiết
nghiên cứu lựa chọn các dịch vụ thương mại sau đây.

• Dịch vụ thông tin về nhà cung cấp. Các giao dịch đàm phán mua hàng dịch vụ pháp lý về
đơn hàng, dịch vụ kiểm định hàng hoá, dịch vụ hải quan, bảo hiểm, vận tải, kho hàng, thanh
toán, hội nghị cung ứng…

b) Dịch vụ trong giai đoạn bán

• Chuẩn bị hàng để bán, chuyên chở hàng hoá đến khu vực bán hàng trưng bày, quảng cáo
hàng hoá tại nơi bán, các dịch vụ hải quan giám định chất lượng và xuất xứ hàng hoá…

• Giới thiệu hàng hoá cho khách và hướng dẫn chọn mua, hướng dẫn sử dụng, vận chuyển
bốc dỡ hàng hoá theo yêu cầu của khách trả lời các yêu cầu của khách hàng, kiểm tra vận tải
và dịch vụ vận chuyển giao nhận…

• Lắp đặt bảo hành, bảo dưỡng thay thế, sửa chữa, thông tin và đáp ứng các khuyến nghị từ
khách hàng, tổ chức các hội nghị của khách hàng, các dịch vụ thanh toán.
Phân loại dịch vụ theo hành vi thương mại

Dịch vụ thương mại bao gồm một số loại cơ bản sau đây:

a) Môi giới thương mại

Đó là dịch vụ thông qua người trung gian, người môi giới để thực hiện mua bán sản phẩm.
Người môi giới là thương nhân, một mặt làm trung gian cho các bên trao đổi mua bán hàng
hoá. Dịch vụ này có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng,
mở rộng kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động. Quyền và nghĩa vụ của người giới thiệu
thực hiện theo quy định trong luật thương mại.

b) Dịch vụ giao nhận hàng hoá

Dịch vụ người làm công việc giao nhận hàng hoá nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận
chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan phạm vi
các dịch vụ giao nhận hàng hoá, người giao nhận hàng hoá là thay mặt người gửi hàng làm
nảy sinh dịch vụ trong quá trình chuyên chở hàng hoá …

c) Dịch vụ giám định hàng hoá

Là dịch vụ do một tổ chức giám định độc lập thực hiện để xác định tình trạng thực tế của
hàng hoá theo yêu cầu của cá nhân cơ quan tổ chức và doanh nghiệp. Giám định về số lượng,
chất lượng quy cách bao bì, giá trị hàng hoá các tổn thất, sự an toàn, vệ sinh các yêu cầu
khác.

Hoạt động giám định phải đảm bảo các nguyên tắc hoạt động khách quan khoa học và chính
xác. Kết quả giám định là chứng thư giám định văn bản pháp lý để đảm bảo lợi ích các bên
tham gia hợp đồng và giải quyết các tranh chấp xảy ra

d) Quảng cáo thương mại

Là dịch vụ nhằm cung cấp thông tin cho khách hàng về chủng loại hàng hoá, quy cách chất
lượng, giá cả phương thức bán các dịch vụ khách hàng của doanh nghiệp. Cung cấp thông tin
đầy đủ đồng bộ ngắn gọn, hấp dẫn khách hàng trung thực không làm tổn hại lợi ích doanh
nghiệp khác và môi trường lựa chọn hình thức, phương tiện thích hợp và đảm bảo hiệu quả.

e) Hỗ trợ triển lãm thương mại.


Đây là hoạt động xúc tiến của thương mại tập trung trong một thời gian địa điểm nhất định.
Có nhiều loại hội chợ, triển lãm thương mại khác nhau như hội chợ triển lãm tổng hợp,
chuyên ngành, quy mô vùng, quốc gia quốc tế.

41. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại?

Khái niệm:

Hợp đồng cung ứng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên khi tham gia hợp đồng, theo đó
một bên được gọi là bên cung ứng dịch vụ thì biên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện
dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán từ bên mà bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện
dịch vụ cho đó là bên sử dụng dịch vụ hay còn được gọi là khách hàng thì bên sử dụng dịch
vụ có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận

Đặc điểm:

– Chủ thể của hợp đồng cung ứng dịch vụ là bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ
(khách hàng); hai bên là bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ có thể là cá nhân, tổ
chức. Ví dụ như, bên cung ứng dịch vụ có thể là một công ty viễn thông cung cấp dịch vụ
mạng cho khách hàng là cá nhân. Cũng như có trường hợp bên cung ứng dịch vụ là một cá
nhân (chuyên gia pháp lý, Luật sư,…) cung ứng dịch vụ tư vấn pháp lý cho một tổ chức
(công ty, doanh nghiệp).

– Đối tượng của hợp đồng cung ứng dịch vụ là một loại hình cung ứng dịch vụ nào đó nhưng
tính chất của hợp đồng cung ứng dịch vụ sẽ tùy thuộc vào loại hình dịch vụ. hợp đồng cung
ứng dịch vụ có loại hình dịch vụ có thể là những dịch vụ đơn giản như dịch vụ gửi giữ tài sản,
dịch vụ photocopy, dịch vụ dịch thuật… hoặc những dịch vụ phức tạp hơn trong quá trình
thực hiện hợp đồng như dịch vụ tư vấn, dịch vụ quảng cáo, dịch vụ chuyên chở, dịch vụ ngân
hàng…

– Nội dung của hợp đồng cung ứng dịch vụ là quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ
và bên sử dụng dịch vụ, trong đó bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu là thực hiện dịch
vụ cho bên khách hàng, còn bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu là thanh toán phí sử
dụng dịch vụ hay còn được gọi là phí dịch vụ.

– Hình thức của hợp đồng cung ứng dịch vụ có thể được thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng cung ứng dịch vụ mà pháp
luật quy định phải được thiết lập bằng văn bản thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 74
Luật Thương mại 2005).

42. Nội dung của hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại ?

-Nội dung của hợp đồng dịch vụ bao gồm tổng hợp các điều khoản trong hợp đồng. Trong
một hợp đồng dịch vụ, các bên có thể thỏa thuận về: đối tượng, giá dịch vụ, thời hạn hoàn
thành dịch vụ, thời hạn thanh toán

43. Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ trong hợp đồng cung ứng dịch vụ
thương mại?

Theo Điều 517 Bộ luật dân sự 2015 thì bên cung ứng dịch vụ có một số nghĩa vụ sau:

Thực hiện công việc đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và thỏa thuận khác. Nghĩa
vụ của bên cung ứng dịch vụ tương ứng với quyền của bên sử dụng dịch vụ được quy định tại
khoản 1 Điều 516 Bộ luật dân sự năm 2015. Nói một cách khác, nghĩa vụ thực hiện công việc
đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và các thỏa thuận khác là cách thức thỏa mãn
quyền của bên sử dụng dịch vụ trong hợp đồng dịch vụ. Các yêu cầu về chất lượng, số lượng,
thời hạn, địa điểm thực hiện công việc trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của bên cung ứng
dịch vụ tương đồng với nội dung quyền của bên sử dụng dịch vụ.

Bảo quản và giao lại cho bên sử dụng dịch vụ tài liệu và phương tiện được giao sau khi hoàn
thành công việc: Nghĩa vụ bảo quản tài liệu, phương tiện được bên thuê dịch vụ giao cho bên
cung ứng dịch vụ trong suốt quá trình thực hiện công việc. Nghĩa vụ bảo quản sẽ phải đảm
bảo ở hai góc độ là bảo đảm và quản lý

Bảo đảm về mặt chất lượng, số lượng như tình trạng khi bên sử dụng dịch vụ giao cho mình

+ Và quản lý, sử dụng các thông tin, phương tiện này đúng mục đích như các bên đã thỏa
thuận.

Việc bảo quản cho phép các tài sản hao mòn theo quy luật tự nhiên về vận động của thế giới
vật chất.

Nghĩa vụ giao lại thông tin, tài liệu, phương tiện sau khi hoàn thành công việc. Nghĩa vụ giao
lại thông tin, tài liệu và phương tiện thực hiện công việc cần đảm bảo hai yếu tố:
+ Một là đảm bảo chất lượng, số lượng thông tin, tài liệu, phương tiện tương đương như khi
bên sử dụng dịch vụ bàn giao cho bên cung ứng dịch vụ (trừ các hao mòn tự nhiên);

+ Hai là thời gian bàn giao là khi công việc đã hoàn thành. Thời gian hoàn thành được xác
định trong hợp đồng dịch vụ và có thể là mốc thời gian cụ thể hoặc theo một sự kiện pháp lý.

Báo ngay cho bên sử dụng dịch vụ về việc thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện
không đảm bảo chất lượng để hoàn thành công việc. Nghĩa vụ này được thực hiện với các
điều kiện cụ thể sau:

+ Về chất lượng thông tin, tài liệu không đầy đủ: Điều này đồng nghĩa các thông tin, tài liệu
này chưa đảm bảo thực hiện được công việc theo kết quả dự kiến ban đầu của các chủ thể và
phương tiện không đảm bảo chất lượng dẫn đến công việc không thực hiện hoặc nếu có thực
hiện thì cũng không đem lại kết quả như đã thỏa thuận.

+ Thời gian thông báo phải là ngay lập tức: Điều này đồng nghĩa bên cung ứng dịch vụ phải
thông báo tới cho bên sử dụng dịch vụ với các khía cạnh sau:

Sau khi tiếp nhận, phân tích các thông tin, tài liệu và bằng chuyên môn của mình, bên cung
ứng dịch vụ nhận thấy không thể thực hiện trên cơ sở thông tin, tài liệu, phương tiện đã cung
cấp thì sẽ tiến hành thông báo cho bên thuê dịch vụ.

Đảm bảo thông báo trước thời điểm phải bắt đầu thực hiện dịch vụ. Các bên chủ thể có thể
thỏa thuận thời điểm thực hiện dịch vụ theo mốc thời gian hoặc theo sự kiện nhất định
(thường là đã hoàn thành tập hợp thông tin, tài liệu, phương tiện thực hiện công việc đầy đủ)
để bắt đầu thực hiện công việc. Như vậy, xác định thời gian thực hiện nghĩa vụ thông báo về
việc thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không đảm bảo chất lượng được xác định
trên cơ sở thỏa thuận của các bên hoặc theo tính chất của thông tin, tài liệu trong trường hợp
các bên không có thỏa thuận.

Theo Điều 518 Bộ luật dân sự 2015 thì để thuận lợi trong quá trình thực hiện công việc, bên
cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện phục vụ cho
thực hiện công việc. Tương ứng với quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện
thực hiện công việc là nghĩa vụ cung cấp của bên sử dụng dịch vụ được quy định tại Khoản 1
Điều 516 Bộ luật dân sự năm 2015.
Khoản 2 Điều 518 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về quyền của bên cung ứng dịch vụ như
sau:

Được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên sử dụng dịch vụ mà không nhất thiết phải
chờ ý kiến của bên sử dụng dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên sử dụng dịch
vụ, nhưng phải báo ngay cho bên sử dụng dịch vụ.

Điều kiện thực hiện dịch vụ là tổng hợp các điều kiện để thực hiện công việc và điều kiện
thực. Bên cung ứng dịch vụ chỉ có quyền thay đổi điều kiện dịch vụ mà không cần chờ sự
đồng ý của bên sử dụng dịch vụ khi thỏa mãn các điều kiện:

- Thay đổi điều kiện dịch vụ là yêu cầu bắt buộc để thực hiện hoặc tiếp tục thực hiện dịch vụ:
Thực hiện dịch vụ là một quá trình nên trong quá trình này sẽ có nhiều biến động mang tính
khách quan ảnh hưởng đến việc thực hiện và khả năng hoàn thành công việc. Trong các tình
huống này buộc phải có sự điều chỉnh nhằm đáp ứng mục tiêu công việc hoàn thành và đạt
được kết quả như dự liệu. Do đó; bên cung ứng dịch vụ bằng kinh nghiệm, năng lực sẵn có
của mình phải đánh giá và có sự điều chỉnh điều kiện dịch vụ cho phù hợp. Đây là một yếu tố
không dễ định lượng nên nó được xác định trên cơ sở kinh nghiệm, chuyên môn, trách nhiệm
và năng lực thực tế của bên cung ứng đối với khách hàng.

- Việc chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ có thể dẫn đến thiệt hại cho chính chủ thể này: Thiệt
hại thực tế là các thiệt hại mang tính vật chất hoặc tổn thất tinh thần của bên sử dụng dịch vụ
khi công việc không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng. Tùy tính chất của từng loại
công việc, mục đích thực hiện công việc khác nhau nên các thiệt hại cũng khác nhau.

- Bên cung ứng dịch vụ phải thông báo ngay cho bên sử dụng dịch vụ về việc thay đổi điều
kiện dịch vụ của mình: Hình thức của thông báo do bên cung ứng dịch vụ quyết định sao cho
phù hợp với điều kiện của cả hai bên, đảm bảo tính chất nhanh, gọn và kịp thời. Nghĩa vụ
thông báo ngay cũng phù hợp với tính chất của quan hệ hợp đồng - luôn là sự thống nhất ý
chí của các bên, cũng như giúp bên thuê dịch vụ có thể thể hiện được ý chí của mình. Trong
một số trường hợp, bên thuê dịch vụ không đồng ý với việc thay đổi điều kiện dịch vụ, chấp
nhận các thiệt hại có thể gặp phải khi thực hiện theo điều kiện dịch vụ đã được thỏa thuận thì
sẽ có quyền thể hiện mong muốn của mình.

44. Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ trong hợp đồng cung ứng dịch vụ
thương mại?
* Quyền của bên sử dụng dịch vụ:

Yêu cầu bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn,
địa điểm và thỏa thuận khác.

– Trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên sử dụng dịch vụ
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại

* Nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ:

– Cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ thông tin, tài liệu và các phương tiện cần thiết để thực
hiện công việc, nếu có thỏa thuận hoặc việc thực hiện công việc đòi hỏi.

– Trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận.

Ngoài các quyền và nghĩa vụ nêu trên, các bên có thể thỏa thuận thêm quyền và nghĩa vụ
khác trong hợp đồng dịch vụ

45.Phân biệt nghĩa vụ cần mẫn tổng quát và nghĩa vụ thành quả? Ý nghĩa của việc phân
biệt này trong hợp đồng dịch vụ?

46. Khái niệm, đặc điểm của dịch vụ logistics? Điều kiện để kinh doanh dịch vụ
logistics?
Trong Bộ Luật thương mại, điều 233 LTM 2005 cũng có định nghĩa về dịch vụ logistics cụ
thể như sau:“ Dịch vụ logistics là thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện nhiều
công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục
giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ
khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.”
Đặc điểm của dịch vụ logisticstics
Do thương nhân thực hiện
Dịch vụ logistics sẽ do thương nhân đảm nhiệm thực hiện. Khi lựa chọn cung ứng dịch vụ,
thương nhân cần phải đáp ứng đầy đủ các quy định theo pháp luật:

 Đăng ký kinh doanh


 Đảm bảo đáp ứng các điều kiện về phương tiện thiết bị
 Đảm bảo các công cụ cần thiết cho công việc
 Đảm bảo tiêu chuẩn an toàn và yêu cầu kỹ thuật trong vận chuyển hàng hóa
 Có đủ số lượng nhân viên theo quy mô dịch vụ.

Hiện nay, có khá nhiều công ty dịch vụ logistics. Để dễ hình dung hơn về logistics, bạn có thể
tìm hiểu kỹ hơn qua dịch vụ các công ty như: Viettel, Bưu điện, Kho vận miền Nam, Tân
cảng Sài Gòn, Giao nhận toàn cầu DHL
Có một đặc điểm của dịch vụ logistics mà bạn cần đặc biệt lưu ý. Đó là các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ không thể can thiệp vào chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Đồng thời, các
công ty logistics còn có thể liên kết với 1 bên thứ 3 (ví dụ các công ty chuyên về vận
chuyển). Vì vậy, hàng hóa cũng có thể sẽ tiềm ẩn rủi ro hư hỏng, mất mát. Hoặc tác động từ
các yếu tố khách quan cũng làm hư hỏng hàng hóa.
Chính vì vậy, pháp luật cũng có các quy định cụ thể để đảm bảo và giới hạn trách nhiệm cho
các thương nhân thực hiện dịch vụ.
Là dịch vụ có tính hoàn thiện cao nhất
Nhiều doanh nghiệp chỉ thực hiện 1 khâu trong toàn bộ các dịch vụ logistics. Khi đó, họ cũng
tự nhận mình là đơn vị dịch vụ logistics. Trên thực tế, dịch vụ logistics có bước phát triển cao
nhất.
Nó không chỉ bao gồm vận tải, giao nhận, lưu kho. Nó còn bao trùm cả một dây chuyền cung
ứng vận tải phức tạp. Thương nhân thực hiện dịch vụ logistics sẽ thực hiện quy trình theo
chuỗi để đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Đóng vai trò quan trọng với doanh nghiệp
Logistics không chỉ có ý nghĩa trong bán hàng. Nó đóng vai trò trong toàn bộ quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Logistics hỗ trợ tất cả các khâu từ chuẩn bị nguyên liệu,
sản xuất, phân phối thành phẩm đến tay người dùng. Doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics
hiệu quả sẽ giúp tiết kiệm tối đa chi phí. Đồng thời cũng giúp thúc đẩy tăng trưởng và hạn
chế tối đa rủi ro
Ngoài ra, các dịch vụ logistics chuyên về lưu trữ và kiểm kê hàng hóa sẽ giúp doanh nghiệp
chủ động nhất trong kinh doanh. Từ đó, hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp cũng tốt hơn.
Được thực hiện trên cơ sở hợp đồng các bên
Dịch vụ logistics được thực hiện trên cơ sở hợp đồng thỏa thuận giữa các bên. Thương nhân
thực hiện dịch vụ sẽ được nhận thù lao tương ứng với công việc. Hợp đồng đơn giản hay
phức tạp phụ thuộc vào từng mức độ sử dụng dịch vụ của khách hàng. Trong hợp đồng sẽ có
điều khoản đền bù cụ thể để đảm bảo trách nhiệm của đơn vị logistics.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics
1. Thương nhân kinh doanh các dịch vụ cụ thể thuộc dịch vụ logistics quy định tại Điều 3
Nghị định này phải đáp ứng các điều kiện đầu tư, kinh doanh theo quy định của pháp luật đối
với dịch vụ đó.
2. Thương nhân tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh logistics bằng
phương tiện điện tử có kết nối mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở
khác, ngoài việc phải đáp ứng theo quy định của pháp luật đối với các dịch vụ cụ thể quy
định tại Điều 3 Nghị định này, còn phải tuân thủ các quy định về thương mại điện tử.
3. Điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics:
Ngoài việc đáp ứng các điều kiện, quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, nhà đầu tư nước
ngoài thuộc nước, vùng lãnh thổ là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới được cung cấp
dịch vụ logistics theo các điều kiện sau:
a) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển (trừ vận tải nội
địa):
- Được thành lập các công ty vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam hoặc góp vốn, mua cổ phần,
phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không
quá 49%. Tổng số thuyền viên nước ngoài làm việc trên các tàu treo cờ quốc tịch Việt Nam
(hoặc được đăng ký ở Việt Nam) thuộc sở hữu của các công ty này tại Việt Nam không quá
1/3 định biên của tàu. Thuyền trưởng hoặc thuyền phó thứ nhất phải là công dân Việt Nam.
- Công ty vận tải biển nước ngoài được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần,
phần vốn góp trong doanh nghiệp.
b) Trường hợp kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ vận tải biển (có
thể dành riêng một số khu vực để cung cấp các dịch vụ hoặc áp dụng thủ tục cấp phép tại các
khu vực này), được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong
doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%. Nhà đầu tư
nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức hợp đồng
hợp tác kinh doanh.
c) Trường hợp kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ mọi phương
thức vận tải, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay, được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn,
mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước
ngoài không quá 50%.
d) Trường hợp kinh doanh dịch vụ thông quan thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, được thành
lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó có
vốn góp của nhà đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập hiện diện
thương mại tại Việt Nam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
đ) Trường hợp kinh doanh các dịch vụ khác, bao gồm các hoạt động sau: Kiểm tra vận đơn,
dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng
lượng; dịch vụ nhận và chấp nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng từ vận tải, được thành lập
doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó có vốn
góp của nhà đầu tư trong nước.
e) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường thủy nội địa,
dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường sắt, được thành lập doanh nghiệp hoặc
góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu
tư nước ngoài không quá 49%.
g) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường bộ, được
thực hiện thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc được thành lập doanh
nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp
của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%. 100% lái xe của doanh nghiệp phải là công dân
Việt Nam.
h) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thực hiện theo quy định của pháp luật
về hàng không.
i) Trường hợp kinh doanh dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật
- Đối với những dịch vụ được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ được thực
hiện dưới hình thức doanh nghiệp trong đó có vốn góp của nhà đầu tư trong nước sau ba năm
hoặc dưới hình thức doanh nghiệp trong đó không hạn chế vốn góp nhà đầu tư nước ngoài
sau năm năm, kể từ khi nhà cung cấp dịch vụ tư nhân được phép kinh doanh các dịch vụ đó.
- Không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận
tải.
- Việc thực hiện dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật bị hạn chế hoạt động tại các khu vực
địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phòng.
4. Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng áp dụng của các điều ước quốc tế có
quy định khác nhau về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics, nhà đầu tư được lựa chọn áp
dụng điều kiện đầu tư quy định tại một trong các điều ước đó.

47. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics? Vấn đề miễn
trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics?
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có các quyền
và nghĩa vụ sau đây:

 Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác;
 Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách
hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn
của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng;
 Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một phần hoặc toàn
bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ
dẫn;
 Trường hợp không có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách
hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý.

Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải tuân
thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.
Vấn đề miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics: Thương nhân
logistics cũng sẽ được miễn trách nhiệm nếu không nhận được thông báo khiếu nại trong thời
hạn 14 ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận.

48. Quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa trong dịch vụ logistics?

Về quyền cầm giữ hàng hóa, theo quy định tại khoản 1 Điều 239 Luật thương mại 200,
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền cầm giữ một số lượng hàng hoá nhất
định và các chứng từ liên quan đến số lượng hàng hoá đó để đòi tiền nợ đã đến hạn của
khách hàng nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng.
Sau thời hạn bốn mươi lăm ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ hàng hoá hoặc chứng từ
liên quan đến hàng hoá, nếu khách hàng không trả tiền nợ thì thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics có quyền định đoạt hàng hoá hoặc chứng từ đó theo quy định của pháp luật;
trong trường hợp hàng hoá có dấu hiệu bị hư hỏng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics có quyền định đoạt hàng hóa ngay khi có bất kỳ khoản nợ đến hạn nào của khách
hàng.
Trước khi định đoạt hàng hoá, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải thông báo
ngay cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hoá đó. Mọi chi phí cầm giữ, định đoạt
hàng hóa do khách hàng chịu. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được sử dụng số
tiền thu được từ việc định đoạt hàng hoá để thanh toán các khoản mà khách hàng nợ mình
và các chi phí có liên quan; nếu số tiền thu được từ việc định đoạt vượt quá giá trị các
khoản nợ thì số tiền vượt quá phải được trả lại cho khách hàng. Kể từ thời điểm đó,
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoá
hoặc chứng từ đã được định đoạt.
49. Trách nhiệm tài sản trong dịch vụ logistics?
 Tiếp nhận hàng hóa vận chuyển của bên thuê vận chuyển
 Tổ chức vận chuyển hàng hoá theo đúng các điều kiện đã thỏa thuận
 Trả hàng hóa cho người có quyền nhận hàng
 (Đây là các ý chính đọc thêm tr.244,245,246,247,248)

50. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng sử dụng dịch vụ logistics?

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, khách hàng có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

 Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng;
 Cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics;
 Thông tin chi tiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hoá cho thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics;
 Đóng gói, ghi ký mã hiệu hàng hoá theo hợp đồng mua bán hàng hoá, trừ trường hợp
có thỏa thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đảm nhận công việc này;
 Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc trong trường hợp
do lỗi của mình gây ra;
 Thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản tiền đã đến hạn
thanh toán.

51. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của giám định thương mại? Điều kiện kinh doanh
dịch vụ giám định thương mại
Giám định thương mại là hoạt động của bên thứ ba nhằm đánh giá tình trạng thực tế của đối
tượng giám định theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Đặc điểm pháp lý của giám định thương mại
Chủ thể tham gia quan hệ giám định có hai bên
Nội dung của hoạt động giám định:
Cơ sở pháp lý của dịch vụ giám định thương mại: Đó là hợp đồng giám định thương mại.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định thương mại được quy định cụ thể tại Điều 257 Luật
Thương mại năm 2005.
Để kinh doanh dịch vụ giám định thương mại phải là doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp phải có giám định viên đủ tiêu chuẩn để thực hiện việc giám định thương mại
Doanh nghiệp phải có khả năng thực hiện quy trình, phương pháp giám định hàng hóa, dịch
vụ theo quy định của pháp luật, tiêu chuẩn quốc tế hoặc đã được các nước áp dụng một cách
phổ biến trong giám định hàng hóa, dịch vụ đó.
52. Khái niệm, đặc điểm và giá trị pháp lý của chứng thư giám định?
Căn cứ Điều 260. Chứng thư giám định Luật Thương Mại năm 2005 sửa đổi bổ sung năm
2017 quy định: Chứng thư giám định là văn bản xác định tình trạng thực tế của hàng hóa,
dịch vụ theo các nội dung giám định được khách hàng yêu cầu.
Đặc điểm của chứng thư giám định:
Giá trị pháp lý của chứng thư giám định thương mại theo Luật thương mại

 Giá trị pháp lý của chứng thư giám định đối với bên yêu cầu giám định

– Giá trị pháp lý của chứng thư giám định đối với bên yêu cầu giám định
Chứng thư giám định có giá trị pháp lý, đối với bên yêu cầu giám định nếu bên yêu cầu giám
định không chứng minh được kết quả giám định không khách quan, không trung thực hoặc
sai về kỹ thuật và đối với bên nghiệp vụ giám định.

 Giá trị pháp lý của chứng thư giám định đối với các bên trong hợp đồng

– Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc sử dụng chứng thư giám định của một
thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cụ thể thì chứng thư giám định đó có giá trị pháp
lý đối với tất cả các bên nếu không chứng minh được kết quả giám định không khách quan và
không trung thực hoặc sai về kỹ thuật và nghiệp vụ giám định.
– Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc sử dụng chứng thư giám định của
một thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cụ thể thì chứng thư giám định có giá trị
pháp lý đối với các bên yêu cầu giám định theo quy định tại Điều 261 của Luật Thương mại
năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định. Bên kia trong hợp đồng có quyền yêu cầu
giám định lại.
– Khi chứng thư giám định lại có kết quả khác với chứng thư giám định ban đầu thì xử lý
như sau: Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định
ban đầu thừa nhận kết quả của chứng thư giám định lại thì kết quả của chứng thư giám định
lại có giá trị pháp lý với tất cả các bên và lưu ý trong Trường hợp thương nhân kinh doanh
dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định ban đầu không thừa nhận kết quả của chứng thư
giám định lại thì các bên thỏa thuận lựa chọn một thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định
khác giám định lại lần thứ hai. Kết quả giám định lại lần thứ hai có giá trị pháp lý với tất cả
các bên
53. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định và khách hàng
sử dụng dịch vụ giám định?
Theo quy định tại Điều 263 Luật Thương mại 2005 thì quyền và nghĩa vụ của thương
nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại được quy định cụ thể như sau:
- Thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định có các quyền sau đây:
+ Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các tài liệu cần thiết để thực hiện
dịch vụ giám định;
+ Nhận thù lao dịch vụ giám định và các chi phí hợp lý khác.
- Thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định có các nghĩa vụ sau đây:
+ Chấp hành các tiêu chuẩn và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến dịch vụ
giám định;
+ Giám định trung thực, khách quan, độc lập, kịp thời, đúng quy trình, phương pháp giám
định;
+ Cấp chứng thư giám định;
+ Trả tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 266 của Luật Thương
mại 2005.
Theo quy định tại Điều 264 và Điều 265 Luật Thương mại 2005 thì quyền và nghĩa vụ
của khách hàng yêu cầu giám định thương mại được quy định cụ thể như sau:
- Quyền của khách hàng
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng có các quyền sau đây:
+ Yêu cầu thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thực hiện việc giám định theo nội dung
đã thoả thuận;
+ Yêu cầu giám định lại nếu có lý do chính đáng để cho rằng thương nhân kinh doanh dịch
vụ giám định không thực hiện đúng các yêu cầu của mình hoặc thực hiện giám định thiếu
khách quan, trung thực hoặc sai về kỹ thuật, nghiệp vụ giám định;
+ Yêu cầu trả tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 266 của Luật
Thương mại 2005.
- Nghĩa vụ của khách hàng
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng có các nghĩa vụ sau đây:
+ Cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các tài liệu cần thiết cho thương nhân kinh doanh dịch
vụ giám định khi có yêu cầu;
+ Trả thù lao dịch vụ giám định và các chi phí hợp lý khác.
54. Đấu giá hàng hóa là gì? Các phương thức đấu giá? Ý nghĩa của việc đấu giá bán
hàng hóa

Đấu giá hàng hóa là phương thức bán hàng đặc biệt. Trong đó, người bán tự mình hoặc
thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai tại một địa điểm và
thời gian đã thông báo trước để những người muốn mua đến trả giá. Quyền mua hàng
hóa sẽ thuộc về người trả giá cao nhất.

Việc đấu giá hàng hoá được thực hiện theo một trong hai phương thức sau đây:
a) Phương thức trả giá lên là phương thức bán đấu giá, theo đó người trả giá cao nhất so
với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng;
b) Phương thức đặt giá xuống là phương thức bán đấu giá, theo đó người đầu tiên chấp
nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là
người có quyền mua hàng.”
Tóm lại, đấu giá hàng hóa là một hoạt động thương mại mà ở đó ngừa bán sẽ tự mình tiến
hành cuộc đấu giá hoặc thuê tổ chức đấu giá để thực hiện việc bán hàng hóa công khai với
mục đích chọn được nhà đầu tư trả giá cao nhất. Hiện tại, đấu giá hàng hóa được phân loại
theo 2 phương thức bao gồm: Phương thức trả giá lên và phương thức trả giá xuống.

Mục đích chính của hoạt động đấu giá hàng hóa là tìm được nhà đầu tư trả giá cao nhất, đối
với hoạt động đấu giá hàng hóa dịch vụ thì mục đích đấu giá là tìm được người mua hàng
hóa, cung ứng dịch vụ có thể đáp ứng được các yêu cầu mà bên mua đặt ra.

55. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng cung ứng dịch vụ bán đấu giá?

Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là loại hợp đồng dịch vụ, hợp đồng dịch vụ được định nghĩa
theo quy định tại Điều 513 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

“Điều 513. Hợp đồng dịch vụ


Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện
công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung
ứng dịch vụ.”

Hợp đồng đấu giá tài sản phải được lập thành văn bản, được thực hiện theo quy định của
pháp luật về dân sự và quy định của Luật này.

56. Những vấn đề pháp lý liên quan đến giao kết hợp đồng trong bán đấu giá?

57. Những chủ thể tham gia trong một cuộc bán đấu giá và quy chế pháp lý liên quan
tới họ

* Người bán hàng hoá

Người bán hàng là chủ sở hữu hàng hoá, người được chủ sở hữu hàng hoá uỷ quyền bán hoặc
người có quyền bán hàng hoá của người khác theo quy dịnh của pháp luật (khoản 2 Điều l86
Luật thương mại).

Trong quan hệ đấu giá tài sản, người bán hàng hoá, với tư cách độc lập với người tổ chức bán
đấu giá, có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

- Quyền của người bán hàng hoá (Điều 191 Luật thương mại năm 2005):

+ Nhận tiền hàng đã bán đấu giá và khoản chênh lệch thu được trong trường hợp người trả
giá rút lại giá đã trả hoặc nhận lại hàng hoá trong trường hợp đấu giá không thành;

+ Giám sát việc tổ chức bán đấu giá hàng hoá.

- Nghĩa vụ của người bán hàng hoá (Điều 192 Luật thương mại năm 2005):

+ Giao hàng hoá cho người tổ chức đấu giá, tạo điều kiện để người tổ chức đấu giá, người
tham gia đấu giá xem xét hàng hoá và cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin cần
thiết liên quan đến hàng hoá đấu giá
+ Trả thù lao dịch vụ tổ chức đấu giá

* Người tổ chức bán đấu giá hàng hoá và người điều hành bán đấu giá

Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người
bán hàng của mình. Trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá (khoản l Điều 86
Luật thương mại năm 2005).

Người tổ chức bán đấu giá hàng hoá trong trường hợp không phải là người bán hàng hoá, có
những quyền và nghĩa vụ sau đây:

Quyền của người tổ chức đầu giá (Điều 189 Luật thương mại năm 2005):

+ Yêu cầu người bán hàng cung cấp dây đủ, chính xác,kịp thời các thông tin cần thiết liên
quan đến hàng hoá đấu giá, tạo điều kiện cho người tổ chức đấu giá hoặc người thân tham gia
đấu giá kiểm tra hàng hoá đấu giá và giao hàng hoá được bán đấu giá cho người mua hàng
trong trường hợp người tổ chức đấu giá không phải là người bán hàng đấu giá;

+ Xác định giá khởi điểm trong trường hợp người tổ chức đấu giá là người bán hàng đấu giá
hoặc được người bán hàng uỷ quyền;

+ Tổ chức cuộc đấu giá;

+ Yêu cầu người mua hàng thực hiện việc thanh toán:

+ Nhận thù lao dịch vụ đấu giá do người bán hàng trả.

Nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá (Điều 190 Luật thương mại năm 2005):

+ Tổ chức đấu giá hàng hoá theo đúng nguyên tắc. Thủ tục do pháp luật quy định và theo
phương thức đấu giá thoả thuận với người bán hàng:

+ Thông báo, niêm yết công khai, đầy đủ, chính xác các

thông tin cần thiết có liên quan đến hàng hoá đấu giá

+ Bảo quản hàng hoá đấu giá khi được người bán hàng giao giữ

+ Trưng bày hàng hoá, mẫu hàng hóa hoặc tài liệu giới thiệu về hàng hóa cho người tham gia
đấu giá xem xét;
+ Lập văn bản bán đấu giá hàng hoá và gửi đến người bán hàng, người mua hàng và các bên
có liên quan;

+ Giao hàng hóa đấu giá cho người mua phù hợp với hợp đồng tổ chức dịch vụ đấu giá hàng
hoá,

+ Làm thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá bán đấu giá phải đăng ký quyền sở hữu
theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người bán hàng:

+ Thanh toán cho người bán hàng tiền hàng đã bán, kể cả khoản tiền chênh lệch thu được từ
người rút lại giá đã trả hoặc trả lại hàng hoá không bán được cho người bán hàng theo thoả
thuận. Trường hợp không có thoả thuận thì phải thanh toán tiền cho người bán hàng chậm
nhất là ba ngày làm việc sau khi nhận được tiền của người mua hàng hoặc phải trả lại ngay
hàng hoá trong thời hạn hợp lí sau cuộc đấu giá.

* Người điều hành đấu giá

Người điều hành đấu giá là người tổ chức đấu giá hoặc người được người tổ chức đấu giá uỷ
quyền điều hành bán đấu giá (khoản 2 Điều 187 Luật thương mại năm 2005). Người điều
hành chính là người xuất hiện chủ yếu và điều khiển các phiên bán đấu giá theo một trình tự
được pháp luật quy định với những điều kiện bán hàng do người bán hàng đưa ra.

Người điều hành đấu giá có các quyền nghĩa vụ theo (hoặc là) quy định của người tổ chức
bán đấu giá hàng hoá trong trường hợp người điều hành là người của tổ chức bán đấu giá;
hoặc là theo thoả thuận giữa người điều hành và người tổ chức bán đấu giá hàng hóa trong
các trường hợp khác.

* Người mua hàng hoá

Người mua hàng hoá chính là người tham gia đấu giá hàng hoá, bao gồm tổ chức, cá nhân
đảng kí tham gia cuộc đấu giá (khoản 1 Điều 187 Luật thương mại năm 2005).

Về đối tượng đăng kí mua hàng hóa, trên nguyên täc nhà nước khuyến khích sự cạnh tranh
rộng rất có lợi cho người bán hàng trong hoạt động bán đấu giá. Tuy nhiên, để bảo vệ tính
trung thực và hợp pháp của các cuộc bán đấu giá, pháp luật vẫn cấm một số đối tượng sau
không được quyển tham gia trả giá (Điểu 198 Luật thương mại năm 2005):
+ Nguời không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc người tại thời điểm đấu
giá không nhận thức. làm chủ được hành vi của mình.

+ Những người làm việc trong tổ chức bán đấu giá hàng hoá: cha, mẹ, vợ, chồng. con của
những người đó.

+ Người đã trực tiếp thực hiện việc giám định hàng hoá bán đấu giá, cha, me, vợ, chồng. con
của người đó.

+ Những người không có quyền mua hàng hoá đấu giá theo quy định của pháp luật.

Người mua hàng hoá có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhưng chủ yếu
tập trung vào một số vấn đề chính như:

Quyển của người mua hàng hoá:

+ Tham gia trả giá:

+ Được quyền mua hàng hoá nếu đạt điều kiện trong cuộc bán đấu giá: không mua được hàng
hoá:

+ Được quyền nhận lại tiền đặt cọc trong trường hợp không đúng với niêm yët, thông báo:

+ Được quyền trả lại hàng hoá trong trường hợp hàng hoá

+ Được quyền yêu câu bồi thường thiệt hại đối với những sai sót về thông tin về hàng hoá của
người tổ chức bán đấu giá.

- Nghĩa vụ của người mua hàng hoá:

+ Đặt cọc để đăng kí mua hàng theo yêu cầu của người tổ chức bán đấu giá;

+ Tham gia trả già;

+ Chịu mọi chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá nếu đã được chọn là người mua hàng mà
lại từ chối mua hàng

58. Quyền và nghĩa vụ của người tổ chức bán đấu giá?


( câu 57 )
59. Quyền và nghĩa vụ của người không phải là người tổ chức bán đấu giá?
Theo quy định tại Điều 191 và Điều 192 Luật Thương mại 2005 thì quyền, nghĩa vụ của
người bán hàng không phải là người tổ chức đấu giá được quy định cụ thể như sau:
- Quyền của người bán hàng không phải là người tổ chức đấu giá
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, người bán hàng có các quyền sau đây:
+ Nhận tiền hàng đã bán đấu giá và khoản chênh lệch thu được trong trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 204 của Luật Thương mại 2005 hoặc nhận lại hàng hoá trong trường hợp đấu
giá không thành;
+ Giám sát việc tổ chức bán đấu giá hàng hoá.
- Nghĩa vụ của người bán hàng không phải là người tổ chức đấu giá
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, người bán hàng có các nghĩa vụ sau đây:
+ Giao hàng hoá cho người tổ chức đấu giá, tạo điều kiện để người tổ chức đấu giá, người
tham gia đấu giá xem xét hàng hoá và cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin cần
thiết liên quan đến hàng hoá đấu giá;
+ Trả thù lao dịch vụ tổ chức đấu giá theo quy định tại Điều 211 của Luật Thương mại 2005.

60. Quy trình thủ tục bán đấu giá

Thứ nhất, cuộc bán đấu giá tài sản phải được tiến hành liên tục theo một trình tự:
- Mở đầu cuộc bán đấu giá tài sản, đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá giới thiệu bản
thân, người giúp việc; thông báo nội quy của cuộc bán đấu giá tài sản; công bố danh sách
người đăng ký mua tài sản bán đấu giá và điểm danh để xác định người tham gia đấu giá tài
sản; giới thiệu từng tài sản bán đấu giá; nhắc lại giá khởi điểm; thông báo bước giá và khoảng
thời gian tối đa giữa các lần trả giá (nếu có); trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá.
Như vậy, mở đầu cuộc bán đấu giá thì đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá phải giới
thiệu về bản thân mình, đồng thời phải thông báo nội quy của cuộc bán đấu giá tài sản, công
bố danh sách những người đăng ký mua tài sản bán đấu giá và xác định những người tham
gia đấu giá tài sản bằng cách điểm danh. Người điều hành cuộc bán đấu giá phải giới thiệu về
tài sản bán đấu giá và nhắc lại giá khởi điểm của tài sản này cho những người tham gia đấu
giá biết. Người điều hành cuộc bán đấu giá cũng có nghĩa vụ đó là thông báo bước giá và
khoảng thời gian tối đa giữa các lần trả giá.
Đấu giá viên yêu cầu người tham gia đấu giá tài sản trả giá. Sau mỗi lần người tham gia đấu
giá tài sản trả giá, đấu giá viên thông báo công khai về giá đã trả cho người người tham gia
đấu giá tài sản.
- Nếu sau ba lần đấu giá viên nhắc lại giá cao nhất đã trả mà không có người trả giá cao hơn
thì đấu giá viên công bố người mua được tài sản bán đấu giá. Sau khi đấu giá viên công bố,
người mua được tài sản bán đấu giá được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài
sản bán đấu giá. Ví dụ: A, B, C cùng tham gia đấu giá tài sản nhưng A đưa ra giá cao nhất,
đấu giá viên nhắc lại giá mà A đưa ra ba lần mà không có ai đưa ra giá cao hơn thì A sẽ là
người mua được tài sản.
Trong trường hợp giá cả cao nhất được công bố thấp hơn so với giá khởi điểm thì cuộc bán
đấu giá tài sản coi như không thành.
Trong trường hợp đấu giá bằng bỏ phiếu, nếu có từ hai người trở lên cùng trả giá cao nhất, thì
đấu giá viên tổ chức đấu giá tiếp giữa những người cùng trả giá cao nhất để chọn ra người
mua được tài sản bán đấu giá. Nếu không có người trả giá cao hơn thì đấu giá viên tổ chức
bốc thăm để chọn ra người mua được tài sản bán đấu giá.
Thứ hai, diễn biến của cuộc bán đấu giá tài sản phải được ghi vào biên bản bán đấu giá tài
sản. Biên bản bán đấu giá tài sản phải có chữ ký của đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá
tài sản, người ghi biên bản, một người tham gia đấu giá và một người tham dự cuộc bán đấu
giá (nếu có).
Thứ ba, kết quả cuộc bán đấu giá tài sản được ghi vào Sổ đăng ký bán đấu giá tài sản. Trong
trường hợp bán đấu giá tài sản thành thì đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản lập
hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá.

Thứ tư, tùy từng trường hợp bán đấu giá tài sản cụ thể hoặc theo yêu cầu của người có tài sản
bán đấu giá thì tổ chức bán đấu giá tài sản mời tổ chức, cá nhân có liên quan đến tham dự
cuộc bán đấu giá.

61. Khái niệm, hình thức và phương thức đấu thầu hàng hoá, dịch vụ?

Khái niệm

Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch vụ
thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia
đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt
ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu) – Điều 214 Luật
thương mại 2005.

 Hình thức đấu thầu:


Đấu thầu rộng rãi: là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không hạn chế số lượng các bên dự
thầu (điểm a khoản 1 Điều 215 Luật thương mại 2005). Bên mời thầu có trách nhiệm thông
báo công khai về yêu cầu và thời gian dự thầu trên phương tiện đại chúng trước khi phát hành
hồ sơ mời thầu. Hình thức này được áp dụng chủ yếu do tính cạnh tranh cao nhất.

- Đấu thầu hạn chế: là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mời một số nhà thầu nhất định
dự thầu (điểm b khoản 1 Điều 215 Luật thương mại 2005). Hình thức này áp dụng khi chỉ có
một số nhà thầu đáp ứng được yêu cầu hoặc do tình hình cụ thể của gói thầu (điều kiện,
nguồn vốn…) đem lại lợi ích. Tuy nhiên, số lượng nhà thầu tham gia cũng phải đủ rộng để
đảm bảo tính cạnh tranh, thường thì có từ 5 nhà thầu trở lên. Hình thức này không đỏi hỏi
phải công khai mà thư mời thầu được gửi trực tiếp tới nhà thầu.
 Phương thức đấu thầu:
- Đấu thầu một túi hồ sơ: nhà thầu mộp các đề xuất về kĩ thuật và về giá cho một túi hồ sơ dể
bên mời thầu xem xét và đánh giá chung. Các túi hồ sơ về giá và chỉ tiêu kĩ thuật này được
mở và đánh giá cùng vào một thời điểm (khoản 2 Điều 216 Luật thương mại 2005).
- Đấu thầu hai túi hồ sơ: thường áp dụng khi hành hóa, dịch vụ có yêu cầu đặc biệt về chỉ tiêu
kĩ thuật. Các để xuất về kĩ thuật và giá được nộp cùng thời điểm nhưng trong hai túi hồ sơ
khác nhau. Khi mở thầu, túi hồ sơ đề xuất về kĩ thuật được xem xét trước, nhà thầu nào đặt
được điểm sỗ về kĩ thuật nhất định theo tiêu chuẩn đã xác định sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề
xuất về giá để so sánh
62. Các vấn đề pháp lý liên quan tới hồ sơ dự thầu, mở thầu, lựa chọn và thông báo kết
quả trúng thầu
Căn cứ theo quy định tại khoản 31 Điều 4 Luật Đấu thầu năm 2013 giải thích về hồ sơ dự
thầu như sau:
Hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất là toàn bộ tài liệu do nhà thầu, nhà đầu tư lập và nộp cho bên
mời thầu theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu.”
Trong đó, hồ sơ mời thầu được giải thích rằng: Hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu sử dụng cho
hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, bao gồm các yêu cầu cho một dự án, gói thầu,
làm căn cứ để nhà thầu, nhà đầu tư chuẩn bị hồ sơ dự thầu và để bên mời thầu tổ chức đánh
giá hồ sơ dự thầu nhằm lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư (theo khoản 29 Điều 4 Luật này).
Còn theo khoản 30 Điều 4 Luật này giải thích về hồ sơ yêu cầu là toàn bộ tài liệu sử dụng cho
hình thức chỉ định thầu, mua sắm trực tiếp, chào hàng cạnh tranh, bao gồm các yêu cầu cho
một dự án, gói thầu, làm căn cứ để nhà thầu, nhà đầu tư chuẩn bị hồ sơ đề xuất và để bên mời
thầu tổ chức đánh giá hồ sơ đề xuất nhằm lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
63. Giao kết hợp đồng và việc bảo đảm thực hiện hợp đồng sau khi trúng thầu?
Giao kết hợp đồng là các bên bày tỏ với nhau ý chí về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng trên cơ sở tuân theo nguyên tắc do pháp luật quy định.
Theo điều 66 Luật đấu thầu: Bảo đảm thực hiện hợp đồng
1. Bảo đảm thực hiện hợp đồng được áp dụng đối với nhà thầu được lựa chọn, trừ nhà thầu
cung cấp dịch vụ tư vấn, nhà thầu được lựa chọn theo hình thức tự thực hiện và tham gia thực
hiện của cộng đồng.
2. Nhà thầu được lựa chọn phải thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng trước thời
điểm hợp đồng có hiệu lực.
3. Căn cứ quy mô, tính chất của gói thầu, giá trị bảo đảm thực hiện hợp đồng được quy định
trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu theo mức xác định từ 2% đến 10% giá trúng thầu.
4. Thời gian có hiệu lực của bảo đảm thực hiện hợp đồng tính từ ngày hợp đồng có hiệu lực
cho đến ngày các bên hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngày chuyển sang thực hiện
nghĩa vụ bảo hành đối với trường hợp có quy định về bảo hành. Trường hợp cần gia hạn thời
gian thực hiện hợp đồng, phải yêu cầu nhà thầu gia hạn tương ứng thời gian có hiệu lực của
bảo đảm thực hiện hợp đồng.
5. Nhà thầu không được hoàn trả bảo đảm thực hiện hợp đồng trong trường hợp sau đây:
a) Từ chối thực hiện hợp đồng khi hợp đồng đã có hiệu lực;
b) Vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng;
c) Thực hiện hợp đồng chậm tiến độ do lỗi của mình nhưng từ chối gia hạn hiệu lực của bảo
đảm thực hiện hợp đồng.
64. Mối quan hệ giữa Luật Thương mại 2005 và Luật đấu thầu 2013 về đấu thầu hàng
hóa? Có cần thiết tồn tại hai hệ thống quy định song song về đấu thầu tại hai luật khác
nhau như vậy không? Lý giải?
NỘI DUNG 4: PHÁP LUẬT VỀ TRUNG GIAN THƯƠNG MẠI

65. Thế nào là đại diện cho thương nhân? Khái niệm, hình thức và đặc điểm của hợp
đồng đại diện cho thương nhân?
Trả lời:
 Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại
diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động
thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù
lao về việc đại diện
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, đại diện là việc người đại diện (có thể là
cá nhân hoặc pháp nhân) có đủ điều kiện năng lực về pháp luật và hành vi dân sự với danh
nghĩa và lợi ích của bên được đại diện để xác lập cũng như thực hiện các giao dịch dân sự mà
pháp luật cho phép. Đại diện có thể được xác lập bởi một trong hai hình thức là đại diện theo
pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
 Hình thức:
Theo quy định của pháp luật tại Điều 142 Luật thương mại 2005, Hợp đồng đại diện
cho thương nhân phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý
tương đương. Trong đó, các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm: điện báo,
telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
 Đặc điểm:
Hợp đồng đại diện cho thương nhân vừa là một dạng của hợp đồng trung gian thương
mại vừa là một dạng của hợp đồng ủy quyền nên hợp đồng đại diện cho thương nhân mang
đầy đủ các đặc điểm của hai loại hợp đồng trên.
 Nội dung của hợp đồng: là tổng hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp
đồng đã thỏa thuận.
Bởi quan hệ đại diện cho thương nhân có căn cứ phát sinh từ hợp đồng đại diện cho thương
nhân nên quyền và nghĩa vụ dang cho các bên trong quan hệ này tức là bên đại diện và bên
giao đại diện được xác định thông qua các điều khoản của hợp đồng. Bên cạnh các quyền và
nghĩa vụ theo hợp đồng, các bên còn có quyền và nghĩa vụ theo luật định (trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác).
66. Hiệu lực của hợp đồng đại diện thương nhân?
Điều 155 LTM2005 quy định về thời hạn đại diện cho thương nhân, cụ thể như sau:
- Thời hạn đại diện do các bên thỏa thuận.
- Trường hợp không có thỏa thuận, thời hạn đại diện chấm dứt khi bên giao đại diện thông
báo cho bên đại diện về việc chấm dứt hợp đồng đại diện hoặc bên đại diện thông báo cho
bên giao đại diện về việc chấm dứt hợp đồng.
- Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu bên giao đại diện đơn phương thông báo chấm dứt
hợp đồng đại diện theo quy định tại khoản 2 Điều này thì bên đại diện có quyền yêu cầu bên
giao đại diện trả một khoản thù lao do việc bên giao đại diện giao kết các hợp đồng với khách
hàng mà bên đại diện đã giao dịch và những khoản thù lao khác mà đáng lẽ mình được
hưởng.
- Trường hợp thời hạn đại diện chấm dứt theo quy định tại khoản 2 Điều này theo yêu cầu của
bên đại diện thì bên đại diện bị mất quyền hưởng thù lao đối với các giao dịch mà đáng lẽ
mình được hưởng nếu các bên không có thỏa thuận khác.

67. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của người đại diện trong hợp đồng đại diện thương
nhân?
 Nghĩa vụ của bên đại diện
Theo quy định tại Điều 145 Luật thương mại 2005, trừ trường hợp có thỏa thuận khác thì bên
đại diện có các nghĩa vụ sau;
– Thực hiện hoạt động thương mại dựa trên danh nghĩa và vì lợi ích của bên giao đại diện.
– Thông báo cho bên giao đại diện về cơ hội và kết quả thực hiện của các hoạt động thương
mại đã được ủy quyền đại diện
– Tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn của bên giao đại diện nếu những chỉ dẫn của bên giao đại
diện không vi phạm quy định của pháp luật. Nghĩa vụ này của bên đại diện đòi hỏi trong
phạm vi được ủy quyền đại diện thì bên đại diện phải tuân theo mọi chỉ dẫn của bên giao đại
diện.
– Bảo quản tài liệu, tài sản được giao để thực hiện hoạt động đại diện theo ủy quyền. Bên đại
diện phải có trách nhiệm phải bảo quản tài sản, tài liệu được giao và phải hoàn trả tài sản, tài
liệu đó cho bên giao đại diện khi bêên đại diện kết thúc hoạt động đại diện theo ủy quyền.
Bên đại diện phải có nghĩa vụ bảo quản tài sản được giao riêng biệt bởi bên giao đại diện giao
đối với tài sản của mình.
– Trong thời gian làm đại diện và trong thời hạn 2 năm kể từ khi hợp đồng đại diện chấm dứt,
bên đại diện không được tiết lộ hoặc cung cấp cho người khác các bí mật liên quan đến hoạt
động thương mại của bên giao đại diện.
 Quyền của bên đại diện
Theo quy định của pháp luật thì bên đại diện có các quyền sau:
– Quyền hưởng thù lao: Bên đại diện có quyền được hưởng thù lao đối với các hợp đồng
được giao kết trong phạm vi đại diện theo ủy quyền. Mức thù lao và thời điểm phát sinh
quyền được hưởng thù lao được bên đại diện và bên giao đại diện thỏa thuận trong hợp đồng
đại diện. Các bên tham gia vào hợp đồng đại diện có thể thỏa thuận phương pháp xác định
thù lao tùy theo điều kiện cụ thể của hợp đồng đại diện. Quy định của LTM2005 không ấn
định thời điểm và các điều kiện phát sinh quyền hưởng thù lao của bên đại diện, mà quyền
này sẽ do các bên tham gia hợp đồng đại diện tự do thỏa thuận. Trên thực tế, quyền được
hưởng thù lao của bên đại diện thường phát sinh sau khi các hợp đồng giao dịch giữa bên
giao đại diện và bên thứ ba được giao kết thành công nếu đáp ứng các điều kiện sau:
+ Hợp đồng giao dịch phải được giao kết trong phạm vi đại diện được ủy quyền;
+ Chỉ dẫn của bên giao đại diện đều được bên đại diện chấp hành nghiêm chỉnh;
+ Hợp đồng giao dịch với bên thứ ba đã được giao kết dưới tác động của bên đại diện.
Nếu các bên không thỏa thuận mức thù lao cho bên đại diện trong hợp đồng đại diện thì mức
thù lao cho bên đại diện được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương
tự về phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán
và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ theo quy định của Luật Thương mại.
– Quyền yêu cầu thanh toán chi phí: Trong hợp đồng đại diện, bên đại diện và bên giao đại
diện có quyền thỏa thuận về nghĩa vụ thanh toán các chi phí liên quan đến việc thực hiện các
hoạt động đại diện theo ủy quyền. Các bên có thể thỏa thuận mọi chi phí phải trả cho hoạt
động đại diện đều do bên đại diện tự chịu, và bên giao đại diện không có nghĩa vụ thanh toán
các chi phí đó cho bên đại diện. Để bảo vệ lợi ích chính đáng của bên đại diện, pháp luật
thương mại có quy định bên đại diện có quyền yêu cầu bên giao đại diện thanh toán các
khoản chi phí phát sinh hợp lý để thực hiện hoạt động đại diện trừ trường hợp có thỏa thuận
khác trong hợp đồng đại diện.
– Quyền được cầm giữ tài sản, tài liệu được giao: thực chất đây là một quyền phái sinh từ
quyền được hưởng thù lao và được thanh toán các chi phí hợp lý đã đến hạn của bên đại diện,
bởi để đảm bảo cho các quyền được hưởng thù lao và được thanh toán các chi phí hợp lý
được thực hiện, thì bên đại diện có quyền cầm giữ tài sản, tài liệu được giao trong quá trình
thực hiện hoạt động đại diện theo ủy quyền trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác trong
hợp đồng đại diện.

68. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của người giao đại diện hợp đồng đại diện thương
nhân?
 Nghĩa vụ của bên giao đại diện
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng đại diện, bên giao đại diện có các nghĩa
vụ sau:
– Nghĩa vụ thông báo: bên giao đại diện có nghĩa vụ thông báo ngay cho bên đại diện về việc
giao kết hợp đồng mà bên đại diện đã giao dịch, thông báo về việc thực hiện hợp đồng mà
bên đại diện đã giao kết. Đối với hoạt động ngoài phạm vi đại diện được ủy quyền thực hiện
mà bên đại diện đã thực hiện thì bên giao đại diện phải thông báo ngay việc chấp nhận hoặc
không chấp nhận cho bên đại diện. Bên giao đại diện có nghĩa vụ phải thông báo kịp thời cho
bên đại diện về khả năng không giao kết được hoặc không thực hiện được các hợp đồng giao
dịch trong phạm vi đại diện.
– Nghĩa vụ cung cấp tài sản, tài liệu, thông tin cần thiết để bên đại diện thực hiện hoạt động
đại diện: đây được hiểu là nghĩa vụ mà bên giao đại diện phải thực hiện nhằm tạo điều kiện
cho bên đại diện thực hiện hoạt động đại diện nhưng cũng là để phục vụ cho lợi ích của bên
giao đại diện.
– Nghĩa vụ trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại diện: đây là nghĩa vụ quan trọng
của bên giao đại diện đối với bên đại diện. Thù lao mà bên giao đại diện phải thực hiện thanh
toán cho bên đại diện có thể bao gồm thù lao theo hợp đồng đại diện và những khoản thù lao
phát sinh khác do bên đại diện phải thực hiện các nghĩa vụ ngoài những nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng đại diện. Ngoài ra, bên giao đại diện còn có nghĩa vụ phải thanh toán cho bên đại
diện những chi phí liên quan đến việc đại diện, nếu các bên không có thỏa thuận khác trong
hợp đồng đại diện.
 Quyền của bên giao đại diện
– Quyền không chấp nhận hợp đồng giao dịch do bên đại diện ký không đúng thẩm quyền đại
diện theo ủy quyền. Bên giao đại diện có quyền yêu cầu bên đại diện và bên thứ ba đã ký kết
giao dịch bồi thường thiệt hại phát sinh nếu bên đại diện và bên thứ ba cố ý xác lập, thực hiện
giao dịch vượt quá thẩm quyền đại diện.
– Quyền yêu cầu bên đại diện phải cung cấp các thông tin liên quan đến việc thực hiện hoạt
động thương mại được ủy quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng đại diện.
– Quyền đưa ra những chỉ dẫn cho bên đại diện và yêu cầu bên đại diện phải tuân thủ các chỉ
dẫn đó.

69. Nội dung quyền cầm giữ trong hợp đồng đại diện thương nhân?
Theo quy định tại Điều 149 Luật Thương mại, bên đại diện cho thương nhân có quyền cầm
giữ tài sản, tài liệu được giao để bảo đảm việc thanh toán các khoản thù lao và chi phí đã đến
hạn. Tương tự, Điều 239 và 240 của văn bản luật này trao cho thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics quyền cầm giữ hàng hóa và chứng từ liên quan để đòi nợ đã đến hạn của khách
hàng và đi xa hơn BLDS là trao cho bên cầm giữ quyền định đoạt hàng hóa và chứng từ sau
thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ cho khách hàng để trừ khoản nợ liên quan.
70. Thế nào là môi giới thương mại? Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng môi giới
thương mại?
 Khái niệm:
Điều 150 Luật Thương mại năm 2005 đã định nghĩa môi giới thương mại như sau:

“Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian
(gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được
môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được
hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”.

 Đặc điểm:

- Chủ thể của quan hệ môi giới thương mại gồm bên môi giới và bên được môi giới, trong đó
bên môi giới phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để thực hiện dịch vụ môi giới
thương mại và không nhất thiết phải có ngành nghề đăng ký kinh doanh trùng với ngành nghề
kinh doanh của các bên được môi giới.
- Nội dung hoạt động môi giới rất rộng, bao gồm nhiều hoạt động như: tìm kiếm và cung cấp
các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các hoạt động giới thiệu về
hàng hoá, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, giúp đỡ
các bên được môi giới soạn thảo văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu. Mục đích của hoạt động
môi giới là các bên được môi giới giao kết hợp đồng với nhau.
- Phạm vi của môi giới thương mại được mở rộng không chỉ bao gồm những hoạt động môi
giới mua, bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại liên quan đến mua bán hàng hoá. Do
đó, môi giới thương mại bao gồm tất cả các hoạt động môi giới có mục đích kiếm lợi như môi
giới mua bán hàng hoá, môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới tàu biển, môi giới
thuê máy bay, môi giới bất động sản...
- Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi giới.
Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới, bên môi giới phải
là thương nhân còn bên được môi giới không nhất thiết phải là thương nhân (vì pháp luật
không quy định gì về điều kiện của bên được môi giới). Đối tượng của hợp đồng môi giới
chính là công việc môi giới nhằm chắp nối quan hệ giữa các bên được môi giới với nhau.
Trong mục 2 về hoạt động môi giới thương mại thuộc chương V, Luật Thương mại năm 2005
quy định về hoạt động trung gian thương mại không đề cập về hình thức của hợp đồng môi
giới thương mại. Tuy nhiên, hợp đồng môi giới thương mại là loại hợp đồng dịch vụ thương
mại nên theo quy định tại Điều 74 Luật Thương mại năm 2005 thì hợp đồng môi giới nói
riêng và hợp đồng dịch vụ nói chung được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác
lập bằng hành vi cụ thể.
71. Quyền và nghĩa vụ của người môi giới trong hợp đồng môi giới thương mại?
a. Nghĩa vụ của bên môi giới

Tại Điều 151 Luật thương mại 2005 quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, bên
môi giới thương mại có các nghĩa vụ sau:
+ Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng môi giới, có thể bên được môi giới phải cung cấp cho
bên môi giới một số thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh của mình. Bên môi giới chỉ
được sử dụng các thông tin này để thực hiện việc môi giới theo hướng có lợi cho bên được
môi giới mà không được cung cấp những thông tin đó cho khách hàng hay đối thủ cạnh tranh
của người được môi giới.
+ Bảo quản mẫu hàng hoá, tài liệu được giao để thực hiện việc môi giới và phải hoàn trả cho
bên được môi giới khi kết thúc việc môi giới.
+ Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lí của các bên được môi giới nhưng không chịu trách
nhiệm về khả năng thanh toán của họ.
Là người trung gian, bên mới giới có trách nhiệm cung cấp thông tin, tư vấn cho bên được
môi giới. Bên môi giới phải có trách nhiệm cung cấp chính xác về tư cách pháp lí của đối tác
cho các bên được môi giới. Căn cứ vào bản chất, của hoạt động môi giới, bên môi giới không
tham gia vào quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá hay cung ứng dịch vụ thương
mại đã được giao kết giữa các bên. Do đó, không chịu bất kì trách nhiệm nào trước sự vi
phạm hợp đồng của các bên được môi giới với nhau. Tuy nhiên, nếu được sự uỷ quyền hợp
pháp của một hoặc các bên được môi giới thì bên môi giới có thể thực hiện một số nghĩa vụ
theo hợp đồng như giao hàng hay nhận tiền thanh toán...
+ Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có uỷ
quyền của bên được môi giới.
b. Quyền của bên môi giới thương mại
+ Được hưởng thù lao môi giới theo mức quy định trong hợp đồng môi giới.
Quyền hưởng thù lao của bên môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới kí kết
hợp đồng mua bán hàng hoá hay cung ứng dịch vụ thương mại với nhau, trừ trường hợp các
bên có thoả thuận khác (theo Điều 153 Luật thương mại). Điều đó có nghĩa là việc các bên
được môi giới không thực hiện hợp đồng đã giao kết hoàn toàn không làm ảnh hưởng lớn
quyền hưởng thù lao của bên môi giới, quy định như vậy là phù hợp với chức năng của bên
môi giới, bởi bên môi giới không thể chịu trách nhiệm cho khả năng thực hiện hợp đồng hoặc
khả năng tài chính của các bên. Tuy nhiên, trong hợp đồng môi giới các bên có thể thoả thuận
thù lao môi giới chỉ phát sinh sau khi hợp đồng giữa các bên được môi giới thực hiện dưới
các điều kiện mà bên được môi giới mong muốn.
Trong trường hợp các bên được môi giới không giao kết được hợp đồng với nhau. Bên môi
giới không được hưởng thù lao môi giới nhưng nếu các bên không có thoả thuận khác, bên
môi giới vẫn có quyền yêu cầu bên được môi giới thanh toán cho mình các chi phí hợp lí liên
quan tới việc môi giới.
Nếu trong hợp đồng, các bên không thoả thuận mức thù lao thì mức thù lao môi giới được
xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng,
thị trường địa lí, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ.

72. Quyền và nghĩa vụ của người được môi giới trong hợp đồng môi giới thương
mại?
a. Nghĩa vụ của bên được môi giới
Theo quy định tại Điều 152 Luật Thương mại 2005, nếu các bên không có thoả thuận khác
bên được môi giới có các nghĩa vụ sau:
+ Cung cấp các thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết liên quan đến hàng hoá, dịch vụ;
+ Trả thù lao môi giới và các chi phí khác cho bên môi giới.
b. Quyền của bên được môi giới
Luật thương mại không quy định về quyền của bên được môi giới, tuy nhiên căn cứ vào các
nghĩa vụ của bên được môi giới, có thể suy ra bên được môi giới có các quyền sau:
+ Yêu cầu bên môi giới bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu đã được giao để thực hiện việc
môi giới và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoàn thành việc môi giới.
+ Yêu cầu bên môi giới không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích
của mình.

73. Ủy thác mua bán hàng hóa? Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa?
a. Khái niệm: Ủy thác mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận ủy
thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện
đã thỏa thuận với bên ủy thác và được nhận thù lao ủy thác (Điều 155 LTM2005).
b. Khái niệm và đặc điểm điểm của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
 Khái niệm: Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có thể được hiểu là sự thỏa thuận
giữa các bên trong đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh
nghĩa của mình theo những điều kiện được thoả thuận với bên uỷ thác và bên ủy thác
có nghĩa vụ trả thù lao cho việc ủy thác của bên được ủy thác.
 Đặc điểm:
– Trong hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, bên nhận ủy thác phải là thương nhân kinh
doanh mặt hàng phù hợp với hàng hóa được ủy thác và thực hiện mua bán hàng hóa theo
những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác. Thêm nữa, theo quy định của Điều 161 LTM
2005, thương nhân nhận ủy thác có thể nhận ủy thác thức mua bán hàng hóa cho nhiều bên ủy
thác khác nhau. Bên ủy thác là bên giao cho bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán hàng
hóa theo yêu cầu của mình và bên này không nhất thiết phải có tư cách thương nhân.
– Nội dung của hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa bao gồm việc giao kết, thực hiện hợp
đồng ủy thác giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác và giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa giữa bên nhận ủy thác với bên thứ ba theo yêu cầu của bên ủy thác. Có thể thấy
rằng, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có điểm giống với hợp đồng đại diện cho thương
nhân. Đó là bên nhận ủy thác trong hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cũng được bên ủy
thác ủy quyền thực hiện hoạt động thương mại thế nhưng hoạt động thương mại này lại được
giới hạn trong phạm vi thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa cụ thể nào đó với bên thứ ba.
– Đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là công việc mua bán hàng hóa do bên
nhận ủy thác tiến hành theo sự ủy quyền của bên ủy thác. Hàng hóa được mua bán theo yêu
cầu của bên ủy thác là đối tượng của hợp đồng mua bán giao kết giữa bên nhận ủy thác với
bên thứ ba chứ không phải là đối tượng của hợp đồng ủy thác.

74. Quyền và nghĩa vụ của người ủy thác trong hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa?
– Nghĩa vụ của bên ủy thác (theo điều 163 LTM 2005).
+ Cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng uỷ thác.
+ Trả thù lao uỷ thác và các chi phí hợp lý khác cho bên nhận ủy thác.
+ Giao tiền, giao hàng theo đúng thoả thuận.
+ Liên đới chịu trách nhiệm trong trường hợp bên nhận uỷ thác vi phạm pháp luật mà nguyên
nhân do bên uỷ thác gây ra hoặc do các bên cố ý làm trái pháp luật.
– Quyền của bên ủy thác (theo điều 162 LTM 2005).
+ Yêu cầu bên nhận uỷ thác thông báo đầy đủ về tình hình thực hiện hợp đồng uỷ thác.
+ Không chịu trách nhiệm trong trường hợp bên nhận ủy thác vi phạm pháp luật, trừ trường
hợp bên nhận ủy thác gây ra hoặc do các bên cố ý làm trái pháp luật.
75. Quyền và nghĩa vụ của người nhận ủy thác trong hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa?

– Nghĩa vụ của bên nhận ủy thác (theo điều 165 LTM 2005).
+ Thực hiện mua bán hàng hóa theo thỏa thuận;
+ Thông báo cho bên uỷ thác về các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng uỷ thác
Thực hiện các chỉ dẫn của bên uỷ thác phù hợp với thoả thuận.
+ Bảo quản tài sản, tài liệu được giao để thực hiện hợp đồng uỷ thác.
+ Giữ bí mật về những thông tin có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng uỷ thác.
+ Giao tiền, giao hàng theo đúng thỏa thuận.

76. Đại lý thương mại? Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng đại lý thương mại?
a. Khái niệm: Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên
đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên
giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù
lao.
b. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng đại lý thương mại?
 Khái niệm: Hợp đồng đại lý là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, một bên (bên đại
lý) được sự ủy quyền của bên kia (bên giao đại lý) cam kết nhân danh bên giao đại lý
thực hiện một hoặc nhiều giao dịch theo sự ủy quyền và vì lợi ích của bên kia để được
nhận một khoản tiền thủ lao do các bên thỏa thuận
 Đặc điểm
 Thứ nhất, trong quan hệ đại lý có sự tham gia của ba bên chủ thể: bên giao đại
lý, bên đại lý và bên thứ ba.
 Thứ hai, bên đại lý nhân danh chính mình tiến hành giao dịch thương mại với
bên thứ ba vì lợi ích của bên giao đại lý để hưởng thù lao.
 Thứ ba, phạm vi hoạt động của đại lý thương mại
 Thứ tư, cơ sở phát sinh đại lý thương mại
77. Các hình thức đại lý thương mại và đặc trưng pháp lý của chúng?

Theo Điều 169 đại lý có các hình thức là:


– Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối
lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý.
Hình thức đại lý này nới rộng quyền cho bên đại lý về giá bán lẻ đồng thời cũng ràng buộc
bên đại lý chặt chẽ hơn về nghĩa vụ phải bán hết từng khối lượng hàng nhất định. Đại lý bao
tiêu thích hợp với những hợp đồng ngăn hạn, những hợp đông theo mùa vụ như thu mua nông
sản ở thời điểm thu hoạch.
– Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ
giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một số loại
dịch vụ nhất định.
Hình thức đại lý độc quyền sẽ nảy sinh nhiều vấn đề khi áp dụng thực hiện và những mẫu
thuẫn là không tránh khỏi. Đôi khi các nhà làm luật không lường trước được những tranh
chấp phát sinh từ những quy định thiếu, không chặt chẽ của luật.
– Các hình thức đại lý khác mà các bên thỏa thuận.

78. Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý?

Quyền của bên giao đại lý


Bên giao đại lý có các quyền sau, trừ trường họp các bên có thỏa thuận khác:
– Bên giao đại lý có quyền ấn định giá mua, giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ đại lý
cho khách hàng. Việc ấn định này được bên giao đại lý sử dụng khi thù lao đại lý được trả
cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng việc này được tính theo tỉ lệ phần trăm trên giá mua,
giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ thì bên giao đại lý sẽ ấn định giá mua, giá bán
hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng và bên đại lý buộc phải tuân thủ mức
giá đã ấn định;
– Bên giao đại lý có quyền ấn định giá giao đại lý. Đối với hình thức đại lý bao tiêu, bên đại
lý sẽ ấn định giá giao đại lý, còn giá bán, giá mua hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ cho
khách hàng bên đại lý có quyền quyết định;
– Bên giao đại lý có quyền yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của
pháp luật;
– Bên giao đại lý có quyền yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng
đại lý;
– Bên giao đại lý có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý.
Nghĩa vụ của bên giao đại lý
Bên giao đại lý có các nghĩa vụ sau, trừ trường hợp có thỏa thuận khác:
– Bên giao đại lý có nghĩa vụ hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý
thực hiện hợp đồng đại lý;
– Bên giao đại lý có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá của đại lý mua bán
hàng hoá, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ;
– Bên giao đại lý có nghĩa vụ trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý;
– Bên giao đại lý có nghĩa vụ hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm
(nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý;
– Bên giao đại lý có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên
đại lý nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần lỗi của mình gây ra.
79. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận đại lý?

Quyền của bên đại lý


Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên đại lý có các quyền sau đây:
– Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp pháp luật có
quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý
đối với một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định;
– Yêu cầu bên giao đại lý giao tiền hoặc hàng theo hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản dùng để
đảm bảo (nếu cổ) khi kết thúc hợp đồng đại lý;
– Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện khác có liên quan
để thực hiện hợp đồng đại lý;
– Hưởng thù lao và những lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại. Nếu các bên
không có thỏa thuận khác, thù lao đại lý có thể được trả theo hai hình thức sau:
+ Trường hợp bên giao đại lý ấn định giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ
cho khách hàng thì bên đại lý được hưởng hoa hồng tính theo tỉ lệ phần trăm trên giá mua, giá
bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ;
+ Trường hợp bên giao đại lý không ấn định giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng
dịch vụ cho khách hàng mà chỉ ấn định giá giao đại lý cho bên đại lý thì bên đại lý được
hưởng chênh lệch giá. Mức chênh lệch giá được xác định là mức chênh lệch giữa giá mua,
giá bán, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng so với giá do bên giao đại lý ấn định cho bên
đại lý.
Mức thù lao đại lý do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đại lý, nếu các bên không có thỏa
thuận về mức thù lao đại lý thì mức thù lao được tính như sau (Khoản 4 Điều 171 Luật
Thương mại năm 2005):
+ Theo mức thù lao thực tế mà các bên đã được trả trước đó;
+ Nếu không xác định được mức thù lao thực tế mà các bên đã trả trước đó thì mức thù lao
đại lý là mức thù lao trung bình được áp dụng cho cùng loại hàng hoá, dịch vụ mà bên giao
đại lý đã trả cho các đại lý khác;
+ Nếu không áp dụng được cả hai cách tính trên thì mức thù lao đại lý là mức thù lao thông
thường được áp dụng cho cùng loại hàng hoá, dịch vụ ữên thị trường.
Nghĩa vụ của bên đại lý
Bên đại lý phải thực hiện những nghĩa vụ sau đối với bên giao đại lý, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận khác:
– Mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho khách hàng theo giá hàng hoá, giá cung ứng dịch
vụ do bên giao đại lý ấn định.
Một là, Bên đại lý phải thực hiện nghĩa vụ đối với hình thức đại lý mà bên giao đại lý đã ấn
định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng, bên đại lý phải mua
hoặc bán hàng hoá cung ứng dịch vụ cho bên thứ ba theo đúng giá mà bên giao đại lý quy
định. Bên đại lý không được tự ý nâng giá bán hoặc giảm giá mua.
Hai là, Bên đại lý phải thực hiện nghĩa vụ đối với hình thức đại lý bao tiêu, nghĩa vụ này
được hiểu là bên đại lý phải mua hoặc bán hàng hoá theo đúng giá tối đa hoặc giá tối thiểu đã
thỏa thuận với bên giao đại lý;
– Giao và nhận hàng, tiền cho bên giao đại lý theo thỏa thuận trong hợp đồng đại lý. Đây là
một nghĩa vụ rất quan trọng của bên đại lý.
Một là, Bên đại lý phải thực hiện nghĩa vụ đối với đại lý bán, bên đại lý có nghĩa vụ nhận
hàng và thanh toán tiền cho bên giao đại lý.
Hai là, Bên đại lý phải thực hiện nghĩa vụ đối với đại lý mua, bên đại lý có nghĩa vụ nhận tiền
và giao hàng cho bên giao đại lý.
Ba là, Bên đại lý phải thực hiện nghĩa vụ đối với đại lý cung ứng dịch vụ bên đại lý phải có
nghĩa vụ thanh toán tiền cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý.
– Thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật;
– Bảo quản hàng hoá, chịu trách nhiệm vê khôi lượng, quy cách, phẩm chất hàng hoá sau khi
nhận (đối với đại lý bán) hoặc trước khi giao (đối với đại lý mua); liên đới chịu trách nhiệm
về chất lượng hàng hoá của đại lý mua bán hàng hoá, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng
dịch vụ trong trường hợp có lỗi do mình gây ra;
– Thực hiện chế độ báo cáo tình hình hoạt động đại lý với bên giao đại lý và chịu sự kiểm tra,
giám sát cua bên giao đại lý. Quy định này cho thấy sự lệ thuộc chặt chẽ của bên đại lý vào
bên giao đại lý, đây là một điểm quan trọng làm cho đại lý mua bán hàng hoá khác với ủy
thác mua bán hàng hoá;
– Đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định mà pháp luật quy định bên đại lý chỉ được
giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý thì phải tuân thủ quy định của pháp luật đó.

80. Hiệu lực của hợp đồng đại lý?


Hợp đồng đại lí mua bán hàng hóa chấm dứt khi: hợp đồng đã thực hiện. xong hoặc hết thời
hạn hiệu lực; các bên thoả thuận bằng văn bản chấm dứt hợp đồng trước khi hết thời hạn hiệu
lực; hợp đồng bị vô hiệu khi nội dung hợp đồng hoặc việc thực hiện hợp đồng trái với quy
định của pháp luật; một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng khi việc vi phạm hợp đồng của
bên kia là điều kiện để đình chỉ hợp đồng mà các bên đã thoả thuận; trong một số trường hợp
cụ thể được pháp luật quy định. Khi chấm dứt hợp đồng, các bên có nghĩa vụ hoàn trả hàng
hóa, tài sản và tài liệu cho nhau. Bên giao đại lí có nghĩa vụ hoàn trả cho bên đại lí tiền kí quỹ
hay hồ sơ thế chấp tài sản. Các bên có thể thoả thuận giữ bí mật thông tin về đại lí trong một
thời hạn nhất định sau khi hợp đồng đại lí chấm dứt.
81. Phân biệt giữa đại diện cho thương nhân với chế định đại diện theo Bộ luật dân
sự?
 Khái niệm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS): Đại diện là việc cá nhân,
pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Theo Khoản 1 Điều 141 Luật Thương mại 2005 định nghĩa đại diện cho thương nhân như
sau: “1. Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại
diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương
mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại
diện.”

Theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật dân sự 2015 thì ủy quyền là việc chính chủ thể có quyền tự
mình trao quyền cho chủ thể khác (đủ năng lực thực hiện) để thay mình tham gia vào các giao
dịch dân sự.

Như vậy đại diện theo ủy quyền tức là việc một cá nhân, pháp nhân (bên đại diện) nhân danh
và vì lợi ích của một cá nhân, pháp nhân khác (bên được đại diện) tiến hành xác lập và thực
hiện các giao dịch dân sự thông qua việc được bên được đại diện “trao quyền” hợp pháp.

 Điểm giống nhau

Điểm giống nhau giữa hai hình thức đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền đó là
việc cả hai hình này thực chất đều là trường hợp bên đại diện hoặc bên ủy quyền thực hiện
các công việc cụ thể nhân danh và vì lợi ích của người ích của người được đại diện hoặc ủy
quyền trong một phạm vi nhất định, người đại diện hoặc ủy quyền được pháp luật công nhận
khi thực hiện các công việc liên quan đến nghĩa vụ, lợi ích của người được đại diện hoặc ủy
quyền.

 Điểm đặc thù của đại diện thương nhân so với đại diện theo ủy quyền

Xuất phát từ những đặc điểm của hình thức đại diện cho thương nhân: Quan hệ đại diện cho
thương nhân phát sinh giữa bên đại diện và bên giao đại diện; Nội dung của hoạt động đại
diện cho thương nhân do các bên tham gia quan hệ thoả thuận; Quan hệ đại diện cho thương
nhân phát sinh trên cơ sở hợp đồng đại diện, đại diện cho thương nhân có những điểm đặc thù
so với đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự ở những điểm sau:

+ Về chủ thể: Hoạt động đại diện cho thương nhân theo quy định của Luật thương mại có chủ
thể bắt buộc phải là thương nhân. Đại diện theo uỷ quyền quy định của Bộ luật dân sự có chủ
thể là bất kì ai miễn là đáp ứng đủ điều kiện về năng lực chủ thể được quy định trong Bộ luật
dân sự, Những quan hệ đại diện cho tổ chức, cá nhân không có tư cách thương nhân và quan
hệ đại diện do thương nhân cử người của mình làm đại diện cho chính mình (Ví dụ: Giám
đốc công ty nhà nước uỷ quyền cho trưởng một chi nhánh của công ty giao kết hợp đồng với
bạn hàng) không áp dụng các quy định của Luật thương mại mà áp dụng các quy định chung
về uỷ quyền của Bộ luật dân sự hoặc pháp luật lao động.

+ Về mục đích hoạt động đại diện: Hoạt động đại diện cho thương nhân quy định trong Luật
thương mại có mục đích sinh lời. Quan hệ đại diện giữa họ gắn liền với lĩnh vực hoạt động
thương mại của thương nhân như mua bán hàng hoá, cung ứng các dịch vụ thương mại hay
thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại... Quy định về đại diện trong Bộ luật dân sự
không nhất thiết phải có mục đích này.

+ Về hình thức hợp đồng: Hợp đồng đại diện cho thương nhân quy định trong Luật thương
mại phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương. Hợp
đóng uỷ quyền quy định trong Bộ luật dân sự không nhất thiết phải thể hiện bằng văn bản.

82. Phân biệt giữa đại diện cho thương nhân và đại lý thương mại?
Đại diện cho thương nhân
Căn cứ khoản 1 Điều 141 Luật Thương mại 2005, đại diện cho thương nhân là việc một
thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại
diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân
đó và được hưởng thù lao về việc đại diện.
Theo đó, bên giao đại diện sẽ ủy quyền cho bên đại diện thay mặt, nhân danh bên giao đại
diện thực hiện các hoạt động thương mại. Bên giao đại diện phải chịu trách nhiệm về các cam
kết do bên đại diện thực hiện trong phạm vi ủy quyền.
Đại lý thương mại
Căn cứ Điều 166 Luật Thương mại 2005, đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó
bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng
hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng
thù lao.
Theo Điều 169 Luật Thương mại 2005, các hình thức đại lý thương mại hiện nay bao gồm:

Các hình thức Nội dung Ví dụ


đại lý
Đại lý bao Bên đại lý thực hiện việc mua, bán Các đại lý của một số hãng xe như
tiêu trọn vẹn một khối lượng hàng hoá Honda, Yamaha… Giá giao đại lý
hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ sẽ được ấn định, tuy nhiên giá bán
cho bên giao đại lý. sẽ do bên đại lý quyết định.

Đại lý độc Tại một khu vực địa lý nhất định Di động Việt là đại lý độc quyền
quyền bên giao đại lý chỉ giao cho một đại của Apple tại Việt Nam…
lý mua, bán một hoặc một số mặt
hàng hoặc cung ứng một hoặc một
số loại dịch vụ nhất định.

Tổng đại lý Bên đại lý tổ chức một hệ thống đại Điện lạnh Điện máy Hà Nội là
mua bán hàng lý trực thuộc để thực hiện việc mua Tổng đại lý phân phối điều hoà
hoá, cung ứng bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho Panasonic…
dịch vụ bên giao đại lý.

Phân biệt đại lý thương mại và đại diện cho thương nhân

Tiêu chí Đại lý thương mại Đại diện cho thương nhân

Căn cứ Mục 4 Chương V Luật Thương mại Mục 1 Chương V Luật Thương mại
pháp lý 2005. 2005.

Chủ thể Bên giao đại lý và Bên đại lý. Bên nhận uỷ nhiệm (Bên đại diện) và
Bên giao đại diện.
Phạm vi Bên đại lý sẽ theo thỏa thuận, thực Các bên có thể thoả thuận về phạm vi
thực hiện bán hàng cho bên giao đại lý của việc đại diện; bên đại diện có thể
hiện hoặc mua hàng hóa cho bên giao đại thực hiện một phần hoặc toàn bộ các
lý hoặc cung ứng dịch vụ giao đại lý hoạt động thương mại thuộc phạm vi
cho khách hàng. hoạt động của bên giao đại diện.

Thù lao - Thù lao đại lý được trả cho bên đại - Không quy định hình thức hưởng thù
lý dưới hình thức hoa hồng hoặc lao. Vì vậy, các bên có thể tự do thoả
chênh lệch giá; thuận các hình thức hưởng thù lao;
- Các bên có thể thoả thuận các hình Trường hợp không có thỏa thuận, mức
thức nhận thù lao khác. thù lao cho bên đại diện được xác định
theo quy định tại Điều 86 của Luật
Thương mại 2005.

Tính Nhân danh chính mình để thực hiện Nhân danh thương nhân khác để thực
chất hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hiện hoạt động mua bán hàng hoá.
sản phẩm kinh doanh lại là do
thương nhân khác sản xuất.
Trách - Không được thực hiện các hoạt - Bên đại diện nhân danh và vì lợi ích
nhiệm động thương mại với danh nghĩa của của bên giao đại diện; và thực hiện các
pháp lý mình hoặc của người thứ ba trong hoạt động thương mại và các giao dịch;
phạm vi đại diện; - Bên đại diện không được nhân danh
- Chịu trách nhiệm pháp lý trong chính mình hoặc nhân danh bên thứ ba
phạm vi uỷ quyền. trong phạm vi đại diện;
- Bên giao đại diện chỉ chịu trách nhiệm
về các giao dịch do bên đại diện thực
hiện trong phạm vi đại diện.

83. Phân biệt ủy thác mua bán hàng hóa với đại lý thương mại?
Điểm giống nhau
– Đều là hoạt động trung gian thương mại;
– Bên cung ứng dịch vụ đều là thương nhân;
– Quyền nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trên cơ sở hợp đồng, hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa và hợp đồng đại lý tương ứng với mỗi hoạt động.
– Bên cung ứng dịch vụ nhân danh chính mình tham gia quan hệ thương mại.
Điểm khác nhau để Phân biệt Ủy thác mua bán hàng hóa và Đại lý thương mại
Ngoài những điểm giống nhau ở trên, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và hoạt động đại
lý thương mại có điểm khác nhau sau đây:

Tiêu chí Ủy thác mua bán hàng hóa Đại lý thương mại

Căn cứ
Điều 155 Luật Thương mại 2005 Điều 166 Luật thương mại 2005
pháp lý
Uỷ thác mua bán hàng hoá là hoạt Đại lý thương mại là hoạt động thương
động thương mại. Theo đó bên mại. Theo đó bên giao đại lý và bên đại
nhận uỷ thác thực hiện việc mua lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh
Khái
bán hàng hoá với danh nghĩa của chính mình mua, bán hàng hoá cho bên
niệm
mình theo những điều kiện đã thoả giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của
thuận với bên uỷ thác và được nhận bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng
thù lao uỷ thác. thù lao.

Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá


Bên nhận ủy thác là thương nhân
để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để
kinh doanh mặt hàng phù hợp với
làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ
hàng hoá được uỷ thác.
quyền cung ứng dịch vụ.
Bên ủy thác là thương nhân hoặc
Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng
không phải là thương nhân giao cho
Chủ thể hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua
bên nhận uỷ thác thực hiện mua
hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân
bán hàng hoá theo yêu cầu của
uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý
mình.
cung ứng dịch vụ.

– Thực hiện hoạt động mua, bán hàng


hoá cho bên giao đại lý.
Phạm Chỉ thực hiện hoạt động mua hoặc
vi ủy bán hàng hóa theo điều kiện mà bên – Hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao
quyền ủy thác đã đặt ra trong thỏa thuận. đại lý cho khách hàng theo thỏa thuận
trong hợp đồng.

Bên nhận ủy thác liên đới chịu Bên đại diện chịu trách nhiệm về Thực
Trách
trách nhiệm về hành vi vi phạm hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện
nhiệm
pháp luật của bên ủy thác. Nếu nghĩa vụ dân sự. Liên đới chịu trách
nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý
mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ
nguyên nhân của hành vi vi phạm
của đại lý cung ứng dịch vụ trong trường
pháp lý pháp luật đó có một phần do lỗi của
hợp có lỗi do mình gây ra;
mình gây ra.

Trả thù lao ủy thác và các chi phí Trả thù lao theo hình thức hoa hồng hoặc
Thù lao
hợp lý khác cho bên nhận ủy thác. chênh lệch giá.

NỘI DUNG 5: PHÁP LUẬT VỀ XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI

84. Khái niệm xúc tiến thương mại và các hình thức xúc tiến thương mại theo pháp luật
Việt Nam?

Khoản 10 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “ Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc
đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến
mại, quảng cáo, thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ, triển lãm
thương mại.

Các hình thức xúc tiến thương mại:

- Khuyến mại là hành vi xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụt hông qua việc dành cho
khách hàng những lợi ích nhất định. Cách thức khuyến mại cũng rất đa dạng. Khách hàng có
thể nhận được giảm giá, được nhận quà tặng, phần thưởng hay phiếu mua hàng có ưu đãi,
được tặng thêm hàng hóa khi mua lượng hàng nhất định,...Khuyến mại có ý nghĩa giới thiệu
một sản phẩm mới hoặc đã được cải tiến, khuyến khích tiêu dùng, lôi kéo khách hàng về phía
mình và tăng thị phần của doanh nghiệp trên thương trường.

- Quảng cáo thương mại là hoạt động giới thiệu hàng hóa và dịch vụ thương mại của thương
nhân thông qua các phương tiện quảng cáo như phương tiện thông tin đại chúng, các ấn
phẩm, bảng, biển,...Nhằm mục đích xúc tiến thương mại, thương nhân còn sử dụng những
phương tiện quảng cáo thuộc mạng lưới kinh doanh thương maij của mình như phòng tổ chức
trưng bày, biển đề tên cơ sở kinh doanh,... Quảng cáo có ý nghĩa thông tin đến khách hàng về
chủng loại, tính năng, giá cả,.. của hàng hóa dịch vụ để từ đó kích thích nhu cầu mua sắm sử
dụng hàng hóa dịch vụ.

- Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động dùng hàng hóa, tài liệu về hàng hóa
dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình nhằm xúc tiến
thương mại. Với cách thức này, thương nhân cung cấp thông tin về hàng hóa cho khách hàng.
Địa điểm tổ chức hoạt động trưng bày giới thiệu hàng hóa có thể là phòng trưng bày tại các
trung tâm thương mại, hội chợ triển lãm,...

- Hội chợ thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại được tiến hành tại một thời gian và
địa điểm nhất định, trong đó nhà kinh doanh được trưng bày hàng hóa của mình nhằm mục
đích tiếp thị, bán hàng và thiết lập giao dịch.

- Triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại được thực hiện thông qua việc
trưng bày hàng hóa, tài liệu về hàng hóa theo chủ đề, thời gian, địa điểm,... để giới thiệu,
quảng cáo về hàng hóa với khách hàng.

85. Khái niệm quảng cáo thương mại và quyền quảng cáo thương mại? Những trường
hợp cấm quảng cáo?

Điều 102 Luật Thương mại 2005 quy định: “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến
thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ của mình.”

Điều 103. Quyền quảng cáo thương mại

1. Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương
nhân nước ngoài được phép hoạt động thương mại tại Việt Nam có quyền quảng cáo về hoạt
động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ
quảng cáo thực hiện việc quảng cáo thương mại cho mình.

2. Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp thực hiện hoạt động quảng cáo
thương mại. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn phòng đại diện có quyền ký
hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại để thực hiện quảng cáo
cho thương nhân mà mình đại diện.

3. Thương nhân nước ngoài muốn quảng cáo thương mại về hoạt động kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ của mình tại Việt Nam phải thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương
mại Việt Nam thực hiện.

 Những trường hợp cấm quảng cáo quy định tại Điều 109 Luật Thương mại 2005:

1. Quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ quyền, an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội.

2. Quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo trái với truyền thống
lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và trái với quy định của pháp luật.

3. Quảng cáo hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc cấm
quảng cáo.

4. Quảng cáo thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên và các sản phẩm, hàng hoá chưa được
phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng trên thị trường Việt Nam tại thời điểm
quảng cáo.

5. Lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.

6. Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ của mình với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cùng
loại của thương nhân khác.

7. Quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu
dáng, xuất xứ hàng hóa, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng
hoá, dịch vụ.

8. Quảng cáo cho hoạt động kinh doanh của mình bằng cách sử dụng sản phẩm quảng cáo vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ; sử dụng hình ảnh của tổ chức, cá nhân khác để quảng cáo khi
chưa được tổ chức, cá nhân đó đồng ý.
9. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật.

86. Sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo? Những điều kiện của việc sử dụng
phương tiện quảng cáo?

 Sản phẩm quảng cáo thương mại bao gồm những thông tin bằng hình ảnh, hành động,
âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng nội dung
quảng cáo thương mại. Sản phẩm quảng cáo thương mại có chứa đựng cả nội dung và
hình thức quảng cáo thương mại. Nội dung quảng cáo bao gồm những thông tin về
hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà chủ quảng cáo muốn được thể hiện nhằm
thông báo giới thiệu rộng rãi đến cộng đồng. Nội dung quảng cáo phải đảm bảo lành
mạnh, không gây nhầm lẫn cho khách hàng. Hình thức quảng cáo được thể hiện bằng
tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc,.. có khả năng truyền đạt nội dung thông tin
quảng cáo tới công chúng.
 Phương tiện quảng cáo thương mại là các công cụ được sử dụng để giới thiệu các sản
phẩm quảng cáo thương mại như: báo chí, mạng thông tin máy tính, xuất bản phẩm
sách, tờ gấp,...), các loại băng rôn, bảng, biển,...vật phát quang, vật thể trên không,
dưới nước,...
 Những điều kiện của việc sử dụng phương tiện quảng cáo:
 Quảng cáo về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải có giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh.
 Quảng cáo cho các loại sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ phải có các tài liệu chứng minh
về sự hợp chuẩn, hợp quy của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp
luật.
 Quảng cáo tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải có giấy chứng nhận quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng thì phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng tài sản.
 Quảng cáo cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt phải đảm bảo các điều kiện sau
đây:
 Quảng cáo thuốc được phép quảng cáo theo quy định của pháp luật về y tế; phải có
giấy phép lưu hành tại Việt Nam đang còn hiệu lực và tờ hướng dẫn sử dụng do Bộ Y
tế phê duyệt;
 Quảng cáo mỹ phẩm phải có phiếu công bố sản phẩm mỹ phẩm theo quy định của
pháp luật về y tế;
 Quảng cáo hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia
dụng và y tế phải có giấy chứng nhận đăng ký lưu hành do Bộ Y tế cấp;
 Quảng cáo sữa và sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ không thuộc quy định tại
khoản 4 Điều 7 của Luật này phải có giấy chứng nhận tiêu chuẩn, giấy chứng nhận vệ
sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm dinh dưỡng sản xuất trong nước; đối với sản
phẩm dinh dưỡng nhập khẩu thì phải có giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm của cơ
quan có thẩm quyền của nước sản xuất và giấy phép lưu hành;
 Quảng cáo thực phẩm, phụ gia thực phẩm phải có giấy chứng nhận đăng ký chất
lượng vệ sinh an toàn đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm thuộc danh mục phải
đăng ký chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm hoặc giấy tiếp nhận hồ sơ công bố tiêu
chuẩn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm
thuộc danh mục phải công bố tiêu chuẩn;
 Quảng cáo dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh phải có giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn
hành nghề do ngành y tế cấp theo quy định của pháp luật;
 Quảng cáo trang thiết bị y tế phải có giấy phép lưu hành đối với thiết bị y tế sản xuất
trong nước hoặc giấy phép nhập khẩu đối với thiết bị y tế nhập khẩu;
 Quảng cáo thuốc bảo vệ thực vật, nguyên liệu thuốc bảo vệ thực vật, vật tư bảo vệ
thực vật phải có giấy chứng nhận đăng ký thuốc bảo vệ thực vật. Quảng cáo sinh vật
có ích dùng trong bảo vệ thực vật phải có giấy phép kiểm dịch thực vật do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn cấp;
 Quảng cáo thuốc thú y, vật tư thú y phải có giấy phép lưu hành sản phẩm và bản tóm
tắt đặc tính của sản phẩm;
 Quảng cáo phân bón, chế phẩm sinh học phục vụ trồng trọt, thức ăn chăn nuôi, chế
phẩm sinh học phục vụ chăn nuôi phải có giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm hoặc
văn bản tự công bố chất lượng sản phẩm.

87. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dịch vụ quảng cáo?

 Khái niệm: hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại là sự thỏa thuận giữa bên quảng
cáo và bên làm dịch vụ quảng cáo thương mại nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ về quảng cáo hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ
thương mại.
 Đặc điểm:
- Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại tuân thủ nguyên tắc cơ bản của hợp đồng cung
ứng dịch vụ nói chung. Ngoài điều khoản về chủ thể của hợp đồng ( tên, địa chỉ,...), nội dung
của hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại bao gồm các điều khoản thỏa thuận về sản phẩm
quảng cáo thương mại, phương thúc, phương tiện quảng cáo thương mại, thời gian, phạm vi
quảng cáo, phí dịch vụ và các quyền, nghĩa vụ có liên quan của các bên,...

- Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại được kí bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có
giá trị pháp lí tương đương.

- Tùy thuộc vào nội dung, phạm vi sử dụng dịch vụ, hợp đồng quảng cáo thương mại có thể
là hợp đồng dịch vụ trọn gói, có thể là hợp đồng phát hành quảng cáo hay hợp đồng cho thuê
phương tiện quảng cáo.

88. Quyền và nghĩa vụ của người bán dịch vụ quảng cáo và người mua dịch vụ quảng
cáo?

* Người mua quảng cáo:

Theo Điều 111 Luật thương mại năm 2005 quy định về quyền của bên thuê quảng cáo thương
mại có nội dung cụ thể như sau:

Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, bên thuê quảng cáo thương mại sẽ có các quyền
sau đây:

– Bên thuê quảng cáo thương mại sẽ có quyền được lựa chọn người phát hành quảng cáo
thương mại, hình thức, nội dung, phương tiện, phạm vi và thời gian quảng cáo thương mại.

– Bên thuê quảng cáo thương mại sẽ có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng
dịch vụ quảng cáo thương mại.

Theo Điều 112 Luật thương mại năm 2005 quy định về nghĩa vụ của bên thuê quảng cáo
thương mại có nội dung cụ thể như sau:

Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, bên thuê quảng cáo thương mại có các nghĩa vụ
sau đây:

– Bên thuê quảng cáo thương mại sẽ có nghĩa vụ cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ quảng
cáo thương mại thông tin trung thực, chính xác về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
thương mại và chịu trách nhiệm về các thông tin này.
– Bên thuê quảng cáo thương mại sẽ có nghĩa vụ phải trả thù lao dịch vụ quảng cáo thương
mại và các chi phí hợp lý khác.

* Người bán dịch vụ quảng cáo:

Theo Điều 113 Luật thương mại năm 2005 quy định về quyền của bên cung ứng dịch vụ
quảng cáo thương mại có nội dung cụ thể như sau:

Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, bên cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại có
các quyền sau đây:

– Bên cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại có quyền yêu cầu bên thuê quảng cáo thương
mại cung cấp thông tin quảng cáo trung thực, chính xác và theo đúng thoả thuận trong hợp
đồng.

– Bên cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại có quyền được nhận thù lao dịch vụ quảng
cáo thương mại và các chi phí hợp lý khác.

Theo Điều 114 Luật thương mại năm 2005 quy định về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ
quảng cáo thương mại có nội dung cụ thể như sau:

Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại có
các nghĩa vụ sau đây:

– Bên cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại có nghĩa vụ phải thực hiện sự lựa chọn của
bên thuê quảng cáo về người phát hành quảng cáo thương mại, hình thức, nội dung, phương
tiện, phạm vi và thời gian quảng cáo thương mại.

– Bên cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại có nghĩa vụ tổ chức quảng cáo trung thực,
chính xác về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thương mại theo thông tin mà bên thuê
quảng cáo đã cung cấp.

89. Khuyến mại và quyền khuyến mại của thương nhân? Các hình thức khuyến mại?

Theo Khoản 1 Điều 88 Luật Thương mại 2005: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương
mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách
dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.”

 Đặc điểm cơ bản của khuyến mại:

- Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân.


- Cách thức xúc tiến thương mại: là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.

- Mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung ứng ứng dịch vụ.

 Các hình thức khuyến mại: pháp luật thương mại quy định thương nhân được thực
hiện các hình thức khuyến mại sau:

- Hàng mẫu: thương nhân đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử
không phải trả tiền. Thông thường hàng mẫu đưa cho khách hàng dùng thử là hàng đang bán
hoặc sẽ được bán trên thị trường.

- Quà tặng: thương nhân được phép tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng không
thu tiền để thực hiện mục tiêu xúc tiến thương mại. Tặng quà được thực hiện đối với khách
hàng có hành vi mua sắm hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ của thương nhân.

- Giảm giá: là hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ trong thời gian khuyến mại với giá thấp
hơn giá bán, giá cung ứng dịch vụ bình thường trước đó được áp dụng trong thời gian khuyến
mại mà thương nhân đã đăng kí hoặc thông báo. Nếu khuyến mại hàng hóa, dịch vụ thuộc
diện Nhà nước quản lí giá thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy
định của Chính phủ.

- Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ, phiếu dự thi:
theo các chương trình này, khách hàng có thể được hưởng lợi ích nhất định theo những
phương thức khác nhau. Phiếu mua hàng thường có ý nghĩa giảm giá nhất định để thanh toán
cho những lần mua sau trong hệ thống bán hàng của thương nhân. Phiếu dự thi có thể mang
lại giải thưởng hoặc không mang lại lợi ích gì cho khách hàng, phụ thuộc vào kết quả dự thi
của họ .

- Tổ chức các sự kiện để thu hút khách hàng: ví dụ các chương trình mang tính may rủi mà
khách hàng trúng thưởng hoàn toàn do may mắn: bốc thăm, cào số trúng thưởng,...

 Quyền khuyến mại của thương nhân:

- Lực chọn hình thức, thời gian, địa điểm khuyến mại

- Quy định những lợi ích cụ thể mà khách hàng được hưởng

- Thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại theo quy định của pháp luật.

- Tự mình tổ chức thực hiện các hình thức khuyến mại theo quy định của pháp luật.
90. Quản lý nhà nước về khuyến mại? Các trường hợp cấm khuyến mại?

Căn cứ theo Khoản 2 Điều 19 Nghị định 81/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật thương mại về
hoạt động xúc tiến thương mại do Thủ tướng Chính phủ ban hành thì cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền xác nhận việc đăng ký hoạt động khuyến mại của thương nhân được quy
định như sau:

- Sở Công Thương đối với chương trình khuyến mại mang tính may rủi thực hiện trên địa bàn
một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Bộ Công Thương đối với chương trình khuyến mại mang tính may rủi thực hiện trên địa bàn
từ 2 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên và chương trình khuyến mại theo các hình
thức khác.

Ngoài ra, tại Khoản 7 Điều này còn có quy định như sau:

Trường hợp Bộ Công Thương là cơ quan xác nhận đăng ký thực hiện chương trình khuyến
mại, Bộ Công Thương cung cấp cho Sở Công Thương nơi thương nhân tổ chức khuyến mại
nội dung chươngtrình đã được xác nhận để phối hợp quản lý.

 Điều 100. Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại

1. Khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh;
hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng.

2. Sử dụng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng
hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được
phép cung ứng.

3. Khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi.

4. Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên[7] để khuyến mại
dưới mọi hình thức.

5. Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách
hàng.

6. Khuyến mại để tiêu thụ hàng hóa kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức
khỏe con người và lợi ích công cộng khác.
7. Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.

8. Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng.

9. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

10. Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn
mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa theo quy định
tại khoản 4 Điều 94 của Luật này.

91. Kinh doanh dịch vụ khuyến mại? Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dịch vụ
khuyến mại?

Điều 89. Kinh doanh dịch vụ khuyến mại

 Kinh doanh dịch vụ khuyến mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân
thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác trên cơ sở hợp
đồng.

Điều 90: Hợp đồng dịch vụ khuyến mại: “Hợp đồng dịch vụ khuyến mại phải được lập thành
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”

 Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ khuyến mại: (My chưa làm)

91. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân thực hiện hoạt động khuyến mại?

 Quyền của thương nhân thực hiện hoạt động khuyến mại:

- Lực chọn hình thức, thời gian, địa điểm khuyến mại

- Quy định những lợi ích cụ thể mà khách hàng được hưởng

- Thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại theo quy định của pháp luật.

 Nghĩa vụ của thương nhân thực hiện khuyến mại

1. Thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật để thực hiện các hình
thức khuyến mại.

2. Thông báo công khai các nội dung thông tin về hoạt động khuyến mại cho khách hàng theo
quy định tại Điều 97 của Luật này.

3. Thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và các cam kết với khách hàng.
4. Đối với một số hình thức khuyến mại quy định tại khoản 6 Điều 92 của Luật này, thương
nhân phải trích 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp
không có người trúng thưởng.

Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định các hình thức khuyến mại cụ thể thuộc các chương trình
mang tính may rủi phải thực hiện quy định này.

5. Tuân thủ các thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ khuyến mại nếu thương nhân thực hiện
khuyến mại là thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại.

92. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ? Quyền trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch
vụ? Các hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ?

 Điều 117. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân
dùng hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng
hóa, dịch vụ đó.

 Điều 118. Quyền trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

1. Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương
nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; lựa chọn các
hình thức trưng bày, giới thiệu phù hợp; tự mình tổ chức hoặc thuê thương nhân kinh doanh
dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ để trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ của
mình.

2. Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ của thương nhân do mình đại diện, trừ việc trưng bày, giới thiệu tại trụ sở của Văn
phòng đại diện đó. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn phòng đại diện có
quyền ký hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch
vụ để thực hiện trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cho thương nhân mà mình đại diện.

3. Thương nhân nước ngoài chưa được phép hoạt động thương mại tại Việt Nam muốn trưng
bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ của mình tại Việt Nam phải thuê thương nhân kinh doanh
dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ Việt Nam thực hiện.

 Theo quy định tại Điều 120 Luật Thương mại năm 2005, có hình thức trưng bày giới
thiệu hàng hóa dịch vụ gồm:
– Mở phòng trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ.

– Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ tại các trung tâm thương mại hoặc trong các
hoạt động giải trí, thể thao, văn hoá, nghệ thuật.

– Tổ chức hội nghị, hội thảo có trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ.

– Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ trên Internet và các hình thức khác theo quy
định của pháp luật.

Khi tiến hành trưng bày hàng hóa dịch vụ thương nhân có thể sử dụng một trong các hình
thức trên hoặc kết hợp một trong số các hình thức đó với nhau để tạo hiệu quả cho việc giới
thiệu hàng hóa dịch vụ của mình.

93. Điều kiện đối với hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu? Các trường hợp cấm
trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ?

 Điều kiện chung với hàng hóa dịch vụ trưng bày giới thiệu:

– Hàng hóa dịch vụ trưng bày giới phải là những hàng hoá, dịch vụ kinh doanh hợp pháp trên
thị trường.

– Hàng hoá, dịch vụ trưng bày, giới thiệu phải tuân thủ các quy định của pháp luật về chất
lượng hàng hóa và ghi nhãn hàng hoá.

 Điều kiện đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam để trưng bày, giới thiệu:
 Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam để trưng bày giới thiệu ngoài việc đáp ứng những
điều kiện chung trên còn phải đáp ứng thêm một số điều kiện sau:

– Là hàng hoá được phép nhập khẩu vào Việt Nam;

– Hàng hoá tạm nhập khẩu để trưng bày, giới thiệu phải tái xuất khẩu sau khi kết thúc việc
trưng bày, giới thiệu nhưng không quá sáu tháng, kể từ ngày tạm nhập khẩu; nếu quá thời hạn
trên thì phải làm thủ tục gia hạn tại hải quan nơi tạm nhập khẩu;

– Hàng hóa tạm nhập khẩu để trưng bày, giới thiệu nếu tiêu thụ tại Việt Nam thì phải tuân thủ
các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hàng hóa nhập khẩu.

 Theo quy định tại Điều 123 Luật thương mại năm 2005 quy định các trường hợp cấm
trưng bày giới thiệu hàng hóa dịch vụ gồm:
– Tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ hoặc sử dụng hình thức, phương tiện
trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, cảnh quan, môi trường, sức khoẻ con người.

– Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ hoặc sử dụng hình thức, phương tiện trưng bày,
giới thiệu trái với truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.

– Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ làm lộ bí mật nhà nước.

– Trưng bày, giới thiệu hàng hoá của thương nhân khác để so sánh với hàng hoá của mình,
trừ trường hợp hàng hoá đem so sánh là hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy
định của pháp luật.

– Trưng bày, giới thiệu mẫu hàng hoá không đúng với hàng hoá đang kinh doanh về chất
lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, thời hạn bảo hành và các chỉ tiêu chất
lượng khác nhằm lừa dối khách hàng.

 Điều 123. Các trường hợp cấm trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

1. Tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hoặc sử dụng hình thức, phương tiện trưng
bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
cảnh quan, môi trường, sức khỏe con người.

2. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hoặc sử dụng hình thức, phương tiện trưng bày,
giới thiệu trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.

3. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ làm lộ bí mật nhà nước.

4. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa của thương nhân khác để so sánh với hàng hóa của mình,
trừ trường hợp hàng hóa đem so sánh là hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy
định của pháp luật.

5. Trưng bày, giới thiệu mẫu hàng hóa không đúng với hàng hóa đang kinh doanh về chất
lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, thời hạn bảo hành và các chỉ tiêu chất
lượng khác nhằm lừa dối khách hàng.

95. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch
vụ?

 Khái niệm: hợp đồng trưng bày giới thiệu hàng hóa dịch vụ là hợp đồng dịch vụ theo
đó bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ trưng bày sản phẩm theo hình
thức nhất định và nhận thanh toán; bên nhận cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán
theo thỏa thuận.
 Đặc điểm:

- Về chủ thể: luật thương mại quy định thương nhân có quyền trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ, lựa chọn các hình thức trưng bày, giới thiệu phù hợp , tự mình tổ chức hoặc thuê
thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ để trưng bày. Theo
quy định này chủ thể của hợp đồng (bên thuê dịch vụ và bên kinh doanh dịch vụ) đều là
thương nhân.

- Về hình thức: phải được lập thành văn bản hay hình thức khác có giá trị pháp lí tương
đương.

- Về nội dung: hợp đồng dịch vụ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ có các điều khoản
chủ yếu sau:

+ Tên, địa chỉ bên thuê dịch vụ và bên kinh doanh dịch vụ trưng bày giới thiệu hàng hóa.

+ Hàng hóa trưng bày giới thiệu

+ Nội dung, hình thức, địa điểm, thời gian trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

- Phí dịch vụ và các phí khác

- Quyền và nghĩa vụ của các bên....

96. Quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ?

Điều 125. Quyền của bên thuê dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên thuê dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ
có các quyền sau đây:

1. Yêu cầu bên cung ứng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ thực hiện thỏa thuận
trong hợp đồng;

2. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ.

Điều 126. Nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên thuê dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ
có các nghĩa vụ sau đây:
1. Cung cấp đầy đủ hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu hoặc phương tiện cho bên cung
ứng dịch vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng;

2. Cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu và chịu trách nhiệm về các
thông tin này;

3. Trả thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác.

97. Quyền và nghĩa vụ của bên cung cấp dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch
vụ?

Điều 127. Quyền của bên cung ứng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên cung ứng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ có các quyền sau đây:

1. Yêu cầu bên thuê dịch vụ cung cấp hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu theo thời hạn đã
thỏa thuận trong hợp đồng;

2. Yêu cầu bên thuê dịch vụ cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu và
các phương tiện cần thiết khác theo thỏa thuận trong hợp đồng;

3. Nhận thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác.

Điều 128. Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên cung ứng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ có các nghĩa vụ sau đây:

1. Thực hiện việc trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng;

2. Bảo quản hàng hóa trưng bày, giới thiệu, tài liệu, phương tiện được giao trong thời gian
thực hiện hợp đồng; khi kết thúc việc trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ, phải giao lại
đầy đủ hàng hóa, tài liệu, phương tiện trưng bày, giới thiệu cho bên thuê dịch vụ;

3. Thực hiện việc trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ theo những nội dung đã được thỏa
thuận với bên thuê dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ.

98. Khái niệm hội chợ, triển lãm thương mại và kinh doanh hội chợ, triển lãm thương
mại?

* Khái niệm hội chợ, triển lãm thương mại:


Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại tập trung trong một thời gian
và tại một địa điểm nhất định, để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hoá dịch vụ, tài liệu
về hàng hoá dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá, hợp đồng dịch vụ.

* Khái niệm kinh doanh hội chợ, triển lãm thương mại:

Khoản 1 Điều 130 Luật Thương mại 2005 quy định: “Kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm
thương mại là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân kinh doanh dịch vụ này cung ứng
dịch vụ tổ chức hoặc tham gia hội chợ, triển lãm thương mại cho thương nhân khác để nhận
thù lao dịch vụ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại.

99. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hội chợ, triển lãm thương mại?

“Điều 138. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hội chợ, triển lãm thương mại
tại Việt Nam

1. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận với thương nhân tổ chức hội chợ, triển
lãm thương mại.

2. Bán, tặng hàng hoá, cung ứng dịch vụ được trưng bày, giới thiệu tại hội chợ, triển lãm
thương mại theo quy định của pháp luật.

3. Được tạm nhập, tái xuất hàng hoá, tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để trưng bày tại hội chợ,
triển lãm thương mại.

4. Tuân thủ các quy định về tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam”.

Như vậy, có thể thấy rằng thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân Việt Nam hay
là các chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền trực tiếp tổ chức, tham
gia hội chợ, triển lãm thương mại về hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh hoặc thuê
thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình theo thỏa thuận và đã được quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời việc tổ
chức hội chợ, triển lãm thương mại cần phải tuân thủ các quy định về các vấn đề liên quan
đến việc bán tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ hay những hoạt động tạm nhập, tái xuất hàng
hoá, tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để trưng bày tại hội chợ, triển lãm thương mại như được
quy định tại Điều 139 về quyền và nghĩa vụ của thương nhân tổ chức, tham gia hội chợ, triển
lãm thương mại ở nước ngoài.
100. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương
mại?

Điều 140. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương
mại

1. Niêm yết chủ đề, thời gian tiến hành hội chợ, triển lãm thương mại tại nơi tổ chức hội chợ,
triển lãm thương mại đó trước ngày khai mạc hội chợ, triển lãm thương mại.

2. Yêu cầu bên thuê dịch vụ cung cấp hàng hóa để tham gia hội chợ, triển lãm thương mại
theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng.

3. Yêu cầu bên thuê dịch vụ cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ để tham gia hội chợ,
triển lãm thương mại và các phương tiện cần thiết khác theo thỏa thuận trong hợp đồng.

4. Nhận thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác.

5. Thực hiện việc tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại theo thỏa thuận trong hợp đồng.

NỘI DUNG 6: PHÁP LUẬT VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỤ THỂ

101. Gia công thương mại? Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng gia công?

Khái niệm: Theo Luật thương mại năm 2005, "Gia công trong thương mại là hoạt động
thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật
liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất
theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao."

ĐẶC ĐIỂM:

Gia công trong thương mại có bốn đặc điểm nổi bật như sau:

+ Đặc điểm về chủ thể


Quan hệ gia công được phát sinh giữa bên đặt gia công và bên nhận gia công. Bên đặt
gia công là người có nhu cầu về sản phẩm theo khuôn mẫu. Do đó, bên đặt gia công giao một
phần hoặc toàn bộ nguyên vật liệu, có thể là bán thành phẩm, có thể là dây chuyền máy móc
cho bên nhận gia công. Bên nhận gia công nguyên vật liệu hoặc mua nguyên vật liệu, tổ chức
gia công nhằm tạo ra sản phẩm đúng mẫu mã, cách thức theo yêu cầu của bên đặt gia công.
Bên nhận gia công phải là thương nhân kinh doanh ngành nghề phù hợp với sản phẩm gia
công.

Sản phẩm mới được sản xuất ra theo hợp đồng gia công trong thương mại gọi là hàng
hóa gia công. Tất cả các hàng hóa đều có thể gia công, trừ những hàng hóa thuộc diện cấm
kinh doanh. Trong trường hợp hàng hóa được gia công cho thương nhân nước ngoài để tiêu
thụ ở nước ngoài thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu theo pháp luật
Việt Nam, có thể được gia công nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép (theo
Điều 180 Luật Thương mại 2005).

+ Về tính chất:

Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, do đó ít nhất một bên chủ thể thực
hiện phải có mục đích sinh lợi.

+ Về hình thức pháp lý

Quan hệ gia công trong thương mại được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng gia
công. Hợp đồng gia công trong thương mại là sự thỏa thuận giữa bên nhận gia công và bên
đặt gia công, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu
của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo
yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao.

Tại điều 179 Luật thương mại 2005 quy định: “Hợp đồng gia công phải được lập thành văn
bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”.

+ Về mục đích

Trong thương mại, các chủ thể (hoặc ít nhất một chủ thể) trong quan hệ gia công có mục đích
lợi nhuận, do quan hệ này chủ yếu diễn ra giữa các thương nhân hoặc ít nhất một bên là
thương nhân.

102. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận gia công?


Theo Điều 182 Luật thương mại 2005 thì quyền và nghĩa vụ của bên nhận gia công được
quy định như sau:

a. Quyền của bên nhận gia công

+ Bên nhận gia công có quyền nhận thù lao gia công và các chi phí hợp lý khác theo thỏa
thuận đã ký trong hợp đồng.

+ Trường hợp bên nhận gia công thực hiện gia công cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thì
bên nhận gia công sẽ được xuất khẩu tại chỗ sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị thuê
hoặc mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa, phế phẩm, phế liệu theo uỷ quyền của bên
đặt gia công. Việc xuất khẩu đáp ứng các quy định về xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài
đồng thời bên nhận gia công được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, nguyên
liệu, phụ liệu, vật tư tạm nhập khẩu theo định mức để thực hiện hợp đồng gia công theo quy
định của pháp luật về thuế.

b. Nghĩa vụ của bên nhận gia công

+ Bên nhận gia công có nghĩa vụ thực hiện theo hợp đồng gia công về việc cung ứng một
phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu để gia công theo thỏa thuận với bên đặt gia công về
số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật và giá. Điều này nhằm đảm bảo hàng hóa gia công
được bắt đầu gia công kịp thời và đúng tiến độ.

+ Bên nhận gia công có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hoạt động gia
công hàng hoá trong trường hợp hàng hoá gia công thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất
khẩu, cấm nhập khẩu

Như vậy, gia công hàng hóa trong thương mại là một hoạt động thương mại, được thực hiện
giữa bên gia công và bên đặt gia công. Các bên có quyền và nghĩa vụ riêng và phải đảm bảo
thực hiện đúng quy định của pháp luật về thực hiện hợp đồng.

103. Quyền và nghĩa vụ của bên đặt gia công?

Theo Điều 181 Luật thương mại 2005 thì quyền và nghĩa vụ của bên đặt gia công được quy
định như sau:

a. Quyền của bên đặt gia công


+ Bên đặt gia công có quyền nhận lại toàn bộ sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị mà
trước đó đã cho bên gia công thuê hoặc cho mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư, phế liệu sau
khi thanh lý hợp đồng gia công.

+ Bên đặt gia công sau khi hoàn thành hợp đồng gia công sẽ có quyền bán, tiêu huỷ, tặng
biếu tại chỗ sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị cho thuê hoặc cho mượn, nguyên liệu,
phụ liệu, vật tư dư thừa, phế phẩm, phế liệu theo thoả thuận và phù hợp với quy định của
pháp luật.

+ Bên đặt gia công có quyền cử người đại diện để kiểm tra, giám sát việc gia công tại nơi
nhận gia công, cử chuyên gia để hướng dẫn kỹ thuật sản xuất và kiểm tra chất lượng
sản phẩm gia công theo thoả thuận trong hợp đồng gia công. Điều này giúp cho bên đặt
gia công kiểm soát được hàng gia công của mình được bên gia công thực hiện đúng quy trình
và đảm bảo chất lượng hàng hóa.

b. Nghĩa vụ của bên đặt gia công

+ Bên đặt gia công có nghĩa vụ giao một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu dùng để
gia công hàng hóa theo đúng hợp đồng gia công mà hai bên đã ký kết hoặc giao số tiền
tương đương để mua vật liệu theo số lượng, chất lượng và mức giá thoả thuận.

+ Bên đặt gia công có nghĩa vụ chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với tính hợp pháp về
quyền sở hữu trí tuệ của hàng hoá gia công, nguyên liệu, vật liệu, máy móc, thiết bị dùng
để gia công chuyển cho bên nhận gia công. Bên gia công sẽ không phải chịu trách nhiệm liên
đới về vấn đề này.

104. Phân biệt hợp đồng gia công với hợp đồng mua bán hàng hóa?

hợp đồng mua bán hàng hóa:

Thứ nhất, về đối tượng, HĐMBHH trong thương mại có đối tượng là hàng hoá. Tuy nhiên
không thể hiểu theo nghĩa thông thường, hàng hoá là sản phẩm lao động của con người, được
tạo ra nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của con người hay chỉ bao gồm máy móc, thiết bị,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị
trường, nhà ở dùng để kinh doanh đưới hình thức cho thuê, mua, bán (khoản 3 Điều 5 Luật
Thương mại 2005). Luật Thương mại 2005 quy định :

“Hàng hoá bao gồm :

Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
Những vật gắn liền với đât đai.”

Như vậy, hàng hoá trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là hàng hoá hiện đang tồn
tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu
thông thương mại và phải loại trừ một số hàng hoá đặc biệt chịu sự điều chỉnh riêng như cổ
phiếu, trái phiếu…

Thứ hai, về chủ thể. chủ thể trong HĐMBHH chủ yếu là thương nhân. Khái niệm về thương
nhân được đề cập đến trong khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 bao gồm : tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và
có đăng kí kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của HĐMBHH có thể là thương nhân Việt
Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong HĐMBHH quốc tế). Ngoài chủ thể là thương
nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của
HĐMBHH. Hoạt động của chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi
nhuận trong quan hệ HĐMBHH chỉ phải tuân theo Luật Thương mại 2005 khi chủ thể này
lựa chọn áp dụng Luật Thương mại 2005.

Thứ ba, về mục đích. HĐMBHH trong thương mại chủ yếu là để kinh doanh thu lợi nhuận
cho các thương nhân. Chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và các mục đích khác
cho cả thương nhân và những chủ thể không phải thương nhân tuỳ theo mong muốn và nhu
cầu của họ trong từng thời điểm.

thứ tư, về hình thức. Ta hầu như không thấy sự khác biệt nào khi so sánh Điều 401 về hình
thức hợp động dân sự của “Bộ luật dân sự 2015” với Điều 24 về hình thức HĐMBHH của
Luật Thương mại 2005. Chúng đều có thể xác lập bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ
thể. Tuy nhiên, trong thực tế kinh doanh chúng ta thấy rằng, đối tượng là hàng hoá thường
mang số lượng nhiều, giá trị lớn và để đảm bảo lợi ích, tránh xảy ra tranh chấp không đáng có
thì hình thức hợp đồng bằng văn bản hay được ưu tiên do những ưu điểm vốn có của nó
(minh bạch, rõ ràng, có thể dễ dàng đưa ra làm bằng chứng khi có tranh chấp).

Thứ năm, về nội dung. Nội dung của HĐMBHH là các điều khoản do các bên thoả thuận,
thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, là sự phát triển tiếp tục
những quy định của dân luật truyền thống về HĐMBTS.

hợp đồng gia công:


Sự thỏa thuận giữa các bên, các bên thực hiện nghĩa vụ giao kết trong hợp đồng. Hai dạng
hợp đồng này đều được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, đáp ứng điều kiện mà một hợp đồng
dân sự phải có. Đồng thời, hợp đồng mua bán và hợp đồng gia công đều là hợp đồng song vụ.

2. Đối tượng:

- Hợp đồng gia công: vật chưa có thực khi hai bên thỏa thuận giao kết hợp đồng, mà vật đó
chỉ được xác định trước theo mẫu, theo tiêu chuẩn nhất định và bên gia công có nghĩa vụ phải
tạo ra sản phẩm gia công theo đúng mẫu mà hai bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.
Đối với đối tượng của hợp đồng gia công, nếu pháp luật có quy định về tiêu chuẩn thì tiêu
chuẩn đó thường liên quan đến việc sản phẩm gia công phải bảo đảm các yếu tố về sức
khỏe, tính mạng của người tiêu dụng, bảo vệ môi trường, v.v...

3. Chủ thể:

- Hợp đồng gia công: bên nhận gia công và bên đặt gia công. Bên nhận gia công phải là
thương nhân có đăng ký kinh doanh để thực hiện hoạt động gia công, còn bên đặt gia công có
thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân.

4. Hình thức:

- Hợp đồng gia công: phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương.

5. Nội dung:

- Hợp đồng gia công: các điều khoản do các bên thỏa thuận, quy định về quyền và nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng gia công.

105. Khái niệm và ý nghĩa của nhượng quyền thương mại?

Khái niệm:

Điều 284 Luật Thương mại năm 2005 quy định:

“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép
và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo
các điều kiện sau đây:

1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh
doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại,
bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên
nhượng quyền;

2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều
hành công việc kinh doanh”.

Ý nghĩa:

♦ Ý nghĩa của nhượng quyền thương mại đối với Bên nhận quyền

Đơn vị nhận quyền từ tổ chức đã có sẵn thương hiệu không cần tốn thời gian dài gầy dựng
thương hiệu riêng cũng như đau đầu tìm cách tổ chức quản lý, điều hành công việc. Chỉ
với việc kế thừa sự thành công, danh tiếng, bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền, đã có
thể tiếp tục phát triển mô hình kinh doanh nhanh chóng cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của bên
nhượng quyền.

Đây chính là ưu thế chính khiến mô hình nhượng quyền phát triển rầm rộ, bởi lẽ để gầy dựng
thành công một thương hiệu đôi khi mất hàng chục năm. Với trào lưu khởi nghiệp tại Việt
Nam, các bạn trẻ đam mê kinh doanh có thể nhận quyền ngay từ các thương hiệu nổi tiếng
quốc tế mà không cần tốn quá nhiều thời gian để thương hiệu đi sâu vào tiềm thức của người
tiêu dùng như cách kinh doanh truyền thống.

♦ Ý nghĩa của nhượng quyền thương mại đối với Bên nhượng quyền

Đơn vị nhượng quyền sẽ nhận được phí nhượng quyền (thông qua định giá thương hiệu),
đồng thời tổ chức này sẽ hạn chế được tối đa chi phí để mở rộng mạng lưới kinh doanh ra
nhiều quốc gia.

Bên nhượng quyền cũng sẽ không cần lo lắng về nhân sự khi đặt chân đến một thị trường
mới. Đơn vị nhận quyền sẽ thay bạn quản lý và duy trì hoạt động kinh doanh với tên thương
hiệu vẫn thuộc sở hữu của bạn.

♦ Ý nghĩa của nhượng quyền thương mại đối với Bên nhận quyền đối với quốc gia nơi đơn vị
nhận quyền có trụ sở

Không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho đôi bên, nhượng quyền thương mại còn thực hiện sứ
mệnh lớn lao đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế tại mỗi quốc gia, địa phương nơi chúng
có mặt và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, Nhà nước có thêm nguồn vốn đầu tư vào
những lĩnh vực quan trọng, kiến thiết đất nước.
Dựa trên những ý nghĩa của nhượng quyền thương mại, ngày nay Chính phủ Việt Nam cũng
đã hỗ trợ tối đa để các doanh nghiệp nội địa dễ dàng tiếp cận hình thức kinh doanh sáng tạo
này. Điều đó được thể hiện rõ qua quy định về điều kiện nhượng quyền.

106. Điều kiện nhượng quyền thương mại?

. Thương nhân nhượng quyền thương mại phải đáp ứng điều kiện:

+ Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất 01 năm.

2. Hồ sơ đề nghị đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại bao gồm:

a. Đơn đề nghị đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại (theo mẫu MĐ-1 tại Phụ lục
II ban hành kèm theo Thông tư 09/2006/TT-BTM).

b. Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại (theo mẫu tại Phụ lục III ban hành kèm
theo Thông tư 09/2006/TT-BTM).

c. Các văn bản xác nhận về:

– Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị tương đương của
thương nhân nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền nơi thương nhân nước ngoài thành lập
xác nhận.

– Bản sao từ sổ gốc hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao xuất trình kèm bản chính để đối
chiếu văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài trong
trường hợp có chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp đã được cấp văn
bằng bảo hộ.

d. Giấy tờ chứng minh sự chấp thuận về việc cho phép nhượng quyền lại của bên nhượng
quyền ban đầu trong trường hợp thương nhân đăng ký hoạt động nhượng quyền là bên
nhượng quyền thứ cấp.

Các giấy tờ trên phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.

3. Nơi nộp hồ sơ:

+Bộ Công thương.

4. Thời hạn giải quyết:


– Thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Công thương thực hiện
đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng quyền
thương mại và thông báo bằng văn bản cho thương nhân về việc đăng ký đó.

– Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ hoặc chưa hợp lệ, trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được hồ sơ, Bộ Công thương phải có văn bản thông báo để Bên dự kiến nhượng
quyền bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ;

– Nếu từ chối việc đăng ký thì Bộ Công thương phải thông báo bằng văn bản cho Bên dự
kiến nhượng quyền và nêu rõ lý do.

Lưu ý: Các trường hợp sau không phải đăng ký nhượng quyền:

– Nhượng quyền trong nước;

– Nhượng quyền thương mại từ Việt Nam ra nước ngoài.

Đối với các trường hợp không phải đăng ký nhượng quyền thì phải thực hiện chế độ báo cáo
định kỳ tới Sở Công Thương chậm nhất là vào ngày 15/01 hàng năm theo mẫu tại Phần B
Phụ lục III Thông tư 09/2006/TT-BTM.

107. Phân loại nhượng quyền thương mại?

Thứ nhất, căn cứ vào mục đích của việc kinh doanh

Nhượng quyền bán sản phẩm: Bên nhận quyền thực hiện kinh doanh với tư cách như là
một bên phân phối của bên nhượng quyền

Nhượng quyền gia công: Bên nhận quyền sử dụng tiến trình, công thức đặc biệt, bí quyết
kinh doanh và sử dụng tên của bên nhượng quyền trong việc sản xuất, gia công

Nhượng quyền phương thức kinh doanh: Không chỉ cấp cho bên nhận quyền quyền sử
dụng tên và bán sản phẩm, dịch vụ mà còn chuyển giao toàn bộ cách thức kinh doanh.
Cụ thể, bên nhượng quyền sẽ chuyển giao hệ thống hoạt động, chuyên môn kỹ thuật, hệ
thống tiếp thị, hệ thống đào tạo, phương thức quản lý, đào tạo và hỗ trợ thường xuyên cho
bên nhận quyền.

Thứ hai, căn cứ vào đối tượng được nhượng quyền

Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực dịch vụ: Bên nhượng quyền giao cho bên nhận
quyền quyền để cung cấp các dịch vụ theo phương thức kinh doanh và nhãn hiệu dịch vụ
của bên nhượng quyền
Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hóa: Bên nhượng quyền giao cho
bên nhận quyền quyền để bán, phân phối hàng hóa theo phương thức kinh doanh và nhãn
hiệu hàng hóa

108. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại?

Khái niệm: Hợp đồng nhượng quyền thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên nhượng
quyền và bên nhận quyền về thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động
nhượng quyền thương mại. Hợp đồng thể hiện bản chất của giao dịch nhượng quyền
thương mại như được quy định tại Điều 284 Luật Thương mại 2005

Đặc điểm:

+ Về hình thức:

Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được thành lập văn bản hoặc bằng hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương (theo Điều 285 Luật Thương mại 2005).

+ Về ngôn ngữ:

Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập bằng tiếng việt. Trường hợp nhượng
quyền từ Việt Nam ra nước ngoài, ngôn ngữ của hợp đồng nhượng quyền thương mại do
các bên thoả thuận (theo Điều 12 Nghị định số 35/2006/NĐ- CP ngày 31/3/2006 về hoạt
động nhượng quyền thương mại).

+ Về chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại:

Trong quan hệ nhượng quyền thương mại tồn tại hai chủ thể, đó là bên nhượng quyền và
bên nhận quyền. Hợp đồng nhượng quyền thương mại là những thỏa thuận của hai chủ thể
này về nội dung của hoạt động nhượng quyền. Do nhượng quyền thương mại là hoạt động
thương mại đặc thù nên hầu hết các nước đều quy định chủ thể của quan hệ nhượng quyền
phải là thương nhân, tồn tại hợp pháp, có thẩm quyền kinh doanh và có quyền hoạt động
thương mại phù hợp với đối tượng được nhượng quyền.

+ Về đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại:

Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại chính là quyền thương mại. Đây là lợi
ích mà các bên trong quan hệ nhượng quyền đều hướng tới. Quyền thương mại được quy
định tại Khoản 6 Điều 3 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 về hoạt động nhượng
quyền thương mại bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các quyền sau đây:
+ Quyền được bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành
công việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng
quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh,
biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

+ Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại
chung;

+ Quyền được bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho bên nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng
nhượng quyền thương mại chung;

+ Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng
phát triển quyền thương mại.

Hàng hóa kinh doanh nhượng quyền thương mại cũng phải đáp ứng các yêu cầu của pháp
luật. Hàng hoá, dịch vụ được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại là hàng hoá, dịch
vụ không thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh.

Trường hợp hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh, Danh
mục hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh sau khi
được cơ quan quản lý ngành cấp Giấy phép kinh doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc
có đủ điều kiện kinh doanh (theo Điều 7 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 về
hoạt động nhượng quyền thương mại).

+ Về các loại hợp đồng nhượng quyền thương mại:

Hợp đồng phát triển quyền thương mại (theo Khoản 8 Điều 3 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP
ngày 31/3/2006 về hoạt động nhượng quyền thương mại).

Hợp đồng thương mại thứ cấp (theo Khoản 10 Điều 10 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày
31/3/2006 về hoạt động nhượng quyền thương mại).

109. Quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền thương mại?

Bên nhượng quyền có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 286 và 287, Luật
Thương mại 2005.

Nhận tiền nhượng quyền;

Tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới nhượng quyền
thương mại;
Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất
của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất lượng hàng hóa, dịch vụ.

Bên cạnh các quyền, bên nhượng quyền có các nghĩa vụ sau:

Cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại cho bên nhận quyền;

Đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho bên nhận quyền để điều
hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền thương mại;

Thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của bên nhận quyền;

Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với các đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại;

Đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống nhượng quyền thương mại

110. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận nhượng quyền thương mại?

Bên nhận quyền có các quyền sau:

Yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống
nhượng quyền thương mại;

Yêu cầu bên nhượng quyền đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền khác trong hệ
thống nhượng quyền thương mại.

Bên nhận quyền có các nghĩa vụ sau:

Trả tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo hợp đồng nhượng quyền thương
mại;

Đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền và bí quyết kinh
doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao;

Chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền; tuân thủ các yêu cầu
về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của bên nhượng quyền;

Giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng nhượng
quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt;
Ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống của bên nhượng quyền khi kết
thúc hoặc chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại;

Điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại;

Không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp thuận của bên nhượng
quyền.

111. Những vấn đề pháp lý về nhượng quyền lại?

Điều kiện hoạt động nhượng quyền thương mại

Hình thức hợp đồng nhượng quyền thương mại

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng

Những trường hợp được chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và sự ràng buộc giữa bên nhượng
quyền và bên nhận quyền sau khi chấm dứt hợp đồng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các
bên

Quy định về việc cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại

Quy định về đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại

Quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại

Lý do hay xảy ra tranh chấp

112. Những vấn đề pháp lý về bảo mật thông tin và hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại?

113. Khái niệm và đặc điểm của bán hàng đa cấp?

Khái niệm: Bán hàng đa cấp là hoạt động kinh doanh sử dụng mạng lưới người tham gia
gồm nhiều cấp, nhiều nhánh. Trong đó, người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng
và lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của mình và của những người khác trong mạng
lưới (khoản 1 Điều 2 Nghị định 40/2018/NĐ-CP)

Đặc điểm:

- Bán hàng đa cấp là một hình thức bán lẻ hàng hóa: Công ty bán hàng đa cấp có thể là công
ty trực tiếp sản xuất và tiếp thị, bán lẻ sản phẩm hoặc phân phối hàng hóa do các công ty khác
sản xuất. Công ty đa cấp bán lẻ hàng hóa thông qua mạng lưới tiếp thị.

- Việc bán hàng được thực hiện bởi mạng lưới người tham gia với nhiều cấp, nhiều nhánh
khác nhau:

Các doanh nghiệp thường bán hàng qua đại lý, cửa hàng hoặc siêu thị… Còn trong hoạt động
bán hàng đa cấp, không có các đại lý, cửa hàng, siêu thị mà hàng hóa được các nhà phân phối
trực tiếp sử dụng hoặc giới thiệu và bán cho người tiêu dùng.

- Người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng từ kết quả bán hàng của mình và
của người khác trong mạng lưới do mình tổ chức:

Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng thù lao từ 2 nguồn:

Hoa hồng trực tiếp được tính trên doanh số bán hàng;

Hoa hồng gián tiếp là khoản tiền thưởng khi xây dựng mạng lưới tiêu thụ của người tham gia
bán hàng đa cấp.

114. Phân biệt bán hàng đa cấp với đại lý mua bán hàng hóa?

Tiêu chí Đại lý thương mại Bán hang đa cấp

Khái niệm Đại lý thương mại là hoạt động Bán hàng đa cấp là hoạt động
thương mại, theo đó bên giao đại kinh doanh sử dụng mạng
lý và bên đại lý thoả thuận việc lưới người tham gia gồm
bên đại lý nhân danh chính mình nhiều cấp, nhiều nhánh.
mua, bán hàng hoá cho bên giao Trong đó, người tham gia
đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của được hưởng hoa hồng, tiền
bên giao đại lý cho khách hàng thưởng và lợi ích kinh tế khác
để hưởng thù lao (Điều 166 Luật từ kết quả kinh doanh của
mình và của những người
khác trong mạng lưới (khoản
1 Điều 2 Nghị định
thương mại 2005). 40/2018/NĐ-CP)

Bên giao đại lý và bên đại lý đều người tiêu dùng thông qua
là thương nhân (Điều 167 Luật mạng lưới các nhà phân phối
Chủ thể Thương mại 2005). gồm nhiều tầng, nhiều nhánh

Đối tượng Hàng hóa, dịch vụ. Hàng hóa, dịch vụ.
- Bên đại lý chỉ nhân danh chính
mình mua bán hàng hóa cho bên
giao đại lý để hưởng thù lao dưới
hình thức hoa hồng hoặc chênh
lệch giá (khoản 1 Điều 171 Luật
Thương mại 2005);

- Giữa hai bên giao kết hợp đồng


Doanh thu chính của công ty
đại lý mua bán hàng hóa;
Tiếp thị đa cấp, kinh doanh

- Bên đại lý không có quyền ấn đa cấp có nguồn gốc từ lực

định giá cả bán ra (trừ trường hợplượng lao động mà công ty


đại lý bao tiêu) mà quyền này không cần phải trả lương bán

thuộc bên giao đại lý; sản phẩm, dịch vụ hay các
mặt hàng khác của công ty.
- Hàng hóa không thuộc sở hữu
của bên đại lý mà thuộc sở hữu Thu nhập chính của người

Bản chất của bên giao đại lý. tham gia được lấy từ hệ thống
hoa hồng mô hình kim tự tháp
hoặc hệ thống nhị phân

Trách nhiệm pháp lý Chỉ liên đới chịu trách nhiệm về - Đào tạo có sự tham gia của
chất lượng hàng hóa của đại lý 30 người trở lên hoặc từ 10
mua bán hàng hóa, chất lượng người tham gia bán hàng đa
dịch vụ của đại lý cung ứng dịch cấp trở lên thì doanh nghiệp
vụ trong trường hợp có lỗi do có trách nhiệm thông báo với
mình gây ra (khoản 5 Điều 175 Sở Công thương trước 15
Luật thương mại 2005). ngày làm việc

- minh bạch hóa hoạt động


kinh doanh đa cấp

- Hoạt động kinh doanh theo


phương thức đa cấp tại Việt
Nam cần phải đăng ký theo
quy định và các bên tham gia
kinh doanh theo phương thức
đa cấp phải tuân thủ các quy
định của pháp luật Việt Nam;

- Đảm bảo sự lành mạnh,


công bằng và minh bạch
trong hoạt động bán hàng đa
cấp.

Chịu sự giám sát và quản lý


của các cơ quan nhà nước tại
Việt Nam như một người
tham gia bán hàng đa cấp
Chịu sự kiểm tra, giám sát của theo quy định của pháp luật
bên giao đại lý và báo cáo tình hiện hành, bao gồm cả pháp
hình hoạt động đại lý với bên luật về bán hàng đa cấp, thuế
giao đại lý (khoản 6 Điều 175 và quy định pháp luật khác
Vấn đề kiểm soát Luật thương mại 2005). liên quan.
Bên giao đại lý với tư cách là chủ
sở hữu nên phải chịu rủi ro xảy ra
đối với hàng hóa, cũng như gánh
chịu trách nhiệm đối với khách
Rủi ro đối với hàng hóa hàng.

115. Các hành vi bán hàng đa cấp bất chính và những chế tài liên quan?

Điều 48. Bán hàng đa cấp bất chính:

Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng
người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:

1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc
phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;

2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham
gia để bán lại;

3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc
dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;

4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông
tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.”

Các ché tài:

Chế tài xử lý hành chính

Đối với cá nhân vi phạm sẽ bị xử phạt từ 3 triệu đồng đến 30 triệu đồng; đối với doanh
nghiệp bán hàng đa cấp, mức phạt từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Doanh nghiệp kinh
đa cấp thực hiện một số hành vi vi phạm trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trở lên thì mức phạt có thể tăng gấp đôi. Ngoài ra, người tham gia bán hàng đa cấp,
doanh nghiệp bán hàng đa cấp còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do vi phạm hành chính; buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc
gây nhầm lẫn đối với hành vi vi phạm.
Chế tài xử lý hình sự

Hành vi lợi dụng kinh doanh theo phương thức đa cấp để chiếm đoạt tài sản của người khác
còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội theo quy định của Bộ luật
Hình sự: Điều 174 (tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản") có khung hình phạt từ cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng cho đến 20 năm, tù chung thân; Điều 217 (tội
"Vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp") có khung hình phạt từ phạt tiền
từ 500 triệu đồng đến 1 tỉ đồng; hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng cho đến 05 năm; Điều 290 (tội "Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản") có khung hình phạt từ cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng cho đến 20 năm.

NỘI DUNG 7: CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI


116. Vi phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm hợp đồng?
Theo Khoản 12, Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “ Vi phạm hợp đồng là việc một
bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả
thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”.
Các chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
- Phạt vi phạm.
- Buộc bồi thường thiệt hại.
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng.
- Huỷ bỏ hợp đồng.
Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập
quán thương mại quốc tế.

117. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế tài thương mại?
* Khái niệm:
Chế tài thương mại là hình thức chế tài áp dụng đối với các chủ thể không thực hiện hay thực
hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết theo hợp đồng, theo đó, bên có hành vi vi phạm
hợp đồng trong lĩnh vực thương mại phải gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi
phạm của mình gây ra.
* Đặc điểm:
- Luôn mang tính cưỡng chế của Nhà nước đến đối tượng vi phạm pháp luật.
- Quy định hình thức, trách nhiệm của một bên trong quan hệ hợp đồng thương mại với bên
còn lại. Thể hiện trách nhiệm của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm.
- Thực hiện các tác động về tài sản đối với bên vi phạm. Bên vi phạm sẽ phải chịu những hậu
quả bất lợi về tài sản khi vi phạm hợp đồng.
* Ý nghĩa:
- Chế tài thương mại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại.
- Chế tài thương mại ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng, nâng cao ý thức trách nhiệm
của các bên trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
- Chế tài thương mại góp phần đảm bảo trật tự vận hành của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

118. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng?
Căn cứ Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005, các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối
với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại bao gồm:
- Do các bên thỏa thuận
- Trường hợp do sự kiện bất khả kháng
- Trường hợp hành vi vi phạm của một bên do lỗi của bên kia
- Trường hợp vi phạm do chấp hành quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

119. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và hậu quả pháp lý?
Theo quy định tại Khoản 13, Điều 3, Luật Thương Mại 2005: “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm
hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được
mục đích của việc giao kết hợp đồng.”
Trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thì
phải chịu hậu quả do chính hành vi của họ gây ra, hậu quả đó có thể được quy định trong hợp
đồng hoặc do pháp luật quy định. Chế tài là các biện pháp bảo đảm hiệu lực của hợp đồng,
bảo vệ lợi ích chính đáng của bên bị vi phạm và là công cụ để cơ quan Trọng tài, Tòa án giải
quyết tranh chấp.

120. Buộc thực hiện đúng hợp đồng? Nội dung, căn cứ áp dụng và ý nghĩa của chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng?
Theo Điều 297 Luật Thương mại 2005: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp
đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”.
* Nội dung:
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm thì lúc này hành vi đó được xác
định là căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Đối với việc bên vi phạm
phải ngừng ngay việc vi phạm và thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dùng các
biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện sẽ được nhận định là những biểu hiện cụ thể của
việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.
* Căn cứ áp dụng:
Áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng khi có hành vi vi phạm hợp đồng và hành vi vi
phạm đó không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định tại Điều 294 Luật
Thương mại 2005, đó là:

+ Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;

+ Xảy ra sự kiện bất khả kháng;

+ Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;

+ Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

* Ý nghĩa: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng
để các bên đạt được lợi ích mà họ mong muốn từ việc ký kết và thực hiện hợp đồng.

121. Phạt vi phạm? Nội dung, căn cứ áp dụng và ý nghĩa của chế tài phạt vi phạm hợp
đồng? Quan niệm về chế tài phạt vi phạm hợp đồng tại Việt Nam và trên thế giới?
Theo quy định tại Điều 300, Luật Thương Mại 2005: “Phạt vi phạm là việc một bên phải trả
một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có quy định”.
Căn cứ vào quy định trên việc phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng khi trong hợp đồng
có thỏa thuận. Điều này có nghĩa chỉ khi trong hợp đồng có sự thỏa thuận về việc phạt vi
phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm mới có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng này. Và
việc áp dụng chế tài này không căn cứ vào việc bên bị vi phạm có hay không có thiệt hại xảy
ra.
* Căn cứ áp dụng: Luật Thương mại 2005 quy định hành vi vi phạm hợp đồng thương mại,
yếu tố lỗi (suy đoán) của bên vi phạm hợp đồng và có sự thỏa thuận của các bên chủ thể trong
hợp đồng là ba căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm.
* Ý nghĩa:
- Nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng sau khi hợp đồng có hiệu lực
- Răn đe để hướng các bên tới việc thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đã thoả thuận trong
hợp đồng
- Trừng phạt bên vi phạm.

122. Bồi thường thiệt hại? Nội dung, căn cứ áp dụng và ý nghĩa của chế tài bồi thường
thiệt hại?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 302 Luật Thương mại năm 2005Như vậy, chế tài bồi thường
thiệt hại là một chế tài mang tính tài sản, việc bồi thường thiệt hại chính là bồi thường những
tổn thất thực tế bị mất mát do hành vi vi phạm của một bên trong hợp đồng.
* Chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng khi có các căn cứ sau:
- Có hành vi vi phạm: Hành vi vi phạm ở đây có thể là hành vi thực hiện không đúng, không
đầy đủ như cam kết trong thỏa thuận hoặc trái với quy định của pháp luật;
- Có thiệt hại thực tế xảy ra: Những thiệt hại phát sinh trên thực tế có thể xác định được, tính
bằng tiền;
- Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
* Ý nghĩa:
- Nhằm răn đe và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
- Nhằm khôi phục, bù đắp những tổn hại về lợi ích vật chất của bên bị vi phạm. Qua đó làm
cho hành vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm.
- Sau khi đã phải bỏ một chi phí không nhỏ để bồi thường thiệt hại, bên vi phạm cũng sẽ phải
có ý thức hơn trong việc thực hiện hợp đồng nếu không muốn tiếp tục mất đi những chi phí
không đáng có, ảnh hưởng đến việc tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh.

123. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng? Nội dung, căn cứ áp dụng và hậu quả pháp lý của
chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng?
Theo quy định tại Điều 308 Luật thương mại năm 2005 quy định:
" Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật thương mại năm
2005, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong
thuộc một trong các các trường hợp sau đây:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp
đồng;
- Một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng”.
* Căn cứ áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng:
(i) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp
đồng.
Trong trường hợp này, các hành vi vi phạm đã các bên dự liệu, thỏa thuận, cam kết trong hợp
đồng, để khi xảy ra hành vi vi phạm đó, bên bị vi phạm nghiễm nhiên có thể áp dụng chế tài
tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
(ii) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên
kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng - theo
Điều 3 Luật thương mại năm 2005.
* Hậu quả pháp lý của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng:
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực, bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại năm 2005.

124. Đình chỉ thực hiện hợp đồng? Nội dung, căn cứ áp dụng và hậu quả pháp lý của
chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng?
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là chấm dứt nửa chừng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo
hợp đồng đã kí.
Theo Điều 310 Luật Thương mại 2005 quy định, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên
chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng với bên còn lại.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng xảy ra trong các trường hợp:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
* Hậu quả pháp lý:
– Trường hợp chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên
kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
– Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đồng thời với việc áp dụng chế tài
đình chỉ thực hiện hợp đồng.

125. Hủy bỏ hợp đồng? Nội dung, căn cứ áp dụng và hậu quả pháp lý của chế tài hủy bỏ
hợp đồng?
Huỷ bỏ hợp đồng là sự kiện pháp lý mà hậu quả của nó làm cho nội dung hợp đồng bị hủy bỏ
một phần hợp đồng hoặc toàn bộ hợp đồng không còn hiệu lực từ thời điểm giao kết. Tại
Khoản 1, 2, 3 Điều 312 Luật Thương mại 2005 định nghĩa về hủy bỏ hợp đồng như sau:

“Điều 312. Huỷ bỏ hợp đồng

1. Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng.

2. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp
đồng đối với toàn bộ hợp đồng.

3. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần
còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.”

* Căn cứ áp dụng:

Huỷ bỏ thực hiện hợp đồng xảy ra trong các trường hợp:

1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;

2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.


* Hậu quả pháp lý:
Tại Điều 314 Luật Thương mại 2005 quy định hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng
như sau:

- Sau khi hủy bỏ hợp đồng, Hợp đồng không còn hiệu lực kể từ khi giao kết, các bên không
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và
nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
- Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp
đồng. Nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng
thời. Trường hợp không thể hoàn trả bằng lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả
bằng tiền.

- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

126. Chế tài thương mại do các bên tự thỏa thuận? Căn cứ áp dụng các loại chế tài này?
Chế tài thương mại do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập
quán thương mại quốc tế.
Căn cứ chung áp dụng các loại chế tài này:
 Có hành vi vi phạm: Bao gồm các hành vi thực hiện không đúng hoặc không thực
hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Đây là Căn cứ áp dụng cần được đưa ra chứng minh
trong việc áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài.
 Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra. Căn cứ áp dụng này bắt buộc phải được viện dẫn
khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
 Có lỗi của bên vi phạm.

127. Mối quan hệ giữa các hình thức chế tài thương mại trong việc áp dụng?
Các hình thức chế tài đều có căn cứ áp dụng chung. Nhưng tuỳ trường hợp, mức độ vi phạm
khác nhau mà các chủ thể có thể phải chịu những loại chế tài khác nhau.
Theo quy định tại luật Thương mại 2005 thì căn cứ chung để áp dụng chế tài phải có các hành
vi vi phạm là các hành vi thực hiện không đúng hoặc không thực hiện nghĩa vụ trong hợp
đồng. Đây là căn cứ cần được đưa ra chững minh trong việc áp dụng đối với tất cả các hình
thức chế tài. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
Bên cạnh đó thì không thể không nhắc đến hành vi vi phạm là hành vi có lỗi của bên vi phạm,
đây là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với tất cả các loại chế tài.

128. So sánh các hình thức chế tài thương mại với các hình thức chế tài trong dân sự?
Chế tài Luật Thương Mại 2005 Bộ Luật Dân sự 2015
Đều là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa
Phạt vi
vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm hoặc bên bị vi phạm yêu cầu
phạm
bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng.
Do các bên thỏa thuận nhưng
không được vượt quá 8% giá trị
Do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
liên quan có quy định khác (Điều 418)
phạm, trừ trường hợp quy định tại
Điều 266 Luật này
Bồi thường Đều là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp
thiệt hại đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
Bao gồm giá trị tổn thât thực tế, Giá trị bồi thường thiệt hại là lợi ích mà lẽ
trực tiếp mà bên bị vi phạm phải
chịu do bên vi phạm gây ra và
ra bên bị vi phạm được hưởng do hợp đồng
khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi
mang lại và chi phí phát sinh do không hoàn
phạm đáng lẽ được hưởng nếu
thành nghĩa vụ hợp đồng (Điều 419)
không có hành vi vi phạm. (Điều
302)
Hủy bỏ hợp
Có thể thỏa thuận hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy hợp đồng
đồng
 Một bên vi phạm cơ bản
nghĩa vụ hợp đồng (Điều  Một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa
312) vụ hợp đồng (Điều 423)
 Không phải bồi thường  Phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt
thiệt hại nếu không vi hại khi có thiệt hại xảy ra do vi phạm
phạm nghĩa vụ thông báo hợp đồng.
mà gây thiệt hại.
 Khái niệm: Tạm thời không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
 Khi tạm ngừng, hoãn hợp đồng vẫn còn hiệu lực, giá trị thi hành
Quy định trường hợp tạm ngừng
Tạm ngừng/ (Điều 308):
Hoãn thực  Xảy ra hành vi vi phạm
hiện hợp mà các bên thỏa thuận là Được quyền hoãn nếu được bên có quyền
đồng điều kiện để tạm ngừng đồng ý (Điều 354)
thực hiện hợp đồng
 Một bên vi phạm nghĩa vụ
cơ bản hợp đồn

NỘI DUNG 8: PHÁP LUẬT PHÁ SẢN

129. Luận giải về khái niệm “phá sản”. Phân biệt khái niệm “phá sản” với khái niệm
“mất khả năng thanh toán”?

Khái niệm “phá sản”: doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu

Phân biệt khái niệm “phá sản” với khái niệm “mất khả năng thanh toán”:

“mất khả năng thanh toán”: + tương đương với tình cảnh tài chính tuyệt vọng

+ Tại một thời điểm, tài sản nợ lớn hơn tài sản có

+ Còn tài sản, hoặc nhiều tài sản nhưng không bán được, không gán nợ được
(thêm) + Khi dòng tiền trong doanh nghiệp cạn kiệt và không thể đáp ứng được các khoản nợ
phải trả, doanh nghiệp được coi là mất khả năng thanh toán mặc dù tài sản có thể nhiều hơn
nợ phải trả

VD: DN có rất nhiều BĐS nhưng không bán được để trả nợ vì thị trường đóng bang

Sự khác nhau: Phá sản là giai đoạn cuối của tình trạng mất khả năng thanh toán. Khi
biết rõ không có biện pháp khắc phục nào khác, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có thể
xin phá sản.

Mất khả năng thanh toán chỉ là một thuật ngữ tài chính hoặc kế toán, trong khi phá sản
là một thuật ngữ pháp lý

130. Phân loại phá sản và ý nghĩa của việc phân loại?

a) Căn cứ vào tính chất của sự phá sản

Phá sản trung thực

Phá sản gian trá

b) Căn cứ vào đối tượng đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản

Phá sản tự nguyện

Phá sản bắt buộc

c) Căn cứ vào đối tượng bị giải quyết phá sản

Phá sản cá nhân

Phá sản pháp nhân

(đọc thêm)

a) Trên cơ sở nguyên nhân gây ra phá sản có phá sản trung thực và phá sản gian trá

– Phá sản trung thực là gì?

Phá sản trung thực là hậu quả của việc mất khả năng thanh toán do những nguyên nhân khách
quan hay những rủi ro bất khả kháng gây ra. Phá sản trung thực cũng có thể từ những nguyên
nhân chủ quan nhưng không phải do sự chủ ý nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.

Phá sản trung thực


Ví dụ: như sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động; sự thiếu khả năng thích ứng
với những biến động trên thương trường…

– Phá sản gian trá là gì?

Phá sản gian trá là hậu quả của những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài
sản của người khác.

Ví dụ: có hành vi gian lận trong khi ký hợp đồng, tẩu tán tài sản, cố tình báo cáo sai… để qua
đó tạo ra lý do phá sản không đúng sự thật.

b) Trên cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý có phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc: Cụ
thể là dựa trên căn cứ ai là người làm đơn yêu cầu phá sản

– Phá sản tự nguyện là gì?

Phá sản tự nguyện là do phía doanh nghiệp mắc nợ tự làm đơn yêu cầu phá sản khi thấy mình
mất khả năng thanh toán, không có điều kiện thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ.

– Phá sản bắt buộc là gì?

Phá sản bắt buộc là do phía các chủ nợ làm đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp mắc nợ nhằm
thu hồi các khoản nợ từ doanh nghiệp mắc nợ.

c) Dựa vào đối tượng bị giải quyết phá sản

Gồm phá sản cá nhân và phá sản pháp nhân. Tuỳ theo pháp luật ở mỗi nước mà đối tượng bị
giải quyết phá sản có quy định khác nhau. Ở nước ta áp dụng cho doanh nghiệp và HTX.
Trung Quốc: áp dụng với thành phần kinh tế quốc doanh. Úc: áp dụng với cả cá nhân.

– Phá sản cá nhân là gì?

Phá sản cá nhân: theo quy định này cá nhân bị phá sản phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với
các khoản nợ.

– Phá sản pháp nhân là gì?

Phá sản pháp nhân: đó là phá sản một tổ chức, tổ chức này phải gánh chịu hậu quả của việc
phá sản. việc trả nợ cho chủ nợ của pháp nhân dựa trên tài sản của pháp nhân.

131. Sự ra đời của pháp luật phá sản và ý nghĩa của pháp luật phá sản trong mối tương
quan với pháp luật dân sự với tư cách là một công cụ thu hồi nợ?
Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội Khoá IX, kì họp thứ 4 thông qua ngày 30.12.1993,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01. 7.1994. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là tất cả
các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật
Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản.

Ý nghĩa:

132. Bản chất của thủ tục phá sản? Tại sao nói thủ tục phá sản là một thủ tục lấy nợ tập
thể? Một thủ tục tư pháp đặc biệt?

Bản chất của thủ tục phá sản:

- là thủ tục tư pháp để phục hồi cho con nợ hoặc đòi nợ đặc biệt

- là thủ tục phục hồi kinh doanh đặc biệt do Tòa án và các chủ nợ quyết định để tạo cơ hội
phục hồi cho con nợ

- con nợ được tiến hành các biện pháp khôi phục lại sản xuất dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ
quan tư pháp và nằm tron thủ tục tư pháp

Tại sao nói thủ tục phá sản là một thủ tục lấy nợ tập thể? Một thủ tục tư pháp đặc biệt?

1.Việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính tập thể. tất cả các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ
đến Tòa án trong thời hạn luật định, Tòa án sẽ dựa vào danh sách này để tiến hành thanh
toán cho các chủ nợ trên cơ sở tập thể.

Nó khác với đòi nợ thông thường là ai đến trước thì được trả trước, còn trong phá sản, tài sản
thanh lý được trả cho các chủ nợ theo tỉ lệ tương ứng của khoản nợ trong tổng khối nợ mà
con nợ đang có nghĩa vụ phải thanh toán.

2. Việc đòi nợ và thanh toán nợ (kể cả nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn) được tiến hành
thông qua một cơ quan đại diện có thẩm quyền, đó là Tòa án.

3. Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của Doanh
nghiệp, khi giải quyết thủ tục phá sản, nghĩa vụ của Doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau
khi dùng toàn bộ tài sản của DN để trả nợ mặc dù có thể thanh toán chưa đủ cho các chủ nợ.

4. Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định của Tòa án.

133. Tại sao nói thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt?
Sở dĩ nói phá sản là một thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ đặc biệt là do:

- Việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính tập thể tất cả các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ đến
Tòa án trong thời hạn luật định, Tòa án sẽ dựa vào danh sách này để tiến hành thanh toán cho
các chủ nợ trên cơ sở tập thể. Nó khác với đòi nợ thông thường là ai đến trước thì được trả
trước, còn trong phá sản, tài sản thanh lý được trả cho các chủ nợ theo tỉ lệ tương ứng của
khoản nợ trong tổng khối nợ mà con nợ đang có nghĩa vụ phải thanh toán.

- Việc đòi nợ và thanh toán nợ (kể cả nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn) được tiến hành thông
qua một cơ quan đại diện có thẩm quyền, đó là Tòa án.

- Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của Doanh nghiệp,
khi giải quyết thủ tục phá sản, nghĩa vụ của Doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau khi dùng
toàn bộ tài sản của DN để trả nợ mặc dù có thể thanh toán chưa đủ cho các chủ nợ.

- Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định của Tòa án.

134. Xung đột lợi ích và việc điều hòa xung đột lợi ích thông qua thủ tục phá sản?

Khi phải giải quyết mối quan hệ nợ nần giữa một con nợ với nhiều chủ nợ ở trạng thái mà sản
nghiệp còn lại của con nợ không còn đủ để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với tất cả các chủ nợ,
thì thủ tục dân sự đã thể hiện một số khiếm khuyết như:

Thứ nhất, nếu sử dụng thủ tục lấy nợ dân sự trong trường hợp một con nợ có nhiều chủ nợ thì
sẽ có sự xuất hiện đồng thời của nhiều vụ kiện dân sự trên thực tế và điều này dẫn đến hệ quả
là sự quá tải của hệ thống Tòa án cũng như chi phí đòi nợ lớn sẽ làm tiêu hao sản nghiệp vốn
đã hạn hẹp của con nợ và trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ.

Thứ hai, thủ tục dân sự chỉ cho phép chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình khi khoản nợ
đã đáo hạn. Vì vậy, khi các khoản nợ không đáo hạn cùng một lúc sẽ dẫn đến tình trạng “lo
âu” của các chủ nợ có các khoản nợ đáo hạn sau khi mà họ nhìn thấy sản nghiệp của con nợ
đã không còn hoặc còn rất ít và chắc chắn sẽ không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối
với mình. Ngay cả khi các khoản nợ đáo hạn cùng một lúc thì theo thủ tục dân sự, cơ quan tài
phán cũng chỉ có thể ra phán quyết buộc con nợ có nghĩa vụ phải thanh toán chứ không thể
giải quyết thỏa đáng vấn đề con nợ không còn khả năng thực hiện đồng thời tất cả các nghĩa
vụ tài sản của mình.

Như vậy, việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản được hiểu là
thông qua thủ tục phá sản, pháp luật phá sản phải tạo ra một cơ chế đồng bộ để điều tiết một
cách hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ, đảm bảo tối ưu hóa các quyền
và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời, qua đó còn tính toán việc cân bằng các lợi ích khác mà
pháp luật hướng tới bảo vệ như lợi ích người lao động, lợi ích nền kinh tế và xã hội nói
chung.

Các nội dung cơ bản của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ:

1.Tối đa hóa việc thu hồi nợ cho các chủ nợ thông qua việc bảo toàn và phát triển sản nghiệp
phá sản của con nợ

Tồn tại song hành cùng với thủ tục đòi nợ dân sự, thủ tục phá sản cũng có bản chất là một
công cụ đòi nợ chỉ khác ở tính chất “tập thể” của nó. Do đó, chức năng đầu tiên gắn với sự ra
đời của pháp luật phá sản chính là chức năng thu hồi nợ cho các chủ nợ. Thông qua thủ tục
phá sản, các chủ nợ đều có mục đích chung là nhằm có được sự bảo đảm về quyền chủ nợ của
mình một cách tốt nhất. Tuy nhiên, ở thủ tục phá sản, việc lấy nợ của các chủ nợ bị ảnh
hưởng trực tiếp bởi các yếu tố sau: một là, sự tồn tại cùng lúc của nhiều chủ nợ có quyền chủ
nợ trên một sản nghiệp duy nhất của con nợ và sản nghiệp đó không thể đồng thời thanh toán
đủ cho tất cả các khoản nợ; hai là, khi hoạt động kinh doanh đã đổ vỡ đến mức không còn có
khả năng vãn hồi, thương nhân vỡ nợ hoặc những người quản lý sản nghiệp của thương nhân
vỡ nợ thường có xu hướng thực hiện những hành vi làm tiêu tán sản nghiệp của mình.

2. Đưa ra những cơ hội cho việc phục hồi lại con nợ

Đưa ra những cơ hội cho việc phục hồi lại con nợ khi mà quyền lợi của chủ nợ và nhu cầu xã
hội có thể được đáp ứng tốt hơn bằng cách duy trì hoạt động của con nợ chứ không phải là
thanh lý sản nghiệp của con nợ.

Đối với các chủ nợ, khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, việc thu hồi và phát mại sản
nghiệp phá sản của con nợ để phân chia không phải là một lựa chọn tối ưu, bởi khi đó, với
phần sản nghiệp còn lại của mình, con nợ sẽ không có khả năng thanh toán toàn bộ số nợ cho
các chủ nợ. Nói cách khác trong trường hợp này, phần nhận được của các chủ nợ sẽ nhỏ hơn
trái quyền mà đáng ra họ được hưởng. Nếu bằng một giải pháp nào đó, con nợ có thể phục
hồi hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của mình thì đó mới là giải pháp tốt nhất cho
việc lấy nợ từ các chủ nợ. Tuy nhiên, khi con nợ đã lâm vào khủng hoảng tới mức mất khả
năng thanh toán, sẽ thật khó cho con nợ bằng khả năng của chính mình có thể tự phục hồi
thành công. Để cứu lấy “sự sống” cho một thương nhân vỡ nợ, nhất thiết cần tới sự trợ giúp
rất lớn từ phía các chủ nợ và trên thực tế sự trợ giúp này hoàn toàn phù hợp với lợi ích của
chính các chủ nợ. Quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh cho một con nợ lâm vào tình
trạng phá sản chính là một cuộc “phẫu thuật” nhằm “cấu trúc lại” con nợ với vai trò chính
yếu của các chủ nợ. Trong quá trình “cấu trúc lại” con nợ đó, các chủ nợ có thể đóng nhiều
vai trò khác nhau như: hỗ trợ về tài chính, công nghệ, thị trường…; tham gia trực tiếp vào
quá trình quản trị hay thậm chí có thể chuyển đổi vai trò từ chủ nợ sang chủ sở hữu thông qua
quá trình chuyển nợ thành vốn góp (thâu tóm con nợ).

3.Tôn trọng sự tự do ý chí của chủ nợ và con nợ trong việc thỏa thuận để giải phóng nợ.

Trọng tâm của việc giải quyết một vụ phá sản chính là giải quyết mối quan hệ giữa các chủ
nợ với con nợ liên quan đến vấn đề thanh toán nợ. Ngoại trừ những trường hợp man trá, sự đổ
vỡ trong kinh doanh của một doanh nghiệp là điều không mong muốn của tất cả các chủ nợ,
bạn hàng và chính bản thân doanh nghiệp đó. Cầu viện tới sự can thiệp của Luật Phá sản là
một điều bất đắc dĩ của tất cả các chủ nợ hay con nợ. Thông qua thủ tục phá sản, mối quan
tâm của các chủ nợ không phải nhằm chấm dứt sự tồn tại của con nợ mà luôn hướng đến việc
thu hồi nợ một cách hiệu quả nhất và nhanh nhất có thể. Về phía con nợ, một con nợ thiện chí
cũng luôn mong muốn có thể đáp ứng các quyền chủ nợ một cách tốt nhất trong khả năng có
thể của mình để rồi sau đó được giải phóng khỏi nghĩa vụ trả nợ. Xuất phát từ những mong
muốn đích thực như vậy của cả chủ nợ và con nợ khi tham gia vào thủ tục phá sản, một đạo
luật phá sản chỉ được xem là hiệu quả và hấp dẫn đối với giới thương nhân nếu nó chú trọng
đúng mức tới khía cạnh cấu trúc lại các khoản nợ bằng sự tự định đoạt của chính bản thân các
chủ nợ và con nợ.

Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, sự tự do ý chí của các chủ nợ và con nợ trong việc
thỏa thuận, dàn xếp các khoản nợ luôn được tôn trọng và khuyến khích. Tuy nhiên, sự tự do
thỏa thuận giữa chủ nợ và con nợ để giải phóng nợ, qua đó chấm dứt vụ kiện đòi nợ trong thủ
tục phá sản có những đặc trưng riêng cần được phân biệt với thủ tục đòi nợ thông thường (thủ
tục dân sự). Theo tính chất của luật tư, đương nhiên, quyền quyết định “số phận” của khoản
nợ hoàn toàn thuộc về ý chí đơn phương của chủ nợ. Chủ nợ và con nợ hoàn toàn có quyền tự
do thỏa thuận để dàn xếp nợ bằng các biện pháp như xóa nợ, hoãn nợ, mua bán nợ, chuyển
đổi nợ thành vốn góp... Tuy nhiên, một khi Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản đối
với con nợ thì mọi sự thỏa thuận riêng rẽ này sẽ chỉ được chấp nhận nếu nó không chống lại
hay làm tổn hại đến lợi ích của các chủ nợ khác. Nói cách khác, tính chất “lấy nợ tập thể trên
cùng một sản nghiệp” của thủ tục phá sản luôn đòi hỏi một sự tập trung ý chí của các chủ nợ
trong các quyết định liên quan đến con nợ.
4.Quy định cách thức đối xử một cách công bằng giữa các chủ nợ.

Trong một vụ “đòi nợ tập thể” thông qua thủ tục phá sản có rất nhiều chủ nợ. Các chủ nợ này
được phân thành nhiều loại với những đặc điểm khác nhau nhưng cùng có quyền chủ nợ trên
sản nghiệp của con nợ. Chính vì vậy, pháp luật phá sản trên cơ sở sự phân loại chủ nợ và
đánh giá tính chất của từng loại khoản nợ để xác định các quyền cho từng nhóm chủ nợ một
cách thích hợp, qua đó, tạo ra một cơ chế lấy nợ công bằng và hiệu quả. Pháp luật phá sản ở
mỗi quốc gia có thể không đồng nhất trong việc phân loại chủ nợ và đánh giá mức độ ưu tiên
của họ trong cơ chế lấy nợ chung, song thông thường đều có sự cân nhắc tới các loại chủ nợ:
chủ nợ đối với khoản nợ đến hạn và chưa đến hạn; chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có
bảo đảm; chủ nợ mới và chủ nợ cũ (trước và sau khi mở thủ tục phá sản); nợ thương mại và
các khoản nợ thuế, phí…; nợ người lao động; các khoản nợ có tính chất khác nhau.

Chủ nợ cũ được hiểu là các chủ nợ đã có tên trong danh sách chủ nợ được lập khi thẩm phán
ra quyết định mở thủ tục phá sản với con nợ. Tuy nhiên, do thiên hướng phục hồi con nợ của
một đạo luật phá sản hiện đại, kể từ thời điểm này không có nghĩa là danh sách các chủ nợ đã
được đóng lại. Trong khoảng thời gian kể từ sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản tới khi
có quyết định thanh lý tài sản (trong trường hợp không còn giải pháp nào khác), các hoạt
động của con nợ vẫn tiếp tục diễn ra dù trong một trạng thái bị kiểm soát đặc biệt bởi thẩm
phán, quản tài viên. Đặc biệt, nếu con nợ được áp dụng thủ tục phục hồi thì trong giai đoạn
đó sự xuất hiện của các chủ nợ mới là điều tất yếu và cần được khuyến khích. Tuy nhiên, do
nhận thức được rằng doanh nghiệp đó là một con nợ đang đứng trước nguy cơ bị tuyên bố
phá sản sẽ khiến cho các đối tác của nó thực sự e ngại trong việc cấp tín dụng cũng như các
quan hệ làm ăn khác. Vì vậy, trong trường hợp này pháp luật phá sản cần tính toán những ưu
đãi đặc biệt dành cho các chủ nợ mới. Có như vậy, mới có thể khuyến khích họ tích cực hỗ
trợ cho con nợ hòng mang lại những kết quả tốt nhất cho thủ tục phục hồi.

Trong số các chủ nợ cùng tham gia vào thủ tục phá sản, pháp luật phá sản cũng cần có
sự phân biệt giữa loại nợ thương mại phát sinh trong hoạt động thương mại của con nợ và
loại nợ chính phủ phát sinh từ các nghĩa vụ đóng góp bắt buộc của con nợ đối với Chính phủ
(thuế, phí) để có những cách thức đánh giá mức độ ưu tiên trong thứ tự lấy nợ. Trước đây,
pháp luật phá sản của nhiều quốc gia - trong đó có Việt Nam (Luật Phá sản 1993) coi các
khoản nợ thuế, phí của Nhà nước là khoản nợ đặc biệt được ưu tiên lấy nợ trước các khoản nợ
thương mại khác. Tuy nhiên, theo tiến trình cải tổ của các đạo luật phá sản, hiện nay đa phần
các quốc gia đã có sự thay đổi trong cách nhìn nhận về các khoản nợ này và xếp nó hoàn toàn
bình đẳng bên cạnh các khoản nợ thương mại khác.

5.Đem tới cơ hội bắt đầu lại cho các con nợ trung thực sau khi bị đổ vỡ.

Thứ nhất, nếu con nợ không có cơ hội phục hồi và buộc phải áp dụng thủ tục thanh toán tài
sản thì những tài sản tối thiểu để duy trì cuộc sống dành cho các con nợ là cá nhân hoặc
những người mà họ có trách nhiệm cấp dưỡng… được loại trừ khỏi khối tài sản phá sản. Đối
với các con nợ là cá nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ bằng tài sản của
chính mình như thương nhân đơn lẻ, thành viên hợp danh trong các công ty hợp danh, công
ty đối vốn đơn giản thì khi tiến hành việc thu hồi, phát mại sản nghiệp để thanh toán nợ, pháp
luật của các quốc gia thường thể hiện tính nhân văn của mình bằng việc loại trừ cho họ một
số tài sản nhất định để duy trì cuộc sống cho bản thân và những người mà anh ta có nghĩa vụ
nuôi dưỡng hay trợ cấp.

Thứ hai, sau khi quyết định tuyên bố phá sản được Tòa án đưa ra, thương nhân vỡ nợ đã phải
mang toàn bộ sản nghiệp thương mại của mình để thực hiện việc thanh toán các khoản nợ.
Tuy nhiên, nếu các khoản nợ đó vẫn chưa được thanh toán đủ (và điều này là đương nhiên
nếu quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án là chính xác) thì các chủ nợ có tiếp tục được đòi
nợ nữa hay không? Nói cách khác, trong trường hợp này, quyền chủ nợ có còn tồn tại nữa
hay không? Câu trả lời hoàn toàn phụ thuộc vào tính chịu trách nhiệm về mặt tài sản mà con
nợ phải gánh chịu trên cơ sở các quy định pháp luật về quy chế thương nhân của nó. Nếu con
nợ là một pháp nhân độc lập và chủ sở hữu hoặc các đồng chủ sở hữu của nó chỉ phải chịu
trách nhiệm về toàn bộ mọi khoản nợ của con nợ trong phạm vi phần vốn đã góp khi tạo lập
pháp nhân thì đương nhiên sau quyết định tuyên bố phá sản của con nợ, pháp nhân đó tiêu
vong và các trái chủ sẽ không còn người thụ trái để duy trì quyền đòi nợ. Nếu con nợ là một
thể nhân và chủ sở hữu của nó phải chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ (trường hợp
chủ doanh nghiệp tư nhân) hay con nợ mặc dù là một pháp nhân nhưng các đồng chủ sở hữu
của nó có nghĩa vụ bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ của con nợ (trường hợp thành viên hợp danh
trong công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản) thì sau khi con nợ bị tuyên bố phá sản,
việc chủ sở hữu con nợ có phải gánh vác nghĩa vụ tiếp tục thanh toán những phần khoản nợ
chưa được thanh toán hay không phụ thuộc vào quan niệm của pháp luật mỗi quốc gia về vấn
đề “trách nhiệm vô hạn”. Đa số các nước trên thế giới hiện nay đều nhìn nhận khái niệm
“trách nhiệm vô hạn về mặt tài sản” là sự không có giới hạn của nghĩa vụ trả nợ trong phạm
vi toàn bộ sản nghiệp của người có nghĩa vụ và do vậy nếu chủ doanh nghiệp tư nhân hay
thành viên hợp danh đã mang toàn bộ sản nghiệp của mình để trả nợ (trong thủ tục thanh lý)
thì đương nhiên họ sẽ được Tòa án tuyên bố là hết trách nhiệm trả nợ (tuyên bố về sự miễn
trách của Tòa án). Một số quốc gia khác thì lại hiểu “trách nhiệm vô hạn về mặt tài sản” là sự
không có giới hạn của nghĩa vụ trả nợ, do đó, ngay cả khi sản nghiệp không còn thì nghĩa vụ
trả nợ vẫn không chấm dứt. Có thể dễ nhận thấy, động lực rất lớn để các con nợ chủ động tìm
tới thủ tục phá sản (phá sản tự nguyện) chính là cơ may để được giải phóng khỏi các nghĩa vụ
trả nợ và tạo lập một sản nghiệp mới. Do đó, đối với cá nhân vỡ nợ, cần nhấn mạnh tuyên bố
miễn trách, xoá nợ, tạo cho họ cơ may lập nghiệp mới, một hệ quả đặc biệt mang tính nhân
đạo của phá sản cá nhân so với phá sản công ty. Nếu thủ tục phá sản làm được điều này thì đó
cũng chính là một thành công lớn trong việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ. Thật
đáng tiếc khi pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay không mang lại cơ hội giải phóng nợ cho
chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh khi các doanh
nghiệp đó bị tuyên bố phá sản.

Thứ ba, những người đã từng là chủ sở hữu hay tham gia quản trị một doanh nghiệp bị tuyên
bố là phá sản có được quyền tiếp tục tạo lập các tổ chức kinh doanh mới hay không? Về
nguyên tắc, khi để cho con nợ lâm vào tình trạng phá sản đương nhiên những đối tượng trên
đã có “lỗi” (trừ trường hợp phá sản vì lý do bất khả kháng). Yếu tố lỗi ở đây thể hiện trong sự
yếu kém về năng lực quản lý, điều hành, khả năng trong hoạt động kinh doanh của chủ sở
hữu và những người quản lý, điều hành con nợ. Do đó, thái độ mà Nhà nước thể hiện trong
trường hợp này là không cho phép họ được tiếp tục khởi nghiệp kinh doanh hoặc tham gia
quản lý điều hành một cơ sở kinh doanh khác trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời
hạn này, các hạn chế mặc nhiên được xóa bỏ. Đối với các trường hợp mà Tòa án xác định là
phá sản vì lý do bất khả kháng thì tất cả các hạn chế kể trên không được đặt ra. Điều này thể
hiện tính nhăn văn của luật pháp, đồng thời khuyến khích chủ sở hữu, những người đã tham
gia quản lý điều hành con nợ tích cực hợp tác trong suốt quá trình diễn ra thủ tục phá sản.

135. Tại sao một đạo luật phá sản hiện đại thường theo xu hướng phục hồi và tái cấu
trúc con nợ?

Một đạo luật phá sản hiện đại thường hướng đến rất nhiều mục tiêu điều chỉnh khác nhau, là
công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều loại chủ thể khác nhau từ chủ nợ, con nợ
cho tới người lao động và đồng thời cũng là một công cụ hiệu quả trong điều tiết kinh tế. Tuy
nhiên, xét về bản chất pháp lý, thủ tục phá sản luôn được xem là một thủ tục đòi nợ tập thể.
Pháp luật phá sản ra đời cung cấp thêm cho các chủ nợ một công cụ đòi nợ mới tồn tại song
hành nhưng có tính chất khác biệt hoàn toàn so với thủ tục tố tụng dân sự.

Đưa ra những cơ hội cho việc phục hồi lại con nợ khi mà quyền lợi của chủ nợ và nhu cầu xã
hội có thể được đáp ứng tốt hơn bằng cách duy trì hoạt động của con nợ chứ không phải là
thanh lý sản nghiệp của con nợ.

Đối với các chủ nợ, khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, việc thu hồi và phát mại sản
nghiệp phá sản của con nợ để phân chia không phải là một lựa chọn tối ưu, bởi khi đó, với
phần sản nghiệp còn lại của mình, con nợ sẽ không có khả năng thanh toán toàn bộ số nợ cho
các chủ nợ. Nói cách khác trong trường hợp này, phần nhận được của các chủ nợ sẽ nhỏ hơn
trái quyền mà đáng ra họ được hưởng. Nếu bằng một giải pháp nào đó, con nợ có thể phục
hồi hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của mình thì đó mới là giải pháp tốt nhất cho
việc lấy nợ từ các chủ nợ. Tuy nhiên, khi con nợ đã lâm vào khủng hoảng tới mức mất khả
năng thanh toán, sẽ thật khó cho con nợ bằng khả năng của chính mình có thể tự phục hồi
thành công. Để cứu lấy “sự sống” cho một thương nhân vỡ nợ, nhất thiết cần tới sự trợ giúp
rất lớn từ phía các chủ nợ và trên thực tế sự trợ giúp này hoàn toàn phù hợp với lợi ích của
chính các chủ nợ. Quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh cho một con nợ lâm vào tình
trạng phá sản chính là một cuộc “phẫu thuật” nhằm “cấu trúc lại” con nợ với vai trò chính
yếu của các chủ nợ. Trong quá trình “cấu trúc lại” con nợ đó, các chủ nợ có thể đóng nhiều
vai trò khác nhau như: hỗ trợ về tài chính, công nghệ, thị trường…; tham gia trực tiếp vào
quá trình quản trị hay thậm chí có thể chuyển đổi vai trò từ chủ nợ sang chủ sở hữu thông qua
quá trình chuyển nợ thành vốn góp (thâu tóm con nợ).

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, khả năng phục hồi thành công hoạt động kinh doanh cho một
con nợ phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác nhau từ “năng lực” hiện có của con nợ cho tới
thiện chí của chính con nợ cũng như các chủ nợ. Theo quy định chung của nhiều nước trên
thế giới, sau khi xác định doanh nghiệp không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn, tức là đã
lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án sẽ tiến hành xem xét tình trạng tài chính và khả năng
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp để áp dụng một trong các thủ tục: phục hồi hoạt động
kinh doanh; thanh toán tài sản cho phù hợp với doanh nghiệp đó. Điều đó có nghĩa là, Toà án
cũng có thể tuyên bố phá sản, thực hiện ngay việc phân chia tài sản của con nợ cho các chủ
nợ nếu đã có đủ chứng cứ để chứng minh được rằng trên thực tế đã không còn khả năng cứu
vớt con nợ.
Hiện nay, các đạo luật phá sản được coi là hiện đại trên thế giới đều rất coi trọng việc cứu
vãn hoạt động kinh doanh của con nợ. Toà án chỉ tuyên bố phá sản con nợ trong những
trường hợp bất đắc dĩ, khi các biện pháp khôi phục hoạt động kinh doanh và khả năng thanh
toán của con nợ không thành công vì việc phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ không
chỉ có ý nghĩa đối với bản thân con nợ mà còn có ý nghĩa lớn đối với các chủ nợ, người lao
động, các đối tác, đặc biệt là đối với sự ổn định của nền kinh tế. Xét về mặt lý luận, Luật Phá
sản 2004 của Việt Nam đang theo đuổi triết lý này, mặc dù trên thực tế tính hiệu quả của thủ
tục phục hồi theo pháp luật phá sản hiện nay ở Việt Nam không cao.

136. Vai trò của Tòa án trong thủ tục phá sản?

137. Quy chế pháp lý quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài tài sản? Vai trò
của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài tài sản trong thủ tục phá sản?

138. Đối tượng và phạm vi áp dụng của Luật phá sản

Với tư cách là pháp luật nội dung, pháp luật phá sản điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ
nợ và con ng, ghi nhận đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ tài sản đó.
Còn với tư cách là pháp luật hình thức, pháp luật phá sản điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quy định
quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thế, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã.

Như vậy, pháp luật phá sản điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội: (a) quan hệ tài sản giữa chủ
nợ và con nợ, (b) quan hệ tố tụng giữa các đương sự với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Pháp luật phá sản có thể được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã. Pháp luật phá sản là một bộ phận cấu thành nhóm các chế định
pháp luật về giải quyết hậu quả của khung pháp lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường.

139. Căn cứ mở thủ tục phá sản và các phương pháp xác định tình trạng mất khả năng
thanh toán của con nợ? Bình luận về các quy định của pháp luật Việt Nam.

Căn cứ mở thủ tục phá sản:

Theo quy định của Điều 5 Luật Phá sản 2014 thì điều kiện để doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản là:
- Hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho chủ nợ.

- Hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến
hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán.

các phương pháp xác định tình trạng mất khả năng thanh toán của con nợ

Xác định tình trạng phá sản theo tiêu chí định lượng: theo tiêu chí này, một doanh nghiệp bị
coi là mất khả năng thanh toán khi không thanh toán được một món nợ đến hạn có giá trị tối
thiểu được luật phá sản ấn định.

Xác định tình trạng phá sản theo tiêu chí kế toán: Theo tiêu chí này thì việc xác định một
doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán được thực hiện thông qua sổ sách
kế toán của doanh nghiệp mắc nợ.

Xác định tình trạng phá sản theo tiêu chí “dòng tiền”: Tiêu chí này quan tâm đến tính tức thời
của việc trả nợ, quan tâm đến dòng tiền (cash flow) của doanh nghiệp khi đánh giá việc có
mất khả năng thanh toán không

140. Quyền (nghĩa vụ) yêu cầu mở thủ tục phá sản và các vấn đề pháp lý có liên quan?

a, Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các chủ nợ

quyển nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chi cần đặt ra cho các chủ nợ không có bảo đảm
và chủ nợ

có bào đäm một phần để giúp họ có cơ hội lựa chọn một thủ tục thích hợp nhằm bảo vệ
quyćn và lợi ích hợp pháp của mình khi doanh nghiệp. hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ nợ thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, Luật phá sản đã loại bỏ quy định về nghĩa vụ của các chủ nợ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản phải cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn.

b, Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động

Luật phá sản cho phép người lao động được quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường
hợp các doanh nghiệp hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ cho người lao động.
Việc cử đại diện cho người lao động phải được quá nửa số người lao động trong doanh
nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ kí, trường hợp doanh nghiệp,
hợp tác xã có quy mộ lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử
hợp pháp phải được quá nửa số người đưỢc cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán
thành.

c,Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của

doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

Theo Luật phá sản, khi nhận thấy doanh nghiệp. hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ
doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó.

d. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, các cổ
đông công ty cổ phần, thành viên hợp danh

Theo Luật phá sản doanh nghiệp, chỉ các chủ nợ không có bảo đảm cũng như chủ nợ có bảo
đảm một phần và đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động (chưa có tổ chức công
đoàn) mới có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

Để mở rộng khả năng toà án có thể can thiệp trong việc áp dụng thủ tục phá sản đổi với
doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản, Luật phá sản dành cho cả chủ sở hữu doanh
nghiệp nhà nước, cổ đông

hoặc nhóm cổ đông của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp danh cũng có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

141. Nội dung, căn cứ, thủ tục áp dụng và hệ quả pháp lý của các biện pháp bảo toàn tài
sản con nợ?

142. Vấn đề vô hiệu hóa các giao dịch trong thủ tục phá sản: Mục đích, căn cứ, thủ tục
áp dụng?
Khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thực hiện thanh toán giao dịch thì khi đó tùy vào
các trường hợp khác nhau mà kết luận giao dịch đó bị coi là vô hiệu.
Theo khoản 1, điều 59, Luật Phá sản 2014, giao dịch được coi là vô hiệu khi:

 Giao dịch liên quan đến chuyển nhượng tài sản không theo giá thị trường;
 Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần
bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
 Thanh toán hoặc bù trừ có lợi cho một chủ nợ đối với khoản nợ chưa đến hạn hoặc
với số tiền lớn hơn khoản nợ đến hạn;
 Tặng cho tài sản;
 Giao dịch ngoài mục đích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã;
 Giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

* Mục đích:

- Nhằm tránh việc doanh nghiệp, hợp tác xã đã biết trước được kết quả hoạt động kinh doanh
của mình trong tương lai và có hành vi tẩu tán tài sản thông qua việc thực hiện các giao dịch
trên sau đó sẽ chủ động nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
- Nhằm tránh tình trạng sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã
cố ý tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ.
* Thủ tục áp dụng:
Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 60 Luật Phá sản thì:
”3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố giao dịch vô
hiệu, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, bên giao kết với doanh nghiệp, hợp
tác xã có quyền làm đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân xem xét lại quyết định tuyên bố
giao dịch vô hiệu.
4. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xem xét lại quyết định
tuyên bố giao dịch vô hiệu, Chánh án Tòa án nhân dân đã ra quyết định tuyên bố giao dịch
vô hiệu phải ra một trong các quyết định sau:
a) Không chấp nhận đề nghị xem xét lại quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu;
b) Hủy bỏ quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trường hợp có tranh chấp thì được giải
quyết theo quy định tại Chương X của Luật này”.

143. Quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ? Vai trò của hội nghị chủ nợ trong thủ tục
phá sản?
Các vấn đề pháp lý liên quan đến Hội nghị chủ nợ được quy định từ Điều 75 đến Điều 86
Luật phá sản số 2014.
Vai trò của hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản:
Hội nghị chủ nợ có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác
xã, đây là nơi có thể tập hợp tất cả chủ nợ, thể hiện ý chí tập thể của các chủ nợ để quyết định
các vấn đề “sống còn” của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Bốn vai trò
quan trọng của hội nghị chủ nợ là:
 Hội nghị chủ nợ đảm bảo cho việc giải quyết một cách bình đẳng nhất về lợi ích kinh
tế của các chủ nợ
 Đảm bảo quyền lợi cho “con nợ”
 Đảm bảo việc xác định một cách chính xác và khách quan tình trạng pháp lý của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
 Góp phần giúp các chủ nợ và “con nợ” tìm được tiếng nói chung.

144. Khái niệm, vai trò và ý nghĩa của thủ tục phục hồi trong thủ tục phá sản? Quy
trình áp dụng thủ tục phục hồi con nợ?
* Khái niệm:
Thủ tục phục hồi là thủ tục do Toà án có thẩm quyền quyết định áp dụng trong quá trình giải
quyết vụ việc phá sản, theo đó, một con nợ không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn được hưởng một thời hạn nhất định để thi hành phương án phục hồi do Hội nghị chủ nợ
thông qua dưới sự giám sá của Toà án và đại diện của chủ nợ nhằm tạo điều kiện cho con nợ
được tiếp tục hoạt động, đồng thời chi trả các khoản nợ đã tới hạn của mình.
* Ý nghĩa của thủ tục phục hồi trong thủ tục phá sản:
 Đối với các chủ nợ: Nhằm tối đa hoá việc trả nợ cho các chủ nợ, thông qua đó bảo vệ
quyền lợi cho các chủ nợ và những người có liên quan
 Đối với người lao động: Không bị mất việc làm, các khoản thu nhập sẽ được thanh
toán một cách đầy đủ.
 Đối với thương nhân mắc nợ: Khôi phục lại sản nghiệp thương mại, khôi phục lại khả
năng thanh toán và uy tín, niềm tin của bạn hàng trên thương trường đối với mình.
 Đối với nền kinh tế và sự ổn định của xã hội: Góp phần hạn chế những tác động tiêu
cực đối với xã hội. Nếu giải quyết thoả đáng mối quan hệ lợi ích giữa chủ nợ và con
nợ sẽ góp phần hạn chế những mâu thuẫn, căng thẳng. Từ đó duy trì trật tự, ổn định
và lành mạnh hoá môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp.
* Vai trò:
Khi thủ tục phục hồi được mở, doanh nghiệp sẽ có một khoảng thời gian cần thiết dưới sự
bảo vệ của pháp luật để xây dựng và thực hiện việc phục hồi hoạt động kinh doanh, quá trình
này, con nợ có thể nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ rất lớn từ phía các chủ nợ trên cơ sở thoả
thuận đã xác lập giữa hai bên thông qua hội nghị chủ nợ.

145. Tuyên bố thương nhân phá sản và những vấn đề pháp lý chủ yếu trong việc tuyên
bố thương nhân bị phá sản?
146. Khái niệm, vai trò và ý nghĩa của thủ tục thanh toán trong thủ tục phá sản? Quy
trình áp dụng thủ tục thanh toán tài sản của con nợ?

Thủ tục phá sản quy định trong Luật phá sản 2014 chỉ bao gồm hai thủ tục chính là thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản. Thanh lý tài sản được thực hiện
sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản chứ không còn là một thủ tục riêng biệt
được tiến hành trước khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản như trước nữa

Theo điều 120 Luật phá sản 2014:

1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan thi
hành án dân sự có trách nhiệm chủ động ra quyết định thi hành, phân công Chấp hành viên
thi hành quyết định tuyên bố phá sản.

2. Sau khi nhận được quyết định phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên thực hiện các nhiệm vụ sau:
a) Mở một tài khoản tại ngân hàng đứng tên cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi
hành quyết định tuyên bố phá sản để gửi các khoản tiền thu hồi được của doanh nghiệp, hợp
tác xã phá sản;

b) Giám sát Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện thanh lý tài sản;

c) Thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản, giao tài sản cho người mua được tài sản trong vụ
việc phá sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự;

d) Sau khi nhận được báo cáo của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về kết
quả thanh lý tài sản, Chấp hành viên thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.

147. Khái niệm sản nghiệp phá sản và việc thu hồi sản nghiệp phá sản?

148. Thứ tự ưu tiên thanh toán trong thủ tục thanh toán tài sản? Bình luận về thứ tự
phân chia tài sản theo pháp luật Việt Nam.

Tại khoản 1 Điều 54 Luật phá sản 2014 quy định thứ tự phân chia tài sản khi Thẩm phán ra
quyết định tuyên bố phá sản như sau:

+ Chi phí phá sản;

+ Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động,
quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;

+ Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp;

+ Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ
trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo
đảm không đủ thanh toán nợ.

Ngoài ra, sau khi đã thanh toán đủ các khoản trên mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc về:

+ Chủ doanh nghiệp tư nhân;

+ Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;

+ Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, cổ đông của công ty cổ
phần;

+ Thành viên của Công ty hợp danh.


Như vậy, thứ tự trả nợ khi phá sản của doanh nghiệp đã được pháp luật quy định rất cụ thể
nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan.

149. Nghĩa vụ trả nợ của con nợ sau khi bị tuyên bố phá sản?

150. Các chế tài liên quan đến phá sản?

Luật phá sản 2014

Chương XIII XỬ LÝ VI PHẠM

Điều 129. Trách nhiệm do vi phạm pháp luật về phá sản

1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc
phá sản thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật.

2. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có hành vi vi phạm pháp luật trong
quá trình giải quyết vụ việc phá sản thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt
hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Trường hợp
Quản tài viên, cá nhân của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản vi phạm pháp luật hình sự
thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Điều 130. Cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản

1. Người giữ chức vụ Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị của
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản không được đảm đương các chức vụ
đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào kể từ ngày doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bị
tuyên bố phá sản.

2. Người đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp có vốn nhà nước mà doanh
nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh
nghiệp nào có vốn của Nhà nước.

3. Người giữ chức vụ quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản mà cố ý vi
phạm quy định tại khoản 1 Điều 18, khoản 5 Điều 28, khoản 1 Điều 48 của Luật này thì
Thẩm phán xem xét, quyết định về việc không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác
xã, làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn 03 năm kể từ ngày Tòa án
nhân dân có quyết định tuyên bố phá sản.
4. Quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này không áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp,
hợp tác xã phá sản với lý do bất khả kháng.

NỘI DUNG 9: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI

151. Khái niệm tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương
mại?

 Khái niệm tranh chấp thương mại: Tại Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “ Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác.”
Theo quy định trên, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn ( bất đồng hoặc
xung đột ) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương
mại.

 Đặc điểm tranh chấp thương mại

Thứ nhất, chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhânNgoài ra cũng có một số
trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại: tranh
chấp giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách công ty;

Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm
pháp luật

Thứ ba, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Tranh chấp thương mại đòi
hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng
pháp luật của công dân, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương
mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Hiện nay tranh chấp thương mại được giải
quyết bằng các phương thức: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Mỗi
phương thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành.

 Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh – thương mại: là hoạt động lựa chọn các
phương thức để xem xét và quyết định xử lý các tranh chấp về kinh doanh – thương
mại, dựa trên các tài liệu, chứng cứ có trong vụ tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

152. Các nguyên tắc căn bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại?

Nguyên tắc căn bản của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh – thương mại:

– Nguyên tắc tự định đoạt: Theo nguyên tắc này thể hiện trước hết là ở chỗ các bên có quyền
thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp có lợi nhật có thể là tự thương lượng, hoặc
thông qua trung gian hoà giải, hoặc thông qua một hình thức tài phán. Sau đó các bên có thể
không nhất thiết phải tham gia tố tụng mà có thể uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng,
có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cuối cùng khi đã
đưa tranh chấp ra trọng tài hoặc toà án các bên có quyền hoà giải hoặc thay đổi nội dung đơn
kiện hoặc rút đơn kiện.
– Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
các bên không phân biệt thành phần kinh tế, số vốn, tài sản.

– Nguyên tắc hoà giải: Trước hết các bên phải tiến hành tự hoà giải, chỉ khi nào không hoà
giải được mới nhờ đến các cơ quan tài phán giải quyết. Khi thụ lý vụ án các cơ quan tài phán
cũng tiến hành các biện pháp hoà giải và công nhận hoà giải trước khi xét xử. (Quy định tại
Điều 35 pháp lệnh giải quyết vụ án tranh chấp kinh tế, Điều 35 quy tắc tố tụng trọng tài trong
nước và Điều 35 quy tắc tố tụng của trung tâm trong tài quốc tế Việt Nam).

– Nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, đảm bảo hạn chế gián đoạn quá
trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh được thực hiện theo chu trình sản xuất khép
kín, vì vậy ở bất kỳ một công đoạn nào xảy ra trục trặc đều dẫn đến ảnh hưởng toàn bộ quá
trình kinh doanh. Giải quyết tranh chấp không được tiến hành một cách nhanh chóng kịp thời
sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển vững mạnh của chủ thể kinh doanh. Nhanh chóng,
kịp thời nhưng phải dứt điểm, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của
các bên.

153. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh – thương mại? Phân biệt
phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án với các phương thức giải quyết tranh
chấp ngoài Tòa án?

Trong thực tế, các tranh chấp thương mại thường được giải quyết thông qua bốn phương thức
chính sau:

- Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua thương lượng

Là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các
tranh chấp trong kinh doanh, thương mại được giải quyết bằng phương thức này. Nhà nước
khuyến khích các bên áp dung phương thức tự thương lượng để giải quyết các tranh chấp trên
nguyên tắc tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên. Ngoài ra, khi giải quyết tranh chấp
thương mại bằng thương lượng các bên cũng có thể nhờ tới sự hỗ trợ của luật sư để được
phân tích các cơ sở pháp lý và đưa ra các ý kiến tư vấn pháp lý để các bên hiểu rõ và thấy
đươc quyền và trách nhiệm của mình nhằm tìm hướng giải quyết cũng như dung hòa được
quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

- Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải
Hòa giải là các bên tranh chấp thông qua bên trung gian (Hòa giải viên/ trung tâm hòa giải)
cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để đi đến thống nhất một phương án giải quyết bất đồng giữa
họ và tự nguyện thực hiện phương án đã thỏa thuận qua hòa giải.

- Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài

Như đã phân tích phần đặc điểm của tranh chấp thương mại, phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại là đặc điểm đặc trưng của tranh chấp thương mại. Theo đó, các bên thỏa
thuận đưa ra những tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ ra giải quyết tại Trọng tài và
Trọng tài sau khi xem xét sự việc tranh chấp, sẽ đưa ra phán quyết có giá trị cưỡng chế thi
hành đối với các bên.

- Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Tòa án. Đây là phương thức giải quyết
tranh chấp mà các bên thông qua cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết.

154. Cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh -
thương mại? Các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân? Cơ sở
pháp lý để áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án?

155. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng con đường hành chính?
Những điểm lợi và bất lợi của giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường hành
chính?

Trong tranh chấp kinh doanh thương mại, phương pháp hành chính chỉ được áp dụng bởi các
cơ quan hành chính có thẩm quyền trong lĩnh vực nhất định theo quy định của pháp luật như
cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng. Các cơ quan hành chính có thẩm quyền áp dụng phương
pháp hành chính trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng cách ban hành các
quyết định hành chính.

Trong phương pháp hành chính giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại lại không ưu
tiên nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên lên hàng đầu do những lĩnh vực kinh
doanh thương mại thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp giải quyết liên quan đến quản lý
hành chính và việc áp dụng phải theo quy định hành chính nhà nước đã được xây dựng và
ban hành trong từng lĩnh vực cụ thể. Những quyết định hành chính ban hành để giải quyết
tranh chấp phải dựa trên những quy định pháp luật ban hành trong những lĩnh vực cụ thể mà
không dựa vào ý chí hay sự tự thỏa thuận của các bên.
156. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, những ưu điểm và hạn chế của việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh – thương mại bằng phương thức thương lượng?

Khái niệm: Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh
chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp
mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào.

Đặc điểm:

- Thứ nhất các bên tranh chấp sẽ tự thỏa thuận để tìm kiếm giải pháp trên tinh thần tự nguyện,
thiện chí, hợp tác mà không có sự tham gia của bất kỳ bên thứ ba nào.

- Thứ hai, các bên tự nguyện thi hành phương án giải quyết bất đồng đã lựa chọn. Mặc dù kết
quả thương lượng thường được ghi nhận bằng văn bản với tính chất như một thỏa thuận hợp
pháp về việc giải quyết tranh chấp đã phát sinh nhưng thỏa thuận đó không có giá trị bắt buộc
thi hành trong trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện những điều khoản đã cam kết
trong thỏa thuận. Khi đó tính tự nguyện thi hành của phương án giải quyết tranh chấp mà
không có sự hỗ trợ cưỡng chế quyền lực pháp luật sẽ khiến cho phương thức giải quyết tranh
chấp này khó thành công.

- Thứ ba, Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức thương lượng là sự thể hiện
quyền tự do thỏa thuận, tự do định đoạt của các bên tranh chấp. Các bên tự đề xuất các giải
pháp và thỏa hiệp với nhau theo trình tự, thủ tục tự chọn để giải quyết các bất đồng phát sinh
mà không có sự tham gia hay can thiệp của bất kì cơ quan nhà nước nào. Việc thương lượng
có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức như: thương lượng trực tiếp, thương lượng gián
tiếp và kết hợp cả hai cách thức trên. Mỗi một cách thức thương lượng có tính ưu việt và hạn
chế nhất định.

Ưu điểm:

+ Thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt cao, hiệu quả và ít tốn kém, thông qua
những cuộc đàm phán, tiếp xúc trực tiếp, các bên nhanh chóng hiểu biết được quan điểm, thái
độ hợp tác và thiện chí của mỗi bên và có sự điều chỉnh để phù hợp với ý chí của các bên
nhằm tiến tới một giải pháp chung nhất có thể lựa chọn để giải quyết vụ tranh chấp.

+ Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng bảo vệ được uy tín cho các bên tranh chấp cũng
bí mật trong kinh doanh của các nhà kinh doanh. Do đó, thương lượng luôn là phương thức
ưa chuộng, phổ biến, được các thương nhân ưu tiên lựa chọn trước khi tìm đến các giải pháp
khác để giải quyết các tranh chấp thương mại.

Nhược điểm:

+ Thương lượng thành công hay thất bại hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết và thái độ thiện
chí, hợp tác của các bên tranh chấp. Khi quan điểm, thái độ và ý chí của các bên có sự cách
biệt quá lớn, nhất là khi một bên thiếu sự hợp tác và thiện chí không cao trong quá trình đàm
phán hay đại diện đàm phán tranh chấp của mỗi bên không biết lắng nghe, không có sự bình
tĩnh, kiên trì, mềm dẻo cũng như không có khả năng thuyết phục đối tác thì cơ hội thương
lượng thành công không cao và quá trình thương lượng sẽ đi vào bế tắc.

+ Kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý bắt buộc. Do đó, dù
các bên có đạt được thoả thuận thoả thuận để giải quyết vụ tranh chấp thì việc thực thi kết
quả thương lượng vẫn phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của các bên. Nếu một bên không
tự nguyện thi hành thì kết quả thương lượng cũng chỉ tồn tại trên giấy tờ mà không có một cơ
chế pháp lý trực tiếp nào bắt buộc thi hành.

157. Bản chất và hệ quả pháp lý của thương lượng thành trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh - thương mại?

Xét về bản chất, thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp được thực hiện dựa
trên cơ chế thỏa thuận tự giải quyết giữa các bên mà không cần có sự hiện diện của bên thứ
ba để trợ giúp hay phán quyết. việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự
tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí nào đảm bảo việc thực
thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình thương lượng.

Hệ quả pháp lý: kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng các thiết chế mang tính
quyền lực nhà nước do đó có thể dẫn tới sự lạm dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng.

158. Nội dung và các kỹ năng căn bản của thương lượng?

Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng
nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không
cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào.

Các kỹ năng cần có khi thương lượng (theo ý kiến cá nhân vì không tìm được nội dung:
- Kỹ năng xác thực; chọn lọc thông tin: hiểu rõ tranh chấp đang xảy ra và những vấn đề cần
phải giải quyết

- kỹ năng tra cứu, tìm kiếm tài liệu nhằm giải quyết tranh chấp

- đưa ra các yếu tố liên quan đến tranh chấp mà hai bên có thể trao đổi để giải quyết vấn đề

- giữ một thái độ tốt trong suốt quá trình thương lượng

159. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, những ưu điểm và hạn chế của giải quyết tranh
chấp kinh doanh - thương mại bằng phương thức hòa giải?

Khái niệm: Hòa giải là một quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư trong đó
hòa giải viên là người thứ ba được chính các bên chấp nhận lựa chọn, giúp các bên tranh chấp
đạt được sự thỏa thuận. Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua người thứ ba, là
người ở giữa đưa ra các đề nghị, đề xuất bằng lời hoặc bằng văn bản, giúp các bên thấy được
lợi ích thiết thực trong giải quyết tranh chấp của mình, từ đó các bên có thiện chí, nghĩa vụ và
trách nhiệm của mình trong giải quyết tranh chấp.

Phân loại: Hình thức hòa giải bao gồm hai hình thức như sau:

Hòa giải vụ việc: là phương thức hòa giải mà trong đó việc tổ chức và giám sát do các bên tự
quy định không có sự trợ giúp của bất kỳ tổ chức hoặc người hòa giải thứ ba nào

Hòa giải quy chế: do một tổ chức, hoặc một trung tâm hòa giải chuyên nghiệp. Hòa giải quy
chế phải tuân theo những quy tắc hòa giải riêng của tổ chức hòa giải đó.

Nguyên tắc:

- Các bên tranh chấp tham gia hòa giải hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ.

- Các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải phải được giữ bí mật, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.

- Nội dung thỏa thuận hòa giải không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm phạm quyền của bên thứ ba.

Nguyên tắc tự do ý chí của các bên tranh chấp; đảm bảo tính khách quan, công bằng, hợp lý,
tôn trọng tập quán thương mại trong nước và quốc tế; chấm dứt hòa giải ngay lập tức nếu
không đạt được thỏa thuận hoặc nếu một trong hai bên không muốn tiếp tục hòa giải; bảo
toàn bí mật tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các bên và của hòa giải viên trong quá trình hòa
giải.

Ưu điểm:

– Thủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn không gò bó và tiết kiệm được thời gian, chi
phí.

– Các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải cũng như
địa điểm tiến hành hòa giải do đó có thể tìm một trung gian hòa giải có hiểu biết chuyên môn
về vấn đề đang tranh chấp;

– Hòa giải mang tính thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh
doanh vì lợi ích của cả hai bên nên nhìn chung ít gây hại đến quan hệ hợp tác vốn có của các
bên;

– Có thể giữ được bí mật kinh doanh và vấn đề tranh chấp.

Nhược điểm:

– Hình thức giải quyết khép kín, không công khai có thể nảy sinh những tiêu cực, trái pháp
luật.

– Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải
viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các
bên tranh chấp. Thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của
trọng tài hay của tòa án.

160. Bản chất và hệ quả pháp lý của hòa giải thành? Bình luận về vấn đề này theo các
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải
thương mại?

161. Phân biệt thủ tục hòa giải trong tố tụng và ngoài tố tụng?

Nội dung Hòa giải trong tố tụng Hòa giải ngoài tố tụng
Khái niệm Hòa giải trong tố tụng là một giai Hòa giải ngoài tố tụng là một
đoạn giải quyết tranh chấp trong phương thức giải quyết tranh
thủ tục tố tụng có tính chất bắt buộc chấp độc lập với quá trình tố
do Tòa án nhân dân có thẩm quyền tụng, xuất phát từ thiện chí giải
thực hiện, chỉ được tiến hành trong quyết tranh chấp, các chủ thể đã
giai đoạn chuẩn bị xét xử; tự mình thực hiện thương lượng,
thỏa thuận.
Điều kiện Chỉ được tiến hành trong giai đoạn Diễn ra trước các giai đoạn tố
chuẩn bị xét xử tụng
Tính chất Bắt buộc Không bắt buộc
Kết quả Kết quả hòa giải có tính chất bắt Kết quả hòa giải không mang tính
buộc thi hành, có giá trị pháp lý. chất bắt buộc thi hành, do hai bên
hòa giải quyết định.
Các quyết định – Trường hợp hòa giải không Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương
của Tòa án dựa thành: TA lập biên bản hòa giải sự có thỏa thuận được với nhau
trên kết quả hòa không thành và ra quyết định đưa về việc giải quyết vụ án hay
giả vụ án ra xét xử. không; trường hợp các đương sự
thỏa thuận được với nhau về việc
– Trường hợp hòa giải thành: Hết giải quyết vụ án và thỏa thuận
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập của họ là tự nguyện, không vi
biên bản hòa giải thành mà không phạm điều cấm của luật và không
có đương sự nào thay đổi ý kiến về trái đạo đức xã hội thì HĐXX ra
sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ quyết định công nhận sự thỏa
trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm thuận của các đương sự về việc
phán được Chánh án TA phân công giải quyết vụ án.
phải ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự.

162. Khái niệm, đặc điểm, những ưu điểm và hạn chế của việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh - thương mại bằng trọng tài thương mại?

Khái niệm: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận
và được tiến hành theo quy định. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt
động thương mại, được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo một trình tự thủ tục tố tụng
theo quy chế của trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại đó.

Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp
có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài


– Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều
cấm và trái đạo đức xã hội.

– Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.

– Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm
tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

– Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác.

– Phán quyết trọng tài là chung thẩm.

Hình thức trọng tài

Trọng tài vụ việc: là hình thức giải quyết tranh chấp mà trong đó trọng tài tự tiến hành, được
thành lập do các bên thỏa thuận trình tự thành lập, nguyên tắc tiến hành giải quyết tranh chấp,
lựa chọn trọng tài viên, luật áp dụng cho vụ tranh chấp,thi hành phán quyết của trọng tài, …

Trọng tài quy chế (thường trực): là trọng tài hoạt động có quy chế riêng, trong quy chế đó có
quy định các nguyên tắc, thủ tục, thẩm quyền xét xử, danh sách trọng tài viên để các bên
tranh chấp lựa chọn tham gia hội đồng xét xử.

Hình thức thỏa thuận trọng tài

– Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp
đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.

– Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau
đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:

+ Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật;

+ Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;

+ Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng
văn bản theo yêu cầu của các bên;

+ Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như
hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác
+ Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do
một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.

– Có thể là một điều khoản thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng hoặc bằng một thỏa thuận đưa
tranh chấp ra giải quyết trước trọng tài và về hình thức thỏa thuận trọng tài phải được lập
thành văn bản theo nghĩa rộng, mọi hình thức khác đều không có giá trị pháp lý.

Ưu điểm:

 Thứ nhất, thủ tục trọng tài áp dụng cho các tranh chấp trong hoạt động thương mại
đơn giản hơn, các bên có thể chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp
giúp đẩy nhanh thời gian giải quyết tranh chấp; thủ tục trọng tài không trải qua
nhiều cấp xét xử như ở toà án, cho nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc
cho doanh nghiệp.
 Thứ hai, việc được quyền lựa chọn trọng tài viên giải quyết tranh chấp cho phép
các bên lựa chọn được các chuyên gia có chuyên môn và kinh nghiệm thực tế về
vấn đề tranh chấp, có uy tín trong nghành nghề trở thành trọng tài viên giải quyết
tranh chấp của các bên, đảm bảo chất lượng giải quyết tranh chấp. (tranh chấp bảo
hiểm, tranh chấp về cổ phiếu, chứng khoán; tranh chấp xây dựng,…)
 Thứ ba, trọng tài tôn trọng tính bảo mật thông tin (confidentiality) cho toàn bộ quá
trình, phiên họp trọng tài cũng được thực hiện không công khai [khác với nguyên
tắc Tòa án xét xử công khai trong tố tụng tòa án], nhờ đó, các bên trong tranh chấp
có thể đảm bảo được uy tín của mình trên thương trường. Ngày nay, tính bảo mật
ngày càng được doanh nghiệp chú ý trong bối cảnh các vấn đề tài chính của doanh
hiện nay rất nhạy cảm với các thông tin liên quan tới doanh nghiệp (đặc biệt là với
các công ty đã niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán).
 Thứ tư, thẩm quyền của hội đồng trọng tài được thiết lập dựa trên sự tự nguyện
thỏa thuận của các bên mà không phụ thuộc vào quyền lực nhà nước. Mềm dẻo
hơn, linh hoạt hơn [cho phép sử dụng tiếng nước ngoài, áp dụng luật nước ngoài,
…] phù hợp để giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
 Thứ năm, phán quyết của trọng tài có đặc điểm giống như bản án của tòa án đó
chính là mang tính chung thẩm và bắt buộc các bên phải thi hành. Nếu đem thi
hành trong lãnh thổ Việt Nam, phán quyết trọng tài VIAC có thể được đưa thẳng
tới cơ quan thi hành án (Cục thi hành án dân sự) để được cưỡng chế thi hành; phán
quyết trọng tài VIAC cũng có thể được cho công nhận và thi hành tại hơn 150
quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên Công ước NewYork về công nhận và cho
thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.

Hạn chế:

 Thứ nhất, vì đẩy cao tính hợp tác và tự hòa giải của các bên nên kết quả của cuộc
giải quyết phụ thuộc vào thái độ; thiện chí của các bên tranh chấp. Nếu các bên
quá cứng nhắc thì rất khó để làm việc và dẫn đến đưa ra Tòa để giải quyết.
 Thứ hai, đa phần doanh nghiệp hiện nay chưa thực sự quan tâm đến việc sẽ giải
quyết các tranh chấp phát sinh bằng hình thức trọng tài.
 Thứ ba, khi có quyết định trọng tài, việc thực thi quyết định lại phụ thuộc vào
thiện chí và sự hợp tác của các bên vì tính cưỡng chế ở đây kém.
 Thứ tư, trọng tài có thể gặp khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp; đặc
biệt là những tranh chấp phức tạp; về những vấn đề như: xác minh thu thập chứng
cứ, triệu tập nhân chứng… Do trọng tài không có bộ máy giúp việc và có cơ quan
thi hành; cưỡng chế như Tòa án nên có rất nhiều trường hợp; Trọng tài khó lấy
được thông tin cá nhân nếu như bên đó không hợp tác.
 Thứ năm, phán quyết của trọng tài có thể bị yêu cầu tòa án xem xét lại. Phán quyết
trọng tài có thể bị hủy khi có đơn yêu cầu của một bên. Đây chính là lý do lớn
nhất cho việc giải quyết bằng trọng tài ít được lựa chọn để giải quyết các tranh
chấp.

163. Khái niệm và hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài?

Khái niệm: Thỏa thuận trọng tài là sự nhất trí giữa các bên về việc chọn trọng tài làm cơ quan
giải quyết tranh chấp thương mại, được thể hiện bằng điều khoản trong hợp đồng hoặc bằng
văn bản riêng biệt.

Hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài: để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực thì thỏa thuận
này cần có ba điều kiện.

Thứ nhất là về hình thức, theo Điều 16 Luật TTTM thì hình thức thỏa thuận trọng tài phải
thỏa mãn quy định sau: Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản
trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Thoả thuận này phải được xác
lập dưới dạng văn bản như:

1) Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
2) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên.

3) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng
văn bản theo yêu cầu của các bên;

4) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như
hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;

5) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận
do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.

Thứ hai, thỏa thuận trọng tài không nằm trong các trường hợp bị vô hiệu theo Điều 18 Luật
TTTM. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu gồm:

1) Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài quy định tại
Điều 2 của luật này;

2) Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

3) Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ
luật Dân sự như là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự;

4) Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của luật này;

5) Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài
và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu;

6) Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.

Thứ ba là thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp không thể thực hiện được.

164. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu và hệ quả pháp lý? Bình luận về thỏa thuận trọng
tài vô hiệu theo pháp luật Việt Nam hiện nay.

- Thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không thuộc thẩm quyền trọng tài

Theo đó, một trong các trường hợp làm vô hiệu thỏa thuận trọng tài là các tranh chấp phát
sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài quy định tại Điều 2, Luật Trọng
tài Thương mại năm 2010 về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài:

“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.

3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài”.

Theo quy định trên, nếu như các bên trong tranh chấp rơi vào 02 trường hợp trên, thì thỏa
thuận trọng tài sẽ có hiệu lực. Trong khi đó, nếu tranh chấp không có tính chất thương mại thì
việc thỏa thuận giữa hai bên có thể vô hiệu.

 Thỏa thuân trọng tài vô hiệu do người xác lập không có thẩm quyền

Người trực tiếp tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài phải là người đại diện hợp pháp của các
bên bao gồm đại diện đương nhiên và đại diện theo ủy quyền. Trường hợp đại diện theo ủy
quyền thì người xác lập thỏa thuận phải có văn bản ủy quyền từ người có thẩm quyền giao.
Thỏa thuận trọng tài mà ký kết bởi người không có thẩm quyền thì sẽ vô hiệu.

 Thỏa thuận vô hiệu do người xác lập không năng lực hành vi dân sự

Thỏa thuận trọng tài là sự thống nhất dựa trên ý chí tự nguyện của các bên. Vì vậy chỉ những
chủ thể có năng lực hành vi dân sự thì mới thể hiện được ý chí và sự tự nguyện một cách
chính xác, đầy đủ nhất. Việc các chủ thể xác lập thỏa thuận không có năng lực hành vi dân sự
sẽ làm vô hiệu thỏa thuận.

 Thỏa thuận vô hiệu do vi phạm hình thức

Nội dung của thỏa thuận trọng tài thì văn bản. Các loại hình văn bản khác (thư;điện báo;
telex; fax; thư điện tử;…) cũng được coi là phù hợp. Nếu thỏa thuận không được xác lập bằng
văn bản thì sẽ không tuân thủ quy định bắt buộc về hình thức. Do đó, thỏa thuận trọng tài sẽ
bị vô hiêu.

 Thỏa thuận trọng tài vô hiệu do một trong các bên lừa đối

Trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí; trung thực trong việc xác lập; thực hiện quyền;
nghĩa vụ dân sự. Không bên nào được lừa dối bên nào. Do đó, việc một thỏa thuận được xác
lập nhưng do bị ép buộc, mua chuộc, dụ dỗ khiến bên kia xác lập thỏa thuận trái ý muốn, giao
dịch dân sự đó sẽ vô hiệu. Tương tự, đối với một thỏa thuận dân sự như thỏa thuận giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, nếu một hoặc các bên vi phạm tiêu chí thiện chí, nội dung đưa
tranh chấp ra trọng tài sẽ vô hiệu.

Bên cạnh đó, để chấm dứt việc thực hiện giao dịch trái ý muôn, các bên cần có yêu cầu gửi
Tòa án tuyên thỏa thuận đó vô hiệu.
 Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.

Thỏa thuận trọng tài mang bản chất là một thỏa thuận dân sự. Do đó, thỏa thuận này phải
tuân thủ các quy định của pháp luật của một thỏa thuận dân sự. Một trong số đó yêu cầu
không được vi phạm điều cấm của pháp luật. Nếu thuộc vào các trường hợp cấm của pháp
luật, thỏa thuận sẽ bị vô hiệu và việc giải quyết tranh chấp sẽ không được tiến hành.

165. Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được và giải pháp trong trường hợp
này?

“Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được” quy định tại Điều 6 Luật TTTM là thỏa
thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau đây:

 Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm Trọng tài cụ thể
nhưng Trung tâm Trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng
tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm Trọng tài
khác để giải quyết tranh chấp;
 Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc,
nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc
Trung tâm trọng tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa
thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay
thế;
 Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc,
nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định
hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không
thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế;
 Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại
thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố
tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm
trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng
Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về
việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế; và
 Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận
trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ
do nhà cung cấp soạn sẵn nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không
đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.

Giải pháp: nộp đơn Khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về việc thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được.

166. Phân loại các hình thức trọng tài thương mại? Thủ tục giải quyết tranh
chấp kinh doanh - thương mại của từng hình thức trọng tài?

Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là trọng tài vụ việc (hay còn
gọi là trọng tài ad hoc) và trọng tài thường trực (hay còn gọi là trọng tài quy chế).

 Trọng tài vụ việc:

Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để
giải quyết vụ việc và sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ việc đó. Bản chất của
trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:

+ Được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết
xong tranh chấp.

+ Không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành, không có danh sách trọng
tài viên. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc chỉ định có thể là người có tên trong
hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất kỳ trung tâm trọng tài nào.

+ Quy tắc tố tụng của trọng tài vụ việc để giải quyết vụ tranh chấp có thể do các bên
thỏa thuận xây dựng hoặc lựa chọn từ bất kỳ một quy tắc tố tụng nào của các trung
tâm trọng tài.

Trọng tài vụ việc tuy được quy định trong Luật trọng tài thương mại 2010 nhưng chưa
phát triển trên thực tế, một phần vì nếu lựa chọn sử dụng trọng tài vụ việc, các bên
phải tự thực hiện toàn bộ quy trình với hội đồng trọng tài mà không có sự hỗ trợ bởi
một Ban thư ký thường trực và vì vậy cần có kinh nghiệm tham gia tố tụng trọng tài
trước đó.

 Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế):

Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế) là hình thức trọng tài được tổ chức chặt chẽ,
có bộ máy, trụ sở làm việc thường xuyên, thường có danh sách trọng tài viên hoạt
động theo điều lệ và quy tắc tố tụng riêng. Hầu hết các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín
trên thế giới đều được thành lập theo mô hình này dưới những tên gọi như trung tâm
trọng tài, ủy ban trọng tài, viện trọng tài, hội đồng trọng tài quốc gia và quốc tế…
nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài.

 Thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại của từng hình thức trọng
tài:

a) Trình tự giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài của trung tâm trọng tài

* Đơn kiện và thụ lí đơn kiện: nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi đến đúng trung tâm
trọng tài mà các bên đã thoả thuận lựa chọn bởi vì thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài được xác định bởi sự lựa chọn của các bên có tranh chấp. Đơn kiện phải
có nội dung chủ yếu như ngày, tháng, năm viết đơn, tên và địa chỉ các bên, tóm tắt nội
dung vụ việc,…Đơn kiện phải gửi đến trọng tài trong thời hiệu khởi kiện mà pháp luật
quy định đối với từng loại tranh chấp. Đối với vụ tranh chấp không quy định thời hiệu
khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là 2 năm, kể
từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp bất khả kháng. Nguyên đơn có thể sửa đổi,
bổ sung, rút đơn kiện trước khi hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài.

- Khi nhận được đơn kiện, trung tâm trọng tài phải xem xét vụ kiện có thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình không.

- Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn kiện, trung tâm trọng tài
phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn, những tài liệu kèm theo mà
nguyên đơn cung cấp và danh sách trọng tài viên của trung tâm.

* Tự bảo vệ của bị đơn: nếu các bên không có thoả thuận khác, trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện và cá tài liệu kèm theo của nguyên đơn do trung
tâm trọng tài gửi đến, bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ gồm các
nội dung:

- Ngày, tháng, năm viết bản tự bảo vệ

- Tên và địa chỉ của bị đơn

- Lí lẽ và chứng cứ để tự bảo vệ, phản bác một phần hay toàn bộ nội dung đơn kiện
của nguyên đơn, ý kiến của bị đơn về thẩm quyền của trọng tài và thoả thuận trọng
tài.

- Trọng tài viên mà bị đơn chọn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm
* Thành lập hội đồng trọng tài trung tâm trọng tài

- Trong đơn kiện của mình, nguyên đơn đã chọn cho mình một trọng tài viên của
trung tâm. Trong bản tự bảo vệ, bị đơn cũng đã chọn một trọng tài viên trong danh
sách trọng tài viên của trung tam hoặc yêu cầu chủ tịch trung tâm chỉ định trọng tài
viên cho mình. Nếu bị đơn ko chọn trọng tài viên hoặc không yêu cầu chủ tịch trung
tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên thì trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết hạn quy
định chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định một trọng tài viên có tên trong danh sách
trọng tài viên cho bị đơn.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hai trọng tài viên được các bên chọn hoặc được
chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định, các trọng tài viên này phải chọn một trọng tài
viên thứ 3 có tên trong danh sách trọng tài viên làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Hết
thời hạn đó, hai trọng tài viên không chọn được trọng tài viên thứ 3 thì trong thời hạn
7 ngày, kể từ ngày hết hạn theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, chủ tịch trung tâm
trọng tài chỉ định trọng tài viên thứ 3 có tên trong danh sách trọng tài viên làm chủ
tịch hội đồng trọng tài.

* Chuẩn bị giải quyết:

- Thứ nhất, nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc.

- Thứ hai, thu nhập chứng cứ.

* Hoà giải

* Tổ chức phiên hộ giải quyết tranh chấp và quyết định trọng tài

Quyết định trọng tài phải có các nội dung chủ yếu sau đây:

- Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn.

- Ngày, tháng, năm và địa điểm ra quyết định, tên trung tâm trọng tài.

- Họ tên các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất.

- Tóm tắt đơn kiện và các vấn đề tranh chấp.

- Cơ sở để ra quyết định trọng tài.

- Quyết định về vụ tranh chấp, về phí trọng tài và cá chi phí khác.

- Thời hạn thi hành quyết định trọng tài


- Chữ kí của các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất.

b) Trình tự giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài do các bên thành lập

* Đơn kiện

* Bản tự bảo vệ của bị đơn: theo yêu cầu của bị đơn, thời hạn bị đơn phải gửi bản tự
bảo vệ kèm theo chứng cứ có thể dài hơn 30 ngày nhưng phải trước ngày hội đồng
trọng tài mở phiên họp.

* Thành lập hội đồng trọng tài.

167. Vai trò của Tòa án trong thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh – thương
mại bằng trọng tài thương mại?

Trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, vai trò hỗ trợ của
Toà án là điều không thể phủ nhận. Cụ thể, vai trò của Toà án đối với hoạt động trọng
tài thương mại thể hiện rõ nhất qua các nội dung sau:

 Chỉ định, thay đổi trọng tài viên

Theo khoản 3 Ðiều 43 của Luật Trọng tài Thương mại 2010 (Luật TTTM) thì Toà án
chỉ hỗ trợ việc thay đổi Trọng tài viên trong trường hợp các thành viên còn lại của
Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài
viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp.

Xem xét khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm
quyền

Trong trường hợp một trong các bên hoặc cả hai bên không đồng ý với quyết định của
Hội đồng trọng tài về thẩm quyền thì một hoặc các bên đương sự có quyền khiếu nại
quyết định này ra Toà án. Nếu Toà án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài thì các bên đương sự có quyền khởi kiện ra Toà án có
thẩm quyền theo thủ tục chung.

 Đề nghị Toá án thu thập chứng cứ

Luật TTTM 2010 được ban hành đã chỉ ra sự hỗ trợ của Toà án trong việc thu thập
chứng cứ khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại khoản 5 Điều 46.
Theo quy định này, Toà án sẽ hỗ trợ thu thập chứng cứ nếu:
- Hội đồng trọng tài đã áp dụng các biện pháp cần thiết nhưng vẫn không thể thu thập
được chứng cứ;

- Có văn bản đề nghị gửi Toà án nêu rõ các nội dung sau: vụ việc đang giải quyết tại
Trọng tài, chứng cứ cần thu thập, lý do không thu thập được, tên, địa chỉ của cơ quan,
tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập đó.

Trình tự, thủ tục bảo quản và chuyển giao chứng cứ của Toà án được thực hiện theo
quy định tại khoản 6 Điều 46.

 Triệu tập người làm chứng đến phiên họp

Đây là một điểm mới trong Luật Trọng tài thương mại 2010, theo Điều 48 thì Hội
đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên hợp giải quyết
tranh chấp. Trong trường hợp người làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập
hợp lệ mà không đến phiên hợp và không có lý do chính đáng về việc vắng mặt của
họ gây ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp, thì Hội đồng trọng tài có thể yêu
cầu tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của
Hội đồng trọng tài.

 Giải quyết yêu cầu hủy phán quyết của trọng tài

Một yếu tố đảm bảo cho tính khả thi trong phán quyết của trọng tài là các quy định về
hủy quyết định trọng tài phải hợp lý và chặt chẽ, tránh trường hợp quyết định trọng tài
có thể bị bên thua kiện yêu cầu hủy một cách tùy tiện. Tố tụng trọng tài không có
nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy,
không ai có thể đảm bảo rằng quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài luôn luôn
đúng về mọi phương diện. Để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải
quyết tranh chấp tại trọng tài và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, khoản
1 Điều 44 Luật TTTM 2010 đã quy định: bên không đồng ý với quyết định trọng tài
"có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội
đồng trọng tài". Khoản 1 Điều 68 Luật TTTM 2010 quy định: “Tòa án xem xét việc
hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”.

Khi nhận đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài của một bên, Tòa án không xét xử lại
mà chỉ đối chiếu vào các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài quy định tại Khoản 2
Điều 68:
- Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;

- Thành phần hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả
thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;

- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài; trường hợp phán
quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài thì nội
dung đó bị huỷ;

- Chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết
là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên
tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;

- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng quyết định mà trọng tài đã tuyên thuộc một
trong các trường hợp trên thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy phán quyết của trọng tài.
Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với căn cứ “Phán quyết trọng tài trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác
minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Ngoài
ra pháp luật cũng quy định có sự tham gia của Viện kiểm sát trong hoạt động hủy
quyết định của trọng tài, với chức năng giám sát hoạt động của Tòa án. Quyết định
của Toà án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành (Khoản 10 Điều 71).

 Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc các bên đương sự yêu cầu. Đây là quy
định mới so với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng
Hội đồng trọng tài chỉ có quyền ra quyết định áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời được liệt kê tại Điều 49 của Luật Trọng tài thương mại và Hội đồng trọng tài chỉ
có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi Hội đồng trọng tài
đã thành lập. Các trường hợp khác do Tòa án thực hiện. Vì vậy, khi yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi đơn yêu cầu tới đúng cơ quan
có thẩm quyền.

168. Vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài
thương mại?
 Biện pháp khẩn cấp tạm thời được hiểu là những biện pháp mang tính tạm thời được
áp dụng trong trường hợp khẩn cấp để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của một
trong các bên tranh chấp, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt
hại không thể khắc phục được, bảo đảm việc giải quyết vụ việc hoặc việc thi hành án.
Về điều kiện để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
 Hội đồng trọng tài chỉ có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có đủ cả
bốn điều kiện sau:

- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời;

- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần thiết phải áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó;

- Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm
về tài chính để bảo đảm việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng.

- Chưa có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

 Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Luật Trọng tại thương mại
2010

Khoản 2 Điều 49 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định Hội đồng trọng tài có thể
áp dụng sáu biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên tranh chấp.

Thứ nhất, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp. Trong quá trình giải quyết
việc tranh chấp, Hội đồng trọng tài, có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp này khi hội tụ
đầy đủ các điều kiện: (1) đối tượng mà đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời phải là tài sản đang có tranh chấp; (2) người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản
hoặc người khác đang có hành vi làm thay đổi hiện trạng của tài sản như phá hủy,
tháo dỡ, lắp ghép xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản;
(3) người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã thực hiện nghĩa vụ bảo
đảm tài chính. Đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này phải đưa
ra tài liệu, chứng cứ chứng minh bên đang chiếm hữu, giữ tài sản đang có hành vi làm
thay đổi hiện trạng tài sản. Hội đồng trọng tài hoặc Thẩm phán phải xem xét các yêu
cầu, các căn cứ mà đương sự đã đưa ra để quyết định có áp dụng biện pháp khẩn cấp
đó hay không.
Thứ hai, cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành vi
nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng
tài. Trong quá trình trọng tài giải quyết tranh chấp, nếu thấy đương sự nào đó đang có
hành vi (hành động hoặc không hành động) mà hành vi đó sẽ có tác động gây bất lợi
cho quá trình tố tụng thì đương sự bên kia có quyền yêu cầu trọng tài hoặc Tòa án áp
dụng biện pháp cấm hoặc buộc bên tranh chấp thực hiện một hoặc một số hành vi
nhất định. Khi có đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp này, nếu thấy yêu
cầu đó là chính đáng và đương sự đã xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh
cho việc cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp này thì trọng tài hoặc Tòa án phải
áp dụng ngay.

Thứ ba, kê biên tài sản đang tranh chấp. Kê biên tài sản chỉ áp dụng cho trường hợp
người chiếm giữ tài sản đang có tranh chấp có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản đang có
tranh chấp gây khó khăn trong việc xem xét, giải quyết của Hội đồng trọng tài hoặc
thi hành án sau này, thì theo yêu cầu của một trong các bên đương sự Hội đồng trọng
tài hoặc Tòa án có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp này. Tài sản kê biên có thể thu
giữ bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự
hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Hội đồng trọng tài hoặc Tòa
án. Khi lập biên bản kê biên phải ghi rõ ngày, giờ, loại tài sản, mô tả đầy đủ, chính
xác tình trạng tài sản. Nếu cơ quan, người thứ ba được giao quản lý tài sản kê biên có
thể được hưởng thù lao theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc
các bên tranh chấp. Có những tài sản đang tranh chấp hoặc có liên quan đến tranh
chấp, nếu không xử lý kịp thời sẽ làm hư hỏng, mất giá trị, giảm giá trị hoặc làm biến
dạng tài sản, thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp có thể áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời “bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp” thì Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án sẽ áp dụng biện pháp
này khi các bên đương sự đã đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp này.

Thứ năm, yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên. Để kịp thời xử lý những nhu
cầu cấp bách của đương sự, dù hai bên còn đang có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ,
về hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ… đang phải chờ Hội đồng trọng tài phán xử,
thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp, Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án có
thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời về việc trả tiền giữa các bên tranh chấp khi
bên yêu cầu đã chứng minh yêu cầu áp dụng biện pháp này là chính đáng, cần thiết.

Thứ sau, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. Dù tố tụng
trọng tài được diễn ra trong thời gian không dài so với tố tụng tại Tòa án, nhưng nó
vẫn cần một khoảng thời gian nhất định. Lợi dụng thời gian tố tụng trọng tài đang
diễn ra một bên tranh chấp có thể có hành vi bán, chuyển nhượng, cho thuê, tặng
cho… tài sản đang có tranh chấp, hành vi này đe dọa gây ra những thiệt hại cho
đương sự khác hoặc gây khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp, xử lý tài sản tranh
chấp. Do đó, khi có yêu cầu của một trong các bên đương sự áp dụng biện pháp khẩn
cấp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang có tranh chấp thì Hội đồng
trọng tài hoặc Tòa án phải áp dụng biện pháp này.

168. Tư vấn và vai trò của tư vấn trong giải quyết tranh chấp kinh doanh –
thương mại

Cách hiểu: Tư vấn trong giải quyết tranh chấp KD-TM là những việc luật sư, trợ giúp
viên pháp lý hoặc những người có hiểu biết về pháp luật hướng dẫn, đưa ra ý kiến,
giúp các cá nhân, tổ chức kinh doanh giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật trong những trường hợp cụ thể nhằm
giúp mọi người thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của họ.

Việc tư vấn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thông thường sẽ xoay
quanh các loại tranh chấp kinh doanh thương mại sau đây:

- Tư vấn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong tranh chấp về mua bán
hàng hóa;
- Tư vấn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong tranh chấp về cung ứng
dịch vụ; thuê, cho thuê, thuê mua;
- Tư vấn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong tranh chấp về phân phối; ký
gửi; đại diện, đại lý;
- Tư vấn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong tranh chấp về xây dựng, tư
vấn kỹ thuật; sở hữu trí tuệ;
- Tư vấn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong tranh chấp về vận chuyển
hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường thủy nội
địa…,
- Tư vấn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong tranh chấp về đầu tư tài
chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; hợp đồng tín dụng…

169. Áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp trong các giao dịch hỗn hợp
dân sự và thương mại.

QUYẾT TÂM LÀM BÀI TỐT!

CỐ LÊN MỌI NGƯỜI!

You might also like