Professional Documents
Culture Documents
(123doc) - Nghien-Cuu-Phuc-Chat-Cua-Coban-Voi-Axit-Oxalic
(123doc) - Nghien-Cuu-Phuc-Chat-Cua-Coban-Voi-Axit-Oxalic
Tế bào TB
Thiocyanat SCN
Phenanthrolin phen
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.3.2. Xác định hàm lượng nước kết tinh và nước phối trí 26
Bảng 3.1. Điều kiện tổng hợp phức chất coban oxalat 27
Bảng 3.2. Kết quả phân tích nhiệt của phức chất 28
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Nghiên cứu phức chất là một ngành quan trọng của hóa học hiện đại. Việc nghiên cứu
phức chất phát triển rất nhanh, vì chúng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
như khoa học kỹ thuật, y học và đời sống, nhất là trong công nghiệp… Sự phát triển
của ngành hóa học phức chất đã có những đóng góp to lớn và quan trọng cho nhiều
ngành khoa học, kỹ thuật. Trong những năm gần đây rất nhiều nhà khoa học trong
nước và trên thế giới quan tâm rất nhiều đến hóa học phức chất. Khi nghiên cứu về sự
tạo phức của các ion kim loại, người ta nhận thấy các ion kim loại nhóm B có khả
năng tạo phức lớn hơn và có màu bền hơn nhiều so với các ion kim loại thuộc nhóm A.
Nhận thấy được tầm quan trọng của hóa học phức chất trong thời đại công nghiệp
ngày càng phát triển như hiện nay, thầy cô Bộ môn Kỹ thuật Hoá học, Trường Đại học
Thủy lợi đã đưa môn Hóa học Phức chất vào để giúp chúng em có thể có những cái
nhìn đầu tiên, những bước đầu tiên để phát triển các loại phức chất điển hình của kim
loại chuyển tiếp nhóm d (coban, crom, đồng, niken, sắt…) với phối tử là các axit hữu
cơ (axit oxalic, axit xitric, axit tactric,…). Do phức chất của Co(II) và Co(III) với axit
oxalic tuy đã được tổng hợp và nghiên cứu khá nhiều ở trong nước và trên thế giới,
song vẫn còn tổn tại nhiều vấn đề và thiếu hệ thống. Thành phần, tính chất, cấu tạo và
các điều kiện để tạo phức còn nhiều chỗ vẫn chưa được thống nhất. Vì vậy, thầy cô đã
chọn cho em bài tiểu luận là “Tổng hợp phức chất coban oxalat”.
Nhiệm vụ của bài tiểu luận:
1. Tổng quan tình hình điều chế phức coban oxalat
2. Tìm ra điều kiện tạo phức
3. Xác định thành phần cấu tạo của phức
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHỨC CHẤT CỦA Co VỚI AXIT OXALIC
1.1. Khả năng tạo phức của ion Co2+ và Co3+ [1]
Coban thuộc nhóm nguyên tố chuyển tiếp d, nằm ở ô 27, chu kì 4, nhóm VIIIB trong
bảng tuần hoàn hóa học. Coban có nguyên tử khối là 58,93 đvC.
Cấu hình của Co: 1s22s22p63s23p63d74s2
59
Coban là kim loại có ánh kim, màu trắng xám, có duy nhất một đồng vị bền là Co.
Nóng chảy ở 1495oC, sôi ở 3100oC và có tỷ khối là 8,9.
Là một kim loại điển hình nhóm VIIIB, coban có đầy đủ tính chất của các kim loại
chuyển tiếp, đặc biệt là khả năng tạo phức. Do coban có các obitan phân lớp d nên có
khả năng tạo phức với các phối tử vô cơ cũng như các phối tử hữu cơ.
Coban có các obitan trống ở phân lớp 4p nên dễ dàng nhận các electron của các phối
tử để tạo thành phức chất, trong môi trường oxi hóa yếu coban dễ bị mất 2 electron
trên phân lớp 4s tạo thành Co2+. Trạng thái oxy hóa phổ biến nhất là +2 và mất thêm 3
electron trên phân lớp 4s và 3d tạo thành Co 3+. Vì vậy, ion Co2+ và Co3+ rất dễ tạo nên
nhiều phức bền.
Trong tự nhiên, nó thường kết hợp với niken và cả hai đều là những thành phần đặc
trưng nhỏ của thiên thạch sắt. Coban là trung tâm hoạt động của coenzyme gọi là
cobalamins, ví dụ phổ biến nhất trong đó là vitamin B 12 là một khoáng chất thiết yếu
trong chế độ ăn uống cho tất cả các loài động vật. Ngoài ra, coban còn là nguyên tố vi
lượng trong thực vật, coban ở dạng vô cơ cũng là một chất dinh dưỡng hoạt động cho
vi khuẩn, tảo và nấm...
Đa số phức chất tứ diện của Co(II) đều có dạng muối kép, chúng phân hủy khi pha
loãng nước nên màu của dung dịch biến đổi.
[Co(SCN)4]2- + 6H2O → [Co(H2O)6]2+ + 4SNC-
Với phối tử hữu cơ cũng dễ dàng kết hợp với Co(II) tạo thành phức chất như
Co(C5H5)2 màu đỏ thắm nhưng phức chất này kém bền với oxi.
Theo tác giả Lê Phi Thúy, Duval đã thu được phức [Co(NH 3)6](HCOO)3 có màu cam
bằng cách oxi hóa hỗn hợp các dung dịch coban(II) fomat, amoni fomat, amoniac bằng
luồng không khí với bioxit chì. Bên cạnh đó, Yatimirski, Linhard và Rau cũng đã tìm
được phức [Co(NH3)5(HCOO)]2+ từ kali fomat hay natri fomat [4].
Ngoài ra, Densan và Boguslawa khi cho Co(NO 3)2 tác dụng với H2C4H4O6 trong môi
trường kiềm với những tỷ lệ NaOH khác nhau đã thu được các phức chất khác nhau
như: CoC4H4O6, Na[CoC4H3O6], Na2[CoC4H2O6]. Sebtrenco chỉ ra rằng phức
CoC4H4O6 được hình thành ở môi trường pH = 3 và Na[Co(C4H3O6)] ở pH = 6,9; còn
Grigoreva và Simbler lại cho rằng ion phức [Co(C4H2O6)]2- được hình thành ở môi
trường pH = 12,5.
Trong môi trường etanol, ngoài những phức trên còn tìm được một số phức như
Na6[Co(C4H2O6)2] và Na8[Co2(C4H2O6)3] [4].
Bobtelsky và Simchen đã cho thấy được sự hình thành [Co(C6H5O7)]- bằng cách sử
dụng phương pháp đo độ dẫn điện để nghiên cứu phức coban xitrat. Cùng với đó,
Simbler và đồng nghiệp cũng đã chứng minh được sự tạo thành phức coban xitrat có 4
độ bazo của axit xitric chỉ xảy ra trong môi trường kiềm. Bằng phương pháp trao đổi
ion, nghiên cứu phổ hấp thụ hồng ngoại và dùng axeton để kết tủa phức đã thu được
coban xitrat có công thức [Co(C6H7O7)]+, [Co(C6H6O7)]-, [Co(C6H5O7)]- ở pH = 2÷5;
phức [Co(C6H6O7)2]2-
ở pH = 6 và phức [Co(C6H4O7)]2- ở pH = 12,5. Phức Na 2[Co(C6H4O7)] bền trong
nước cũng thu được khi thêm một lượng dư hỗn hợp dung dịch Na 3C6H5O7 và NaOH
với tỷ lệ là 4:1÷3:1 vào dung dịch muối coban. Còn khi cho dung dịch natri xitrat tác
dụng với muối của coban với tỷ lệ 4:1 sẽ thu được phức Na4[Co(C6H5O7)2] [4].
Khả năng tạo phức của Co3+:
Phương pháp chung để điều chế phức chất của Co(III) là oxi hóa muối Co(II) trong
dung dịch bằng O2 hay H2O2 khi có mặt chất xúc tác có hoạt tính bề mặt và phối tử.
Sự có mặt của NH4Cl đảm bảo cho NH3 có nồng độ cao trong dung dịch. Khi oxi hóa
dung dịch [Co(NH3)6]Cl2, trong kết tủa thu được ngoài muối màu vàng [Co(NH 3)6]Cl3
còn có một ít kết tủa màu hồng của [Co(NH3)5H2O]Cl3 và màu đỏ của
[Co(NH3)5Cl]Cl2. Việc tạo nên những phức chất với vài phối tử khác nhau trong cầu
nội là một đặc điểm của ion Co 3+. Ngoài những phức chất đơn nhân người ta còn biết
nhiều phức chất đa nhân của ion Co3+, trong đó cầu nối giữa các ion Co3+ có thể là
OH-, O22-, NH2- (ví dụ: [(NH3)5Co(O2)Co(NH3)5]4+, [(CN)5Co-O-O-Co(CN)5]6-,…).
[Co(NH3)6]2+ dễ bị thủy phân nên chỉ tồn tại trong nước khi dung dịch có dư NH 3 và
NH4Cl trong khi [Co(NH3)6]3+ không những bền trong nước mà cả trong dung dịch
HCl đặc và chỉ phân hủy khi tác dụng với dung dịch H 2S. Hằng số bền của
[Co(NH3)6]2+ là 2,45.104 và của [Co(NH3)6]3+ là 1035. Nguyên nhân của tính bền
nhiệt động khác nhau nhiều như vậy không phải chỉ ở chỗ Co3+ đóng góp phần tĩnh
điện lớn hơn trong liên kết hóa học ở trong phức chất mà còn vì ion đó có cấu hình
electron 3d6 góp phần cộng hóa trị lớn hơn so với Co2+ có cấu hình electron 3d7. Sự kết
hợp những phần tĩnh điện và cộng hóa trị trong phức chất Co(III) làm cho độ bền của
Co(III) vượt gấp bội độ bền của phức chất Co(II).
Những muối đơn giản như CoF 3 và Co2(SO4)3 của Co(III) đều không bền đối với nước.
Sự tồn tại của các hidrat CoF3.3,5H2O và Co2(SO4)3.18H2O cho thấy trong đó Co3+
được phối trí không phải bằng những phân tử H2O mà là những anion như F- hay
SO42- (liên kết qua nguyên tử O). Những phối tử này chắn giữa ion Co3+ và những
phân tử H2O và đã làm bền hợp chất ở dạng hidrat.
Carolyn W. Van Saun và Bodie E. Douglas đã điều chế phức chất trans-
K[Co(EDDA)CO3].4H2O và trans-K[Co(EDDA)mal].3H2O thu được tinh thể có màu
tím. Dung dịch được đun nóng trong khoảng 50-60oC [5].
Như vậy, coban có khả năng tạo phức rất tốt với các phối tử vô cơ và hữu cơ như:
halogen, NH3, SCN, EDTA, DTPA, axit cacboxylic,…và độ bền của các phức chất đó
tăng lên theo chiều giảm dần bán kính ion. Ion Co 2+ thường tạo nên số phức chất bát
diện là 6 và phức chất tứ diện là 4, nhưng tạo nên số phức chất tứ diện là 4 nhiều nhất.
Còn ion Co3+ thường tạo nên số phức chất bát diện có số phối trí là 6. Các phức chất
của Co(III) bền hơn Co(II). Phức của Co(II) còn được ứng dụng làm chất chỉ thị đổ ẩm
trong thực tế (silicagel).
1.2. Khả năng tạo phức của axit oxalic, muối oxalat
1.2.1. Axit oxalic và muối oxalat
Công thức phân tử axit oxalic: H2C2O4
Axit oxalic là một axit hữu cơ (axit dicacboxylic). Ở điều kiện thường, axit oxalic có
dạng tinh thể màu trắng, sôi ở 157oC và nóng chảy ở 180oC. Là axit phân ly hai nấc có
hằng số pKa = 1,27 và có tỷ khối là 1,9. Axit oxalic dễ tan trong nước nóng tạo dung
dịch không màu [6].
Dung dịch axit làm đổi màu chất chỉ thị (quỳ tím chuyển màu đỏ...) và phản ứng được
với các chất: bazơ, oxit bazơ, kim loại, muối. Ngoài ra, axit oxalic tham gia phản ứng
este hóa với rượu, bị oxi hóa hoàn toàn trong phản ứng đốt cháy... Đặc biệt khả năng
kết hợp của axit oxalic với ion kim loại tạo muối oxalat [6].
H2C2O4 + Ca2+ → CaC2O4 + 2H+
Ái lực của các ion kim loại đôi khi được thể hiện trong xu hướng tạo thành các chất
kết tủa. Vì vậy, axit oxalic cũng dễ dàng kết hợp với các kim loại như canxi, sắt, natri,
magiê và kali để tạo thành các tinh thể của các muối oxalat tương ứng. Các muối có
dạng M2(C2O4)x các muối phổ biến như Na 2C2O4, K2C2O4, CaC2O4,…có nhiều trong
thận và thực phẩm. Các muối này tương đối bền trong tự nhiên [7].
1.2.2. Khả năng tạo phức của C2O42- với các kim loại chuyển tiếp
Trong dung dịch, muối oxalat và axit oxalic phân li ra gốc anion C2O42- có tính khử.
-
O O-
C C
O O
Phối tử C2O42- là phối tử yếu, hai càng do các cặp electron mỗi oxy liên kết đơn với
cacbon trong ion C2O42- có đôi electron linh động do khi tách hidro tạo thành. Nên
phối tử C2O42- dễ dàng tạo phức với nhiều kim loại chuyển tiếp nhóm d như Cu, Fe,
Ni, Co,…
Oxalat là một phối tử tuyệt vời với các ion kim loại, nó thường liên kết dưới dạng phối
thể kiểu hai răng, tạo thành một vòng 5 cạnh dạng MO2C2. Ion C2O42- có khả năng liên
kết phối tử với kim loại càng mạnh, tuy nhiên kích thước của C 2O42- khá cồng kềnh
nên lực đẩy nhau giữa các phối tử trong phức lớn làm cho phức kém bền [6].
H.G.M. Edwards và P.H. Hardman đã nghiên cứu phức chất kali bis-oxalatocoban(II)
được điều chế bằng cách thêm CoC2O4.2H2O vào dung dịch K2C2O4, khuấy trong 6
giờ ở 80°C. Thu được các tinh thể màu hồng [13].
Phối tử oxalat còn dễ dàng kết hợp với các ion kim loại hóa trị 3 tạo thành các phức
chất với phối trí 6 dạng bát diện như Fe3+, Cr3+, Co3+,…
Phức Na2[Co(C2O4)2(H2O)2].6H2O có màu xanh được S. Aleti điều chế bằng cách
thêm K2C2O4.H2O, Na2C2O4 và CoSO4.7H2O được hòa tan trong nước cất theo tỷ lệ và
được đun nóng ở 90oC [9].
Phức K3[Fe(C2O4)3].3H2O được điều chế bằng cách cho K2C2O4.H2O tác dụng với
FeCl3 ở 70oC. Hỗn hợp được làm lạnh và rửa bằng AgNO 3 để loại bỏ Cl-. Tinh thể
màu xanh lá thu được được sấy ở nhiệt độ 50oC [11].
Phức K3[Cr(C2O4)3] dạng bát diện lai hóa d2sp3, phức này vừa có tính oxi hóa vừa có
tính khử, được đều chế bằng cách dùng axit oxalic khử Cr 6+ về Cr3+ trong môi trường
có sẵn K2C2O4 [4].
Sự kết hợp của phối tử oxalat với các ion kim loại nhóm IB như Ag +, Cu+,… tạo ra các
hợp chất phức có lai hóa sp trong đó phải kể đến phức bạc oxalat được điều chế bằng
cách cho AgNO3 tác dụng với H2C2O4. Ethylene diamin được hòa tan trong nước cất
sau đó thêm Bạc oxalat và isopropyl vào. Phức chất bạc kết tủa được lọc và rửa sạch
với isopropyl. Tinh thể thu được được sấy khô trong 4 giờ và tránh ánh sáng ở 4°C [8].
[CoC2O4(C10H8N2)2]I.H2O đã được J. A. Broomhead và đồng nghiệp nghiên cứu có
tinh thể màu vàng cam được điều chế bằng cách hòa tan 2,2'-bipyridine trong nước
nóng, dung dịch kali tris-oxalatocobanat(III) trihydrat trong nước sau đó được thêm
etanol vào. Hỗn hợp phản ứng được đun nóng. Màu xanh của dung dịch thay đổi thành
màu đỏ đậm, một số chất rắn màu cam kết tủa. Thêm KI vào dịch lọc để kết tủa tinh
thể màu vàng cam. Làm lạnh hỗn hợp, lọc lấy tinh thể. Rửa sạch bằng nước đá, etanol
và axeton. I- có thể chuyển thành Cl- bằng cách trao đổi với clorua bạc [19].
Như vậy, do C2O42- có hai cặp electron tự do nên nó sẽ tấn công vào các obitan d trống
của các ion kim loại để tạo phức có màu khác nhau. Các phức oxalat của các kim loại
chuyển tiếp có rất nhiều công thức khác nhau và được tổng hợp từ các hợp chất khác
nhau của ion trung tâm như là muối hay oxit của chúng cũng như các điều kiện khác
nhau.
1.3. Tình hình tổng quan thế giới
1.3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Klisourski đã thu được các tinh thể CoC2O4.2H2O được tổng hợp khi cho
Co(NO3)2.6H2O tinh khiết tác dụng với H2C2O4 khuấy liên tục trong 1 giờ ở 160oC.
Còn Wojtowicz đã cho Co kim loại thô tác dụng với dung dịch HNO 3 1,65%, đun ở
90oC, khuấy đều, nhỏ từng giọt KMnO4, sau đó nhỏ dung dịch NH4OH 12%, lọc rửa
kết tủa bằng nước. Kết tủa CoC2O4 được tách ra bằng cách thêm từng giọt dung dịch
H2C2O4 50% ở 80oC, lọc rửa kết tủa bằng nước nóng đến hết axit, làm khô ở 100oC.
Các tinh thể này bắt đầu phân hủy ở 250 oC. Paul Pascal cho rằng phức coban có công
thức [Co(H2O)(OH)(C2O4)2]2- dựa trên kết quả đo độ dẫn điện và phương pháp trắc
quang [4].
Jawher Abdelhak đã thu được phức chất [Co(C2O4)2(phen)2](NO3).4H2O bằng phản
ứng của Co(NO3)2.6H2O, 1,10-orthophenanthroline monohydrat C 12H8N2.H2O,
H3PO4 và
H2C2O4.2H2O tương ứng theo tỷ lệ 1:2:1:1 trong etanol/nước (1:1). Hỗn hợp thu được
được đun nóng và khuấy trong 2 giờ. Kết tủa màu hồng hình thành ngay lập tức. Sau 2
ngày tinh thể màu hồng duy nhất thu được bằng cách làm bay hơi chậm ở nhiệt độ
phòng. Sử dụng phương pháp phân tích phổ X-quang, IR, UV-VIS và phân tích nhiệt
mô tả hợp chất phân lớp chứa cả phối tử cầu nối phen và oxalat. Ngoài tương tác π-π
giữa các vòng của nhóm phen, các cation và các phân tử nước không liên kết được kết
nối thông qua liên kết hydro thành một khung siêu phân tử 3D [10].
S. Aleti và đồng nghiệp đã nghiên cứu một vật liệu phát quang màu xanh lam
Na2[Co(C2O4)2(H2O)2].6H2O bằng cách thêm K2C2O4.H2O, Na2C2O4 và CoSO4.7H2O
trong 250ml nước cất theo tỷ lệ đẳng và đun nóng ở 90 oC trong 1 giờ. Lọc ở điều kiện
lạnh. Sau khi lọc dung dịch màu hồng được cho bay hơi chậm ở nhiệt độ phòng trong
6 ngày để có tinh thể. Sử dụng phương pháp phân tích X-quang và phương pháp quang
phổ hấp thụ electron thu được một phát quang màu xanh mạnh quan sát được ở nhiệt
độ phòng khi kích thích ở 355nm và trạng thái phản kháng từ cực kỳ yếu của phức [9].
Reginald Graham Durrant và M. A đã nghiên cứu về hợp chất xanh của coban. Tinh
thể [K2Co(C2O4)2.2H2O]O được điều chế bằng cách thêm CoC 2O4 vào dung dịch
K2C2O4 bão hòa, đun và khuấy liên tục cho đến khi bột tan hết. Lọc lấy dung dịch rồi
thêm K2C2O4 bão hòa vào, nhiệt độ ở 65oC, cho từ từ H2O2 vào khuấy, kết tủa xanh
xuất hiện, vi tinh thể sớm bắt đầu hình thành [2].
A. W. Adamson đã nghiên cứu K2[Co(C2O4)3] bằng cách sử dụng phương pháp phổ
hấp thụ để xác định cấu trúc phân tử. Khi cho K2C2O4.H2O hòa tan trong nước, thêm
CoC2O4 và đun sôi nhẹ trong 30 phút, lọc bỏ CoC2O4 dư, thêm dần H2O2 30% để kết
quả lọc đỏ đậm hơn và duy trì nhiệt độ từ 40oC ÷ 50oC. Tinh thể phát triển, làm mát
và lọc thu được sản phẩm xanh đậm [14].
F. Kehrmann đã thu được K6[Co2(C2O4)6].6H2O bởi quá trình oxy hóa chậm trong
không khí của Co(OH)2 trộn với tỷ lệ nhất định của K2C2O4 và H2C2O4. Chất này thể
hiện tính lưỡng sắc màu xanh đen và xanh lục đậm [2].
H. Marshall và Kalrmann đã thu được kali coban oxalat bằng cách điện phân, và tương
tự như hợp chất amoni Co2(NH4)6(C2O4)6.6H2O ở dạng lăng kính lưỡng sắc rất đậm
hòa tan dễ dàng trong nước, tạo ra một dung dịch xanh [2].
Carolyn W. Van Saun và Bodie E. Douglas đã nghiên cứu cũng đã điều chế được phức
trans-K[Co(EDDA)C2O4].2H2O bằng cách cho CoCO3 và EDDA được khuấy cùng
nhau trong nước ở 60oC khoảng 20 phút. Hòa tan K 2C2O4 và H2C2O4.2H2O trong
nước, thêm than hoạt tính vào và sục không khí qua hỗn hợp trong 17 giờ. Loại bỏ
than và dịch lọc
màu đỏ-tím được cho bay hơi. Làm lạnh dung dịch trong 2 giờ. Thu được tinh thể màu
tím, dịch lọc được để trong tủ lạnh vài ngày và thêm một ít cồn thu được chất rắn màu đỏ
[5].
Agnieszka Chylewska và đồng nghiệp đã nghiên cứu phức
K2[Co(C2O4)2(H2O)2].4H2O. Phức K2[Co(C2O4)2(H2O)2].4H2O được điều chế bằng
cách cho CoCl2.6H2O hòa tan trong nước cất (A). Hỗn hợp được khuấy ở 50°C trong
20 phút. Thêm than hoạt tính vào dung dịch K2C2O4.H2O trong nước ấm (B). Trộn
dung dịch (A) và (B) với nhau và sục không khí qua hỗn hợp trong 17 giờ. Lọc bỏ than
hoạt tính và dịch lọc màu đỏ-tím cho bay hơi nước. Làm lạnh dung dịch bằng đá. Thu
được tinh thể màu tím. Dịch lọc để trong tủ lạnh vài ngày và thêm cồn vào thu được
chất rắn màu hồng. Cấu trúc phân tử được xác định bằng phương pháp phân tích nguyên
tố, nhiễu xạ tia X và phân hủy nhiệt [18].
J. A. Broomhead cùng đồng nghiệp đã nghiên cứu tổng hợp phức
[CoC2O4(C12H8N2)2]I.H2O bằng cách sử dụng phương pháp quang phổ và phương
pháp đo độ dẫn điện khi hòa tan 1,10-Phenanthroline trong etanol-nước 33% và thêm
dung dịch kali tris-oxalato-cobanat(III) trihydrat trong nước. Dung dịch xanh được đun
nóng đến 95oC trong 6 phút và chuyển thành màu đỏ đậm. Thêm nước vào, hỗn hợp
phản ứng được lọc để loại bỏ chất rắn màu hồng cam. Với cách tiến hành tương tự,
ông cũng đã thu được phức hòa tan hơn có công thức [CoC2O4(C12H8N2)2]Cl.4H2O
bằng cách thay I- bằng Cl-. Các phức chất trên đều tránh tiếp xúc trực tiếp ánh sáng
mặt trời nên được thực hiện trong ánh sáng nhân tạo khuếch tán [18].
Khi cho Cr2O3 tác dụng với dung dịch H2C2O4, Lapraik đã thu được một oxalat hydrat
vô định hình màu đỏ, tan trong nước lạnh, rượu và ete có công thức Cr 2(C2O4)3.nH2O.
Khi sấy ở nhiệt độ thường, nó bị mất bớt nước và tạo thành Cr2(C2O4)3.6H2O. Đun
nóng đến 120oC thì mất hoàn toàn nước và chuyển thành màu lục. Tương tự, Babco
cũng thu được phức trên khi đi từ Cr(OH) 3 hoặc muối crôm(III) với H2C2O4 hoặc
K2C2O4 [4].
Werner thấy rằng trong quá trình oxy hóa H2C2O4 bằng K2Cr2O7, khi tỷ lệ
K2Cr2O7:H2C2O4 biến đổi từ 1:1 đến 1:9 thì tạo ra cùng một sản phẩm là
K[Cr(C2O4)2(H2O)2]. Đun sôi dung dịch chất đó với oxalat kim loại kiềm thì thu được
ion trioxalato cromat(III) [4].
Khi cho Na2Cr2O7 tác dụng với dung dịch H2C2O4.2H2O, sau đó thêm xút và đun nóng,
Gustavson thấy rằng tinh thể Na[Cr(C2O4)2(H2O)2] thay đổi từ từ, lúc đầu nó tạo thành
Na2[Cr(OH)(H2O)(C2O4)2], tiếp theo chuyển thành phức bền màu tím
Na4[(C2O4)2Cr(OH)2Cr(C2O4)2]. Rosen và Werner thu được phức kali màu xanh lá cây
khi thay Na2Cr2O7 bằng K2Cr2O7 [4].
Mayer đã hòa tan hydrat mangan sesquioxit trong H2C2O4 đậm đặc, sau khi làm lạnh
thu được dung dịch đỏ tím, dung dịch này bị mất màu rất nhanh ngoài ánh sáng và ít
ổn định
kể cả trong bóng tối. Họ cho rằng dung dịch này có khả năng là axit H 3[Mn(C2O4)3].
Muối của axit này là K3[Mn(C2O4)3] và K3[Mn(C2O4)3].3H2O đã tìm được ra từ lâu,
chúng là những tinh thể đỏ tím hình kim, rất dễ bị hóa trắng khi có một tia sáng chiếu
vào [4].
Mayer và Schramm chỉ ra rằng những dung dịch loãng của mangan trioxalat và cả
muối dạng rắn khi có mặt vết nước đều nhanh chóng bị phân hủy bởi ánh sáng. Tuy
nhiên, muối tinh và khô không bị phân hủy bởi ánh sáng. Như vậy chắc chắn muối do
các tác giả trước đó điều chế ra chưa đủ khô và còn chứa tạp chất. Tác giả cũng đã
điều chế muối tinh khiết bằng cách trộn MnO2 trong nước đá với KHC2O4 dưới ánh
sáng đỏ, dung dịch màu đỏ thẫm được hình thành, cho rượu vào thu đc kết tủa oxalat
không tinh khiết với những tinh thể lẫn lộn màu đỏ, tím và không màu. Các tinh thể
này đều hòa tan trong nước lạnh và người ta có thể kết tinh lại bằng cách xử lý nước
đá [4,22].
Tinh thể K3[Fe(C2O4)3].nH2O màu lục nhạt đã được Jeager tổng hợp từ hỗn hợp
Fe2(SO4)3, BaC2O4 và K2C2O4 hoặc bằng cách đun nóng hỗn hợp gồm K 2C2O4, FeCl3
đậm đặc, chúng có dạng lăng trụ đơn tà và kích thước a:b:c = 0.9923:1:0.3925,
β = 85 o40’. Bằng phương pháp phân hủy nhiệt và nghiên cứu cấu trúc tinh thể,
Gillard và đồng nghiệp đã xác định được n = 3 ứng với Fe, Cr và đưa ra công thức
K3[Fe(C2O4)3].3H2O [4].
Bằng thực nghiệm, Eder cho thấy rằng K[Fe(C 2O4)2].2,5H2O hay
K[Fe(C2O4)2(H2O)2].0,5H2O là những tinh thể màu xanh oliu được tách ra từ dung
dịch của phản ứng khi cho KH3(C2O4)2 tác dụng với Fe(OH)3 [4].
Weiland đã tổng hợp phức sắt oxalat bằng cách cho Fe(NO3)3 tác dụng với H2C2O4
trong môi trường HNO3 ở nhiệt độ dưới 25oC. Làm bay hơi nước của dung dịch thu
được bằng H2SO4 đậm đặc. Sau vài ngày, từ dung dịch tách ra tinh thể ứng với công
thức [Fe2(C2O4)3].5H2O [4].
Khi cho dung dịch kali oxalat đậm đặc phản ứng với dung dịch lạnh crôm(III) nitrat,
sunfat hoặc clorua Wyoubroff đã điều chế được tinh thể Cr 2(C2O4)3.25H2O. Đó là các
tinh thể tím, đơn tà, các kích thước tinh thể a:b:c = 1,3772:1:1,4844 và γ = 110o17’.
Chất này để trong không khí khô hoặc rửa bằng etanol, sẽ mất một phần nước cho các
tinh thể xanh lục bạc có công thức Cr2(C2O4)3.12H2O hoặc Cr2(C2O4)3.6H2O [20].
Các tinh thể ngậm 25, 16, 12 phân tử nước đều không tan trong nước. Khi cho vào
nước nhất là nước sôi thì chúng chuyển sang dạng vô định hình rồi tan vào dung dịch,
Rosenheim và Cohn cho rằng các tinh thể ngậm nước trên là phức chất, chẳng hạn
[Cr(H2O)6]2(C2O4)3.13H2O nhưng chưa giải thích được vì sao chúng lại không tan.
Crôm(III) oxalat đã được ứng dụng làm chất cầm màu hoặc dùng để điều chế nhiều
phức khác của crôm [20].
Các đồng phân hình học của crôm(III) oxalat đã được nghiên cứu: phức trans-
K3[Cr(OH)2(C2O4)2] có màu xanh lam, trans-Ag3[Cr(OH)2(C2O4)2] có màu xanh xám,
còn cis-Ag3[Cr(OH)2(C2O4)2] có màu lục [20].
Bussy điều chế được K 3[Cr(C2O4)3] bằng cách đun hỗn hợp K2CO3, K2CrO4 và
H2C2O4 với tỷ lệ mol là 1:2:4. Phức K 3[Cr(C2O4)3] có ý nghĩa quan trọng trong việc
nghiên cứu hiện tượng đồng phân quang học ở phức chất. Phức này cũng được Booth
điều chế từ hỗn hợp K2Cr2O7, K2C2O4 và H2C2O4. Axit crôm(III) oxalat có tiếng là
không ổn định và rất khó điều chế. Tuy nhiên, Mecutcheon và Schuele đã điều chế
được nó ở dạng ổn định bằng cách cho K3[Cr(C2O4)3] đi qua chầm chậm dung dịch có
pH = 1 ÷ 2 trên nhựa Amberlite IR-100 [20].
Khi hòa tan sesquioxyt hydrat mangan trong H2C2O4 đậm đặc, làm lạnh thu được dung
dịch đỏ tím, dung dịch này bị mất màu rất nhanh ngoài ánh sáng và ít ổn định kể cả
trong bóng tối. Theo Mayer và Schramm có khả năng dung dịch này là axit
H3[Mn(C2O4)3]. Thực ra muối của axit H3[Mn(C2O4)3] đã được tìm ra từ lâu. Sochay
và Lesen đã điều chế nó bằng cách trộn hỗn hợp MnO 2, K2CO3 và H2C2O4 trong điều
kiện lạnh và không có ánh sáng. Họ đã thu được những tinh thể đỏ hình kim, những
tinh thể này chỉ cần một tia sáng cũng đủ làm nó hóa trắng. Với cùng phương pháp này
Kehsmann thu được những tinh thể hình lăng trụ màu gân như đen [20].
Hợp tác với Pickersgill, Kehsmann điều chế mangan oxalat đỏ bằng cách điện phân
dung dịch mangan oxalat với sự có mặt của K2C2O4.H2O, màu biến mất trong vòng ít
phút ngay sau khi cắt điện. Cũng như vậy, bằng cách khử KMnO 4 trong H2C2O4 ở điều
kiện lạnh thì dung dịch loãng màu đỏ chỉ xuất hiện như một sản phẩm trung gian [20].
Christense thu được một chất kết tinh màu tím bằng cách xử lý một dung dịch dạng
loãng CH3COOK bởi một dung dịch rượu của H2C2O4 với sự có mặt của mangan axetat
[20].
Cho H2C2O4 tác dụng với KMnO4, sau đó kết tủa bằng rượu, Carledge đã nhận được
các tinh thể màu lục có công thức K[Mn(H2O)2(C2O4)2]. Chất này xuất hiện dưới hai
dạng đồng phân: đồng phân cis màu vàng, đồng phân trans màu lục. Tuy nhiên, cả hai
dạng ấy đều cho cùng một màu khi đã hòa tan hoàn thành dung dịch loãng. Phương
pháp của Carledge và Ericks xuất hiện mang lại những kết quả tuyệt vời. Các tác giả
này đã tiến hành thí nghiệm trong bóng tối bằng cách khử KMnO4 bằng một lượng axit
đã được tính toán từ trước. Sau đó oxi hóa mangan oxalat đã được hình thành bằng
một lượng muối KMnO4 với sự có mặt của K2CO3. Họ đã thu đc những tinh thể đỏ tím,
hình kim. Theo hai tác giả này, chất thu được có công thức K 3[Mn(C2O4)3].3H2O đồng
dạng với phức của sắt(III). Người ta có thể giữ khá lâu ở nơi không có ánh sáng và
nhiệt độ bình thường, có thể giữ mãi ở -6oC [20].
[CoC2O4(C10H8N2)2][Co(C2O4)2C10H8N2].4H2O và [CoC2O4(C12H8N2)2][Co(C2O4)2C12H8N2].3H2O
đã được J. A. Broomhead, M. Dwyer và N. Kane-Maguire nghiên cứu sự cô lập của
các hợp chất phức tạp đôi màu hoa cà này bằng cách hòa tan 2,2'-bipyridine trong
nước nóng, hòa tan dung dịch kali tris oxalato cobanat(III) trihydrat trong nước sau đó
trộn hai dung dịch lại với nhau và thêm etanol vào. Hỗn hợp phản ứng được đun nóng
đến điểm sôi và hồi lưu trong 4 phút. Màu xanh của dung dịch thay đổi thành màu đỏ
đậm, và một số chất rắn màu cam kết tủa và được lọc bỏ. KI được thêm vào dịch lọc
để kết tủa. Các dung dịch tím đỏ được làm lạnh và đều có màu hoa cà, tinh thể lắng
đọng, được lọc, rửa với nước lạnh và axeton [18].
Như vậy, tùy thuộc vào các phương pháp nghiên cứu khác nhau, các điều kiện và môi
trường khác nhau sẽ tổng hợp được các phức khác nhau, các tác giả cũng đã thu được
rất nhiều loại phức của dãy kim loại chuyển tiếp nhóm d đặc biệt là Co với phối tử
oxalat.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đặng Thị Thanh Lê đã điều chế và nghiên cứu tính chất một số phức chất của crôm,
mangan, sắt với các axit hữu cơ. Phức K 3[Cr(C2O4)3].2,5H2O được điều chế bằng cách
hòa tan K2Cr2O7 trong nước nóng, lọc lấy dung dịch sau đó cho từ từ H 2C2O4.2H2O và
K2C2O4.H2O vào trong vòng 2 giờ. Khuấy liên tục và giữ nhiệt độ ở 40 ÷ 50oC. Dung
dịch thu được đem lọc, cô đặc đến ½ thể tích rồi làm lạnh thì thu được tinh thể. Sau 6
giờ lọc lấy tinh thể rửa nhanh bằng nước cất, rượu và ete [20].
Phức K8[Mn2(C2O4)7].5H2O cũng đã được tác giả Đặng Thị Thanh Lê điều chế bằng
cách cho H2C2O4.2H2O vào nước nóng ở 70 ÷ 75oC, khi khuấy đều thêm vào đó từng
lượng nhỏ KMnO4 dạng bột. Khi dung dịch mất màu, thêm K2CO3. Làm lạnh dung
dịch tới 4 ÷ 5oC rồi trộn với nước lạnh ở 1oC. Thêm từ từ KMnO4 dạng bột vào dung
dịch vừa thu được và khuấy trong 10 phút ở nhiệt độ 0 ÷ 2oC. Dung dịch màu đỏ thẫm
được lọc trên phễu lọc đã được làm lạnh từ trước. Thêm vào đó một lượng rượu bằng
½ thể tích dung dịch rồi làm lạnh trong 2 giờ bằng hỗn hợp đá-muối ăn. Lọc lấy tinh
thể đã được làm lạnh từ trước tới 0oC, rửa tinh thể bằng rượu và ete [20].
Phức sắt oxalat K3[Fe(C2O4)4H2].3H2O cũng đã được tác giả điều chế bằng cách cho
dung dịch K2C2O4.2H2O và H2C2O4.2H2O vào dung dịch FeCl3 trên bếp cách thủy
nhiệt độ 50 ÷ 60oC, khuấy liên tục. Sau 4 ÷ 5 giờ, lọc lấy kết tủa, rửa bằng nước và
rượu cho hết ion Cl- (thử bằng AgNO3), đem làm khô trong bình hút ẩm thu được phức
[20].
Lê Phi Thúy đã tổng hợp phức của Cr, Mn, Fe, Co với một số axit hữu cơ. Phức
[Fe(C2O4)3]3- được điều chế bằng cách cho từ từ dung dịch K2C2O4.2H2O vào dung
dịch FeCl3 để trên bếp cách thủy ở 50 ÷ 60oC, khuấy nhanh bằng nước, rồi rửa
nhiều lần
bằng rượu, đến khi hết ion Cl-. Làm khô trong bình hút ẩm thu được phức
K3[Fe(C2O4)3].3H2O [4].
Lê Thị Hồng Hải đã tổng hợp và nghiên cứu ứng dụng phức chất của Cu(II) với các
axit hữu cơ dùng là chế phẩm tạo màu cho granit nhân tạo. Theo như tác giả, phức
đồng oxalat được điều chế đi từ các muối, hidroxit, cacbonat, oxit của Cu(II) tác dụng
với H2C2O4 trong môi trường OH−. Nhờ đó tác giả thu được 2 dạng tinh thể một hình
kim và dạng hình khối và đều có màu xanh với công thức tương ứng là
Na2[Cu(C2O4)2(H2O)2] và K2[Cu(C2O4)2].2H2O [16].
μ = 1000.Vχ (Ω-1.cm2.mol-1)
Phương pháp phổ hồng ngoại cho ta biết thông tin về tần số của các nguyên tử liên kết
trong phức chất và cách phối trí của chúng.
1.4.3. Phương pháp phổ hấp thụ electron [22]
Đây là phương pháp dựa trên sự so sánh cường độ màu của dung dịch nghiên cứu với
cường độ màu của dung dịch tiêu chuẩn có nồng độ xác định.
Cơ sở lý thuyết của phương pháp là định luật Lambert–Beer:
I = I0.10-ɛbC
ɛbC Hay A = KC
Tinh thể Na2[Co(C2O4)2(H2O)2].6H2O đã được S. Aleti xác định màu sắc bằng cách sử
dụng phương pháp quang phổ hấp thụ điện tử thu được một phát quang màu xanh
mạnh quan sát được ở nhiệt độ phòng khi kích thích ở bước sóng 355 nm [9].
Phương pháp phổ hấp thụ electron cho thấy sự phức tạp bao gồm phổ chuyển tiếp và
phổ chuyển d-d, nó đem lại kết quả phân tích định lượng có độ nhạy cao xác định xem
phức có sạch hay không và có đúng với công thức không.
1.4.4. Phương pháp phân tích nhiệt [21]
Phương pháp phân tích nhiệt là tổ hợp của các phương pháp xác định nhiệt chuyển pha
và những đặc điểm khác về nhiệt của các hợp chất riêng lẻ hoặc của hệ gồm nhiều chất
tương tác. Đây là phương pháp thuận lợi để nghiên cứu phức chất, nó cho phép thu
được những dữ kiện lý thú về tính chất của các phức chất rắn. Dựa vào hiệu ứng nhiệt
có thể nghiên cứu những quá trình biến đổi hóa lý phát sinh ra khi đun nóng hoặc làm
nguội chất, ví dụ phá vỡ mạng tinh thể, sự chuyển pha, sự biến đổi đa hình, sự tạo
thành và nóng chảy các dung dịch rắn, các tương tác hóa học…
Đa số, các hợp chất phức thường bền vững ở nhiệt độ thường và không bị biến đổi hóa
học trong thời gian dài. Chiếu sáng và nung nóng là những biện pháp thường dùng
nhất để khơi mào phản ứng hóa học của phức chất rắn.
Các phương pháp nhờ chung một tham số vật lý nào đó của hệ phụ thuộc vào nhiệt độ
được nghiên cứu gọi chung là phân tích nhiệt. Các phương pháp này được áp dụng phổ
biến để nghiên cứu các phức chất rắn vì chúng cho phép thu nhận nhiều thông tin quý
báu.
Đối với phức chất thì phương pháp phân tích trọng lượng nhiệt bao gồm cả phân tích
trọng lượng nhiệt vi phân và phương pháp phân tích nhiệt vi phân là quan trọng hơn
cả. Để nghiên cứu sâu hơn người ta còn phân tích các sản phẩm phân hủy nhiệt của
phức chất bằng cách phối hợp hoặc kết nối với các thiết bị và phương pháp khác.
Khi nghiên cứu các phức chất bằng phương pháp phân tích nhiệt ta thu được những dữ
kiện thực nghiệm lý thú và từ đó có thể rút ra những kết luận cần thiết.
1) Nếu trong thành phần của phức chất có các phân tử nước kết tinh thì khi đốt nóng
chúng sẽ bị tách khỏi phức chất.
2) Nếu chất có sự biến đổi đa hình thì khi đốt nóng sự chuyển từ dạng này sang dạng kia
sẽ kèm theo sự phát nhiệt. Nếu chất có một số dạng đồng phân, thì tăng nhiệt độ có thể
xảy ra sự đồng phân hoá và quá trình này cũng kèm theo sự phát nhiệt.
3) Các nhóm ở cầu ngoại có ảnh hưởng đến độ bền nhiệt của các phức chất
4) Khi tăng nhiệt độ có thể xảy ra nhiều phản ứng trong cầu nội có liên quan với sự thay
đổi số phối trí và trạng thái hoá trị của ion trung tâm. Nếu trong thành phần của phức
chất có những nhóm có tính oxi hoá thì trên giản đồ nhiệt của phức chất này thường có
những hiệu ứng toả nhiệt.
Như vậy, ta thấy rằng các giản đồ nhiệt của phức chất là rất đa dạng và phức tạp. Một
vấn đề quan trọng khi nghiên cứu các phức chất bằng phương pháp phân tích nhiệt là
rút ra các kết luận về độ bền nhiệt của chúng và các yếu tố ảnh hưởng đến độ bền nhiệt
đó.
Nhiệt tạo thành của phức chất và do đó độ bền nhiệt của nó trước hết phụ thuộc vào
đặc điểm của liên kết ion trung tâm-phối tử. Vì bản chất của liên kết này được xác định
bởi các tính chất của kim loại tạo phức (kích thước, điện tích, các tính chất phân cực)
cũng như của phối tử (kích thước, điện tích, momen lưỡng cực), nên độ bền nhiệt của
phức chất cũng phụ thuộc vào các tính chất đó. Ngoài ra, độ bền nhiệt của phức chất
và các phản ứng phân huỷ nhiệt còn được quyết định bởi tính chất của các ion ở cầu
ngoại (kích thước, cấu trúc vỏ electron, khuynh hướng của chúng tạo liên kết cộng hóa
trị với ion trung tâm).
J. E. House, Jr. và Thomas G. Blumthal đã nghiên cứu nhiệt của các loại phức oxalate
của Co(II) và Co(III). Sự phân hủy K 2[Co(C2O4)2] và K2[Co(C2O4)3] đã được nghiên
cứu sử dụng phương pháp phân tích nhiệt TG. Trường hợp của K2[Co(C2O4)3] bước
đầu liên quan đến sự vỡ của tất cả các oxalat và một trong các cacbon thu được để giải
phóng CO2 và CO, tiếp theo liên quan đến sự mất CO 2. Trong trường hợp của
K2[Co(C2O4)2], đầu tiên liên quan đến việc mất CO duy nhất, tiếp theo mất CO2, CO2
và CO và cuối cùng là CO2 tương ứng. Cacbonat cơ bản dường như là các sản phẩm
trung gian [12].
T. B. Copestake và N. Uri đã nghiên cứu sự phân hủy nhiệt của phức chất
trioxalatocoban(III) [Co(C2O4)3]3-. Nó đã chỉ ra rằng cả hai đỉnh trong vùng cực tím
(do chuyển điện tử) và trong vùng màu xanh (do chuyển tiếp d→d) hoạt động quang
hóa. Hiệu suất lượng tử chính được tìm thấy cho các dòng khác nhau là: 313; 0,365;
365; 0,345; 405; 0,085; 435; 0,06 �m. Hiệu suất lượng tử của sự hình thành ion coban
bằng hai lần hiệu quả lượng tử chính. Không phát hiện được sự phụ thuộc nhiệt độ.
Rượu ethyl 75% và axeton 60% không ảnh hưởng đến năng suất lượng tử hóa. Các gốc
C2O42- được mô phỏng là trung gian có khả năng kích thích hình ảnh, phản ứng ngược
tối chính, phân ly của phức chất kích thích và không xác định tỷ lệ, quá trình oxy hóa và
ion C O 2- [17].
2 4
Nhiệt DSC của Na2[Co(C2O4)2(H2O)2].6H2O trong dải nhiệt độ 40 - 450oC được thể
hiện trong nghiên cứu của S. Aleti. Các đỉnh đỉnh nhiệt ở 73 và 110oC tương ứng với
sự mất đi sáu phân tử nước. Đỉnh nhiệt độ xung quanh 192oC tương ứng với sự mất hai
phân tử nước phối trí. Đỉnh tỏa nhiệt ở 290oC có thể là do sự phân hủy của natri coban
oxalat khan thành Na2CO3 và CoO. Các đỉnh nhiệt độ giữa 353oC và 366oC tương ứng
với sự phân hủy của Na2CO3 và CoO thành hỗn hợp của natri và kim loại coban tương
ứng. Nó được quan sát thấy rằng không giảm khối lượng trong mẫu lên đến 290°C gợi
ý sự ổn định nhiệt của hợp chất tối đa ở nhiệt độ này [9].
Phương pháp phân tích nhiệt giúp ta xác định được công thức phân tử, thành phần của
kim loại trong chất đó, độ bền của chất.
1.5. Ứng dụng của phức chất
Phức chất là loại hợp chất được ứng dụng rộng rãi và ngày càng đa dạng trong hầu hết
các lĩnh vực khác nhau như hóa học, sinh học, y học, dược học, nông nghiệp, phân tích
môi trường, điều tra nhằm khai thác các nguồn tài nguyên, khoáng sản của đất nước.
Sự phát triển của ngành hóa học phức chất đã có những đóng góp to lớn và quan trọng
trong nhiều ngành khoa học, kỹ thuật và kinh tế. Trong phân tích và điều chế các loại
vật liệu, những chất siêu tinh khiết, phức chất đóng vai trò cực kì quan trọng trong các
phương pháp tách, phân chia và làm sạch các chất, hợp chất.
Phức chất được sử dụng trong lĩnh vực y học. Điển hình Phức chất của Pt(II) thường
được sử dụng trong việc điều trị các bệnh ung thư như sau:
Cho đến nay đã có ba thế hệ thuốc với hoạt chất là phức chất của Pt(II) được sử dụng
rộng rãi trong việc điều trị nhiều bệnh ung thư khác nhau ở người với tên thương phẩm
là Cisplatin, Cacboplatin và Oxaliplatin. Tuy nhiên, do chúng có độc tính cao và chưa
đáp ứng được sự gia tăng của các loại ung thư. Nhưng gần đây phức chất [PtCl2(Meug)
(p-ClC6H4NH2)] và [PtCl(Meug-1H)(pClC6H4NH2)] đã được nghiên cứu tổng hợp với
mong muốn chúng sẽ có hoạt tính kháng TB ung thư cao, độc tính thấp, và được ứng
dụng trong việc điều trị các TB ung thư [23].
Các phức chất cis-dicloroanilinaminplatin(II) đã được tác giả tổng hợp được 14 phức
chất. Nhưng trong số 14 phức chất đó chỉ có 5 phức có chứa anilin trong cầu phối trí
thể hiện hoạt tính kháng ung thư tốt trên bốn dòng TB ung thư (ung thư màng tử cung,
ung thư gan, ung thư màng tim và ung thư tiền thận khỉ). Phức cis- [Pt(C6H5NH2)
(C6H11NH2)Cl2] và cis-[Pt(C6H5NH2)(C4H8NHO)Cl2] có hoạt tính kháng mạnh trên cả
bốn dòng TB ung thư. Bên cạnh đó, phức cis-[Pt(C6H5NH2)(C5H10NH)Cl2] có hoạt
tính trên ba dòng TB ung thư là ung thư màng tử cung, ung thư màng tim và ung thư
tiền thận khỉ. Tuy nhiên phức cis-[Pt(C6H5NH2)(C5H5N)Cl2] có hoạt tính trên hai
dòng TB ung thư là ung thư màng tử cung và ung thư màng tim. Cuối cùng, phức cis-
[Pt(C6H5NH2)(C9H7N)Cl2] lại chỉ có hoạt tính trên một dòng TB ung thư tiền thận khỉ
[24].
Nhờ sự thử hoạt tính kháng sinh và hoạt tính độc TB cho thấy hầu hết các phức chất
trong tài liệu được thử có khả năng ức chế sự phát triển của vi sinh vật. Phức chất
[PtCl(C14H17O4)(C5H5N)] có khả năng ức chế sự phát triển của ba dòng TB ung thư là
ung thư biểu mô, ung thư gan và ung thư phổi. Phức chất [PtCl(C 14H17O4)(C9H7N)] có
khả năng ức chế sự phát triển của hai dòng TB ung thư là ung thư mô và ung thư gan.
Các phức [PtCl(C14H17O4)(C5H10NH)] và [Pt(C14H17O4)(C9H6ON)] có khả năng ức chế
bốn dòng TB ung thư như ung thư biểu mô, ung thư gan, ung thư phổi và ung thư vú
[25].
Phức chất cũng được sử dụng trong lĩnh vực sinh học. Phức chất của các kim loại
chuyển tiếp với các amino axit được nghiên cứu đã tạo ra phức chất có hoạt tính sinh
học cao và được hấp thụ dễ dàng. Việc sử dụng các phức chất của kim loại với các
amino axit thiết yếu nhờ chất phụ gia bổ sung vào thức ăn trong chăn nuôi, đem lại
năng suất cao, nhiều lợi ích kinh tế. Do đó lĩnh vực tổng hợp các loại phức chất này
ngày càng được quan tâm và phát triển hơn [26].
Lê Hữu Thiềng đã chỉ ra hoạt tính của một số phức chất đến sự phát triển của mầm hạt
đỗ và của chủng nấm mốc Asp.flavus và một số vi khuẩn như sau:
Tác giả đã chỉ ra hoạt tính ức chế sự phát triển của mầm hạt đỗ xanh của các phức chất
H3[La(Phe)3(NO3)3].2H2O, H3[Eu(Phe)3(NO3)3].3H2O và H3[Dy(Phe)3(NO3)3].3H2O.
Trong khoảng nồng độ khảo sát 25 ÷ 250 ppm, phức chất H 3[Eu(Phe)3(NO3)3].3H2O
có tác dụng ức chế rõ rệt từ nồng độ 100 ppm, sự ức chế tăng theo nồng độ. Phức chất
H3[La(Phe)3(NO3)3].2H2O có tác dụng ức chế sự phát triển của chủng nấm mốc Asp-
flavus. Trong khoảng nồng độ khảo sát 15 ÷ 90 ppm, phức chất có tác dụng ức chế rõ
rệt ở nồng độ 45 ppm, sự ức chế tăng theo nồng độ. Còn đối với các phức chất
H3[La(Phe)3(NO3)3].2H2O, H3[Sm(Phe)3(NO3)3].3H2O và H3[Eu(Phe)3(NO3)3].3H2O
đã
có tác dụng làm tăng một số chỉ tiêu sinh hoá như protein, proteaza và amilaza của
chủng nấm mốc Asp-flavus. Các phức chất có tác dụng tốt hơn so với ion kim loại và
phối tử [27].
Tác giả cũng đã thử hoạt tính kháng khuẩn của các phức H 3[La(Phe)3(NO3)3].2H2O,
H3[Eu(Phe)3(NO3)3].3H2O và các cấu tử thành phần La(NO 3)3, Eu(NO3)3, HPhe đối với
9 loại vi khuẩn. Kết quả cho thấy phối tử không có hoạt tính kháng khuẩn, các phức
chất có hoạt tính kháng khuẩn thấp hơn so với các muối nitrat tương ứng. Phức chất
H3[La(Phe)3(NO3)3].2H2O có hoạt tính kháng khuẩn đối với vi khuẩn Sta và Ec ở nồng
độ tối thiểu tương ứng là 1,25% và 2,5% còn đối với phức chất
H3[Eu(Phe)3(NO3)3].3H2O là 2,5% và 5% [27].
Các phức chất của kim loại chuyển tiếp nói chung và phức đồng oxalat nói riêng có thể
dùng làm chế phẩm thấm tan tạo màu cho granit nhân tạo theo công nghệ in lưới. Lê
Thị Hồng Hải đã khảo sát các yếu tố ảnh hường đến khả năng phát màu và độ thấm
sâu của các chế phẩm trên xương gốm đã tìm ra được điều kiện thích hợp để pha chế
được các chế phẩm màu có khả năng phát màu đẹp và độ thấm sâu đạt tiêu chuẩn,
thích hợp để tạo màu trang trí cho gạch ốp lát. Đã tạo ra nhiều gam màu phong phứ
như xanh, xám đen, vàng rơm, nâu tím [16].
Các phức chất có màu được sử dụng trong hóa học phân tích, dùng làm chất màu. Ví
dụ, chất xanh Beclin (xanh phổ) là phức chất Fe 4[Fe(CN)6]3, một chất bột màu xanh
đậm, được sử dụng trong ngành in hay trong công nghệ sơn để điều chế ra các loại sơn
có màu xanh, màu lam tươi và lam đậm, xanh da trời và lục [3].
Lê Phi Thúy đã ngiên cứu và thử ứng dụng của các phức của kim loại chuyển tiếp với
các axit hữu cơ. Nhờ vậy, 25 phức chất đã được điều chế với hiệu suất và có độ tinh
khiết cao. Nên khi khảo sát khả năng phát màu của các chế phẩm, kết quả cho thấy:
các chế phẩm của phức chất crôm phát ra màu rêu, phức sắt phát màu nâu đỏ, phức
mangan phát màu nâu xám và coban phát màu xanh dương [4].
CHƯƠNG 2
THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa
chất Muối coban(II) clorua CoCl2.6H2O Chì oxit PbO2
2.2.2. Thiết bị
Tủ sấy Memmert UN160, Đức
Máy
khuấy từ
IKA C-
MAG
HS10,
Malays
Máy đo
phổ UV
DR3900
, Đức
Lò nung
N Máy đo độ dẫn điện
a Conductivity Meter
b S230, Trung Quốc Cân
e phân tích Model
r AUY220, Nhật
t
h
e
r
m
L
T
9
/
1
1
/
B
1
4
0
,
Đ
ứ
c
B
ơ
2.3. Các phương pháp nghiên cứu phức chất
2.3.1. Điều chế phức coban oxalat
Chúng em tổng hợp phức coban oxalat theo sơ đồ sau:
CoCl2 + K2C2O4 → phức coban oxalat
Tiến hành tổng hợp phức chất ở các tỷ lệ mol giữa ion trung tâm : phối tử là 1 : 2, nồng
độ của ion trung tâm và phối tử là 1M và 1,4M, nhiệt độ trong khoảng 40 - 45 oC. Kết
quả được trình bày ở bảng 3.1.
2.3.2. Xác định thành phần và cấu tạo của phức chất
Cân lượng phức chất xác định cho vào cốc thủy tinh. Tiến hành sấy ở 100oC trong 2
giờ bằng tủ sấy Memmert UN160 (Đức) tại Phòng thí nghiệm Kỹ thuật Hóa học –
Trường Đại học Thủy lợi để xác định nước kết tinh. Để nguội đến nhiệt độ phòng rồi
đem cân khối lượng.
Tiếp tục đem phức vừa cân ở trên cho vào tủ sấy, sấy ở 120 oC trong 2 giờ để xác định
nước phối trí. Để nguội trong tủ sấy đến nhiệt độ phòng rồi đem đi cân khối lượng.
Kết quả được ghi ở bảng 2.3.2.
Bảng 2.3.2. Xác định hàm lượng nước kết tinh và nước phối trí
Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5 Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5
Trước 0,1025 0,0519 0,0505 0,0339 0,0186 0,0656 0,0297 0,03 0,0341 0,0139
Sau 0,0656 0,0297 0,03 0,0341 0,0139 0,0624 0,0377 0,0358 0,062 0,0298
∆m 0,0369 0,0222 0,0205 -0,0002 0,0047 0,0032 -0,008 -0,0058 -0,0279 -0,0159
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tổng hợp phức Để tìm ra điều kiện thích hợp để thu được phức
chất chất đồng nhất, chúng em tiến hành điều chế
phức chất trong các điều kiện khác nhau.
Kết quả được trình bày ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Điều kiện tổng hợp phức
chất coban oxalat
T
CoCl2.6H2O Na2CO3 H2O H2C2O4.2H2O K2C2O4.H2O PbO2
T
(g) (g) (ml) (g) (g) (g)
Các phức được điều chế đều cho ion trung tâm v
Nhận xét: Với tỷ lệ ion trung tâm : phối tử là 1 : 2, khi chưa cho PbO 2 sản phẩm thu
được có màu hồng và không đồng nhất, sau khi cho PbO2 ở thí nghiệm cuối cùng thì
sản phẩm có màu xanh lục đậm, dạng que nhỏ và đồng nhất khi nhìn bằng mắt thường.
Nhiệt độ phản ứng dao động ở khoảng 40oC.
Tiến hành tổng hợp phức chất theo điều kiện đã chọn để thu được sản phẩm: hòa tan
0,595g CoCl2.6H2O trong 2,5ml nước cất (dd 1). Hòa tan 0,3g Na2CO3 trong 2,5ml
nước cất (dd 2). Cho từ từ (dd 1) vào (dd 2), khuấy đều. Lọc lấy kết tủa, rửa sạch bằng
nước cất. Hòa tan 0,375g H2C2O4.2H2O và 1g K2C2O4.H2O trong 3,75ml nước cất
nóng (dd 3). Cho kết tủa thu được vào (dd 3), khuấy đều, duy trì nhiệt độ khoảng 40 oC,
thu được dung dịch đồng nhất màu tím hồng. Thêm 0,35g bột PbO 2 vào dung dịch.
Thêm từng giọt 0,375ml dung dịch axit axetic 99% chậm trong 30 phút, thu được dung
dịch màu xanh đậm. Khuấy đều, giữ nhiệt độ dung dịch khoảng 40oC. Lọc bỏ phần
cặn PbO2 dư. Tách tinh thể phức chất bằng cách thêm 10ml etanol 96o rồi làm lạnh
dung dịch thu được ở nhiệt độ 4 ÷ 5oC. Lọc lấy tinh thể, làm khô trong tủ sấy ở 50oC
trong 2 giờ, giữ trong bóng tối tránh ánh sáng. Phức chất thu được có màu xanh lục
đậm.
3.2. Xác định thành phần cấu tạo của phức chất
Quá trình phân hủy nhiệt của phức chất
Bảng 3.2. Kết quả phân tích nhiệt của phức chất
Nhận xét: Theo lý thuyết, phần trăm nước kết tinh qua quá trình phân tích nhiệt ở
100oC là 10,95% còn thực nghiệm thu được là 36% do trong phức vẫn còn nước ẩm
dẫn đến sự giảm khối lượng nhiều. Đến khi sấy nước phối trí khối lượng vẫn còn giảm
tuy nhiên không còn giảm mạnh bằng lần sấy nước kết tinh. Tuy trong thực nghiệm có
sấy thêm bốn lần nữa nhưng do cả bốn lần sau khối lượng sau khi sấy nước kết tinh và
nước phối trí đều bị tăng giảm liên tục do yếu tố chủ quan (silicagel chưa được sấy khô
hoàn toàn) cũng như yếu tố khách quan (trong quá trình hút ẩm các nhóm có mở ra mở
vào nhiều) dẫn đến việc không thể xác định được công thức phức một cách rõ ràng.
KẾT LUẬN
Chúng em đã tổng quan tình hình nghiên cứu phức chất coban với axit oxalic.
Sau một thời gian thực hiện tổng hợp phức chất coban oxalat chúng em đã tìm ra được
điều kiện để điều chế phức chất coban oxalat đồng nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoàng Nhâm, Hóa học Vô cơ, Tập III, NXB Giáo dục Việt Nam (2000).
[2] Reginald Graham Durrant, M.A, Green compounds of cobalt, J. chem. Soc.
1781 (1905).
[3] Lâm Ngọc Thụ, Cơ sở Hóa học Phân tích, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội
(2005).
[4] Lê Phi Thúy, Luận án Tiến sĩ Hóa Học, Tổng hợp phức của Cr, Mn, Fe, Co
với một số axit hữu cơ và nghiên cứu ứng dụng của chúng làm chất tạo màu
cho granit nhân tạo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2004).
[6] Đỗ Đình Rãng, Hóa học Hữu cơ, Tập II, NXB Giáo dục Việt Nam (2006).
[7] Enrique J. Barana, Natural oxalates and their analogous synthetic Complexes,
Journal of Coordination Chemistry. 67:23-24, 3734-3768 (2014).
[8] Khushbu Zope, Novel Synthesis of a Solid Silver Oxalate Complex Used for
Printing Conductive Traces, Rochester Institute of Technology RIT Scholar
Works (2017).
[11] Nguyễn Thị Thanh Chi, Giáo trình Thực hành Tổng hợp Hóa học Vô cơ, NXB
Đại học Sư phạm Hà Nội (2013).
[12] J.E. House, Jr. Thomas, G. Blumthal, Thermal studies on oxalate complexes,
complexes of cobalt(III) and cobalt(II), Thermochimica Ada, 43 237-241 (1981).
[15] Trần Thị Đà, Phức chất-phương pháp tổng hợp và nghiên cứu cấu trúc, NXB
Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội (2006).
[16] Lê Thị Hồng Hải, Luận án Tiến sĩ Hoá học, Tổng hợp phức của Cr,Mn, Fe, Co
với một số axit hữu cơ nghiên cứu ứng dụng một số phức chất tạo màu cho
granit nhân tạo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2009).
[20] Đặng Thị Thanh Lê, Luận án Thạc sĩ Khoa học Hóa học, Điều chế và nghiên
cứu tính chất một số phức chất của crom, mangan, sắt với các axit fomic,
oxalic, tactric và xitric, Trường Đại học Sư phạm. Đại học Quốc gia Hà Nội
(1999).
[21] Lê Chí Kiên, Hóa học và phức chất, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội (2006).
[22] Trần Thị Thúy, Phân tích Công cụ, NXB Bách Khoa Hà Nội (2016).
[23] Nguyễn Thị Huyền Tâm, Nguyễn Thị Hương, Trương Thị Cẩm Mai, Nguyễn
Thị Thanh Chi, Tổng hợp, cấu trúc , hoạt tính kháng tế bào ung thư của hai
phức chất platin(II) chứa metyleugenol và p-cloanilin, Tạp chí Hoá học, 54
549- 554 (2016).
[24] Nguyễn Thị Phương Chi, Luận án Tiến sĩ Hoá Học, Tổng hợp, xác định cấu
trúc, tính chất và thăm dò hoạt tính chống ung thư của một số phức chất cis-
dicloroanilinaminplatin(II), Viện Hoá Học (2001).
[25] Trương Thị Cẩm Mai, Luận án Tiến sĩ Hoá Học, Nghiên cứu tổng hợp cấu
trúc tính chất của một số phức chất Platin (II) có chứa phối tử amin và ankyl
eugenxyaxetat, Đại học Sư phạm Hà Nội (2012).
[26] Vi Thị Thanh Thuỷ, Luận văn Thạc sĩ Khoa học, Tổng hợp nghiên cứu cấu
trúc và ứng dụng của phức chất lysine với một số kim loại sinh học, Đại học
Khoa học Tự Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (2014).
[27] Lê Hữu Thiềng, Luận án Tiến Sĩ Hoá Học, Nghiên cứu sự tạo phức của một
số nguyên tố đất hiếm với L-phenylalanin và thăm dò hoạt tính sinh học của
chúng, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (2002).