Professional Documents
Culture Documents
Nhân Học Đại Cương
Nhân Học Đại Cương
CÂU 1: Định nghĩa, đối tượng nghiên cứu và phân ngành của nhân học
1. Định nghĩa:
Nhân học là một ngành khoa học nghiên cứu một cách toàn diện về con người
Về mặt thuật ngữ: Thuật ngữ Nhân học (Anthropology) – bắt nguồn từ từ
“anthropo” (trong tiếng Hi Lạp có nghĩa là loài người) & “logia” (“tri thức về”,
“nghiên cứu về” cái gì đó)
Nhân học là ngành học về loài người và tổ tiên trực tiếp của loài người
Trong nghiên cứu nhân học, điền dã dân tộc học là một phần quan trọng và bắt buộc
Điền dã: là khoảng thời gian các nhà nhân học ở trên thực địa, tham gia vào cộng đồng
được nghiên cứu, sử dụng một chuỗi các phương pháp nghiên cứu để thu thập tài liệu vốn
liên quan mật thiết tới tính chân xác, độ tin cậy, đạo đức nghề nghiệp trong việc tìm hiểu
về các vấn đề nhà nhân học muốn khám phá.
Tuy nhiên, không phải ngay từ buổi sơ khai của ngành học các nhà nhân học đã quan tâm
đến điền dã dân tộc học trong các công trình nghiên cứu của họ.
- Chỉ từ đầu thế kỷ XX, trong nỗ lực phê bình các nhà tiến hóa luận đơn tuyến thế kỷ
XIX, Bronislaw Manislowski ở nước Anh và Franz Boas ở nước Mỹ cực lực phê phán
kiểu nghiên cứu ghế bành, dựa vào tài liệu thứ cấp và cho rằng nghiên cứu nhân học
phải dựa trên nền tảng điền dã dân tộc học trong một thời gian dài.
- Nghiên cứu của Franz Boas và đặc biệt là của Bronislaw Malinowski đã sản sinh ra
điền đã dân tộc học và làm cho điền dã dân tộc học trở thành một phần quan trọng
trong nghiên cứu nhân học.
Điểm nổi bật trong các tiếp cận của các nhà nhân học là họ nhấn mạnh đến các khảo sát
chi tiết trên những địa bàn có giới hạn, hay nghiên cứu vấn đề lớn trên địa bàn nhỏ với
thời gian điền dã dài hạn
Nghiên cứu nhân học mang tính thực nghiệm cao
Thông qua điền dã dân tộc học, nhà nhân học thu được tài liệu nghiên cứu của mình gọi
là tài liệu dân tộc học. Đây không phải những tài liệu có sẵn trong các trung tâm lưu trữ
mà là do nhà nhân học tự tạo cho mình nhờ quá trình điền dã
Trong quá trình điền dã, nhà nhân học sử dụng một loạt các phương pháp định tính và
định lượng để thu thập tài liệu. Cụ thể, có các phương pháp sau:
2. Phỏng vấn
- Phỏng vấn bán cấu trúc: là các cuộc nói chuyện dưới dạng hội thoại giữa nhà nghiên
cứu và người cung cấp thông tin. Mục đích là giúp cho nhafnnhaan học thu thập được
các nguồn tài liệu về những vấn đề cần nghiên cứu. Để mang lại hiệu quả nên chuẩn
bị các câu hỏi về vấn đề đang tìm hiểu, tuy nhiên không nên mang bảng câu hỏi ra để
hỏi người cung cấp thông tin
- Phỏng vấn có cấu trúc: hay còn gọi là “bảng hỏi” là một dạng phỏng vấn có cấu trúc,
nghĩa là hỏi những câu giống nhau đối với tất cả mọi người. Bảng hỏi thường được
tiến hành ở giai đoạn giữa hoặc sau của nghiên cứu điền dã. Để thực hiện loại phỏng
vấn này nhà nhân học phải cộng tác chặt ché với người cung cấp thông tin. Nếu cộng
đồng nghiên cứu đông thì nhà nhân học phải chọn một số lượng nhất định để điều tra
theo cách chọn mẫu ngẫu nhiên
- Bảng hỏi: bảng hỏi tốt là bảng hỏi được hình thành trực tiếp từ những hiểu biết trên
cơ sở điền dã dân tộc học về cộng đồng khảo sát
Nên được thiết kế sau khi đã tiến hành điền dã dân tộc học ở cộng đồng nghiên
cứu, nghĩa là đã có những hiểu biết cần thiết về cộng đồng, về con người và vấn
đề cần khảo sát bằng bảng hỏi
Bảng hỏi có cấu trúc chỉ có ích khi nó nắm bắt được thực tiễn của con người được
nghiên cứu
Các bước xd bảng hỏi: thu thập tài liệu định tính liên quan đến đề tài nghiên cứu -
> phân tích tài liệu định tính và sử dụng và sử dụng tài liệu này để xd bảng hỏi
Lợi thế: tất cả mọi người được hỏi đều phải trả lời những câu hỏi giống nhau
khiến nhà nghiên cứu có thể so sánh giữa các nhóm và các địa bàn
Đặt dưới dạng đúng hay sai để đánh giá các giá trị và niềm tin văn hóa, hoặc có
thể bao gồm các câu hỏi liên quan đến xếp hạng theo cấp độ hoặc dưới những
dạng khác
Câu hỏi có thể được chỉnh sửa cho phù hợp với độ tuổi, giới tính, tộc người, ngôn
ngữ, cho dù chúng đều đề cập đến một khối thông tin giống nhau
1. Khái niệm
Từ chủng tộc có nguồn gốc từ tiếng La tinh “ratio”, có nghĩa tương tự như loài, hay
loại hoặc thứ.
Chủng tộc là một khái niệm được các nhà nhân học sử dụng để ám chỉ một nhóm người
có các đặc điểm sinh học khác các nhóm người khác. Cho đến nay, có khá nhiều định
nghĩa khác nhau về chủng tộc. Trước đây, quan niệm về chủng tộc chỉ đơn thuần là
một tập hợp các cá thể cùng loài có chung một hình thái. Từ những năm 1970, các học
giả Liên Xô cũ cho rằng yếu tố địa lí có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành
chủng tộc và dẫn đến thuyết địa lí chủng tộc. Đồng thời các nhà nghiên cứu cũng phát
hiện ra các yếu tố sinh học trong việc hình thành chủng tộc.
Với các kết quả nghiên cứu đó, một quan niệm hay định nghĩa về chủng tộc được nhiều
người chấp nhận là: Chủng tộc là một tập hợp các quần thể hay các quần thể mà ta
quen gọi là các nhóm người có những nét tương đồng về sinh lý, hình thể bên ngoài và
quá trình hình thành các yếu tố này có liên quan đến một khu vực địa lý nhất định.
Những đặc điểm hình thể mang tính di truyền.
- Đại chủng Mongoloist, cư trú ở Đông Á, Đông Nam Á, Trung Á, Siberia và châu Mỹ, đặc
điểm nhân chủng:
2. Các tiêu chí xác định tộc người trên thế giới:
(6 tiêu chí)
Lãnh thổ
Đặc trưng sinh hoạt văn hóa
Tâm lý tộc người
Cơ sở kinh tế
Tên gọi
Ngôn ngữ
Lưu ý, chúng ta không sử dụng tiêu chí lãnh thổ và kinh tế vì đặc điểm hình thành và phát
triển xã hội của Việt Nam có nhiều điểm đặc biệt. Ví dụ như có sự tương đồng giữa nền tảng
kinh tế là nông nghiệp, hay các tộc người sống xen kẽ nhau trong một khu vực dẫn đến khó
tách bạch hoàn toàn.
CÂU 5: Khái niệm “ngôn ngữ”, nguồn gốc và sự phát triển của ngôn ngữ
1. Khái niệm:
Ngôn ngữ được biết đến là một trong những phát minh lớn nhất của loài người. Là một
hệ thống liên lạc phức tạp và linh hoạt
Vai trò: Nền văn hóa nhân loại khó có thể chuyển tải từ thế hệ trước sang thế hệ sau
nếu không có ngôn ngữ đóng vai trò như một phương tiện truyền dẫn các tín hiệu, niềm
tin, ý tưởng, sáng tạo hay các phát hiện mới
Nghiên cứu về ngôn ngữ đã xuất hiện từ lâu trong nhân học và giờ đây đã trở thành
một trong năm lĩnh vực nghiên cứu chính của nhân học
Hai định nghĩa về ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ là hệ thống các biểu tượng với ý nghĩa chuẩn để các thành viên của một xã
hội liên lạc với nhau
- Ngôn ngữ là một hệ thống liên lạc của con người bao gồm các âm thanh, từ vị, ngữ
pháp được kết hợp lại thành câu. Ngôn ngữ là một phần của văn hóa, ra đời do yêu
cầu liên lạc với nhau trong quá trình lao động và cuộc sống
Ngôn ngữ tồn tại trước khi một cá nhân sinh ra và được các thành viên của xã hội chia
sẻ. Như vây, như một phần của văn hóa, ngôn ngữ vượt qua cá nhân. Các thành viên
của một xã hội học ngôn ngữ thông qua quá trình tiếp biến văn hóa. Nếu không có
ngôn ngữ, con người không thể có được tính nhân văn độc đáo của mình
Khi các nhà ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ, họ thường đề cập đến các ngôn ngữ nói.
Nhưng ngôn ngữ nói chỉ là một hình thức liên lạc. Một trong các vấn đề nhà nhân học
quan tâm là các hệ thống liên lạc của động vật khác với hệ thống liên lạc của con người
như thế nào. Ngoài ngôn ngữ nói, con người con liên lạc với nhau bằng các cử chỉ và
các tín hiệu phi âm thanh.
1. Nguồn gốc:
Có hai câu hỏi được đặt ra. Một là “Ngôn ngữ có nguồn gốc từ đâu và nó phát triển
như thế nào?”. Hai là “Vì ngôn ngữ là một phần của văn hóa, vậy văn hóa có trước hay
ngôn ngữ có trước và chúng ảnh hưởng đến nhau như thế nào?”. Qua nhiều thế kỷ, các
nhà triết học, ngôn ngữ học và nhà nhân học hình thể đã đưa ra nhiều giả thuyết để lý
giải về nguồn gốc của ngôn ngữ:
(1) Một lý thuyết ban đầu, được gọi là “bow-wow” cho rằng ngôn ngữ của con người
phát triển khi con người bắt chước các âm thanh của tự nhiên như tiếng nước chảy,
tiếng chó sủa, tiếng gió kêu, lợn kêu…trong cuộc sống tự nhiên. Trên cơ sở đó, ngôn
ngữ của con người phát triển.
(2) Một quan điểm khác của các nhà tư tưởng phương Tây thế kỷ 18 giả định rằng
ngôn ngữ ra đời do con người thỏa thuận với nhau.
(3) Quan điểm thứ 3 của Cơ Đốc giáo cho rằng Chúa tạo ra ngôn ngữ như đã tạo ra con
người
(4) Quan điểm thứ 4 của các nhà khoa học Marxist:
- Lao động là nhân tố đã biến vượn thành người. Chính lao động và sự phát triển của
não, của tư duy con người, đã làm sản sinh ra ngôn ngữ
- Tuy nhiên, ngay từ đầu, ngôn ngữ chưa phải đa hoàn thiện và phức tạp như hôm nay,
mà nó đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài cùng với quá trình lao động và sự
hoàn thiện về hình thể, tư duy của con người để phát triển như hiện nay.
- Như vậy, ngôn ngữ là một phạm trù của lịch sử chứ không phải tự nhiên. Nghĩa là
ngôn ngữ ra đời và phát triển được như đến hôm nay là do một quá trình chuyển đổi
lâu dài chứ không phải tự nhiên mà có
- Như vậy, ngôn ngữ và tộc người không đồng nhất với nhau. Một tộc người có thể có
hơn một ngôn ngữ. Ngược lại, có thể có nhiều tộc người hay chủng tộc dùng chung
một ngôn ngữ
- Ngôn ngữ ra đời là sản phẩm của tập thể, của cộng đồng hay xã hội chứ không phải
sản phẩm của một cá nhân con người. Thường thì cá nhân là người phải tuân thủ ngôn
ngữ của cộng đồng mình vì đó là tiếng nói của cộng đồng để giao tiếp với nhau-gọi là
ngôn ngữ tộc người
- Ngôn ngứ không dễ bị mất đi bởi tác động của một thể chế chính trị hay ý muốn chủ
quan của một cá nhân nào
(5) Cách lý giải 5 thông qua phân tích sinh học của ngôn ngữ (Biology of language
- Sự phát triển của các chức năng của bộ óc người có liên quan đến ngôn ngữ
- Bộ óc tập trung hàng triệu nơ-ron thần kinh cần thiết cho việc nhận, chứa đựng và xử
lý thông tin
- Bộ óc người và tiếng nói:
+ bán cầu não trái kiểm soát khả năng ngôn ngữ, bán cầu não phải liên quan đến
định hướng không gian, ước lượng…
+ bán cầu não trái: khu vực Broca- việc sản xuất âm, phát âm và các khả năng ngữ
pháp, khu vực Wernicke-việc hiểu ý nghĩa của ngôn từ, câu và có vị trí quan trọng
đối với việc đọc và nghe
- Cấu trúc hình thể: cấu trúc hoàn chỉnh của hình thể, đặc biệt là của hệ thống các cơ
quan âm thanh như khoang miệng, họng, lưỡi, môi, răng… của con người là nhân tố
tạo nên khả năng ngôn ngữ
1. Sự phát triển:
Theo thời gian, ngôn ngữ biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau. Một ngôn ngữ có
thể được phát triển rộng ra, mất đi hoặc chia thành các nhóm ngôn ngữ nhỏ
Biến đổi trong ngôn ngữ còn gồm có các biến đổi về từ vựng, ý nghĩa, âm thanh, ngữ
pháp
Ngôn ngữ thường biến đổi song không biến đổi giống kiếu một cuộc cách mạng:
- Ngôn ngữ biến đổi nhanh ở các xã hội hiện đại có tình độ công nghệ cao
- Sự biến đổi của ngôn ngữ do nhiều yếu tố và quy luật xã hội tác động. Trong quá
trình biến đổi, ngôn ngữ dễ vay mượn hoặc hình thnahf các từ mới, các khái niệm mới
- Trong khi biến đổi, từ vựng thường biến đổi nhanh hơn để theo kịp các biến đổi trong
đời sống con người. Ngữ pháp và cách phát âm cũng biến đổi, song biến đổi chậm
hơn
- Biến đổi trong ngôn ngữ phản ánh các điều chỉnh trong cuộc sống hàng ngày của các
thành viên trong xã hội. Các xã hội phức tạp có ngôn ngữ nói với số lượng từ vựng
nhiều. Cùng với đó sự phức tạp trong từ vựng và ngữ pháp cũng nhiều hơn ở các xã
hội đơn giản hay nguyên thủy
Ngôn ngữ liên quan đến việc sử dụng từ để giao tiếp, liên lạc với nhau
Chữ viết chỉ liên quan đến các ký tự được sử dụng để diễn đạt các từ của một ngôn
ngữ dưới dạng có thể nhìn thấy được
- Con người có khả năng ghi chép lại các từ ngữ và âm thanh một cách có hiệu quả từ
khoảng 6k năm cách ngày nay
- Chữ viết trước tiên ra đời dưới dạng ký tự tượng hình. Sau đó mới phát triển thnahf
các loại chữ hiện đại hơn được cấu trúc theo các quy định khác nhau
Ngôn ngữ là một phần của văn hóa, mà ngôn ngữ lại thường xuyên biến đổi, cho nên ta
có ít nhất một bằng chứng để nói rằng văn hóa không bao giờ đứng yên, mag nó biến
đổi theo cuộc sống con người và theo ngôn ngữ
- Đối với các nhà nhân học, không thể nghiên cứu ngôn ngữ một cách tách biệt khỏi
văn hóa. Quan điểm này nhấn mạnh đến việc nghiên cứu ngôn ngữ trong một bối
cảnh văn hóa, xã hội cụ thể
Thực tế cuộc thỏa luận về các ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với văn hóa hay ngược lại,
đã diễn ra nhiều thập kỷ:
- Benjamin L. Whorf cho rằng một ngôn ngữ buộc người nói ngôn ngữ đó nhận thức
về thế giới theo một cách riêng
- Giả thuyết Sapir-Whorf cho rằng ngôn ngữ tạo nên nhận thức của chúng ta về thực
tiễn
- Ludwig Wittgenstein cho rằng giới hạn về ngôn ngữ quyết định giới hạn về một thế
giới của một cá nhân
- Ngoài ra ngôn ngữ còn có mối quan hệ tới lịch sử dân tộc, tộc người
- Các ngôn ngữ phát triển rất đa dạng và được phân chia thành các ngữ hệ. Ngữ hệ là
một nhóm các ngôn ngữ có cùng một nguồn gốc. Chúng có chung một hệ thống ký
hiệu, quy tắc ngữ pháp. Chúng chỉ khác nhau về từ vựng và cách phát âm. Nguyên
nhân hình thành các ngữ hệ được cho là do chia tách bộ lạc hoặc thiên di. Hiện nay
trên thế giới có nhiều ngữ hệ khác nhau. Ở VN có 4 ngữ hệ gồm Nam Á, Thái, Nam
Đảo và Tạng-Miến
CÂU 6: Phân biệt giới và giới tính, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của giới
1. Định nghĩa
Là các mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên cơ sở huyết thống và hôn
nhân. Nghĩa là, quan hệ thân tộc có hai loại, một loại được thiết lập trên cơ sở hôn
nhân và một loại được thiết lập trên cơ sở huyết thống.
Trong các xã hội khác nhau, mối quan hệ thân tộc có vai trò không giống nhau
trong việc tạo nên cơ sở cho các cấu trúc xã hội, kinh tế và chính trị
Dù cho vai trò chính thống của thân tộc khác nhau trong các xã hội khác nhau,
các mối quan hệ thân tộc nhìn chung bao hàm ý tưởng về các quyền lợi và bổn
phận giữa những người có quan hệ thân tộc với nhau
Nó còn bao hàm các ý tưởng văn hóa về việc con người được sinh ra như thế nào, ý
nghĩa và bản chất của các mối quan hệ của một người với những người khác trong
xã hội
Bên cạnh khái niệm thân tộc còn có hàng loạt các thuật ngữ về thân tộc mà
chúng ta cần chú ý, như: Dòng tộc, cư trú, hôn nhân, gia đình
2. Chức năng cơ bản của thân tộc
Mục tiêu:
Dù các quan hệ thân tộc cụ thể khác nhau, mục tiêu của thân tộc hầu như giống nhau
trên toàn thế giới
Khái niệm:
Thân tộc là một kết qủa của các mối quan hệ huyết thống và hôn nhân phức tạp của
mỗi xã hội và các truyền thống quy định cách ứng xử của con người với nhau trong
một xã hội
2 cách phân tích chức năng thân tộc:
Cách thứ nhất xác định 3 chức năng chính đối với các thành viên trong một xã hội.
o Chức năng thứ nhất là các hệ thân tộc có chức năng tập hợp con người trong xã
hội lại thành các nhóm, gọi là các nhóm thân tộc hay chính xác hơn là các tổ
chức thân tộc
o Chức năng thứ hai của thân tộc là chức năng điều chỉnh ứng xử của các thành
viên trong xã hội. Vì mỗi cá nhân trong xã hội đều phải ứng xử phù hợp với vai
trò của mình trong xã hội và đặc biệt là trong một tổ chức thân tộc
Một khía cạnh khác của chức năng này là thân tộc quy định ứng xử của
con người liên quan đến địa vị của một cá nhân trong một xã hội. Bạn sinh ra
trong một nhóm thân tộc, và dĩ nhiên bạn sẽ có một vị trí trong nhóm đó. Các
nhà nhân học gọi đây là địa vị được gán cho. Các hình thức địa vị được gán
cho khác liên quan đến giới tính, tuổi tác, tộc người, v.v
Một người có thể giành được địa vị của mình bằng nhiều cách khác nhau,
ví dụ như phát triển các kỹ năng nghề nghiệp của mình thành bà đỡ, thầy
thuốc, bà mối, thợ thủ công, v.v. Các địa vị này là các địa vị giành được,
khác với các địa vị gán cho
Như vậy, vai trò của một cá nhân trong xã hội là với địa vị và vị trí của mình thì
người đó cần đóng vai và ứng xử như thế nào với mọi người trong xã hội và
trong nhóm thân tộc
o Chức năng thứ ba của thân tộc là đảm bảo an ninh cho các thành viên của một
nhóm thân tộc. An ninh này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có
thể là kinh tế như cho vay tiền khi cần, chia sẻ lương thực thực phẩm, hay giúp
nhau thu hoạch mùa vụ. An ninh có thể là việc giúp đỡ nhau trong các công việc
hàng ngày như trông con, cháu, giúp các việc nhà khác. Tổ chức thân tộc cũng
tạo ra các hậu thuẫn và an ninh cho các thành viên trong nhóm vào những dịp
chuyển đổi quan trọng của cuộc đời như sinh, cưới, ly dị, chết. Các chi tiết về
các dạng an ninh này và các vai trò của mỗi người trong một nhóm thân tộc khác
nhau giữa các nhóm thân tộc và các nền văn hóa
Cách thứ hai lại phân tích 4 bốn chức năng từ các góc độ hôn nhân, kinh tế, chính
trị và tôn giáo
o Thứ nhất là chức năng quy định hôn nhân. Các quan hệ thân tộc quy định một
người có thể kết hôn với ai và không được phép kết hôn với ai.
o Thứ hai là chức năng kinh tế. Các thành viên trong dòng họ thường phải có bổn
phận giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn về kinh tế.
o Thứ ba là chức năng chính trị. Trong nhiều xã hội, người cao tuổi, thủ lĩnh, hay
trưởng họ có vai trò quan trọng đối với các nhóm thân tộc do uy tín và trách
nhiệm của họ được dòng họ giao phó cho. Vì thế, một trong các chức năng chính
trị của quan hệ thân tộc là giải quyết chiến tranh, tranh chấp giữa các thành viên
trong nhóm hay giữa các thành viên của nhóm với thành viên của nhóm khác.
Bên cạnh đó còn phải kể đến việc phân chia đất đai và các tài sản khác của dòng
họ.
o Thứ tư là chức năng tôn giáo. Một số dòng họ còn có tín ngưỡng hay tục thờ tổ
tiên riêng
CÂU 9: Định nghĩa “hôn nhân”, trình bày các hình thức hôn nhân và cư trú sau hôn
nhân
1. Định nghĩa:
Bất kể thái độ của các xã hội đối với quan hệ giữa nam và nữ như thế nào, hôn
nhân tồn tại phổ biến ở hầu hết các xã hội trên thế giới. Tính phổ biến của hôn
nhân không có nghĩa là bất cứ ai trong bất cứ xã hội nào cũng kết hôn, song hầu
hết mọi người lập gia đình một lần trong cuộc đời.
Thêm vào đó, hôn nhân diễn ra rất đa dạng ở các xã hội khác nhau ngoại trừ một
điều đặc biệt giống nhau là tất cả các xã hội đều không cho phép một ai kết hôn với
bố mẹ hay anh em ruột của mình.
Các định nghĩa “hôn nhân”:
Định nghĩa chung: hôn nhân là sự đồng thuận của hai người khác giới về
việc cùng sống chung, cùng chia sẻ kinh tế, cùng chịu trách nhiệm sinh đẻ và
nuôi dạy con cái và thiết lập MQH tình cảm giữa bà con họ hàng giữa bên vợ
và bên chồng
Định nghĩa của Leach:
- Xác lập tư cách làm cha hợp pháp của một người đàn ông đối với con cái của một người
phụ nữ và tư cách làm mẹ hợp pháp của một người phụ nữ đối với con cái của một người
đàn ông
- Xác lập tư thế độc quyền của một hoặc hai người trong quan hệ tình dục đối với người kia
- Dành hco một hoặc cả hai người quyền sd sức lao động của người kia
- Dành cho một hoặc cả hai người quyền định đoạt tài sản của người kia
- Thành lập một quỹ tài sản chung nhằm đáp ứng quyền lợi của con cái
- Thiết lập quan hệ tình cảm quan trọng về phương diện xã hội giữa hai vợ chồng và bà con
họ hàng 2 bên
1- Định nghĩa:
- F. Ăng-ghen: mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh các sức mạnh thế gian biến
thành sức mạnh siêu thế gian.
- Định nghĩa của nhân học: tôn giáo là hành vi ứng xử của con người với đấng siêu nhiên,
sức mạnh bên ngoài, là công cụ, phương tiện để con người đạt được mong muốn thông
qua các nghi thức
- Anthony F. C Wallance: tôn giáo là câc niềm tin và lễ thức liên quan đến các thực thể,
quyền lực và sức mạnh siêu nhiên
- 1 định nghĩa khác: tôn giáo là bất kỳ những thía độ, niềm tin và thực hành liên quan đến
quyền lực siêu nhiên dù quyền lực đó là sức mạnh, chúa, thần linh, ma hay quỷ
- Robert Lavenda & Emily Schultz: tôn giáo là thế giới quan mà con người dùng để cá
nhân hóa các lực lượng siêu nhiên và tạo ra các cách thức để ứng xử với các lực lượng
siêu nhiên này giống như cách mà họ ứng xử với các lực lượng quyền năng trong xã hội
2- Các lĩnh vực nghiên cứu của nhân học tôn giáo
Vai trò mang tính xã hội cảu tôn giáo
- Nhu cầu hiểu biết:
Nhiều nhà khoa học xã hội trước kia đã đưa ra lý thuyết giải thích tôn giáo gắn với
nhu cầu hiểu biết của con người. Nổi bật nhất là nhà nhân học Eward Taylor
Theo quan điểm của Tylor, tôn giáo có nguồn gốc từ những phỏng đoán của con
người về giấc mơ, trạng thái hôn mê, cái chết, v.v.
Tylor cho rằng có một sự tồn tại song đôi của sự vật: cơ thể vật chất hữu hình và linh
hồn phi vật thể vô hình. Trong giấc ngủ, linh hồn của chúng ta có thể dời khỏi thể
xác và xuất hiện ở người khác; khi chết, linh hồn mãi mãi lìa khỏi xác.
Tylor tin rằng niềm tin vào linh hồn là hình thức tôn giáo sớm nhất. Vật linh giáo
(animism) là thuật ngữ ông sử dụng để nói về niềm tin vào linh hồn.
Nhưng nhiều học giả đã phê phán lý thuyết của Taylor vì qúa học thuật và không
giải quyết khía cạnh tình cảm của tôn giáo. Tuy nhiên, đây có thể coi là các cố gắng
của con người trong việc tìm hiểu về các vấn đề xung quanh cuộc sống của mình.
- Bực tức và bất ổn:
Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng con người tin vào tôn giáo khi họ bị rơi vào tình
trạng bất ổn, bức tức.
Nhà nhân học Bronislaw Malinowski cho rằng vấn đề đáng lo sợ nhất của con
người là cái chết.
Hệ qủa là có nhiều mong ước tránh được cái chết. Như Malinowki đã nhìn nhận,
tôn giáo ra đời trên cơ sở nhu cầu phổ quát thiết yếu của con người để giải tỏa các
sức ép không thể tránh được trong cuộc sống loài người. Qua niềm tin tôn giáo, con
người có thể khẳng định được cái chết của mình không phải kết thúc mà là tính
cách vẫn còn tiếp tục trong thế giới bên kia.
Trong các nghi lễ tôn giáo, con người có thể tưởng niệm và liên hệ được với qúa cố
và bằng cách đó họ đạt được một sự mãn nguyện nào đó. Một số người khác thậm
chí còn nhìn nhận về tôn giáo một cách tích cực hơn: Tôn giáo không chỉ là cách
giải tỏa các bực dọc của mình mà còn là một liều thuốc chữa bệnh. Tôn giáo tạo ra
cho con người sự hợp nhất với những người khác. Tôn giáo giúp giải tỏa mâu
thuẫn nội tại và đạt được sự trưởng thành. Tôn giáo tạo cho con người các giá trị,
giúp hiểu biết về thế giới.
- Nhu cầu cộng đồng:
Nhiều lý thuyết về tôn giáo đồng thuận với nhau ở một điểm: dù là các niềm tin
hay nghi lễ nào, tôn giáo có thể thỏa mãn nhu cầu tâm lý chung cho tất cả mọi
người. Tuy nhiên, một số nhà khoa học xã hội tin rằng tôn giáo có nguồn gốc từ xã
hội và phục vụ xã hội hơn là thỏa mãn các nhu cầu tâm lý của cá nhân.
Emile Durkheim, một nhà xã hội học, chỉ ra rằng sống trong một xã hội làm cho
con người cảm thấy bị tác động mạnh bởi các lực khác nhau. Các lực này dẫn dắt
ứng xử của con người. Đó là các lực của ý kiến công chúng, phong tục, tập quán,
v.v. Vì chúng hầu hết là vô hình, và không thể giải thích được, con người dường
như cảm thấy chúng là những điều gì đó huyền bí và vì thế tin vào chúa và thần
linh.
Durkheim gợi ý rằng tôn giáo phát sinh từ kinh nghiệm sống trong các nhóm xã
hội. Niềm tin và thực hành tôn giáo khẳng định vị trí của một cá nhân trong xã hội,
tăng cường tình cảm cộng đồng, và làm cho con người cảm thấy tự tin.
Guy Swanson cho rằng Durkheim không giải thích rõ chính xác cái gì trong xã hội
tạo ra niềm tin và thần linh và chúa. Swanson gợi ý là niềm tin vào thần linh bắt
nguồn từ sự tồn tại của các nhóm tối cao trong xã hội. Đấy là các nhóm có quyền
lực quyết định độc lập đối với gia đình, bộ tộc, dòng họ, làng, nhà nước. Theo
Swanson, thần linh và chúa mà con người tạo ra cá nhân hóa và đại diện cho các
nhóm có quyền quyết định tối thượng trong xã hội của họ. Cũng giống như các
nhóm tối thượng, thần linh và chúa tồn tại vĩnh viễn.
Các hành vi, hoạt động, sự kiện, tiến trình, bối cảnh
- Nghi lễ:
Các nghi lễ tôn giáo thường liên quan đến việc liên hệ với các thế lực siêu nhiên.
Các loại nghi lễ tôn giáo gồm: cầu nguyện, hiến tế, lễ chuyển đổi, v.v.
Các thành viên của một tôn giáo thường tin rằng nếu các nghi lễ của họ được thực
hiện một cách nghiêm túc thì họ có thể liên lạc được với các thế lực siêu nhiêu.
Ví dụ: Các nghi lễ cúng ở chùa, cầu nguyện ở nhà thờ, cầu mưa, v.v.
Nghi lễ ở góc độ hẹp, đó là những nghi thức được lặp đi lặp lại, mang tính bắt buộc
phải tiến hành trong một buổi lễ gắn liền với các hoạt động mang tính tôn giáo và
tín ngưỡng của một tộc người hay một cộng đồng người.
- Huyền thoại: Một thành phần quan trọng của các tôn giáo truyền thống là các huyền
thoại.
Huyền thoại là các câu truyện khó chứng minh được tính chân xác, nói về các kinh
nghiệm cá nhân có các giả thuyết về các cách thức mà cá nhân, xã hội hay thế giới
nói chung hoạt động.
Huyền thoại giải thích về sự hình thành của thế giới, hay nói về các đặc điểm cụ
thể nào đó của một vùng đất, hoặc giải thích về sự ra đời của con người.
Huyền thoại có ý nghĩa xã hội và văn hóa vì nó cho ta biết về suy nghĩa và nhận
thức của con người.
- Biểu hiện của tôn giáo trong lịch sử:
Tín ngưỡng sinh ra trong thời kỳ nguyên thủy: đặc trưng vh, trình độ nhận thức, xã
hội không giai cấp
Tono giáo hiện đại: tôn giáo thế giới ( Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo,…), tôn giáo
chỉ phát triển trong khu vực (Đạo giáo, Cao Đài…)
- Tín ngưỡng, tôn giáo thời tiền sử
Đặc điểm: chưa có giáo lý rõ ràng , nghi lễ thờ cúng còn giản đơn và đa thần, chưa
ra đời các tổ chức tôn giáo có tính hệ thống
2 giai đoạn:
Giai đoạn sớm: totem giáo, ma thuật làm hại, ma thuật chữa bệnh, các nghi lễ thờ
cúng dục tình, ma chay
Giai đoạn muộn: lễ thành đinh, thờ cúng nghề săn bắn, sung bái thủ lĩnh, thờ thần
bộ lạc, các nghi lễ nông nghiệp
Các tín đồ, các nhà hành lễ, các tổ chức tôn giáo
- Niềm tin tôn giáo:
o Tin vào thần linh:
Niềm tin vào các nhân vật không thấy hình dáng, tính cách, thái độ, và quyền
lực phổ biến trong nhiều xh
Con người tin rằng các vị thần này có thể làm những việc mà con người bình
thường không thể làm được
Có rất nhiều kiểu thần linh tồn tại trong các nền văn hóa và quyền lự/ sức
mạnh mà thần linh tạo ra cũng không giống nhau
o Thần:
Có nhiều loại thần khác nhau với cả giới tính nam và nữ tồn tại phổ biến
trong nhiều nền văn hóa
Đa thần là hệt hống niềm tin vào nhiều vị thần khác nhau cso các quyền lực
ngang nhau
Ngược lại đơn thần là các hệt hống niềm tin tập trung vào 1 vị thần dù là
nam hay nữ
o Linh hồn:
Là phần siêu nhiên con người và đôi khi của động vật. đay là phần mà hầu
hết chúng ta coi là đã làm cho con người có cuộc sống
Có nhiều diễn giải khác nhau về việc linh hồn nhập vào thể xác như thế nào
Có nhiều khác biệt trong việc hiểu và nhìn nhận về điều gì xảy ra với linh
hồn sau khi con người chết. và điều này liên quan đến một vấn đề gọi là đầu
thai
o Ma: sau cái chết về thể xác, nhiều xh tin rằng tất cả hay một số linh hồn của con
người trở thành ma. Ma thưởng được nhìn nhận như một thế lực có thể gây hại cho
con người
o Quỷ: thuật ngữ quỷ được sd để nói đến một hoặc các vị thần xấu. quỷ có thể ăn cắp
linh hồn của con người hay ép họ làm việc xấu, chống lại các chuẩn mực xh
- Những người thực hành tôn giáo
Một số ca nhân tin rằng họ có khả năng liên lạc trực tiếp với các thế lực siêu
nhiên
Hầu hết các xh đều có những người thực hành tôn giáo như một nghề:
Shaman, thầy lang hay thầy mo: thường là người làm việc liên quan đến
chữa trị các loại bệnh tật và có địa vị khá cao trong xh. Shaman thường
xuất thần, thậm chí còn ở trong trạng thái hôn mê bất tỉnh, để thâm nhập
vào thế giới bên kia nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ của thần hộ mệnh hay các
vị thần linh khác
Phù thủy: thường có địa vị xh thấp trong xh của họ. phù thủy còn là nỗi
khiếp đảm của nhiều người vì họ bị nghi là người gây ra tình trạng ốm
đau thậm chí là cái chết. phù thủy thường có đồ vật hành nghề nên có thể
tìm thấy chứng cứ cho rằng một số phù thủy bị giết vì những hành động
của mình; có thể chỉ sd suy nghĩ & tình cảm để thực hành công việc
Người tu hành: bao gồm cả nam và nữ, được gọi với những cái tên khác
nhau tùy theo từng loại hình tôn giáo. Họ là những người hành nghề tôn
giáo như là một nghề và thực hành các nghi lễ tô giáo đề đặn để phục vụ
cộng đồng các tín đồ ton giáo của mình. Khác với thầy lang, thầy mo hay
phù thủy, người tu hành thường được đào tạo bài bản hơn trong lúc thực
hành tôn giáo
CÂU 11: Phân biệt sự khác nhau giữa 2 quan điểm Tiến hóa luận (đơn tuyến) và thuyết
tương đối văn hóa (đặc thù lịch sử) trong nhân học
Tiến hóa luận (đơn tuyến) Tương đối văn hóa (đặc thù lịch sử)
Người sáng - Nhà nhân học chuyên nghiệp đầu - Nhà nhân học Franz – Boas
lập tiên trên thế giới là Edward B. (1858-1942), người Mỹ gốc Đức
Tylor (1832-1917), người Anh - Ông là nhân vật trọng yếu ở Bộ
- Một nhà nhân học thế kỷ XIX là môn Nhân học tại Đại học
Lewis Henry Morgan (1818- Comlombia ở New York và từ năm
1881) - người Mỹ. Morgan là một 1937 đã đào tạo rất nhiều nhà nhân
luật sư và thương nhân ngành học và trong thực tế ông có ảnh
ngân hàng, quan tâm nghiên cứu hưởng lớn đối với nền nhân
các xã hội người da đỏ (thổ dân) học Mỹ và nhân học thế giới.
ở Mỹ
Thời gian ra Nửa cuối thê kỷ XIX đầu thế kỷ XX
đời
Nội dung cơ Xem xét quá trình tiến hóa văn hóa - Ông lập luận rằng mỗi xã hội có sự
bản theo xu hướng đơn tuyến bằng việc phát triển lịch sử riêng biệt của nó.
chia sự tiến hóa văn hóa của các dân - Lý thuyết này của ông được gọi là
tộc trên TG thành 3 giai đoạn: mông thuyết đặc thù lịch sử, cho rằng mỗi
muội, dã man và văn minh xã hội cần phải được hiểu như là
- Tylor giả thuyết rằng các xã hội một sản phẩm lịch sử của chính nó.
săn bắt – hái lượm và các xã hội - Quan điểm này đưa Boas đến chỗ
phi phương Tây khác sống ở xây dựng các khái niệm về tương
trình độ phát triển thấp hơn xã hội đối văn hóa, một quan điểm cho
phương Tây ‘văn minh’. Taylor rằng mỗi xã hội cần được hiểu từ
cũng thừa nhận rằng các xã hội góc độ của các giá trị và thực tiễn
kém phát triển có thể tiến đến giai văn hóa của chính nó.
đoạn văn minh như nước Anh - Một khía cạnh của quan điểm này là
nhưng cần có sự giúp đỡ của thế không có xã hội nào tiến hóa cao
giới văn minh. hay thấp hơn xã hội khác.
- Theo Morgan, một trong các yếu - Vì thế, chúng ta không thể phân
tố phân biệt xã hội văn minh với hạng một xã hội nào phát triển cao
các xã hội trước đó là tài sản cá hơn một hay các xã hội khác theo
nhân. Ông đã mô tả các xã hội thang bậc mông muộn, man rợ, văn
mông muội là xã hội cộng sản, minh.
khác với các xã hội văn minh dựa - Ông cũng kêu gọi các nhà khoa học
trên nền tảng của tài sản cá nhân. chấm dứt việc sử dụng các khái
niệm vị chủng theo kiểu tiến hóa
luận đơn tuyến.
- Boaz đã xây dựng phương pháp
quan sát tham dự như là một kỹ
thuật nghiên cứu chiến lược trong
điền dã dân tộc học nhằm giúp các
nhà nhân học thu thập được các tài
liệu có độ chân xác cao để giải
thích về ứng xử của con người
Nhận định - Có thể nói, mặc dù các nhà tư - Quan điểm chống lại chủ nghĩa vị
tưởng thế kỷ XIX có chung một chủng, mang tính khách quan thực
quan điểm cho rằng con người tế
phát triển từ thấp lên cao thông
qua nhiều giai đoạn tiến hóa,
song quan điểm của họ đầy tính
chủ nghĩa vị chủng và mang tính
phỏng đoán.
- Các tài liệu của họ chủ yếu là tài - Thông qua thực hiện điền dã dân
liệu thứ cấp, thiên vị về xã hội tộc học, nghiên cứu thực địa, các tài
phương Tây. liệu được sử dụng chủ yếu là tài
- Lý thuyết tiến hóa đơn tuyến của liệu sơ cấp, có độ chân xác cao
họ nhìn chung qúa đơn giản, - Không đưa ra một khung tiến hóa
không giải thích được sự phát chung nào cho tất cả xh trên TG,
triển đa dạng nhiều hình vẻ của mỗi xã hội cần được hiểu từ góc độ
các xã hội khác nhau. của các giá trị và thực tiễn văn hóa
- Nhìn chung, các nhà tiến hóa luận của chính nó, tức đề cao quan điểm
đơn tuyến thế kỷ XIX nhìn nhận tương đối văn hóa
sự tiến hóa của con người theo
kiểu phân biệt chủng tộc, áp
dụng một cách sai lầm học thuyết
tiến hóa sinh học vào việc giải
thích những nét tương đồng và
khác biệt về xã hội.
- Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận - Đưa ra một cách giải thích rất tiến
rằng thuyết tiến hóa đơn tuyến thế bộ về việc tại sao các khác biệt và
kỷ XIX đã cung cấp một bối tương đồng xã hội lại cùng tồn tại,
cảnh và nền tảng tư tưởng ban đặt nền tảng cho nghiên cứu điền dã
đầu để các nhà nhân học nhận
thức và giải thích về những nét
tương đồng và sự đa dạng của các
xã hội con người.
Tiến hóa luận thế kỷ XX (tân tiến hóa luận)
Người sáng lập
- Nhà nhân học Leslie White (1900-1975) ở Đại học Michigan
Thời gian ra đời
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, giữa tk XX
Nội dung cơ bản
- Mức độ phát triển của các xã hội được đo đếm thông qua việc sử dụng năng lượng của
các hệ thống văn hóa xã hội này. Càng khai thác và sử dụng nhiều năng lượng, hệ thống
văn hóa xã hội càng phát triển.
- Giải thích về các mức độ phát triển khác nhau của các xã hội bằng việc nghiên cứu các
khác biệt về công nghệ và sản xuất năng lượng
- Theo sau kỷ nguyên công nghiệp hiện đại, công nghệ nhiên liệu hóa thạch (dầu lửa, v.v.)
phát triển, các biến đổi văn hóa xã hội cũng tăng tốc
Nhận định
- Tập trung vào các biến đổi văn hóa xã hội trên qui mô toàn cầu hơn là các xã hội cụ thể
- Sử dụng tài liệu sơ cấp
- Mang tính tổng quát, cái nhìn khách quan, không mang tư tưởng vị chủng