Professional Documents
Culture Documents
Sieu Am Tuyen Nuoc Bot, BS Nu
Sieu Am Tuyen Nuoc Bot, BS Nu
LỚN
I/TUYẾN MANG TAI
• Tuyến mang tai nằm ở hố sau hàm, trước
tai và cơ ức đòn chũm. Các phần của thùy
nông che phủ hàm dưới và phần sau của
cơ cắn
• Ranh giới giữa các thùy nông và sâu
được tạo bởi mặt phẳng chứa dây thần
kinh mặt và các nhánh của nó. Các nhánh
của dây thần kinh mặt không thể nhìn thấy
trên siêu âm.
hinhanhykhoa.com
Các đoạn của thân dây thần kinh mặt chỉ có
thể thấy được với những đầu dò tần số
cao (trên 10 MHz) . Do đó, tĩnh mạch sau
hàm, tĩnh mạch này thường nằm ngay
trên thân dây thần kinh mặt , được dùng
làm mốc siêu âm chia thùy nông và thùy
sâu của tuyến mang tai
• Mặc dù phần ngoài sọ của dây thần kinh
mặt có thể nhìn thấy trên các ảnh MRI độ
phân giải cao ,tĩnh mạch sau hàm thường
được coi là mốc giải phẫu trong CT và
MRI đánh giá quan hệ với u tuyến trước
mổ . Thùy sâu tuyến mang tai chỉ có thể
nhìn thấy được một phần khi siêu âm. Một
vài vùng của nhu mô tuyến và các tổn
thương có thể bị che khuất do bóng cản
âm ở phía sau ngành xương hàm dưới
Hình vẽ các mạch máu chính trong vùng các tuyến nước bọt. 1
1 = tĩnh mạch sau hàm, 2 = động mạch cảnh ngoài, 3 = động mạch và tĩnh
mạch mặt, 4 = động mạch và tĩnh mạch lưỡi, 5 = động mạch cảnh ngoài, 6 =
tĩnh mạch cảnh trong, 7 = tĩnh mạch cảnh ngoài.
Hình ảnh siêu âm cắt ngang (1 = tĩnh mạch sau hàm, 2 = động mạch cảnh
ngoài, 3 = tăng âm ở bề mặt của xương hàm, 4 = tuyến mang tai, 5 = cơ
cắn.
Hình ảnh siêu âm cắt ngang 1 = tĩnh mạch sau hàm, 2 = động mạch cảnh
ngoài, 3 = tăng âm ở bề mặt của xương hàm, 4 = tuyến mang tai, 5 = cơ
cắn.
Hình ảnh siêu âm cắt ngang tuyến mang tai phải cho thấy ranh giới giữa
các thùy nông và sâu của tuyến. Vị trí đầu dò siêu âm theo hình nhỏ ở
góc.
Đậm độ âm của tất cả các tuyến nước bọt,
gồm cả tuyến mang tai, thường là đồng
nhất và thay đổi từ mức tăng âm mạnh và
rất sáng tới mức chỉ hơi tăng âm so với
các cơ lân cận. Đậm độ âm của tuyến
mang tai phụ thuộc vào lượng mô mỡ
trong tuyến.
Các tuyến nước bọt có thành phần mỡ
nhiều thì tăng âm so với các cơ xung quang
và cản sóng siêu âm một cách rõ rệt, đến
độ thùy sâu không thể đánh giá bằng siêu
âm được và đôi khi các mạch máu lớn chạy
qua tuyến mang tai – tĩnh mạch sau hàm và
động mạch cảnh ngoài – có thể nhìn thấy
vừa đủ hoặc không thể nhìn thấy trên các
ảnh thang xám
hinhanhykhoa.com
Hình cắt ngang tuyến mang tai phải và má cho thấy tuyến
có thành phần mỡ nhiều. Nhu mô tăng âm với sự cản sóng
siêu âm rõ rệt, và không nhìn thấy mạch máu nào. Vị trí
đầu dò siêu âm theo hình nhỏ ở góc. 1 = cơ cắn.
Sau khi rời tuyến mang tai, ống ngoại tiết
chính (ống Stenon) nằm trên cơ cắn, dưới
cung gò má khoảng 1 cm, rồi đi qua cơ
mút (cơ má) và có lỗ đổ ra ở nhú mang tai
ngang mức răng hàm trên thứ hai. Chiều
dài của ống Stenon thường thay đổi từ 3
đến 5 cm. Ống không giãn thường không
thể nhìn thấy khi siêu âm . Tuy nhiên, một
số tác giả báo cáo sự xuất hiện của các
đoạn ống Stenon không giãn nằm trong
tuyến bằng siêu âm độ phân giải cao .
hinhanhykhoa.com
Hình ảnh 1 = tuyến mang tai, 2 = ống Stenon, 4 = cơ cắn, 5 = bề mặt
xương hàm, 6 = cơ mút, mũi tên lớn = tĩnh mạch sau hàm và động mạch
cảnh ngoài.
Hình ống Stenon bị giãn ở bệnh nhân bị viêm và sỏi tuyến nước bọt
(sialolithiasis). 1 = tuyến mang tai trái bị viêm, 2 = ống Stenon bị giãn, 3 =
sỏi, 4 = cơ cắn, 5 = bề mặt xương hàm, 6 = cơ mút, mũi tên lớn = tĩnh
mạch sau hàm và động mạch cảnh ngoài.
hinhanhykhoa.com
• Trong mô mềm của má dọc theo ống
Stenon có thể thấy tuyến mang tai phụ ở
một bên hoặc cả hai bên. Tuyến mang tai
phụ cũng có thể là vị trí của các khối u
tuyến nước bọt, lành tính hoặc ác tính
Trong nhu mô của tuyến mang tai cũng có
thể thấy các hạch bạch huyết .
tăng âm là một tiêu chuẩn quan trọng đối với
sự bình thường của các hạch tuyến mang
tai .Trục ngắn của chúng không vượt quá
5-6 mm trong tình trạng bình thường .Với
việc ứng dụng siêu âm Doppler năng
lượng có độ nhạy cao, các mạch máu
trung tâm có thể nhìn thấy ở các hạch
mang tai bình thường.
hinhanhykhoa.com
• Chúng nằm chủ yếu ở cực trên và cực
dưới của tuyến. Các hạch bình thường
trong tuyến mang tai có thể hình bầu dục
hoặc hình thuôn dài .Khoảng 60% các
hạch tuyến mang tai có tỷ lệ trục
ngắn/trục dài > 0,5 (hình bầu dục). Sự có
mặt của rốn hạch
Các ảnh siêu âm ba chiều cho thấy một hạch bình thường trong tuyến
mang tai (các mũi tên), hạch hình bầu dục với vỏ đồng nhất và rốn tăng
âm trung tâm. Rốn liên tiếp với mô liên kết bao quanh (đầu mũi tên).
hinhanhykhoa.com
II/Tuyến dưới hàm (submadibular gland)
Tuyến dưới hàm nằm ở phần sau của tam
giác dưới hàm. Các cạnh của tam giác
dưới hàm được tạo bởi bụng trước và
bụng sau cơ nhị thân và thân xương hàm
dưới.
Khoảng trước tuyến dưới hàm là mô liên kết
và các hạch bạch huyết. Thông thường,
hình dạng của tuyến dưới hàm trong các
mặt cắt dọc và cắt ngang là hình tam giác
Tuyến dưới hàm có thể nối với tuyến mang
tai hoặc tuyến dưới lưỡi bằng các mỏm
tuyến.
• Động mạch mặt có thể chạy ngoằn ngoèo
trong nhu mô tuyến dưới hàm Tĩnh mạch
mặt chạy dọc phần trước trên của tuyến
dưới hàm. Trong phần sau của tĩnh mạch
mặt, có thể thấy một nhánh nối với tĩnh
mạch sau hàm). Động mạch và tĩnh mạch
lưỡi chạy ở phía trong tuyến dưới hàm.
hinhanhykhoa.com
• Ống ngoại tiết tuyến dưới hàm (ống
Wharton) chạy từ vùng rốn của tuyến dưới
hàm ở mức bờ của cơ hàm móng
(mylohyoid), rồi chạy vòng qua phần tự do
của cơ hàm móng và kéo dài tới lỗ của nó
ở mào dưới lưỡi dọc theo phần trong của
tuyến dưới hàm. Thông thường, ống
không giãn thì không nhìn thấy khi siêu
âm, nhưng đôi khi có thể thấy ở các người
gầy
• Đối với một số bệnh nhân (bệnh nhân béo
phì, những người đã xạ trị vùng cổ), như
mô tuyến dưới hàm có thể cản sóng siêu
âm tới độ không thể nhìn thấy các cấu trúc
nằm sâu sau tuyến mà ngay cả bờ sau
của tuyến dưới hàm.
Hình ảnh siêu âm cắt chếch theo xương hàm (a) và sơ đồ tương
ứng (b) cho thấy tuyến dưới hàm trái với các cấu trúc xung
quanh.
1 = cơ hàm móng (mylohyoid), 2 = cơ móng lưỡi (hyoglossus).
Hình ảnh siêu âm cho thấy đường đi ngoằn ngoèo của động mạch
mặt (đầu mũi tên) trong tuyến dưới hàm phải (mũi tên).
Hình ảnh siêu âm cho thấy ống Wharton không giãn (mũi tên) ở một bệnh
nhân gầy. Các đầu mũi tên = tuyến dưới hàm, 1 = cơ hàm móng
Sơ đồ đường đi của ống Wharton (mũi tên). Các đầu mũi tên = tuyến
dưới hàm, 1 = cơ hàm móng, 2 = tuyến dưới lưỡi.
III/Tuyến dưới lưỡi (sublingual gland)
• Tuyến dưới lưỡi nằm giữa các cơ của sàn
miệng: cơ cằm móng (geniohyoid), cơ
trong lưỡi, cơ móng lưỡi (phía trong) và
cơ hàm móng (mylohyoid). Mặt ngoài
tuyến sát xương hàm (mandible). Trên
mặt cắt ngang, tuyến dưới lưỡi có hình
bầu dục, trên mặt cắt song song với thân
xương hàm, tuyến hình hạt đậu và thuôn
dài. ống ngoại tiết của tuyến dưới lưỡi
chạy dọc theo phần trong của tuyến
Hình ảnh siêu âm cắt ngang (a) và sơ đồ tương ứng (b) cho thấy tuyến
dưới lưỡi và các cấu trúc bao quanh. Vòng tròn trắng = ống Wharton,
digastric m. = cơ nhị thân, geniohyoid m. = cơ cằm móng, genioglossus
m. = cơ cằm lưỡi.
CÁC BỆNH VIÊM TUYẾN NƯỚC BỌT
1/Viêm cấp
• Viêm cấp gây sưng đau tuyến nước bọt,
thường hai bên. Nhiễm trùng virus tuyến
nước bọt thường gặp nhất ở trẻ em. Virus
quai bị và cytomegalovirus có đích ưa
thích đặc biệt là các tuyến nước bọt
Nhiễm trùng vi khuẩn tuyến nước bọt
thường do Staphylococcus aureus (tụ cầu
vàng) hoặc vi khuẩn miệng
• Trong viêm cấp tính, các tuyến nước bọt
thường to lên và giảm âm. Chúng có thể
không đồng nhất; có thể có nhiều vùng
giảm âm nhỏ hình bầu dục; và có thể có
dòng máu tăng khi siêu âm màu.Các hạch
bạch huyết to lên với dòng chảy trung tâm
tăng cũng có thể quan sát thấy trong giai
đoạn viêm cấp của các tuyến nước bọt
hinhanhykhoa.com
Hình ảnh siêu âm Doppler năng lượng cho thấy tuyến dưới hàm phải bị
viêm (các mũi tên) có một sỏi (đầu mũi tên). Tuyến to lên và giảm âm với
các bờ phồng ra và tăng dòng chảy của mạch máu.
Hình ảnh siêu âm thang xám cho thấy tuyến mang tai phải (các mũi tên)
bị viêm cấp ở đứa trẻ 5 tuổi. Tuyến to ra và không đồng nhất với nhiều
vùng nhỏ hình bầu dục, giảm âm (các đầu mũi tên). Vị trí đầu dò siêu âm
theo hình nhỏ ở góc.
1/Áp xe