-Nano cellulose là chất xơ tự nhiên có thể được chiết xuất từ cellulose, có kích thường đường kính dưới 100nm và chiều dài vài micromet. -Nano cellulose là một sơi nano phân hủy sinh học với trọng lượng nhẹ. -Tính chất : + Có mật độ thấp (khoảng 1,6g/m3) và đặt tính cường độ vượt trội +Có độ bền kéo cao lên đến 220 Gpa lớn hơn Gang +Tỷ lệ sức mạnh so với trọng lượng của nó cao gấp 8 lần so với thép không gỉ. +Nano cellulose trong suốt và đầy đủ bề mặt phản ứng của các nhóm hydroxyl có thể được chức năng hóa thành các tính chất bề mặt khác nhau. 2.Phân loại: a)Cellulose tinh thể nano - là nano cellulose có độ bền cao, được chiết xuất từ sợi cellulose bằng cách thủy phân acid. -Hình dạng que giống như que ngắn hoặc hình dạng râu ria với đường kính 2-20nm và chiều dài 100-500nm. -Khi thủy phân thì các phần vô định hình bị thủy phân và bị loại bỏ bởi acid trong khi các phần tinh thể vẫn được duy trì => phương pháp này thu được cellulose tinh thể nano có chứa độ tinh kết cao. b) cellulose sợi nano -là nano cellulose dài ,linh hoạt -hình dạng sợi dài có đường kính từ 1-100nm và chiều dài 500- 2000nm -Cellolose sợi nano được chiết xuất từ chuỗi cellulose bằng cách phân tách các sợi trong trục dọc từ lực tác dụng bởi quá trình cơ học.
c) nano cellulose vi khuẩn
-Khác với cellulose tinh thể nano và sellulose sợi nano thì nano cellulose vi khuẩn được sản xuất từ việc xây dựng trọng lượng phân tử thấp bởi đường vi khuẩn. -Ở dạng tinh khết mà không có các thành phần khác từ sinh khối lignocellulosic như lignin,hemicellulose,pectin... -có hình dạng truy băng xoắn với đường kính trung bình 20- 100nm và chiều dài ,icromet với diện tích bề mặt lớn. 3)Nguyên liệu: -Nguyên liệu chính để sản xuất nanocellulose đến từ nguồn sinh khối lignocellulose - Nguồn lignocellulose tại Việt Nam Việt Nam là một nước có nền nông nghiệp phát triển và nguồn sinh khối để tổng hợp cellulose chủ yếu lấy từ các nguồn lignocellulose phụ phẩm như: rơm rạ, bã mía, trấu, vỏ lạc,... và phế thải của sản xuất như chế biến gỗ (mùn cưa, dăm bào, gỗ vụn,...). (Tiềm năng về nguồn nguyên liệu sinh khối của Việt Nam được đánh giá là rất đa dạng và có trữ lượng khá lớn. Theo tính toán của Viện Năng lượng Việt Nam, tổng nguồn lignocellulose thu được hàng năm đạt khoảng 118 triệu tấn bao gồm khoảng 40 triệu tấn rơm rạ, 8 triệu tấn trấu, 6 triệu tấn bã mía và trên 50 triệu tấn vỏ cà phê, vỏ đậu, phế thải gỗ,… [1].) a)Cấu trúc thành tế bào của sinh khối lignocellulose chủ yếu gồm 3 loại: lignin,hemicellulose và cellulose. - Lignin :chiếm khoảng 10–25% trọng lượng của sinh khối lignocellulosic khô. +Trong thành tế bào thực vật, lignin đóng vai trò là chất kết dính giữ giữa và xung quanh cellulose và nước da hemicellulose. -+Với chức năng liên kết, lignin cung cấp độ cứng, cường độ nén, chống sâu răng và không thấm nước vào thành tế bào thực vật. -Hemicellulose :chiếm khoảng 20–35% trong sinh khối lignocellulosic . + là heteropolymer được cấu tạo bởi các chuỗi ngắn, tuyến tính và phân nhánh của các loại monome khác nhau . +Hemicellulose bám vào các sợi cellulose thông qua các liên kết hydro và tương tác của Van der Waal +. Hemicellulose có thể bị thủy phân bởi axit, kiềm hoặc enzyme trong điều kiện nhẹ. -Cellulose: là thành phần chính trong sinh khối lignocellulosic chủ yếu khu trú trong thành tế bào thực vật ở khoảng 35–50% .+ gồm homopolysacarit tuyến tính của các đơn vị anhydro-D- glucose liên kết b-1,4 với đơn vị lặp lại của cellobiose + Các monome của cellobiose gồm ba nhóm hydroxyl tạo thành liên kết hydro mạnh với đơn vị glucose liền kề trong củng một chuỗi và với các chuỗi khác nhau, được gọi là mạng liên kết hydro nội phân tử và liên phân tử, +Các mạng lưới liên kết hydro này mạnh mẽ và được đóng gói chặt dẫn đến độ dai, bền, xơ, không hòa tan trong nước và có khả năng chống chịu cao với hầu hết các dung môi hữu cơ