Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 23

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO & POHE
________

BÀI TẬP NHÓM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và nguyên tắc xây dựng, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Thành viên nhóm 2
Đặng Ngọc Ánh 11220711
Nguyễn Thu Hằng 11222107
Nguyễn Ngọc Linh 11223609
Nguyễn Thị Khánh Linh 11223656
Nguyễn Thị Cẩm Ly 11223982
Trần Kiều Oanh 11225071
Nguyễn Đăng Quyết 11225504
Phạm Thanh Thủy 11226238
Lớp tín chỉ : Ngân hàng CLC 64
Giảng viên : T.S Nguyễn Chí Thiện

Hà Nội -2024

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................................4
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.........................................................4
1. Khái niệm đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh..............................4
2. Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc...................................................................5
3. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.....................................................6
4. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc........................................6
5. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc – Mặt trận dân tộc thống
nhất……………………………………………………………………………………7
II. Nguyên tắc xây dựng, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất............................9
1. Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức và
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng......................................................................................9
2. Phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.......................................10
3. Phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ........................................................................................................10
III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay..............................................10
1. Sự phát triển nhận thức của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội qua các đại hội.......................................................................................................11
2. Những chính sách, đường lối của Đảng trong công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội........................................12
3. Những thành tựu Việt Nam đạt được trong công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh.....................................................................................................................15
4. Những định hướng tương lai của Đảng trong công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào xây dựng đất nước hiện nay.................................................................18
IV. Vai trò và trách nhiệm của thế hệ trẻ.....................................................................19
1. Về vai trò...........................................................................................................19
2. Về trách nhiệm,.................................................................................................20
LỜI KẾT...........................................................................................................................22
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, vị lãnh tụ kính
yêu của dân tộc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào
giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới. Người đã để lại cho chúng ta một di
sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó, tư tưởng về đại đoàn
kết dân tộc là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân
tộc ta và của toàn nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận
và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của
Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Từ khi ra đời, Đảng ta và Hồ Chí Minh luôn coi
trọng việc xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt địa vị, giai cấp, dân tộc, tôn giáo,
tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên sức mạng đại đoàn
kết dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc
kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc, thực
dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng loài người; nếu chỉ có tin
thần yeu nước thôi chưa đủ mà cần phải tập hợp tất cả mọi lực lượng, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời
kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, phải trở thành
khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất,
trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất.
Đó chính là lý do khiến em chọn đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức tổ chức của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nguyên tắc xây dựng, hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất.

3
PHẦN NỘI DUNG

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc


1. Khái niệm đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo từ điển Tiếng Việt, “Đoàn kết là kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu
thuẫn chống đối nhau đoàn kết với nhau, đoàn kết dân tộc” và “Đại đoàn kết là: Đoàn kết
rộng rãi, chính sách đoàn kết giữa các dân tộc”. Kế thừa truyền thống đoàn kết của dân
tộc, nhân loại trên nền tảng nhân văn, đoàn kết hoà bình của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề đoàn kết. Theo thống kê, Hồ Chí Minh đã sử dụng cụm
từ “Đoàn kết”, “Đại đoàn kết” (được công bố trong Hồ Chí Minh, toàn tập, 12 tập, NXB
chính trị quốc gia ấn hành năm 1995 và 1996) là 1.707 tài liệu trong đó: “Đoàn kết” là
1.654 tài liệu còn “Đại đoàn kết” là 53 tài liệu. Người đã định nghĩa khái niệm về đại
đoàn kết như sau: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đại đoàn kết đa số nhân dân, mà đại
đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là
nền gốc của đại đoàn kết nó cũng như cái nền của nhà gốc của cây, nhưng đã có nền vững
gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại tiếp nối luận điểm trên và nêu rõ các nguyên tắc của đại
đoàn kết. “Đoàn kết rộng rãi và lâu dài: Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn
đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính
trị”. Nguyên tắc rộng rãi thể hiện ở chỗ: “Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ
quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. “Bất kỳ ai thật thà tán thành hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Nguyên tắc lâu dài là “Ta đoàn kết để đấu tranh
cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”.
“Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ đồng thời phải củng cố nền có vững nhà mới chắc chắn, gốc
có tốt thì cây mới tốt hơn. Trong chính sách đoàn kết cần phải chống lại hai khuynh
hướng sai lầm: Cô lập hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc, phải lấy nguyên tắc mà củng cố
đoàn kết, phải lấy đoàn kết mà đẩy mạnh công tác”. Từ những quan niệm nêu trên của Hồ
Chí Minh và qua nghiên cứu những bài nói, bài viết về đại đoàn kết của Người, có thể rút
ra kết luận về khái niệm đại đoàn kết của Hồ Chí Minh: “Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp, biện pháp
giáo dục, tổ chức hành động của các lực lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao
nhất sức mạnh của dân tộc, quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là chiến lược xây dựng, củng cố, mở rộng,
4
tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xã hội,
con người”.

2. Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc


a. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sách lược hay thủ
đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng Việt Nam. Người nói rõ:
“Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dẫn ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc
lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Đây là vấn
đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam nên chiến lược này được duy trì cả trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn
cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập
hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác
nhau song không bao giờ được thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
- Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát thành
nhiều luận điểm mang tính chân lý về vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng
ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng
lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, “Bây giờ còn một điểm rất
quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là
đoàn kết”. Người đã đi đến kết luận:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt
Nam
Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục
tiêu lâu dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam nên tất yếu
đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhiện vụ
này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách,
tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao động Việt
Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có
thể gồm trong tâm chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”.

5
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng vả vì quần chúng. Đại đoàn
kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ
thất bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ điều đó, Đảng Cộng
sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu,
những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành
hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu
tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.

3. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
a. Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm: toàn thể nhân dân, tất cả những
người Việt Nam yêu nước ở các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới,
các lứa tuổi, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, các đảng phái, v.v
- “Nhân dân” vừa là con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng
nhân dân và cả hai đều là chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc là phải tập hợp, đoàn kết được tất cả mọi người dân vào một
khối thống nhất, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, lứa tuổi,
giới tính, nghề nghiệp, ở trong nước hay ở ngoài nước cùng hướng vào mục tiêu chung.
- Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công
nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc để tập hợp lực lượng...

b. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Là công nhân, nông dân và trí thức; nền tảng này được củng cố vững chắc thì khối đại
đoàn kết toàn dân tộc càng có thể mở rộng, khi ấy không có thế lực nào có thể làm suy
yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân” là sự
đoàn kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho sự đoàn kết ngoài xã hội.

4. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Một là, phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc. Truyền
thống đó là giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người
Việt Nam; là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng thiên tai
địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.

6
Hai là, phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Trong mỗi cá nhân cũng
như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu…; cần phải có
lòng khoan dung độ lượng, trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi người, có vậy mới tập
hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
Ba là, phải có niềm tin vào nhân dân. Dân là chỗ dựa vững chắc đồng thời cũng là
nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết định thắng lợi của cách
mạng.

5. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc – Mặt trận dân tộc
thống nhất
a. Mặt trận dân tộc thống nhất
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh khi được
tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, đó là Mặt trận dân tộc thống nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước vì mục tiêu
chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Tùy từng thời kỳ mặt trận dân tộc thống nhất có những tên gọi khác nhau như: Hội Phản
đế đồng minh (1930); Mặt trận dân chủ (1936); Mặt trận nhân dân phản đế
(1939); Mặt trận Việt Minh (1941); Mặt trận Liên Việt (1951); Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam (1960); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976)…

b. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Một là, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức và
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh,
trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, kết
thành một khối vững chắc trong Mặt trận.
Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức:
- Phải lấy liên minh công nông làm nền tảng “vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi
tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn
hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”
- Không nên chỉ nhấn mạnh vai trò của công nông, mà còn phải thấy vai trò và sự cần
thiết phải liên minh với các giai cấp khác, nhất là với đội ngũ trí thức.
- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

7
- Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng không có
lợi ích riêng, mà gắn liền với lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc.
- Đảng lãnh đạo đối với mặt trận thể hiện ở khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy
luật khách quan sự vận động của lịch sử để vạch đường lối và phương pháp cách mạng
phù hợp.
- Lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ của mình là đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
Hai là, phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân.
- Mục đích chung của Mặt trận được xác định cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết
- Đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương
dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu.
- Đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm
mục tiêu phấn đấu, đây là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số
chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc và tôn giáo vào trong Mặt trận.
Ba là, phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao
gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích
khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
- Mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn
bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
- Những lợi ích riêng chính đáng, phù hợp với lợi ích chung của đất nước, của dân tộc cần
được tôn trọng, những gì riêng biệt, không phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích
chung của dân tộc, bằng sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ
phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
Bốn là, phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
- Trong Mặt trận, các thành viên có những điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm
khác biệt, nên cần có sự bàn bạc để đi đến nhất trí.
- Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái
riêng, cái khác biệt.
- Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê
bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân

8
- Do yêu cầu và nhiệm vụ của từng chặng đường lịch sử, Mặt trận dân tộc thống nhất
đã có những tên gọi khác nhau:
• Hội Phản đế đồng minh (1930)
• Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936)
• Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương (1939)
• Mặt trận Việt Minh (1941)
• Mặt trận Liên Việt (1951)
• Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960)
• Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (1968)
• Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (các năm 1955, 1976)…
Tuy nhiên, dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng thực chất chỉ là một, là tổ chức
chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng
phái, các tổ chức, cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là
độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.

II. Nguyên tắc xây dựng, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng HCM, Mặt trận dân tộc thống nhất cần được xây dựng và hoạt động trên
cơ sở các nguyên tắc: 3 Nguyên tắc
1. Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức
và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Hồ Chí Minh xác định mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất là nhằm tập
hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận là
một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nguyên tắc
cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó để mở
rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, kết thành 1 khối vững
chắc trong Mặt trận. Người viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Người
chỉ rõ ràng, sở dĩ phải lấy liên minh công nông làm nền tảng “vì họ là người trực tiếp sản
xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc
lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp
khác”. Người căn dặn, không nên chỉ nhấn mạnh vai trò công nông, mà còn phải thấy vai
trò và sự cần thiết phải liên minh với các giai cấp khác, nhất là với đội ngũ trí thức.

9
Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng không có lợi
ích riêng, mà gắn liền với lợi ích toàn xã hội. Đảng lãnh đạo đối với mặt trận thể hiện ở
khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy luật khách quan sự vận động của lịch sử để
vạch đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm
vụ của mình là đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội.

2. Phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao
gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích
khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Mọi vấn đề của Mặt trận đều phải đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công
khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức, Những lợi ích riêng
chính đáng, phù hợp với lợi ích chung của đất nước, của dân tộc cần được tôn trọng,
những gì riêng biệt, không phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc,
bằng sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải theo nguyên tắc
hiệp thương dân chủ mới quy tụ được các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo
vào Mặt trận dân tộc thống nhất.

3. Phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự,
chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong Mặt trận, các thành viên có những
điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt, nên cần có sự bàn bạc để đi đến
nhất trí. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm: “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn
chế cái riêng, cái khác biệt; đồng thời Người nêu rõ: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích
phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn hết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa
đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên
lập trường thân ái, vì nước, vì dân” để tạo nên sự đoàn kết gắn bó chặt chẽ, lâu dài tạo tiền
đề mở rộng khối đại đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất.

III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay

10
1. Sự phát triển nhận thức của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội qua các đại hội
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là
kim chỉ nam dẫn đường cho Đảng và nhà nước trong công cuộc xây dựng đất nước thời
kỳ đổi mới. Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, giữ vững và thực thi quyền độc lập,
tự do của dân tộc luôn là vấn đề quan trọng nhận được sự quan tâm của Đảng, song song
với công cuộc phát triển đất nước. Nhằm khắc phục những sai lầm trong giai đoạn 1976 -
1985, Đảng đã từng bước đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và độc lập dân
tộc ở Việt Nam.
Đại hội VI (1986) là cột mốc mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội
khẳng định: “ Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”
Đây chính là dấu mốc đầu tiên đánh dấu sự nhận thức và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền độc lập, tự do của dân tộc. Dù đổi mới
toàn diện về cả chất và lượng nhưng Đảng luôn kiên định với chủ trương độc lập dân tộc
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bên cạnh đó mở cửa hội nhập quốc tế cũng là một
phần tất yếu của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế không có nghĩa là đánh
mất bản sắc dân tộc, không đánh đổi quyền tự do của dân tộc với bất kỳ điều kiện gì, luôn
giữ vững chân lý “ Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội lần thứ VII ( tháng 6 -1991), Đại hội đã rút ra bài học: “Nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình cách mạng
nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”. Một lần nữa, Đảng ta tiếp
tục khẳng định vai trò, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin đối với
sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Xuyên suốt quá trình 10 năm Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước (1986-1996),
dù nhiều lần đứng trước hoàn cảnh diễn biến phức tạp của thế giới hay bị bao vây cấm
vận, đất nước luôn nêu cao tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên trì
tiếp thu, vận dụng thuần thục chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua mỗi
đại hội, Đảng lại càng cho thấy bộ mặt trưởng thành hơn, chín chắn, sáng suốt hơn trong
công cuộc đổi mới xây dựng đât nước gắn với giữ vững độc lập dân tộc:

11
- Đại hội IX (2001) là cơ hội để Đảng tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước (1986-2000)
- Đại hội X (2006) của Đảng nhìn lại chặng đường 20 năm đất nước đổi mới. Đảng một
lần nữa khẳng định: “Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh...
Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và
kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng”.
- Đại hội XII, Đảng tiếp tục khẳng định đổi mới phải gắn liền với chủ động, sáng tạo
trên cơ sở luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, luôn đặt lợi
ích của dân tộc lên trên hết.
- Đại hội XIII đánh giá những kết quả đạt được sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi
mới và 30 năm thực hiện cương lĩnh đất nước. Đảng khẳng định: “Chúng ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ và toàn diện hơn
so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta có thể nói rằng:
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay”.
Nhìn lại một chặng hành trình dài của Đảng và nhà nước trên chặng đường xây dựng,
phát triển đất nước, ta nhận thấy rằng qua mỗi thời kỳ, mỗi đại hội, chúng ta thu lại được
nhiều thành quả hơn và những trái ngọt đó đến từ sự nỗ lực chủ động, sáng tạo không
ngừng của Đảng và nhà nước trong việc ban hành những đường lối, chính sách phù hợp
trên cơ sở luôn giữ vững chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của chủ tịch Hồ
Chí Minh.

2. Những chính sách, đường lối của Đảng trong công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Cơ sở để xây dựng nên một đất nước vững mạnh đó là cầm những đường lối, chính
sách phù hợp với từng ngành nghề, lĩnh vực của đất nước. Suốt hơn 40 năm đổi mới,
Đảng đã nỗ lực không ngừng nghỉ trong việc ban hành những đường lối, chinh sách phù
hợp với từng lĩnh vực trọng điểm của đất nước ở 3 lĩnh vực chủ chốt: kinh tế, văn hóa, xã
hội.
 Kinh tế
Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ở rất nhiều nước khác trên thế giới, cụm từ “bền
vững” luôn được đính kèm khi nhắc đến phát triển kinh tế. Chuyển dịch từ nền kinh tế

12
“nâu” sang nền kinh tế “xanh” đã trở thành mối quan tâm trọng điểm của mọi quốc gia.
Tại COP26, Việt Nam đã cùng 147 quốc gia cam kết đưa mức phát thải về 0 vào giữa thế
kỷ, cùng 103 quốc gia tham cam kết giảm phát thải khí methanol toàn cầu, cùng 48 quốc
gia tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch. Sau
COP26, lãnh đạo Chính phủ và lãnh đạo các bộ, ban ngành đã việc quyết liệt để triển khai
thực hiện cam kết, ban hành nhiều đề án, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hành động. Các
cán bộ có đối tượng giảm phát thải khí nhà kính như Công thương, Tài nguyên và Môi
trường, Xây dựng, Giao thông vận tải, Nông nghiệp đã và đang tổ chức xây dựng kế
hoạch giảm phát thải khí nhà kính:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hướng dẫn thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết
định (NDC) năm 2022, bao gồm mục tiêu giảm phát thải đối với từng lĩnh vực và thích
ứng với biến đổi khí hậu với các biện pháp thực hiện; phối hợp với Bộ Tài chính hoàn
thiện Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam; phối hợp với các bộ, ngành liên
quan xây dựng và hoàn thành Đề án triển khai Tuyên bố JETP…
- Về lĩnh vực năng lượng, Bộ Công Thương xây dựng chương trình giảm sử dụng năng
lượng hóa thạch trong ngành năng lượng, lồng ghép vào Quy hoạch điện VIII và Quy
hoạch tổng thể phát triển năng lượng quốc gia; dự thảo cơ chế xác định giá bán điện gió
và điện mặt trời thực hiện theo cơ chế thị trường.
- Đối với nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng và ban hành
Kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính (bao gồm khí methanol) ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050; Kế hoạch triển khai Tuyên bố
Glasgow về rừng và sử dụng đất; rà soát các dự án trao đổi tín chỉ carbon rừng thực hiện
các sáng kiến đã tham gia tại COP26.
- Bộ Xây dựng đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị triển khai cam kết tại COP26 và
Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh; xây dựng quy định chi tiết về kiểm kê khí nhà
kính và đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) lĩnh vực xây dựng; triển khai nghiên cứu, đề
xuất lộ trình phát triển hạ tầng đô thị xanh.
Bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, Việt Nam cũng đang tiếp tục nỗ lực hồi
phục nền kinh tế trước những biến động khôn lường của thế giới, của ngoại cảnh. Năm
2022, nền kinh tế Việt Nam đứng trước rất nhiều khó khăn khi đứng trước bối cảnh kinh
tế thế giới phức tạp: cạnh tranh chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn, xung đột quân
sự giữa Nga và Ukraine, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,....Để vượt qua những thách
thức đó, Đảng và chính phủ đã có rất nhiều chính sách phù hợp khi chỉ đạo Bộ, ngành, địa
phương triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị

13
quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi, phát triển kinh
tế - xã hội. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, lạm phát được giữ trong tầm kiểm
soát, các cán cân lớn được đảm bảo, chính sách tiền tệ, tài khóa được điều hành chủ động,
linh hoạt, hiệu quả.
 Văn hóa
Phát triển văn hóa luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của đất nước
bởi văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo vệ những giá trị truyền thống, nhân văn của đất
nước, là điểm tạo nên sự khác biệt của Việt Nam so với các quốc gia trên thế giới. Đảng
đã có rất nhiều những chính sách, pháp luật được ban hành nhằm đáp ứng nhu cầu của
người dân và yêu cầu thực tiễn trong phát triển bền vững đất nước.
- Quốc hội đã ban hành các đạo luật như Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Di sản văn hóa; Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Xuất bản; Luật Báo chí; Luật Điện ảnh; Luật Quảng cáo; Luật
Du lịch,....
- Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa; nhiều chương
trình mục tiêu quốc gia, chiến lược phát triển văn hóa trên từng lĩnh vực của văn hóa được
thông qua, như Chương trình mục tiêu bảo tồn và tôn tạo di tích thắng cảnh, Chương trình
mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở,...
- Nhiều chính sách về đầu tư, hỗ trợ nguồn lực trong việc kiểm kê, sưu tầm, bảo quản và
trùng tu hệ thống di sản văn hóa: Đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam đến năm 2020; Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di
sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 -
2020; Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012 - 2015; Chương trình
mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016 - 2020,.....
- Nỗ lực phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng văn hóa và phát triển con người
toàn diện: Chỉ thị số 06-CT/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
xây dựng gia đình trong tình hình mới”, quyết định số 629/QD-TTg của Thủ tướng Chính
phủ “Về Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030”.
 Xã hội
Từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới khi mức thu nhập bình quân đầu
người chỉ khoảng 100 USD những năm 1990 đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu
người đạt gần 3900 USD, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong quá trình phát
triển xã hội, đời sống nhân trên khắp các vùng miền, mọi thành phần dân tộc đều được cải
thiện, ấm no, hạnh phúc. Để đạt được điều này, công lớn phải kể đến những chính sách
hợp lý, đúng đắn của Đảng và nhà nước về phát triển xã hội.

14
Nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng được ban hành nhằm cụ thể hóa các chủ
trương, quan điểm của Đảng về chính sách xã hội:
- Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội
- Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa bổ sung thêm quan điểm coi việc tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động là nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị
trường
- Nghị quyết 28-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban
hành yêu cầu thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm
xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân, bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã
hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền
lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia
sẻ.
- Đặc biệt, Đảng luôn chú trọng đẩy nhanh phát triển mọi mặt đối với vùng dân tộc thiểu
số và miền núi, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển so với mặt bằng chung của cả
nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, từng bước nâng cao đời sống
phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh. Một vài nghị quyết, chính sách
được đưa ra bao gồm:
- Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát
triển kinh tế-xã hội (KT-XH) miền núi.
- Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã thể chế hóa Nghị quyết của Đảng thành
Quyết định số 72-HĐBT, ngày 13/3/1990 về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát
triển KT-XH miền núi.
- Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển
KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030
- Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu
tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và
miền núi giai đoạn 2021-2030
- Quyết định số 219/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hỗ trợ thông tin tuyên truyền về dân tộc,
tôn giáo, với mục đích đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về dân tộc và truyền thống lịch
sử, bản sắc văn hóa dân tộc, các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

15
Nhà nước về dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, những giá trị của tôn giáo đối với đời sống xã
hội, góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.

3. Những thành tựu Việt Nam đạt được trong công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh
Những cố gắng không ngừng trong việc thực hiện những đường lối, chính sách quả
quyết, linh hoạt, sáng tạo đã đem lại những trái ngọt cho Việt Nam trên mọi lĩnh vực.
 Về kinh tế:
Từ một đất nước có nền kinh tế lạc hậu, dựa trên nông nghiệp là chính, sang nền kinh
tế đa dạng, có tỷ trọng công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng lớn và cân đối trong
tổng thể nền kinh tế quốc dân.
- Quy mô nền kinh tế đạt trên gần 400 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người hơn 3.700
USD năm 2021.
- Quy mô thương mại đạt 670 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương
mại quốc tế.
- Năm 2022 - năm bùng phát đại dịch Covid -19, đã thực hiện thắng lợi, khá toàn diện
mục tiêu, nhiệm vụ vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục
hồi và phát triển kinh tế-xã hội: kinh tế vĩ mô duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát,
chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng tăng 2,89%. Tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 8,83%;
ước cả năm đạt khoảng 8%. Các cân đối lớn được bảo đảm.
Trong năm 2023, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có thêm nhiều điểm sáng:
- Giữ đà tăng trưởng ổn định: Tăng trưởng GDP cả năm là khoảng 5% - một nỗ lực lớn
trong bối cảnh tình hình chung toàn cầu rất khó khăn giúp nước ta vẫn thuộc nhóm tăng
trưởng cao trong khu vực và thế giới. Fitch Ratings đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia
dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng “Ổn định”. Giá trị
thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 431 tỷ USD, tăng 1 bậc lên thứ 32/100 thương hiệu
quốc gia mạnh trên thế giới.
- Xuất khẩu nông sản trở thành điểm sáng: Trong bối cảnh thị trường gặp nhiều khó khăn,
xuất khẩu nông sản đã trở thành điểm sáng đáng ghi nhận khi giá trị kim ngạch năm 2023
đạt trên 53 tỷ USD. Nổi bật nhất là sự bứt phá mạnh mẽ của những mặt hàng thế mạnh là
gạo và rau quả. Với mặt hàng gạo, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tính đến
hết nửa đầu tháng 12/2023, Việt Nam đã xuất khẩu được hơn 7,9 triệu tấn gạo, trị giá hơn
4,5 tỷ USD, tăng 11% về lượng và 29% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Với mặt hàng

16
rau quả, xuất khẩu năm 2023 đạt tới 5,6 tỷ USD, là mức kỷ lục của ngành hàng này từ
trước tới nay. Kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 2023 bứt phá mạnh mẽ, vượt 40% kế
hoạch đầu năm và tăng gần 66% so với cùng kỳ năm 2022.
- Giữ vững mức tăng thu hút FDI: thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn giữ vững với mức
tăng 32,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt hơn 36,61 tỷ USD, là năm cao thứ ba trong giai
đoạn từ 2008 đến nay. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 23,18
tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2022, là mức giải ngân kỷ lục từ trước tới nay trong bối
cảnh thương mại đầu tư toàn cầu bị thu hẹp. Xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam
cũng tăng 12 bậc trên toàn cầu.
- Thúc đẩy những ngành, lĩnh vực mới: Năm 2023 ghi những dấu ấn mới trong cơ cấu lại
nền kinh tế, phát triển những ngành, lĩnh vực mới nổi, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi
mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế
tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ. Năm 2023 cũng đánh dấu bước nhảy vọt của
Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn với hàng loạt thỏa thuận, dự án hợp tác phát triển với
các đối tác hàng đầu, những tập đoàn, doanh nghiệp khổng lồ trên thế giới.
- Việt Nam triển khai quyết liệt các chương trình hành động ứng phó với biến đổi khí hậu,
giảm phát thải, chuyển đổi năng lượng theo tuyên bố chính trị về chuyển dịch năng lượng
công bằng (JETP), lần đầu tiên bán tín chỉ carbon và phát hành trái phiếu xanh, thể hiện
trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
 Về văn hóa:
Tính đến cuối năm 2020, Việt Nam có:
- 28 di sản văn hóa được UNESCO ghi danh, trong đó có 8 di sản văn hóa và thiên nhiên,
13 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và di sản văn hóa phi vật thể cần bảo
vệ khẩn cấp, 7 di sản tư liệu
- 3.560 di tích được xếp hạng cấp quốc gia (119 di tích cấp quốc gia đặc biệt)
- 215 bảo vật quốc gia
- 364 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia
- 166 bảo tàng, trong đó có 4 bảo tàng quốc gia với hơn 3 triệu hiện vật.
Đây là nguồn tài nguyên quý giá, nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội và
gia tăng sức mạnh mềm của Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển.
 Về xã hội
Chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào nỗ lực phát triển vượt bậc con người
Việt Nam:

17
- Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,703 vào năm 2021, tăng
hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia
- Được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo, từ chỗ hơn 60% dân số
nghèo đói (1990) đến năm 2022 tỉ lệ hộ nghèo chỉ còn 2,23%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo đa
chiều giảm khoảng 1,2%; Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm; tỷ lệ hộ
nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4- 5%/năm
- Chính sách bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Đến
hết năm 2022 có 17,5 triệu người tham gia, chiếm tỷ lệ 38,08% lao động trong độ tuổi
tham gia bảo hiểm xã hội. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ 8,27 triệu
người năm 2012 lên gần 14,3 triệu người năm 2022, chiếm 31,18% lực lượng lao động
trong độ tuổi
- Về giáo dục, đã hoàn thành trước thời hạn phổ cập giáo dục từ cấp mầm non đến trung
học cơ sở; 95% người lớn biết đọc, biết viết; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng
chỉ đạt 26,1%.
- Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 75,7 tuổi năm 2022.
- Đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện, thu nhập bình quân của người lao động
tăng 6,8%; trên 94% số hộ gia đình đánh giá có thu nhập ổn định hoặc cao hơn cùng kỳ
năm 2022
- Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới vào tháng 3/2023 của Liên hợp quốc, Chỉ số hạnh
phúc của Việt Nam tăng 12 bậc, từ vị trí 77 lên vị trí 65 trong bảng xếp hạng toàn cầu.
- Các chính sách phát triển đời sống của dân tộc vùng thiểu số đã gặt hái được một số
thành công. Hiện nay, toàn quốc có 316 trường Phổ thông Dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành
phố với trên 109.000 học sinh; các chính sách hỗ trợ đào tạo, dạy nghề cho người DTTS
được tích cực triển khai thực hiện. Giai đoạn 2016-2020, có trên 800 nghìn người DTTS
được đào tạo nghề nghiệp, trong đó có khoảng 412 nghìn lao động nông thôn là người
DTTS được hỗ trợ đào tạo dưới 3 tháng theo chính sách của Đề án 1956/QĐ-TTg.

4. Những định hướng tương lai của Đảng trong công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào xây dựng đất nước hiện nay.
Để đất nước ngày càng phát triển vững mạnh hơn, qua mỗi thời kỳ, Đảng và nhà nước
lại đặt ra những kế hoạch, mục tiêu và đường lối phát triển cho quốc gia không chỉ trong 5
năm, 10 năm mà còn có tầm nhìn rộng hơn đến giữa thế kỷ này nhằm phấn đấu đưa Việt
Nam trở thành nước phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa. Tầm nhìn mới, tư duy mới
của Đảng được thể hiện rõ nét qua việc xác định, đặt ra các mục tiêu tổng quát và cụ thể:

18
 Về mục tiêu tổng quát (thông qua tại đại hội XIII):
- Năm 2025 - kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, Việt Nam là nước đang
phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Năm 2030 - kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển, có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở
thành nước phát triển, thu nhập cao.
 Về mục tiêu cụ thể:
- Về kinh tế: Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng
7.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp
- xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Thực hiện chuyển đổi số
quốc gia, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30%
GDP. Cơ bản hình thành mạng lưới đô thị quốc gia, đảm bảo tính kết nối cao giữa đô thị
trung tâm cấp quốc gia với các đô thị vùng và khu vực nông thôn; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên
50%.
- Về xã hội: Quy mô dân số đến năm 2030 đạt khoảng 105 triệu người. Chỉ số phát triển
con người (HDI) duy trì trên 0,7. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi. Phát triển nền giáo dục
Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; thuộc nhóm 10 quốc gia có hệ thống giáo
dục đại học tốt nhất châu Á. Tỷ lệ sinh viên đại học đạt 260 trên 1 vạn dân. Tỷ lệ lao động
qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%.
- Về môi trường: giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42 - 43%; nâng cao chất lượng
rừng, tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái tự
nhiên quan trọng, nâng cao chất lượng đa dạng sinh học; diện tích các khu bảo tồn biển,
ven biển đạt 3 - 5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; diện tích các khu bảo tồn thiên
nhiên trên cạn đạt 3 triệu ha. Tỷ lệ xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường trước khi xả thải vào lưu vực các sông đạt trên 70%. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt
đô thị được thu gom, xử lý theo quy định đạt 95%. Cường độ phát thải khí nhà kính trên
GDP giảm ít nhất 15% so với năm 2014.
- Về quốc phòng, an ninh: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với
củng cố quốc phòng, an ninh; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội.

IV.Vai trò và trách nhiệm của thế hệ trẻ

19
1. Về vai trò
Thứ nhất, thế hệ trẻ là lực lượng nòng cốt, xung kích trong thực hiện các nhiệm vụ
phát triển đất nước, góp phần củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
Mặt trận dân tộc thống nhất. Bởi vì, thế hệ trẻ có sức trẻ, nhiệt huyết, tinh thần cởi mở, dễ
tiếp thu cái mới, hơn nữa họ có trình độ học vấn cao, có khả năng tiếp cận thông tin, kiến
thức mới một cách nhanh chóng. Đây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển
của đất nước và đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, thế hệ trẻ là truyền nhân phát huy truyền thống tốt đẹp. Thế hệ trẻ cần tiếp
bước cha ông, học hỏi và gìn giữ những giá trị tốt đẹp của dân tộc, trong đó có truyền
thống đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Đầu tiên, thế hệ trẻ cần có
ý thức bảo vệ, giữ gìn những giá trị truyền thống, không để mai một theo thời gian. Sau
đó, thế hệ trẻ cần sáng tạo, phát huy những giá trị truyền thống sẵn có để phù hợp với điều
kiện mới, góp phần xây dựng đất nước phát triển.
Thứ ba, những người trẻ là cầu nối giữa các thế hệ. Thế hệ trẻ là cầu nối giữa quá khứ,
hiện tại và tương lai, góp phần gắn kết các thế hệ trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc và
Mặt trận dân tộc thống nhất. Thế hệ trẻ cần học hỏi kinh nghiệm, cần chia sẻ kiến thức, kỹ
năng với thế hệ đi trước để thu hẹp khoảng cách thế hệ. Qua đó, gắn kết các thế hệ trong
cộng đồng, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn.
Thứ tư, thế hệ trẻ là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo, góp phần đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững. Thế hệ trẻ có trí tuệ, năng động, sáng tạo, dám nghĩ
dám làm. Do đó, họ có khả năng tiếp cận công nghệ mới nhanh chóng, dễ dàng và ứng
dụng công nghệ vào các lĩnh vực đời sống, sản xuất, kinh doanh. Hơn nữa, người trẻ cũng
có thể truyền cảm hứng cho cộng đồng bằng những ý tưởng sáng tạo, những dự án khởi
nghiệp thành công.

2. Về trách nhiệm,
Trước hết, thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước cần nâng cao nhận thức
của bản thân. Để làm được điều đó, thế hệ trẻ cần hiểu rõ tầm quan trọng của đại đoàn kết
toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước. Thêm vào đó, những người trẻ cần nâng cao ý thức giữ gìn và phát huy
truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc và nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc
thống nhất.

20
Tiếp theo đó, thế hệ trẻ cần rèn luyện đạo đức, lối sống. Ví dụ như, người trẻ nên rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống văn minh, phù hợp với truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc. Họ cũng nên tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào thanh
niên do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động. Những chủ nhân tương lai
cần phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chống lại các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu; phát
huy tinh thần sáng tạo, khởi nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội; có ý thức bảo vệ
môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; đặc biệt là tham gia bảo vệ Tổ quốc khi có yêu
cầu.
Với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước, thế hệ trẻ nên tham gia các hoạt động
của Mặt trận dân tộc thống nhất. Thế hệ trẻ nên tham gia các hoạt động của Mặt trận dân
tộc thống nhất ở địa phương và tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như tham gia
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
Thêm vào đó, thế hệ trẻ cần góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những
điều mà người trẻ có thể làm như tích cực tuyên truyền, giáo dục về tầm quan trọng của
đại đoàn kết toàn dân tộc; giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân
bằng tinh thần đoàn kết, hòa hợp; giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, yếu thế;
và chung tay xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Cuối cùng thế hệ trẻ là những tấm gương trong thực hiện đại đoàn kết. Mỗi thanh niên
cần gương mẫu trong thực hiện đại đoàn kết trong gia đình, nhà trường, cơ quan, xí
nghiệp và địa phương. Luôn giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ thanh niên và
tăng cường giao lưu, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

21
LỜI KẾT

Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về khối Đại đoàn kết
dân tộc là một di sản tinh thần vô cùng quí báu của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng đoàn kết
của Người là mẫu mực trong việc vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về
đoàn kết từ thực tiễn cách mạng nước ta. Tư duy của Người không chỉ là sự kết hợp của
sự linh hoạt và hiệu quả tổ chức mà còn là sự thấu hiểu sâu sắc về bản chất của quốc gia,
của dân tộc, và cả của cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Đại đoàn
kết dân tộc trở thành chiến lược cách mạng, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của tiến trình
cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh, làm nên mọi thắng lợi của Cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra một mô hình tổ chức linh hoạt và độc lập, phản ánh sự
đa dạng và tính cụ thể của dân tộc Việt Nam. Người đã thực hiện nguyên tắc căn bản của
tổ chức dân tộc thống nhất bằng cách kết hợp các lực lượng và tầng lớp xã hội khác nhau
vào một mục tiêu chung: giải phóng dân tộc. Mặt trận Tổ quốc là phương thức hiện thực
hóa lý luận đoàn kết của Bác. Đoàn kết trong Mặt trận trong các thời kỳ khác nhau là
nguyên nhân quyết định mọi thắng lợi trong thời kỳ giành độc lập cũng như xây dựng
Chủ nghĩa xã hội.
Mặt trận dân tộc thống nhất đã chứng minh được vai trò quan trọng của mình, không
chỉ là một mũi nhọn chiến lược trong cuộc chiến mà còn là một nguồn động viên, sức
mạnh tinh thần cho toàn bộ quân và dân. Trong bối cảnh hiện nay, tuy chiến tranh đã kết
thúc nhưng tư tưởng và nguyên tắc của Hồ Chí Minh về tổ chức và hoạt động của Mặt
trận dân tộc thống nhất vẫn còn rất quan trọng. Đó không chỉ là để duy trì sự đoàn kết
toàn dân tộc mà còn để phát triển và xây dựng đất nước vững mạnh, hòa bình và phát
triển. Việc tiếp tục áp dụng những nguyên tắc và tư tưởng này trong việc xây dựng và
phát triển đất nước là sự tiếp nối tinh thần của những con người đã hy sinh trong cuộc

22
chiến tranh giành độc lập và tự do, cũng như là sự bảo tồn và phát triển những giá trị văn
hóa, truyền thống của dân tộc Việt Nam
Trong mỗi trái tim của những người con đất Việt dù ở trong hay ngoài nước, họ luôn
luôn ý thức và tiềm ẩn tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển
đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, xây dựng khối Đại
đoàn kết dân tộc theo tư tưởng của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân
tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân
trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản lãnh đạo,
phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh
nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong
sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.

23

You might also like