Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 114

SIÊU ÂM TUYẾN NƯỚC BỌT

LỚN
I/TUYẾN MANG TAI
• Tuyến mang tai nằm ở hố sau hàm, trước
tai và cơ ức đòn chũm. Các phần của thùy
nông che phủ hàm dưới và phần sau của
cơ cắn
• Ranh giới giữa các thùy nông và sâu
được tạo bởi mặt phẳng chứa dây thần
kinh mặt và các nhánh của nó. Các nhánh
của dây thần kinh mặt không thể nhìn thấy
trên siêu âm.

hinhanhykhoa.com
Các đoạn của thân dây thần kinh mặt chỉ có
thể thấy được với những đầu dò tần số
cao (trên 10 MHz) . Do đó, tĩnh mạch sau
hàm, tĩnh mạch này thường nằm ngay
trên thân dây thần kinh mặt , được dùng
làm mốc siêu âm chia thùy nông và thùy
sâu của tuyến mang tai
• Mặc dù phần ngoài sọ của dây thần kinh
mặt có thể nhìn thấy trên các ảnh MRI độ
phân giải cao ,tĩnh mạch sau hàm thường
được coi là mốc giải phẫu trong CT và
MRI đánh giá quan hệ với u tuyến trước
mổ . Thùy sâu tuyến mang tai chỉ có thể
nhìn thấy được một phần khi siêu âm. Một
vài vùng của nhu mô tuyến và các tổn
thương có thể bị che khuất do bóng cản
âm ở phía sau ngành xương hàm dưới
Hình vẽ các mạch máu chính trong vùng các tuyến nước bọt. 1
1 = tĩnh mạch sau hàm, 2 = động mạch cảnh ngoài, 3 = động mạch và tĩnh
mạch mặt, 4 = động mạch và tĩnh mạch lưỡi, 5 = động mạch cảnh ngoài, 6 =
tĩnh mạch cảnh trong, 7 = tĩnh mạch cảnh ngoài.
Hình ảnh siêu âm cắt ngang (1 = tĩnh mạch sau hàm, 2 = động mạch cảnh
ngoài, 3 = tăng âm ở bề mặt của xương hàm, 4 = tuyến mang tai, 5 = cơ
cắn.
Hình ảnh siêu âm cắt ngang 1 = tĩnh mạch sau hàm, 2 = động mạch cảnh
ngoài, 3 = tăng âm ở bề mặt của xương hàm, 4 = tuyến mang tai, 5 = cơ
cắn.
Hình ảnh siêu âm cắt ngang tuyến mang tai phải cho thấy ranh giới giữa
các thùy nông và sâu của tuyến. Vị trí đầu dò siêu âm theo hình nhỏ ở
góc.
Đậm độ âm của tất cả các tuyến nước bọt,
gồm cả tuyến mang tai, thường là đồng
nhất và thay đổi từ mức tăng âm mạnh và
rất sáng tới mức chỉ hơi tăng âm so với
các cơ lân cận. Đậm độ âm của tuyến
mang tai phụ thuộc vào lượng mô mỡ
trong tuyến.
Các tuyến nước bọt có thành phần mỡ
nhiều thì tăng âm so với các cơ xung quang
và cản sóng siêu âm một cách rõ rệt, đến
độ thùy sâu không thể đánh giá bằng siêu
âm được và đôi khi các mạch máu lớn chạy
qua tuyến mang tai – tĩnh mạch sau hàm và
động mạch cảnh ngoài – có thể nhìn thấy
vừa đủ hoặc không thể nhìn thấy trên các
ảnh thang xám

hinhanhykhoa.com
Hình cắt ngang tuyến mang tai phải và má cho thấy tuyến
có thành phần mỡ nhiều. Nhu mô tăng âm với sự cản sóng
siêu âm rõ rệt, và không nhìn thấy mạch máu nào. Vị trí
đầu dò siêu âm theo hình nhỏ ở góc. 1 = cơ cắn.
Sau khi rời tuyến mang tai, ống ngoại tiết
chính (ống Stenon) nằm trên cơ cắn, dưới
cung gò má khoảng 1 cm, rồi đi qua cơ
mút (cơ má) và có lỗ đổ ra ở nhú mang tai
ngang mức răng hàm trên thứ hai. Chiều
dài của ống Stenon thường thay đổi từ 3
đến 5 cm. Ống không giãn thường không
thể nhìn thấy khi siêu âm . Tuy nhiên, một
số tác giả báo cáo sự xuất hiện của các
đoạn ống Stenon không giãn nằm trong
tuyến bằng siêu âm độ phân giải cao .

hinhanhykhoa.com
Hình ảnh 1 = tuyến mang tai, 2 = ống Stenon, 4 = cơ cắn, 5 = bề mặt
xương hàm, 6 = cơ mút, mũi tên lớn = tĩnh mạch sau hàm và động mạch
cảnh ngoài.
Hình ống Stenon bị giãn ở bệnh nhân bị viêm và sỏi tuyến nước bọt
(sialolithiasis). 1 = tuyến mang tai trái bị viêm, 2 = ống Stenon bị giãn, 3 =
sỏi, 4 = cơ cắn, 5 = bề mặt xương hàm, 6 = cơ mút, mũi tên lớn = tĩnh
mạch sau hàm và động mạch cảnh ngoài.

hinhanhykhoa.com
• Trong mô mềm của má dọc theo ống
Stenon có thể thấy tuyến mang tai phụ ở
một bên hoặc cả hai bên. Tuyến mang tai
phụ cũng có thể là vị trí của các khối u
tuyến nước bọt, lành tính hoặc ác tính
Trong nhu mô của tuyến mang tai cũng có
thể thấy các hạch bạch huyết .
tăng âm là một tiêu chuẩn quan trọng đối với
sự bình thường của các hạch tuyến mang
tai .Trục ngắn của chúng không vượt quá
5-6 mm trong tình trạng bình thường .Với
việc ứng dụng siêu âm Doppler năng
lượng có độ nhạy cao, các mạch máu
trung tâm có thể nhìn thấy ở các hạch
mang tai bình thường.

hinhanhykhoa.com
• Chúng nằm chủ yếu ở cực trên và cực
dưới của tuyến. Các hạch bình thường
trong tuyến mang tai có thể hình bầu dục
hoặc hình thuôn dài .Khoảng 60% các
hạch tuyến mang tai có tỷ lệ trục
ngắn/trục dài > 0,5 (hình bầu dục). Sự có
mặt của rốn hạch
Các ảnh siêu âm ba chiều cho thấy một hạch bình thường trong tuyến
mang tai (các mũi tên), hạch hình bầu dục với vỏ đồng nhất và rốn tăng
âm trung tâm. Rốn liên tiếp với mô liên kết bao quanh (đầu mũi tên).

hinhanhykhoa.com
II/Tuyến dưới hàm (submadibular gland)
Tuyến dưới hàm nằm ở phần sau của tam
giác dưới hàm. Các cạnh của tam giác
dưới hàm được tạo bởi bụng trước và
bụng sau cơ nhị thân và thân xương hàm
dưới.
Khoảng trước tuyến dưới hàm là mô liên kết
và các hạch bạch huyết. Thông thường,
hình dạng của tuyến dưới hàm trong các
mặt cắt dọc và cắt ngang là hình tam giác
Tuyến dưới hàm có thể nối với tuyến mang
tai hoặc tuyến dưới lưỡi bằng các mỏm
tuyến.
• Động mạch mặt có thể chạy ngoằn ngoèo
trong nhu mô tuyến dưới hàm Tĩnh mạch
mặt chạy dọc phần trước trên của tuyến
dưới hàm. Trong phần sau của tĩnh mạch
mặt, có thể thấy một nhánh nối với tĩnh
mạch sau hàm). Động mạch và tĩnh mạch
lưỡi chạy ở phía trong tuyến dưới hàm.

hinhanhykhoa.com
• Ống ngoại tiết tuyến dưới hàm (ống
Wharton) chạy từ vùng rốn của tuyến dưới
hàm ở mức bờ của cơ hàm móng
(mylohyoid), rồi chạy vòng qua phần tự do
của cơ hàm móng và kéo dài tới lỗ của nó
ở mào dưới lưỡi dọc theo phần trong của
tuyến dưới hàm. Thông thường, ống
không giãn thì không nhìn thấy khi siêu
âm, nhưng đôi khi có thể thấy ở các người
gầy
• Đối với một số bệnh nhân (bệnh nhân béo
phì, những người đã xạ trị vùng cổ), như
mô tuyến dưới hàm có thể cản sóng siêu
âm tới độ không thể nhìn thấy các cấu trúc
nằm sâu sau tuyến mà ngay cả bờ sau
của tuyến dưới hàm.
Hình ảnh siêu âm cắt chếch theo xương hàm (a) và sơ đồ tương
ứng (b) cho thấy tuyến dưới hàm trái với các cấu trúc xung
quanh.
1 = cơ hàm móng (mylohyoid), 2 = cơ móng lưỡi (hyoglossus).
Hình ảnh siêu âm cho thấy đường đi ngoằn ngoèo của động mạch
mặt (đầu mũi tên) trong tuyến dưới hàm phải (mũi tên).
Hình ảnh siêu âm cho thấy ống Wharton không giãn (mũi tên) ở một bệnh

nhân gầy. Các đầu mũi tên = tuyến dưới hàm, 1 = cơ hàm móng
Sơ đồ đường đi của ống Wharton (mũi tên). Các đầu mũi tên = tuyến
dưới hàm, 1 = cơ hàm móng, 2 = tuyến dưới lưỡi.
III/Tuyến dưới lưỡi (sublingual gland)
• Tuyến dưới lưỡi nằm giữa các cơ của sàn
miệng: cơ cằm móng (geniohyoid), cơ
trong lưỡi, cơ móng lưỡi (phía trong) và
cơ hàm móng (mylohyoid). Mặt ngoài
tuyến sát xương hàm (mandible). Trên
mặt cắt ngang, tuyến dưới lưỡi có hình
bầu dục, trên mặt cắt song song với thân
xương hàm, tuyến hình hạt đậu và thuôn
dài. ống ngoại tiết của tuyến dưới lưỡi
chạy dọc theo phần trong của tuyến
Hình ảnh siêu âm cắt ngang (a) và sơ đồ tương ứng (b) cho thấy tuyến
dưới lưỡi và các cấu trúc bao quanh. Vòng tròn trắng = ống Wharton,
digastric m. = cơ nhị thân, geniohyoid m. = cơ cằm móng, genioglossus
m. = cơ cằm lưỡi.
CÁC BỆNH VIÊM TUYẾN NƯỚC BỌT
1/Viêm cấp
• Viêm cấp gây sưng đau tuyến nước bọt,
thường hai bên. Nhiễm trùng virus tuyến
nước bọt thường gặp nhất ở trẻ em. Virus
quai bị và cytomegalovirus có đích ưa
thích đặc biệt là các tuyến nước bọt
Nhiễm trùng vi khuẩn tuyến nước bọt
thường do Staphylococcus aureus (tụ cầu
vàng) hoặc vi khuẩn miệng
• Trong viêm cấp tính, các tuyến nước bọt
thường to lên và giảm âm. Chúng có thể
không đồng nhất; có thể có nhiều vùng
giảm âm nhỏ hình bầu dục; và có thể có
dòng máu tăng khi siêu âm màu.Các hạch
bạch huyết to lên với dòng chảy trung tâm
tăng cũng có thể quan sát thấy trong giai
đoạn viêm cấp của các tuyến nước bọt

hinhanhykhoa.com
Hình ảnh siêu âm Doppler năng lượng cho thấy tuyến dưới hàm phải bị
viêm (các mũi tên) có một sỏi (đầu mũi tên). Tuyến to lên và giảm âm với
các bờ phồng ra và tăng dòng chảy của mạch máu.
Hình ảnh siêu âm thang xám cho thấy tuyến mang tai phải (các mũi tên)
bị viêm cấp ở đứa trẻ 5 tuổi. Tuyến to ra và không đồng nhất với nhiều
vùng nhỏ hình bầu dục, giảm âm (các đầu mũi tên). Vị trí đầu dò siêu âm
theo hình nhỏ ở góc.
1/Áp xe

• Trong viêm tuyến nước bọt (sialadenitis)


cấp, có thể hình thành áp xe. Các yếu tố
thuận lợi là sự mất nước và tắc ống tiết do
sỏi hoặc xơ hóa . Khó có thể phát hiện áp
xe khi khám lâm sàng. Nó thường biểu
hiện là sưng đau tuyến nước bọt có đỏ da
. Trong khoảng 70% các trường hợp
không có đấu hiệu ấn lõm (fluctuation)
điển hình .
• Khi siêu âm, áp xe là tổn thương giảm âm
hoặc trống âm có tăng âm phía sau và các
bờ không rõ . Dịch hóa trung tâm có thể
nhận ra dưới dạng một vùng vô mạch
hoặc các mảnh lắng di động . Các chấm
tăng âm do các bọt khí nhỏ có thể nhìn
thấy bên trong ổ áp xe . Các ổ áp xe được
tổ chức hoá có thể có một quầng tăng âm
bao quanh . Siêu âm được dùng để
hướng dẫn dẫn lưu.
2/Viêm tuyến nước bọt mãn tính (chronic
sialadenitis)
- Viêm tuyến nước bọt mãn tính đặc trưng
về lâm sàng bằng sưng tuyến nhiều đợt,
thường gây đau, có thể kết hợp hoặc
không kết hợp với thức ăn . Trong viêm
mãn tính, các tuyến nước bọt có kích
thước bình thường hoặc nhỏ đi, giảm âm,
không đồng nhất, và thường không có
tăng các dòng chảy của mạch máu trên
siêu âm Doppler màu.
– Với siêu âm, viêm tuyến nước bọt mãn
tính và đôi khi cấp tính ở trẻ em, cũng
như viêm tuyến nước bọt dưới hàm
không có sỏi ở người lớn được mô tả là
nhiều vùng nhỏ hình tròn, hình bầu dục
giảm âm hoặc các tổn thương phân bố
trong khắp nhu mô tuyến.
– Chẩn đoán phân biệt trong các trường
hợp này gồm có sarcoidosis và các
bệnh u hạt khác, hội chứng Sialosis,
lymphoma phát tán, di căn theo đường
máu, các tổn thương biểu mô bạch
mạch lành tính ở các bệnh nhân HIV
dương tính.
Hình ảnh siêu âm Doppler năng lượng cho thấy viêm mãn tính của tuyến
dưới hàm trái (các đầu mũi tên). Tuyến không đồng nhất với đậm độ nhu
mô giảm âm nhưng không tăng dòng chảy của mạch máu. Các mũi tên =
sỏi.
Viêm tuyến nước bọt xơ cứng mãn tính
(chronic sclerosing sialadenitis

• Một dạng đặc biệt của viêm tuyến nước


bọt có thể giả một tổn thương ác tính, cả
về mặt lâm sàng và hình ảnh, là viêm
tuyến nước bọt xơ cứng mãn tính (khối u
Küttner) Với khối u Küttner, liên quan lan
tỏa của tuyến nước bọt (thường là tuyến
dưới hàm) có thể xảy ra, với nhiều chấm
giảm âm nhỏ rải rác trong một nền mô
tuyến không đồng nhất có thể thấy rõ
bằng siêu âm .
• Sự liên quan khu trú cũng có thể bắt gặp,
với tổn thương giảm âm không đồng nhất
khu trú bên trong một tuyến hình dạng
bình thường . Đối với tất cả các trường
hợp nghi ngờ, việc xác định bằng chọc hút
kim nhỏ được khuyên làm.
Viêm tuyến nước bọt u hạt
(granulomatous sialadenitis)
• Viêm tuyến nước bọt hiếm khi xảy ra .Các
đặc điểm siêu âm của viêm tuyến nước
bọt u hạt không đặc trưng: một hoặc nhiều
vùng giảm âm trong tuyến nước bọt kích
thước bình thường hoặc to, hoặc giảm âm
lan tỏa. Dòng chảy của các mạch máu có
thể tăng
• Bệnh lao của các tuyến nước bọt lớn có
thể biểu hiện dưới dạng một khối, không
thể phân biệt với u về mặt lâm sàng
.Trong loại nhu mô tuyến của lao, Chou và
đồng nghiệp đã mô tả các vùng khu trú
gần như trống âm trong tuyến mang tai,
chúng có thể có hang hoặc nhiều hốc bên
trong.
Các hang hoại tử bã đậu đó rất giảm âm,
không có tín hiệu mạch máu nào, trái với
hầu hết các khối u tuyến nước bọt.
Actinomycosis (bệnh nấm tia) tuyến nước
bọt có thể giả một khối u ác tính khi siêu
âm; nó có thể biểu hiện dưới dạng một
vùng giảm âm với các bờ không rõ.
Các hạch bạch huyết khi viêm tuyến
nước bọt
• Trong viêm cấp hoặc viêm mãn tính, các
hạch bạch huyết có thể to ra; tuy nhiên,
cấu trúc âm của chúng vẫn bình thường
(vỏ đồng nhất và rốn trung tâm tăng âm).
Các mạch máu trung tâm hoặc các đoạn
mạch máu ngắn có thể nhìn thấy rõ. Dòng
chảy của mạch máu trung tâm tăng có thể
quan sát thấy trong viêm cấp tính .
Bệnh sỏi tuyến nước bọt (sialolithiasis)

• Các sỏi tuyến nước bọt phần lớn xảy ra ở


tuyến dưới hàm (60%-90% các trường
hợp) và có thể nhiều sỏi. Các tuyến mang
tai bị sỏi trong khoảng 10%-20% các
trường hợp sỏi tuyến nước bọt
• Chụp phim X quang cổ điển, các sỏi nhỏ
trong tuyến có thể bị bỏ sót, và chỉ khoảng
20% sỏi nước bọt (sialolith) là cản quang .
• CT cho phép nhìn thấy rõ các sỏi to nhưng
không xác định vị trí chính xác và không
thể đánh giá các ống tuyến .Kỹ thuật
chuẩn để đánh giá hình ảnh ống tuyến
dưới hàm và hệ thống ống trong tuyến là
chụp X quang số hóa tuyến nước bọt.
• Một phương pháp mới, không xâm lấn đầy
hứa hẹn là chụp MRI ống tuyến nước bọt,
kỹ thuật cũng có kết quả tốt đối với phát
hiện sỏi nước bọt. Siêu âm là phương
pháp không xâm lấn, được xác định tốt
trong tất cả các trường hợp nghi ngờ sỏi
tuyến nước bọt và được sử dụng như là
phương tiện đầu tiên, đặc biệt ở Châu Âu
• .Mặc dù một số tác giả khẳng định rằng các sỏi
nhỏ hơn 2-3 mm có thể bị bỏ sót do không có
bóng cản âm, các bài báo đó là từ những năm
1980, gần đây các máy có độ phân giải tốt hơn
và có thể phát hiện tốt hơn.
• Bệnh sỏi tuyến nước bọt gây tắc cơ học bán
phần hoặc hoàn toàn ống tuyến nước bọt dẫn
tới sưng tái diễn tuyến nước bọt trong khi ăn và
có thể bị biến chứng nhiễm khuẩn.
• Sỏi nước bọt ở đầu xa của ống dưới hàm
(ống Wharton) có thể sờ thấy ở sàn
miệng. Tuy nhiên, sỏi tuyến nước bọt ở
đoạn gần của ống hoặc trong nhu mô các
tuyến nước bọt chỉ có thể phát hiện bằng
các phương pháp chẩn đoán hình ảnh.
• Các đặc điểm siêu âm của bệnh sỏi tuyến
nước bọt bao gồm các dải tăng âm mạnh
hoặc các điểm có bóng cản âm xa .
• Trong các trường hợp có triệu chứng tắc
ống, các ống bị giãn đó có thể nhìn thấy
rõ.
• Khi nghi ngờ sỏi tuyến dưới hàm, siêu âm
có thể bộc lộ sỏi nằm trong nhu mô tuyến
hoặc trong ống Wharton .Sự phân biệt này
là cần thiết để lựa chọn phương pháp điều
trị.
• Trong bệnh sỏi ống tuyến nước bọt mãn
tính bị biến chứng bởi viêm mãn và tái
diễn, tuyến có thể mất chức năng. Vào
giai đoạn này của bệnh, các sỏi nằm trong
ống không bị giãn có thể khó chứng minh.
• Các sỏi nằm gần lỗ ống hoặc ở đoạn giữa
của ống Wharton đôi khi có thể bộc lộ tốt
hơn bằng cách lấy ngón tay ấn từ trong
miệng khi siêu âm.
• Trong khoảng 50% bệnh nhân, sỏi tuyến
nước bọt cùng tồn tại với viêm. Các bong
bóng tăng âm của khí lẫn với nước bọt có
thể giả sỏi trong ống Wharton và do đó là
một bẫy chẩn đoán
Hình ảnh siêu âm cắt chếch theo xương hàm cho thấy sỏi nước bọt (các
đầu mũi tên) trong nhu mô tuyến dưới hàm phải bị viêm, tòn bộ nhu mô
giảm âm không đồng nhất. ống tiết trong tuyến (các mũi tên) ở phía trên
sỏi bị giãn. T = lưỡi.
Hình ảnh siêu âm cho thấy một sỏi (các mũi tên) nằm gần lỗ ở gần mào
lưỡi trong ống Wharton bị giãn (các đầu mũi tên). M = bóng cản âm đằng
sau bề mặt thân xương hàm. Vị trí đầu dò theo hình nhỏ ở góc.
Hình ảnh siêu âm cho thấy các cấu trúc dạng dải tăng âm (các mũi tên),
chúng có thể bị nhầm là sỏi nước bọt trong ống Wharton. Các cấu trúc
đó là các bóng khí trong khoang miệng. Lưu ý bóng cản “không
sáng”(không trống âm hoàn toàn) phía sau các dải và chấm tăng âm. Các
đầu mũi tên = tuyến dưới hàm.
Sỏi trong kênh tuyến nước bọt
Hình ảnh sỏi qua nội soi
Sỏi tuyến nước bọt trên CT
(Chứng) ứa nước bọt (Sialosis)

• Sialosis là sưng tuyến nước bọt tái diễn, không


gây đau, không do viêm, không do u, thường hai
bên, hay liên quan đến tuyến mang tai. Sialosis
đã được đề cập đến với các bệnh nội tiết, dinh
dưỡng kém, xơ gan, nghiện rượu, hoặc các
bệnh thiếu hụt khác (như chứng thiếu vitamin) .
Siêu âm bộc lộ các tuyến ngước bọt to lên, tăng
âm với thùy sâu khó nhìn thấy rõ nhưng không
có tổn thương khu trú hoặc tăng dòng chảy của
các mạch máu .
Các ảnh siêu âm thang xám (a) và Doppler năng lượng (b) cho thấy hội
chứng Sialosis giai đoạn tiến triển ở tuyến mang tai. Tuyến có cấu trúc
không đồng nhất với nhiều vùng nhỏ, hình bầu dục, giảm âm (các đầu
mũi tên) và tăng dòng chảy của mạch máu. Vị trí cảu đầu dò theo hình
nhỏ ở góc.
5. CÁC KHỐI U TUYẾN NƯỚC BỌT

Các khối u tuyến nước bọt tương


đối hiếm gặp. Phần lớn các khối
u là lành tính (70%-80%) và
được phát hiện ở tuyến mang tai
(80%-90%). Khoảng 10%-12%
các khối u tuyến nước bọt nằm ở
tuyến dưới hàm, nhưng gần một
nửa các khối u đó có thể là ác
tính.
Các khối u lành tính

• Các khối u lành tính phổ biến nhất của


các tuyến nước bọt lớn là pleomorphic
adenoma (u tuyến đa hình, còn có tên là u
hỗn hợp) và u Warthin (adenolymphoma-u
hạch bạch huyết, cystadenolymphoma,
papillary cystadenoma lymphomatosum).
Về lâm sàng, chúng biểu hiện là các khối
phát triển chậm, không gây đau .
• Tuy nhiên, các tổn thương nhỏ có thể
được phát hiện một cách tình cờ khi siêu
âm. Khi phân tích hình thái siêu âm của
chúng, có thể thấy nhiều đặc điểm chung,
nhưng chẩn đoán phân biệt xác định
thường không thể dựa siêu âm, ngay cả
giữa các khối u lành tính và ác tính.
• Pleomorphic adenoma. – U tuyến đa
hình thường có ở tuyến mang tai (60%-
90%) ở các người lứa tuổi 40 và 50,
nhưng có thể ở bất kỳ lứa tuổi nào .Có sự
hơi trội hơn ở giới nữ .Các u tuyến đa
hình thường chỉ có một và ở một bên.
Chúng phát triển chậm và có thể không có
triệu chứng.
• Các khối u tuyến đa hình không được điều
trị có thể chuyển đổi ác tính sau nhiều
thập kỷ .Trong những trường hợp ngoại
lệ, trên lâm sàng u tuyến đa hình có thể
biểu hiện xâm lấn (aggressive); chúng có
thể di căn và thậm chí gây chết
• Trên siêu âm, các u tuyến đa hình là các khối u
giảm âm, nhiều thùy múi, giới hạn rõ, có tăng
âm phía sau và có thể chứa vôi hóa. Đặc điểm
hình dạng, nhiều thùy múi được nhấn mạnh
trong chẩn đoán phân biệt.
• Nhiều tác giả cũng thêm đặc điểm về tính đồng
nhất, nhưng nó có vẻ phụ thuộc vào thành phần
của khối u; khi dùng đầu dò tần số cao, người ta
càng thấy sự không đồng nhất của khối u
• Phân bố mạch trong các khối u tuyến đa
hình thường ít hoặc không có (ngay cả khi
dùng siêu âm Doppler năng lượng nhạy)
nhưng cũng có ít trường hợp có thể giàu
mạch máu.Phẫu thuật không lấy hết u, các
khối u tuyến đa hình thường tái phát, và
thường nhiều ổ.
Hình ảnh siêu âm thang xám: hình thái điển hình của u tuyến đa hình (các
mũi tên). Tổn thương giảm âm và có bờ nhiều thùy múi rõ và tăng âm
phía sau.
Ảnh siêu âm: u tuyến đa hình không đồng
nhất (các mũi tên).
Hình ảnh siêu âm Doppler năng lượng cho thấy u tuyến đa hình (mũi tên)
ở cực dưới của tuyến mang tai. Không thấy mạch trong tổn thương
• Khối u Warthin
U Warthin là loại u lành tính khác cũng hay gặp
(5%-10% các khối u lành tính của tuyến nước
bọt). Nó thường xảy ra ở nam giới lứa tuổi 50 và
60 . Mối liên quan giữa hút thuốc lá và sự phát
triển của các khối u Warthin đã được chứng
minh .U Warthin thường duy nhất một khối, ở
một bên, và phát triển chậm. Khoảng 10% –
60% các trường hợp, các khối u có thể hai bên
hoặc nhiều khối, đôi khi khác thì, phát triển và
biểu hiện lâm sàng ở các thời điểm khác nhau.
• Lác đác có trường hợp thành phần biểu
mô của u Warthin chuyển đổi ác tính .Trên
siêu âm, các khối u Warthin hình bầu dục,
ranh giới rõ, giảm âm và thường có nhiều
vùng trống âm. Các khối u Warthin thường
tăng phân bố mạch nhưng cũng có thể chỉ
chứa những đoạn mạch ngắn.
• Chẩn đoán u Warthin có thể được trợ giúp
bằng các kết quả của technetium 99mm
scintigraphy, nó biểu hiện là khối u “nóng”
do tăng tập trung chất phóng xạ đánh dấu
. Tuy nhiên, một số u tuyến mang tai khác,
lành tính cũng như ác tính, đôi khi có thể
biểu hiện sự tập trung chất đánh dấu.
• Hình thùy múi đối với pleomorphic
adenoma và các vùng trống âm trong các
khối u Warthin, mặc dù hay gặp, nhưng
chúng không đặc trưng bệnh và có thể
gặp ở nhiều tổn thương khác, kể cả các
khối u ác tính
• Thí dụ, các cấu trúc dạng nang về mặt đại thể
xuất hiện dưới dạng các vùng trống âm trên siêu
âm, có thể xảy ra ở những khối u lành tính khác
(pleomorphic adenoma, basal cell adenoma),
những khối u ác tính (mucoepidermoid
carcinoma, acinic cell carcinoma), và ở những
hạch bị áp xe hóa hoặc di căn; hơn nữa, những
tổn thương biểu mô lympho ở các bệnh nhân
HIV cũng có thể xuất hiện dưới dạng các nốt
đặc-nang .
• U Warthin cũng có thể xuất hiện dưới
dạng nang đơn thuần trên siêu âm và do
đó yêu cầu phân biệt với các khối ung thư
biểu mô dạng nang (mucoepidermoid
carcinoma, acinic cell carcinoma) và các
nang lành tính (lymphoepithelial cyst)
Hình ảnh siêu âm thang xám cho thấy hình thái điển hình của u Warthin
(các mũi tên). Tổn thương, nằm ở cực dưới của tuyến mang tai, hình bầu
dục, ranh giới rõ, giảm âm, không đồng nhất với nhiều vùng trống âm

(các mũi tên), và có tăng âm phía sau.


Hình ảnh siêu âm thang xám tón cảnh cho thấy hai khối u Warthin (các
mũi tên) ở cực dưới tuyến mang tai phải. Các tổn thương hình bầu dục,
ranh giới rõ, giảm âm và không đồng nhất.
Hình ảnh siêu âm Doppler năng lượng cho thấy khối u
Warthin tăng phân bố mạch (các mũi tên) ở tuyến mang tai.
Hình ảnh siêu âm cho thấy pleomorphic adenoma (các mũi
tên) với một vùng trống âm (các đầu mũi tên), một hình tháI
giả u Warthin.
Hình ảnh siêu âm thang xám toàn cảnh cho thấy hình thái điển hình của
lipoma (các đầu mũi tên). Tổn thương nằm ở tuyến mang tai trái (các mũi
tên) là giảm âm với các đường tăng âm phân bố đều đặn. 1 = âm từ bề
mặt ngành của xương hàm, 2 = cơ cắn.
Các khối u ác tính

• Các khối u ác tính phổ biến nhất ở các


tuyến nước bọt là mucoepidermoid
carcinoma và adenoid cystic carcinoma
.Squamous cell carcinoma, acinic cell
carcinoma, và adenocarcinoma ít xảy ra
hơn. Dưới 30% các tổn thương khu trú ở
tuyến mang tai là u ác tính, trong khi gần
50% các tổn thương khu trú ở tuyến dưới
hàm là ác tính
• Khác với các khối u tuyến nước bọt lành
tính, các khối u ác tính có thể phát triển
nhanh, đau khi chạm vào, có thể dính với
mô bao quanh, có thể gây liệt nhẹ hoặc
liệt dây thần kinh mặt.
• Mucoepidermoid carcinoma hầu như chỉ
xảy ra giữa 30 và 50 tuổi. Mucoepidermoid
carcinoma có thể cho thấy một vài mức độ
biệt hóa, và do đó có những xu hướng
khác nhau đối với sự thâm nhiễm, di căn
và tiến triển; dạng kém biệt hóa thì xâm
lấn cực kỳ dữ dội .
• Hình thái đại thể của u, và các đặc điểm
hình ảnh tương tự của nó, phụ thuộc chủ
yếu vào mức độ ác tính . Những khối u
biệt hóa cao có thể tương tự những khối u
lành tính trên siêu âm . Adenoid cystic
carcinoma, là khối u phát triển chậm, cho
thấy xu hướng đặc biệt đối với sự thâm
nhiễm thần kinh (và do đó gây đau), và di
căn muộn thường xảy ra .
• Đặc điểm siêu âm của các khối u ác tính
kém biệt hóa hoặc tiến triển của các tuyến
nước bọt thì giống các cơ quan hoặc mô
khác. Các đặc điểm của u ác tính tuyến
nước bọt bao gồm: hình dạng không đều,
ranh giới không đều, bờ mờ, cấu trúc giảm
âm không đồng nhất.
• Tuy nhiên, các khối u ác tính cũng có thể
đồng nhất và có ranh giới rõ. Cấu trúc bên
trong của khối u ác tính trên siêu âm
không những ở dạng đặc, mà có thể là
nang, hoặc nang với nốt đặc ở thành .
Các khối u ác tính có thể chia thùy múi,
tương tự hình dạng của pleomorphic
adenoma .
• Sự phân bố mạch của khối u ác tính là
không đặc trưng cho bệnh ác tính, và việc
đánh giá siêu âm Doppler màu hoặc
Doppler năng lượng không cho phép phân
biệt chắc chắn giữa các khối u tuyến nước
bọt lành tính và ác tính . Tuy nhiên, Schick
và cộng sự đã báo cáo rằng tăng phân bố
mạch và tăng tốc độ đỉnh tâm thu nên nghi
ngờ sự ác tính hơn. Mặt khác, Bradley và
cộng sự kết luận rằng các khối u có chỉ số
RI mạch máu trong u tăng thì nguy cơ ác
tính tăng.
• Có mặt của các hạch bất thường (có vẻ di
căn) cùng một khối u trong tuyến nước bọt
gợi ý tổn thương ác tính . Rất hiếm, khối u
ác tính có thể xảy ra nhiều ổ hoặc hai bên,
đôi khi khác thì, hoặc có thể đồng thời với
các khối u lành tính .
• Một vấn đề quan trọng cần lưu ý khi siêu
âm là các khối u ác tính và di căn nhỏ
(đường kính dưới 20 mm) và các khối u
ác tính biệt hóa cao bởi vì chúng có thể
mang vẻ lành tính: cấu trúc đồng nhất, các
bờ nhẵn, rõ . Các khối u đó cũng gây các
vấn đề khó khăn tương tự với các phương
pháp chẩn đoán hình ảnh khác (CT và
MRI) .
Hình ảnh siêu âm toàn cảnh: acinic cell carcinoma (đầu mũi tên) trong
tuyến mang tai trái (mũi tên đặc). Khối u có bờ đều và rõ; tuy nhiên, có
dấu hiệu phá hủy xương hàm (mũi tên rỗng), một dấu hiệu gợi ý sự ác
tính.
Hình ảnh siêu âm toàn cảnh: các hạch di căn (mũi tên rỗng), chúng hình
bầu dục hoặc hình tròn và không đồng nhất, không có rốn tăng âm. Có
adenocarcinoma nguyên phát (đầu mũi tên) ở tuyến mang tai trái (mũi tên
đặc).
Hình 29. Ảnh siêu âm cho thấy khối u hình bầu dục, ranh giới rõ, cấu trúc
đồng nhất với các bờ nhẵn (các mũi tên) trong tuyến dưới hàm phải; nhu
mô của tuyến (đầu mũi tên) đã bị thay đổi do xạ trị vùng cổ. Mặc dù đặc
điểm lành tính của nó, khối u đặc được chứng minh là di căn từ
squamous cell carcinoma ở đáy lưỡi.
• Các tuyến nước bọt là vị trí rất hiếm xảy ra di
căn. Các khối u nguyên phát có thể ở vùng đầu
và cổ, cũng như ở các phần khác xa hơn của cơ
thể. Melanoma , spinocellular cancer, ung thư
vú, và ung thư phổi có thể di căn tới các hạch
bạch huyết trong tuyến mang tai. Cực kỳ hiếm là
các di căn từ ung thư thận.
• Trên siêu âm, các di căn có thể hình bầu dục và
ranh giới rõ . Rất khó phân biệt nhiều tổn
thương di căn với một số dạng viêm, hội chứng
Sialosis, và các bệnh u hạt trên siêu âm
Hình ảnh siêu âm Doppler năng lượng cho thấy di căn (các đầu mũi tên)
tới thùy nông tuyến mang tai (các mũi tên) từ melanoma. Khối u chia thùy
múi, không đồng nhất, và gần như trống âm với bóng tăng âm phía sau,

các đoạn mạch hỗn độn, chủ yếu ở ngoại vi .


Lymphoma
• Các tuyến nước bọt cũng có thể bị
lymphoma .Tuy nhiên, lymphoma nguyên
phát của các tuyến nước bọt là hiếm;
chúng thường là một trong các vị trí của
bệnh hệ thống. Về mặt lâm sàng,
lymphoma tuyến nước bọt thường biểu
hiện là sưng từ từ, không đau. Chúng
thường kết hợp với bệnh tự miễn, hay gặp
nhất là với hội chứng Sialosis, đôi khi
cũng kết hợp với viêm khớp dạng thấp.
• Trên siêu âm, lymphoma tuyến nước bọt
có thể là tổn thương đơn độc, giảm âm,
đồng nhất hoặc không đồng nhất, hình
bầu dục hoặc chia thùy múi hoặc có bờ
không đều, đôi khi chứa các vách hoặc
các dải tăng âm. Tuy nhiên, những đặc
điểm
đặc điểm đó không đặc trưng bệnh, và
lymphoma có thể không phân biệt một
cách chắc chắn với các khối u khác
hoặc các tổn thương tuyến nước bọt
không phải do u bằng siêu âm. Dạng
nhiều tổn thương giảm âm với tăng
phân bố mạch cũng đã được báo cáo.
Chính dạng này đòi hỏi phân biệt với
viêm, hội chứng Sialosis, bệnh u hạt
(như sarcoidosis), và di căn theo đường
máu.
Hình ảnh siêu âm của một bệnh nhân bị follicular lymphoma cho thấy các
hạch bạch huyết bị bệnh (các đầu mũi tên) ở tuyến mang tai (các mũi tên
= đường ngoài của thùy nông). Các hạch khác bị nhiễm cũng nằm ở dưới

và dọc theo cơ ức đòn chũm.


Hình ảnh siêu âm của một bệnh nhân bị non-Hodgkin lymphoma cho thấy
hạch bạch huyết nhiễm lympho (các mũi tên) ở tuyến mang tai. Tổn
thương hình bầu dục, ranh giới rõ, trống âm với bóng tăng âm phía sau
giả một nang đơn giản.
6. NANG
• Các nang đơn giản ít xuất hiện trong các
tuyến nước bọt. Chúng có thể là bẩm sinh
hoặc mắc phải. Một số nang mắc phải
phát triển từ các ống tuyến nước bọt tắc
khi có u, sỏi, hoặc viêm . Về mặt lâm
sàng, chúng thường biểu hiện sưng không
gây đau, nhưng có thể đau khi bị nhiễm
khuẩn .
• Đặc điểm siêu âm của nang là kinh
điển (giống như ở các phần khác của
cơ thể): bờ rõ, dịch trống âm, tăng
âm phía sau, và không có dòng chảy
bên trong trên siêu âm Doppler màu
hoặc Doppler năng lượng
• Các tổn thương biểu mô bạch mạch ở
bệnh nhân HIV dương tính có thể biểu
hiện dưới dạng nhiều nang . Các bẫy chẩn
đoán có thể có, bao gồm: dạng giả nang
của lymphoma, dạng nang của u Warthin,
các tổn thương biểu mô bạch mạch, hoặc
các hạch di căn với tụ dịch trung tâm hoặc
hoại tử.
Hình ảnh siêu âm thang xám hòa âm cho thấy một nang đơn giản (các
đầu mũi tên) ở cực dưới của tuyến mang tai (các mũi tên).
7. ẢNH HƯỞNG CỦA XẠ TRỊ
• Các tuyến nước bọt lớn thường bị chiếu
trong xạ trị các khối u đầu và cổ. Một tác
dụng phụ quan trọng của xạ trị là khô
miệng (xerostomia) do suy giảm cấu trúc
và chức năng nhu mô tuyến. Mất chức
năng tuyến làm giảm nhiều chất lượng
sống . Phương pháp hữu ích nhất để đánh
giá chức năng tiết nước bọt là
scintigraphy, đặc biệt single photon
emission CT (SPECT).
• Carbon 11–methionine positron emission
tomography (PET) tạo ra khả năng mới để
nghiên cứu đáp ứng riêng của các tuyến
nước bọt với chiếu xạ. Sau khi bị chiếu xạ,
siêu âm thấy các tuyến nước bọt trở nên
giảm âm và không đồng nhất .Các tuyến
nước bọt to lên trong giai đoạn cấp và sau
đó teo nhỏ. Phù sau xạ trị tương ứng với
viêm tuyến nước bọt có thể thấy rõ trên
các ảnh T2W
Hình ảnh siêu âm cho thấy tuyến dưới hàm trái (mũi tên) 9 năm sau xạ trị
vùng cổ. Tuyến giảm âm và không đồng nhất, chứa các các trúc dạng dải
tăng âm, và có bờ không đều khó nhận ra. ? = bờ dưới của tuyến dưới
hàm không rõ.
8. CHẤN THƯƠNG
• Chấn thương của tuyến nước bọt thường xảy ra
ở tuyến mang tai bởi vì các tuyến nước bọt khác
được xương hàm bảo vệ. Sau chấn thương,
siêu âm có thể bộc lộ khối máu tụ, tụ dịch (như
sialocele), hoặc rò trong tuyến mang tai hoặc
các cấu trúc bao quanh .Tổn thương dây thần
kinh mặt hoặc ống Stenon được đánh giá bằng
các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh khác (CT, MRI,
sialography).
9. KẾT LUẬN
• Siêu âm là kỹ thuật có thể đánh giá được
và hữu ích để chẩn đoán các bệnh của
tuyến nước bọt. Nó không chỉ xác nhận
hoặc loại trừ sự hiện diện của khối, mà
trong nhiều trường hợp còn có thể gợi ra
bản chất của bệnh dựa vào cơ sở các dấu
hiệu siêu âm.

You might also like