Nhóm 1 - Bài Thuyết Trình Triết Học

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 14

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH


MÔN TRIẾT HỌC

Đề tài: Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học phương Đông và
Triết học Phương Tây

Lớp: K32NH5
Giảng viên: Lê Thị Hồng
Nhóm 1
Đỗ Hải My (Trưởng nhóm)
Dương Đình Dũng
Nguyễn Thị Thuỳ Linh
Trần Cao Long
Lê Thị Anh Thư
Nguyễn Thanh Tùng

Hà Nội, 2024
MỤC LỤC
Lời mở đầu................................................................................................................................................... 1
I. Tổng quan về Triết học phương Đông và triết học phương Tây .................................................... 2
1. Tổng quan về triết học phương Đông........................................................................................... 2
2. Tổng quan về Triết học phương Tây ............................................................................................ 3
II. Những điểm khác biệt giữa Triết học phương Đông và Triết học phương Tây ............................ 4
III. Những điểm tương đồng giữa Triết học phương Đông và Triết học phương Tây .................... 8
IV. Kết luận........................................................................................................................................... 9
1. Tóm tắt ............................................................................................................................................ 9
2. Ứng dụng trong điều kiện thực tế của Việt Nam ......................................................................... 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................................ 11
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC.......................................................................................................... 12

ii
Lời mở đầu
Nền triết học thế giới phong phú và đa dạng đều là được góp phần bởi triết học phương Đông và
phương Tây. Những nền triết học này đã để lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử. Tuy
rằng triết học phương Đông và phương Tây đều có những đặc điểm và vấn đề chung của triết học,
những đặc thù riêng của từng nền triết học vẫn hiện hữu. Chỉ được ra rõ nhứng đặc điểm tương đồng
và khác biệt sẽ là một vấn đề phức tạp cần nghiên cứu, những cũng sẽ rất thú vị vì ta có thể hiểu thêm
về giá trị tư tưởng triết học nhân loại. Vì vậy, nhóm chúng tôi chọn đề tài thuyết trình về “Sự tương
đồng và khác biệt giữa Triết học phương Đông và Triết học Phương Tây”.

Trong bài thuyết trình này, chúng tôi sẽ nói về những phần như sau: Tổng quan về Triết học phương
Đông và phương Tây; Những điểm khác biệt giữa Triết học phương Đông và Triết học phương Tây;
Những điểm tương đồng giữa Triết học phương Đông và Triết học phương Tây; và cuối cùng là phần
kết luận.

1
I. Tổng quan về Triết học phương Đông và triết học phương Tây
1. Tổng quan về triết học phương Đông

Triết học phương Đông là nền Triết học của các quốc gia thuộc khu vực Châu Á và những tư tưởng
triết học ở các nước vùng Trung Cận Đông. Cái nôi của Triết học phương Đông là Trung Quốc và Ấn Độ
thời Cổ, Trung đại

Với khái niệm đó, các nền triết học phương Đông có những đặc điểm sau:

• Trọng tâm nghiên cứu: Triết học Phương Đông tập trung nghiên cứu vấn đề con người và những
vấn đề liên quan đến con người. Lấy con người và vấn đề của con người làm đối tượng nghiên cứu.
• Thế giới quan: Thế giới quan bao trùm của Triết học Phương Đông là thế giới quan mang màu sắc
duy tâm. Nét đặc thù của tư tưởng triết học này chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng tôn giáo có tính
chất "hướng nội". Xu hướng lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm
linh tôn giáo nhằm đạt tới sự "giải thoát" là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học - tôn giáo
của phương Đông. Cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy tâm ở Triết học phương Đông có diễn ra
nhưng nó không gay gắt. Chính vì vậy, trong lịch sử và cho đến ngày nay, các yếu tố về khoa học
và kĩ thuật thường ít được nhắc đến mặc dù có những phát minh khoa học nổ ra ở phương Đông.
• Các tư tưởng Triết học ít tồn tại dưới dạng thuần tuý, thường đan xem với các hình thái ý thức xã
hội khác. Như vậy, thông qua việc nghiên cứu về tôn giáo, chính trị, học thuyết đạo đức, văn học,…
người ta mới chắt lọc ra các tư tưởng Triết học. Vậy nên nếu mang lăng kính của phương Tây soi
vào thì phương Đông của chúng ta gần như ko có Triết học.
• Phương pháp nhận thức: Triết học phương Đông thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến sự hiểu
biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng. Trực giác giữ được cái tổng thể mà tư duy
phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng nhược điểm là không phổ biến rộng được. Trực
giác mỗi người mỗi khác. Và không phải lúc nào trực giác cũng đúng. Thực ra 2 biện pháp kết hợp
lẫn nhau, nhưng ở đây nói về thiên hướng.
• Tính đại chúng / tính nhân dân: Các trường phái triết học phương Đông ra đời gắn liền với văn hoá
dân gian, là sản phẩm của tập thể hơn là của cá nhân

2
2. Tổng quan về Triết học phương Tây

Triết học Phương Tây có cội nguồn từ lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại và là nguồn cảm hứng để làm
phong phú và được coi là sự “kết tinh tinh thần thời đại”, là nền tảng cho phương thức tư duy và hành động
nói riêng.

Triết học phương Tây có thể hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, triết học phương Tây là hệ thống
quan điểm, quan niệm của người phương Tây thế hiện qua các trào lưu, tư tưởng triết học kể từ khi xuất
hiện triết học Hy Lạp cổ đại cho đến các trào lưu, tư tưởng triết học phương Tây ngày nay. Theo nghĩa hẹp,
triết học phương Tây được xem như các trào lưu, quan điểm triết học đương đại và thường được hiểu là
triết học ngoài mácxít. Theo đó, khái niệm "triết học phương Tây" mang sắc thái chính trị và tính giai cấp
rõ nét. Ở một khía cạnh nào đó, nó được hiểu theo nghĩa đối lập với triết học mácxít với cái tên gọi "triết
học tư sản hiện đại" hay "triết học phi mácxít hiện đại". Các thuật ngữ đó thường được xem là đồng nghĩa
với nhau.

Với khái niệm đó, các nền triết học phương Tây có những đặc điểm sau:

• Các khuynh hướng Triết học phương Tây đều có cội nguồn sâu xa là từ Triết học Hy Lạp cổ đại.
• Trọng tâm nghiên cứu: Đối tượng của triết học phương Tây rất rộng gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội,
tư duy mà gốc là tự nhiên. Nó ngả theo hướng lấy ngoại (ngoài con người) để giải thích trong (con
người), nói chung xu hướng nổi trội là duy vật.
• Phương pháp nhận thức: Với phương pháp tư duy duy lí, phân tích, phương Tây đi gần mãi đến
chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy luật của toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp
độ bản chất thấp đến mức độ bản chất cao hơn. Vì vậy, cái mạnh của phương Tây là khoa học, kỹ
thuật và về sau là công nghệ phát triển, và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn
cùng. Cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá, cách ly hoá, làm mất đi tính tổng thể.
• Triết học phương Tây có sự gắn bó chặt chẽ giữa Triết học và khoa học, đánh giá cao vai trò của lý
tính, khoa học. Vậy nên làm ảnh hưởng đến quan điểm, học thuyết Triết học (Ví dụ như Talet,
Pitago,…)

3
II. Những điểm khác biệt giữa Triết học phương Đông và Triết học phương Tây

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích khá chính xác về phương Đông khi Người cho rằng: “Ở đó về cấu
trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ cũng như thời cận đại và đấu tranh giai cấp
ở đó không quyết liệt như ở phương Tây” (Hồ Chí Minh toàn tập – T1. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
1995, Tr. 465). Như vậy, với những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, triết học phương Đông và phương
Tây tất yếu phải có những điểm khác nhau.

Triết học phương Tây thường đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận đến nhân sinh quan, nhận
thức luận, logic học để từ đó tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh, chặt chẽ thì triết học Phương Đông lại đi
ngược lại nghĩa là từ nhân sinh quan đến thế giới quan.

Nếu như các nhà triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại thường đi tìm những yếu tố đầu tiên tạo nên thế giới
như nước, lửa, không khí… thì ở Phương Đông hai nhà tư tưởng lớn tiêu biểu là Khổng Tử và Đức Phật
lại không làm như vậy. Đứng trước xã hội loạn lạc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã đưa ra học thuyết Nhân –
đường lối đức trị nhằm ổn định trật tự xã hội lúc bấy giờ. Bởi vậy có người coi học thuyết của Khổng Tử
là học thuyết mang tính chất chính trị, xã hội – đạo đức chứ không phải là học thuyết triết học, bởi lẽ nó
hầu như không có phần bản thể luận hay vũ trụ quan. Đến Mạnh Tử thời Chiến Quốc thì tình hình này hầu
như không có gì thay đổi. Mãi đến thời Tống sau này, khiếm khuyết đó mới được bổ sung bằng những yếu
tố thế giới quan, vũ trụ quan của Phật và Lão. Phật giáo cũng vậy, đầu tiên không phải đi vào xây dựng vũ
trụ quan hay bản thể luận mà đối với Phật giáo vấn đề cấp bách là cứu khổ của chúng sinh. Bởi vậy, Phật
giáo đưa ra phương pháp, biện pháp để cứu khổ và kêu gọi chúng sinh hãy thấm nhuần. Có ý kiến cho rằng
Phật giáo không bao giờ bàn đến những vấn đề siêu hình trừu tượng. Như vậy, hai học thuyết cơ bản của
Phương Đông là Nho giáo và Phật giáo đều đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan, trái ngược với triết học
Phương Tây. Có thể nói, nếu triết học Phương Tây đi từ gốc đến ngọn thì triết học Phương Đông hầu như
đi từ ngọn đến gốc.

Nếu ở phương Tây triết học thường gắn liền với những thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự
nhiên và nhà triết học thường là nhà khoa học, nhà bác học (Ví dụ như Pitago, Talet,…) thì ở Phương Đông
triết học lại chịu ảnh hưởng lớn từ tôn giáo.

Triết học Ấn Độ và triết học Trung Quốc ngay từ đầu đã quyện lẫn với tôn giáo. Triết học Ấn Độ biểu
hiện rõ nét hơn triết học Trung Quốc. Xã hội Ấn Độ ngay từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thần quyền đã ngự trị
trên vương triều. Tình trạng này kéo dài không dưới bốn nghìn năm. Nói chung 9 trường phái của triết học
Ấn Độ hoặc ít nhiều đều bắt nguồn từ Kinh Vêđa, một bộ kinh tối cổ xuất hiện khoảng giữa thiên niên kỷ
thứ II trước công nguyên. Kinh Vêđa cũng là kinh điển của đạo Bà la môn – Tôn giáo có mặt sớm nhất ở
Ấn Độ xa xưa. Như vậy, kinh Vêđa buổi đầu xuất hiện với tư cách là tôn giáo chứ không phải tư cách triết

4
học. Tính triết học rõ nét khi kinh Vêđa được bổ sung thêm phần Upanisad sau này (Upanisad là sách triết
lý – tôn giáo cuối giai đoạn Véda. Upanisad có nghĩa là tri thức bí mật, thể hiện khát vọng hệ thống hóa các
tín ngưỡng cổ). Như vậy, triết học Ấn Độ thoát thai từ tôn giáo và sống dựa vào tôn giáo chứ không đẩy lùi
tôn giáo như Phương Tây. Kinh dịch ( là bộ sách kinh điển của nước Trung Hoa và văn hóa của quốc gia
này, là một trong "Ngũ Kinh" của Trung Hoa, là một hệ thống tư tưởng triết học của người Trung Quốc cổ
đại) xuất hiện từ thời Ân – Chu ở Trung Quốc cũng với tư cách là tôn giáo nhiều hơn là triết học. Như vậy,
triết học từ Dịch truyện cũng dựa vào tôn giáo để tồn tại.

Mục đích của triết học Phương Tây là giải thích và cải tạo thế giới. Điều này đã được C.Mác chỉ rõ:
Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới.
Còn mục đích của triết học Phương Đông lại nhằm xây dựng một xã hội có trật tự kỷ cương và hòa mục,
nhân ái (Nho giáo); giải thoát cho con người (Phật giáo) và làm cho con người hoà đồng với thiên nhiên
(Đạo gia).

Về đối tượng của triết học Phương Tây rất rộng, bao gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy nhưng nó
lấy tự nhiên làm gốc, làm cơ sở. Vì đối tượng nghiên cứu rộng như vậy nên phạm vi tri thức của nó cũng
rất rộng, bao gồm mọi lĩnh vực. Trong khi đó, đối tượng của triết học Phương Đông lại là xã hội, cá nhân
con người, là cái tâm và cái nhìn chung nó lấy con người làm gốc.

Triết học Phương Tây lấy tự nhiên làm gốc nên nó hơi ngả sang hướng ngoại, lấy bên ngoài giải thích
bên trong. Điều đó quy định tính chất của triết học Phương Tây là hơi ngả về duy vật. Khuynh hướng trội
này còn được chứng minh bởi nó đi từ thế giới quan đến nhân sinh quan, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng
kiến trúc. Điều đó đã được chứng minh: trong triết học thời Hy Lạp – La Mã cổ đại thì chỉ có 2 trường phái
là duy tâm (Platon, Pithagore). Còn triết học Phương Đông bàn đến là vấn đề: Thiên – Địa – Nhân (trời, đất
và con người). Điều đó quy định tri thức của triết học Phương Đông chủ yếu là về xã hội, chính trị, đạo
đức, tâm linh. Nếu triết học Phương Tây hơi nghiêng về hướng ngoại thì triết học Phương Đông hơi nghiêng
về hướng nội. Nếu triết học Phương Tây lấy ngoài giải thích trong thì triết học Phương Đông lại lấy trong
giải thích ngoài. Nếu triết học Phương Tây hơi ngả về Duy vật thì triết học Phương Đông hơi ngả về Duy
tâm. Trong triết học Ấn Độ cổ đại thì hầu hết là trường phái duy tâm, chỉ còn lại một trường phái duy vật
là Lokayata, điều này được lý giải bởi triết học Ấn Độ đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan.

Triết học Phương Đông từ thời xa xưa đã thiên về đạo đức. Ngược lại, khuynh hướng chung của triết
học Phương Tây là tuyệt đối hoá trí tuệ. Học thuyết Nhân của Khổng Tử đã ngự trị suốt mấy nghìn năm
trong lịch sử Trung Hoa là học thuyết đạo đức – chính trị. Giải thích về chữ Nhân, Khổng Tử trả lời: Yêu
người. Giải thích về trí tuệ, Khổng Tử trả lời: hiểu về con người. Như vậy, nội dung học thuyết của Khổng
Tử là học thuyết về đạo đức nhân văn. Phật giáo ở Ấn Độ cũng vậy, luôn khuyên con người phải khuyến

5
thiện, làm phước, lời nói phải ngay thẳng, chân chính… Mặc dù, Pháp gia ở Trung Quốc lại chú trọng đến
tài năng, trí tuệ, nhưng nhìn chung triết học Phương Đông có khuynh hướng chung là thiên về đạo đức.
Ngược lại, khuynh hướng chung của triết học Phương Tây là tuyệt đối hoá trí tuệ, đặc biệt là thời kỳ ánh
sáng (thế kỷ XVII-XVIII) người ta đã xem trí tuệ như đôi đũa thần kỳ của nàng tiên trong truyện Lọ Lem
có thể đem lại cho nhân loại mọi thứ trên đời. Triết học Phương Tây thiên về trí tuệ phù hợp với sự phát
triển của Chủ nghĩa tư bản, dựa trên nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vị lợi, phát huy tính phiến
diện này đến đỉnh cao trong nền kinh tế thị trường. Cho nên cùng với nó là sự suy thoái về đạo đức là dĩ
nhiên. Mà sự suy thoái về đạo đức ở Phương Tây là từ biểu hiện tan giã gia đình. Trong lúc đó, ở Phương
Đông đạo đức lại được củng cố ngay từ gia đình. Cho nên tinh thần cộng động, họ hàng đặt Nghĩa lên trên
Lợi luôn đè bẹp sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân theo kiểu Phương Tây.

Về phương tiện, nếu triết học Phương Tây hơi ngả về tư duy duy lý, phân tích, mổ xẻ thì triết học
Phương Đông hơi ngả về trực giác. Phương pháp tư duy duy lý đã tạo ra những điều kiện cho sự phát triển
của khoa học kỹ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà các nước Phương Tây có nền khoa học công nghệ đứng
đầu thế giới. Nhưng xét ở góc độ triết học, phương pháp này có mặt yếu của nó. Như chúng ta đã biết, quá
trình nhận thức, quá trình đi đến chân lý cuối cùng là vô hạn. Theo Lênin, con người không thể nắm bắt
giới tự nhiên một cách đầy đủ như là chỉnh thể trong tính “chỉnh thể trực tiếp” của giới tự nhiên; tất cả
những cái mà con người có thể nhận thức được là đi gần mãi đến đó bằng cách tạo ra những trừu tượng,
những khái niệm, những quy luật – một bức tranh khoa học về vũ trụ. Phương pháp trực giác là sự cảm
nhận hay thể nghiệm, đó là đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Phương Đông. Cảm nhận
(hay thể nhận) tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp, khơi dậy linh
cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó nắm vững bản thể. Đặc biệt là các nhà tư tưởng triết học
Trung Quốc đều quen với những phương thức tư duy trực giác.

Một điểm khác nhau có tính phương pháp luận giữa hai nền triết học Đông Tây là ở chỗ: triết học
Phương Tây tách rời chủ thể và khách thể, chủ quan và khách quan, người nhận thức và đối tượng nhận
thức. Trong khi đó, triết học Phương Đông lại cho rằng, muốn hiểu đối tượng thì phải hoà vào đối tượng.
Con người phải hài hoà với thiên nhiên. Ngày nay một số bậc học giả cho rằng khuynh hướng trội của
Phương Tây là hướng ngoại, chủ động tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành
trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư duy, cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể… còn khuynh
hướng trội của Phương Đông là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí, hoà hợp, quân bình, thống nhất,
hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp, minh triết, trực giác, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý
nhiều tới quan hệ…

6
Phương diện so
Triết học phương Tây Triết học phương Đông
sánh
Nguồn gốc Đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể Đi ngược lại từ nhân sinh quan đến thế
luận đến nhân sinh quan, nhận thức giới quan (từ ngọn đến gốc).
luận, logic học (từ gốc đến ngọn).
Ảnh hưởng Thường gắn với những thành tựu khoa Bị ảnh hưởng lớn bởi tôn giáo.
học.
Mục đích Mục đích của triết học là giải thích và Mục đích của triết học nhằm xây dựng
cải tạo thế giới. một xã hội có trật tự kỷ cương và hòa
mục, nhân ái (Nho giáo); giải thoát cho
con người(Phật giáo) và làm cho con
người hoà đồng với thiên nhiên (Đạo
gia).

Đối tượng Đối tượng của triết học rất rộng, bao Đối tượng của triết học là xã hội, cá
gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy nhân con người, là cái tâm và cái nhìn
nhưng nó lấy tự nhiên làm gốc, làm cơ chung, nó lấy con người làm gốc.
sở. (Nghiêng về hướng ngoại, lấy ngoài (Nghiêng về hướng nội, lấy trong giải
giải thích trong, ngả về duy vật). thích ngoài, ngả về duy tâm).

Thiên hướng Tuyệt đối hóa trí tuệ. Thiên về đạo đức.
Phương tiện Phương pháp nhận thức: Hơi ngả về tư Phương pháp nhận thức: Hơi ngả về
duy duy lý, phân tích, mổ xẻ. trực giác.
Phương pháp luận Tách rời chủ thể và khách thể, chủ quan Muốn hiểu đối tượng thì phải hoà vào
và khách quan, người nhận thức và đối đối tượng
tượng nhận thức.

7
III. Những điểm tương đồng giữa Triết học phương Đông và Triết học phương Tây

Các trào lưu triết học phương Đông và phương Tây đều được nảy sinh trên những điều kiện kinh tế -
xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Xét trong mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
thì triết học là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, do đó các học thuyết triết học Đông-Tây đều chịu sự
quyết định của cơ sở hạ tầng và cũng có vai trò hết sức to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Một ví dụ đó là chủ
nghĩa Marx là kết quả từ sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản cầm quyền. Trong khi đó ở
phương Đông, Phật giáo là tiếng nói của những người thuộc đẳng cấp thứ tư trong xã hội.

Mặc dù sử dụng những khái niệm và phạm trù khác nhau, nhưng cả Triết học Phương Đông và Phương
Tây đều phải bàn đến vấn đề cơ bản của triết học, đồng thời đều tuân theo những phương pháp chung trong
nhận thức thế giới: Phương pháp biện chứng hoặc Phương pháp siêu hình. Ta có thể thấy rõ qua góc nhìn
duy tâm của Plato hay phương pháp luận của Hegel.

Triết học Phương Đông và Phương Tây tuy ở những khía cạnh, mức độ khác nhau nhưng đều bàn đến
vấn đề con người. Tại những thời kỳ lịch sử khác nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con người. Trong
Phật giáo, con người thường được xem là một phần của vũ trụ lớn, và mục tiêu của cuộc sống là giải thoát
khỏi sự gắn kết với sự đau khổ của vòng luân hồi. Phật giáo coi con người không chỉ là cơ thể vật chất mà
còn là tinh thần, và qua việc tu tập và giác ngộ, con người có thể đạt được sự giải thoát và sự an lạc tối cao.
Còn Nho giáo tập trung vào việc xây dựng một xã hội lý tưởng thông qua việc rèn luyện đạo đức và đức tin
của con người. Con người trong Nho giáo được coi là một phần quan trọng của xã hội, và nhiệm vụ của họ
là thực hiện các vai trò xã hội của mình một cách đúng đắn và tôn trọng.

Dù là triết học Phương Đông hay Phương Tây, mỗi học thuyết đều có xu hướng kế thừa từ những học
thuyết trước đó hoặc trong quá trình phát triển của chính nó. Đồng thời, cũng có sự loại bỏ những quan
điểm đã lỗi thời hoặc không phù hợp với quan điểm của tầng lớp thống trị. Ta có thể thấy triết học Marx kế
thừa phép biện chứng của triết học Hegel nhưng cũng đã thay đổi từ góc nhìn duy tâm sang góc nhìn duy
vật. Như vậy, quá trình phát triển đó không chỉ là sự tiếp nối mà còn là sự cải tiến, đổi mới trong quá trình
tìm kiếm sự thật.

Dù ở Phương Đông hay Phương Tây, bản thân mỗi học thuyết triết học đều có những mặt tích cực và
hạn chế của nó, nhưng đã góp phần tạo nền tảng phát triển cho các học thuyết sau này và những giá trị văn
minh nhân loại.

8
IV. Kết luận
1. Tóm tắt

Triết học phương Đông là nền triết học của các quốc gia thuộc khu vực Châu Á và những tư tưởng triết
học ở các nước vùng Trung Cận Đông. Cái nôi của Triết học phương Đông là Trung Quốc và Ấn Độ thời
Cổ, Trung đại. Triết học phương Tây là hệ thống quan điểm, quan niệm của người phương Tây thế hiện qua
các trào lưu, tư tưởng triết học kể từ khi xuất hiện triết học Hy Lạp cổ đại cho đến các trào lưu, tư tưởng
triết học phương Tây ngày nay.

Triết học phương Đông và phương Tây gần như đối lập nhau nên có khá ít những điểm tương đồng. Triết
học Phương Đông và Phương Tây đều được hình thành, phát triển trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và duy tâm. Triết học Phương Đông và Phương Tây đều tuân theo những phương pháp chung trong
nhận thức thế giới: Phương pháp biện chứng hoặc Phương pháp siêu hình. Và mỗi học thuyết trong triết
học ở Phương Đông hay Phương Tây cũng vậy, đều có những mặt tích cực và hạn chế của nó nhưng đã góp
phần tạo nền tảng phát triển cho các học thuyết sau này và những giá trị văn minh nhân loại.

Điểm khác biệt giữa hai nền triết học thì có khá nhiều, từ đối tượng, bản thể luận đến mục đích, phương
tiện và phương pháp luận. Những điều này góp phần tạo nên nét đặc trưng của Triết học phương Đông và
Triết học Phương Tây.

2. Ứng dụng trong điều kiện thực tế của Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á nên trong quá trình phát triển nền văn
hóa Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng và chi phối bởi các đặc trưng văn hóa của các quốc gia phương Đông
nói chung. Tuy nhiên, quá trình lịch sử cũng như quá trình phát triển đất nước trong điều kiện toàn cầu
hóa sự giao lưu văn hóa Đông - Tây là một xu hướng tất yếu trong đó có Việt Nam. Triết học phần nào
dó thể hiện góc nhìn và quan điểm của một cộng đồng tại một thời điểm nhất định. Do đó, khi nghiên
cứu và so sánh giữa các quan điểm triết học phương Đông và phương Tây, ta có thể nhìn ra những điểm
khác nhau trong văn hóa từng khu vực và ứng dụng trong việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Thứ nhất, cần tạo lập một môi trường đa văn hóa trong phát triển văn hóa ở mỗi quốc gia. Tính đa
văn hóa trong phát triển văn hóa quốc gia hiện nay được hiểu là tính chất đa dạng, sự giao lưu và tồn tại
đan xen các dạng thức văn hóa khác nhau trong một nền văn hóa thống nhất. Bài học từ các quốc gia
phát triển cho thấy việc tạo một môi trường đa văn hóa không chỉ không cản trở mà còn thúc đẩy sự phát
triển. Nhật Bản, một quốc gia hàng đầu châu Á, đã tạo ra sự phát triển thần kỳ vào thập kỷ 60 của thế
kỷ XX nhờ xây dựng một nền văn hóa đa văn hóa từ gần một thế kỷ trước. Câu nói nổi tiếng cuối thế kỷ

9
XIX, đầu thế kỷ XX của người Nhật: “Con người Nhật Bản, kỹ thuật phương Tây” minh chứng cho điều
này.

Thứ hai, phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế của văn hóa phương Đông và phương Tây
trong việc tạo lập một nền văn hóa mới. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng xây dựng một nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để hoàn thành mục tiêu này chúng ta phải xác định
rõ những giá trị trong văn hóa truyền thống cần phát huy cũng như hạn chế những nhược điểm có thể
gây cản trở cho sự phát triển của nó. Đối với việc tiếp thu các giá trị văn hóa phương Tây trong quá trình
xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam cũng cần có quan điểm biện chứng, nghĩa là biết kế thừa, tiếp
thu những giá trị hợp lý, đồng thời cũng biết loại bỏ những giá trị không phù hợp. Văn hóa Việt Nam
trong tương lai phải giữ gìn được bản sắc tốt đẹp, nhưng cũng cần tiếp thu giá trị hợp lý từ văn hóa
Phương Tây. Nhiều quốc gia phát triển trong khu vực như Hàn Quốc và Nhật Bản đã tạo ra bản sắc riêng
cho nền văn hóa của mình bằng cách chú trọng đến giá trị văn hóa Phương Đông và tiếp thu giá trị tích
cực từ văn hóa Phương Tây.

Thứ ba, hạn chế và ngăn ngừa sự xung đột giữa các tôn giáo trong phát triển văn hóa. Tôn giáo hiện
nay không chỉ là vấn đề đức tin mà còn liên quan đến văn hóa cá nhân và cộng đồng. Mối quan hệ giữa
các tôn giáo thể hiện qua sự giao lưu văn hóa. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, sự khác biệt về đức
tin có thể dẫn đến xung đột văn hóa, gây ra hệ lụy phức tạp, tổn thương giá trị văn hóa. Do đó, trong quá
trình phát triển văn hóa, cần chú ý giải quyết mối quan hệ giữa các tôn giáo để hạn chế xung đột.

10
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2005). Giáo trình triết học (Dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh
không chuyên ngành triết học).
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình triết học (Dùng trong đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các ngành
khoa học xã hội và nhân văn không chuyên ngành triết học). Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dùng cho bậc đại học không chuyên lý luận
chính trị). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật.
[4] Dương Minh Ngọc Hoa. (2021). Một số đặc điểm của triết học phương Tây hiện đại. Trương Chính
Trị Tây Ning. Truy cập ngày 18/03/2021 tại: https://truongchinhtri.tayninh.gov.vn/hoat-dong-nghien-
cuu-khoa-hoc/MOT-SO-DAC-DIEM-CUA-TRIET-HOC-PHUONG-TAY-HIEN-DAI-235-235.html
[5] Hoàng Lê Khánh Linh. (2022). Bình luận và phân tích về triết học cổ điển ở Đức. Truy cập ngày
20/03/2024 tại: https://luatminhkhue.vn/binh-luan-va-phan-tich-ve-triet-hoc-co-dien-o-duc.aspx#6-
dac-diem-co-ban-cua-triet-hoc-co-dien-duc
[6] Hoàng Lê Khánh Linh. (2022). Triết học Tây Âu thời Phục Hưng và Cận Đại, các nhà triết gia tiêu
biểu của triết học tiêu biểu. Truy cập ngày 20/03/2024 tại: https://luatminhkhue.vn/triet-hoc-tay-au-
thoi-phuc-hung-va-can-dai-cac-nha-triet-gia-tieu-bieu-cua-triet-hoc-tieu-bieu.aspx#google_vignette
[7] Pháp luận dân sự. (2007). Vài so sánh giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây. Truy cập
ngày 20/03/2024 tại: https://phapluatdansu.edu.vn/2007/09/11/04/01/859899/
[8] Lý Luận Chính Trị. (2014). Giao lưu văn hóa Đông - Tây và những bài học đối với phát triển văn
hóa Việt Nam. Truy cập ngày 20/03/2024 tại: Giao lưu văn hóa Đông - Tây và những bài học đối với
phát triển văn hóa Việt Nam (lyluanchinhtri.vn)

11
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC
Đỗ Hải My - Phụ trách nghiên cứu, viết kịch bản và thuyết trình phần Những điểm
khác biệt giữa Triết học phương Đông và Triết học phương Tây.
- Chỉnh sửa Word bản thuyết trình.
- Góp ý chỉnh sửa slide thuyết trình.
Dương Đình Dũng - Phụ trách nghiên cứu, viết kịch bản cho phần Tổng quan về triết học
phương Tây.
- Làm và chỉnh slide theo yêu cầu.
Nguyễn Thanh Tùng - Phụ trách nghiên cứu, viết kịch bản cho phần Tổng quan về triết học
phương Tây.
- Phụ trách nghiên cứu các nền triết học tiêu biểu của phương Tây.
- Làm và chỉnh slide theo yêu cầu.
Trần Cao Long - Phụ trách nghiên cứu, viết kịch bản và thuyết trình phần Những điểm
tương đồng giữa Triết học phương Đông và Triết học phương Tây.
- Chỉnh sửa Word bản thuyết trình.
- Góp ý chỉnh sửa slide thuyết trình.
Nguyễn Thị Thuỳ - Phụ trách nghiên cứu, viết kịch bản và thuyết trình phần Tổng quan về
Linh triết học phương Đông và Tổng quan về triết học phương Tây.
- Phụ trách nghiên cứu các nền triết học tiêu biểu của phương Đông.
- Góp ý chỉnh sửa slide thuyết trình.
Lê Thị Anh Thư - Phụ trách nghiên cứu và viết kịch bản Tổng quan về triết học phương
Đông.
- Phụ trách nghiên cứu các nền triết học tiêu biểu của phương Đông.
- Góp ý chỉnh sửa slide thuyết trình.

12

You might also like