Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 18

(/vi/)

 (/vi/)
GIỚI THIỆU (/vi/about/) ▼
ĐÀO TẠO - BỒI DƯỠNG ▼
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC ▼
VĂN BẢN (/vi/laws/)
ĐẢNG - ĐOÀN THỂ ▼

Tìm kiếm... 

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHÍNH SÁCH XÃ
HỘI TRONG THỜI KỲ MỚI
(http://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/
Thứ sáu - 05/01/2024 14:39   ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/)
 (/vi/news/savefile/bao-ve-nen-tang-tu-
tuong-cua-dang/quan-diem-cua-dang-
cong-san-viet-nam-ve-chinh-sach-xa-hoi-
trong-thoi-ky-moi-316.html)
(/news/phong-chong-dien-bien-hoa-
Nguồn tin: Th.S Mai Văn Bay- Trưởng khoa XDĐ
binh/)

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan
tâm xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội; coi đây vừa
là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững đất nước, ổn định chính trị - xã
hội, thể hiện bản chất tốt đẹp về quyền con người Việt Nam và chế độ xã hội xã hội (https://hcma.vn/Pages/default.aspx)
chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12 - 1986) đã

đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đại hội khẳng định: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của
(https://kontum.gov.vn)
cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình,

quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc... thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà

nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”1. Đồng thời, Văn kiện Đại

hội nhấn mạnh: “Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục

tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đó là một bước tiến mới trong

nhận thức về chính sách xã hội của Đảng”2.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) tiếp tục khẳng định tầm

quan trọng của phát triển xã hội, vị trí, vai trò của chính sách xã hội và nhấn mạnh mục tiêu của

chính sách xã hội trong mối quan hệ với chính sách kinh tế: “Mục tiêu của chính sách xã hội

thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người

và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng

trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của Nhân dân.

Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính

sách xã hội là động lực thúc đNy phát triển kinh tế”3.Đại hội nhấn mạnh: “Huy động mọi khả

gov.vn/vi/news/bao-
ng/)

en-hoa-

lt.aspx)
năng của Nhà nước và của Nhân dân, trung ương và địa phương để cùng nhau giải quyết các

vấn đề của chính sách xã hội”4.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua

tại Đại hội VII của Đảng nêu rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động

lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa

xã hội.

Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo

đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế

với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước

mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”5.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6 - 1996), Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng

trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt

quá trình phát triển”6. Đồng thời, Đại hội nêu rõ:“Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết

theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân,

các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia

giải quyết những vấn đề xã hội”7.

Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) thống nhất quan điểm: “Thực hiện các chính

sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối,

tạo động lực mạnh mẽ trong phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động, thực hiện bình đẳng

trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Giải quyết việc làm là một

chính sách xã hội cơ bản”. Đồng thời, Đảng ta khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền

vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”8.

Khi tổng kết 20 năm đổi mới đất nước, Đại hội X của Đảng (năm 2006) chủ trương phát triển xã

hội và quản lý phát triển xã hội phải tiếp tục được đặt trong mối quan hệ không tách rời với phát

triển kinh tế và quản lý phát triển kinh tế. Văn kiện Đại hội Đảng nêu: “Thực hiện tiến bộ và

công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”9.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) khẳng định:“Kết hợp chặt

chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống

tinh thần”10. Để thực hiện tốt mục tiêu công bằng trong các chính sách xã hội, Đảng ta nhấn

mạnh chính sách xã hội phải phù hợp với từng đối tượng, từng giai cấp, tầng lớp trong xã hội.

Quán triệt các quan điểm của Đảng, "từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan

tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động

lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Hệ

thống pháp luật và chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng được bổ sung và hoàn

thiện. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu

tư phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn, được tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước
tư phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn, được tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước

và các nguồn lực xã hội khác. Các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là

giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có

hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, công tác gia đình và bình đẳng giới. Đời sống vật chất và tinh thần

của người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố

lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội. Nước ta được Liên hợp quốc công nhận là

một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ"11.

Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016) nhận

định: “Đảng đã nhận thức ngày càng cụ thể và đầy đủ hơn tầm quan trọng, mục tiêu và nội dung

của việc giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội, phúc lợi xã hội... Nhận thức rõ

hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước

và từng chính sách phát triển; vai trò của chính sách xã hội, sự thống nhất và kết hợp hài hòa

giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội”12.

Đại hội XII đặt ra quan điểm phát triển xã hội bền vững, đồng thời, Đảng ta khẳng định:

“Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất

lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành

quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước”13.

Kế thừa và phát triển các thành quả đạt được trong các kỳ đại hội trước, Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021) khẳng định: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an

sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã

hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của

nhân dân”14. Mặt khác, Đại hội đã xác lập phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội là một

trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030. Trong đó, nhấn mạnh: “Tăng

cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các

chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người”15.

Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, đánh giá:

Trong hơn 10 năm qua, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá XI một số vấn đề

về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện

ngày càng rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; kinh tế, xã hội phát triển toàn

diện và hài hoà hơn, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được cải thiện và

nâng cao, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.

Nhận thức của hệ thống chính trị và Nhân dân về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của

chính sách xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy

đủ và sâu sắc hơn. Các chính sách xã hội không ngừng được hoàn thiện theo hướng tiến bộ và

công bằng.

Chính sách ưu đãi, tôn vinh đối với người có công với cách mạng được chú trọng, thực
hiện tốt; chính sách giảm nghèo bền vững đạt nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế

ghi nhận và đánh giá cao; việc làm cho người lao động cơ bản được bảo đảm, tỉ lệ thất nghiệp

khu vực thành thị thấp; chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ngày càng khẳng định vai trò

trụ cột trong bảo đảm an sinh xã hội. Hệ thống cơ sở y tế, giáo dục, trợ giúp xã hội tiếp tục được

đầu tư, mở rộng, nâng cao chất lượng góp phần bảo đảm giáo dục, y tế, nhà ở tối thiểu, nước

sạch, thông tin cơ bản cho Nhân dân; người có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ kịp thời.

Tuy nhiên, chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội vẫn còn một số hạn chế, yếu

kém, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Kết quả giảm nghèo có nơi, có lúc chưa vững chắc, nguy

cơ tái nghèo còn cao, phân hoá giàu - nghèo có xu hướng gia tăng; đời sống một bộ phận người

dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường

xuyên bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn lớn; các dịch vụ

xã hội cơ bản chưa đáp ứng được nhu cầu của Nhân dân.

Thị trường lao động phát triển chưa đồng bộ, lao động khu vực phi chính thức còn

lớn, đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chuyển biến chưa rõ nét; giáo

dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học có mặt còn hạn chế. Phạm vi bao phủ

và khả năng giải quyết rủi ro của các chính sách an sinh xã hội còn thấp.

Việc bảo đảm y tế cơ bản; năng lực, chất lượng y tế cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là

trong ứng phó với dịch bệnh; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào

dân tộc thiểu số còn cao. Việc thực hiện chính sách nhà ở cho người thu nhập thấp còn nhiều

khó khăn; tỉ lệ người dân ở nông thôn được sử dụng nước sạch còn thấp16.

Nghị quyết xác định quan điểm:

"- Chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người

làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước; là

nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội; thể

hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo

đảm chính sách xã hội; tạo điều kiện để Nhân dân được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi

mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao

trùm, bền vững; xây dựng và thực hiện chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát

triển xã hội bền vững; giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân hoá xã hội, bảo

đảm an sinh cho Nhân dân trong quá trình phát triển.

- Đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển. Chú trọng huy động, phân bổ và

sử dụng nguồn lực đúng mục tiêu, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, thu nhập của Nhân

dân, trong đó nguồn lực nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nguồn lực của xã hội là quan trọng; kết

hợp nguồn lực trong nước và ngoài nước. Đổi mới công tác quản lý nhà nước; tăng cường phân

cấp, phân quyền; phát huy vai trò chủ thể của Nhân dân, nâng cao hiệu quả hợp tác giữa Nhà

nước, tư nhân, tổ chức xã hội, cộng đồng và Nhân dân trong quản lý phát triển xã hội bền vững.

- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, giám sát của các cơ quan dân
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, giám sát của các cơ quan dân

cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân; động viên sự tham

gia tích cực của Nhân dân, doanh nghiệp; khơi dậy khát vọng phát triển, ý chí tự lực, tự

cường; phát huy truyền thống tương thân tương ái, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc"17.

Mục tiêu tổng quát đến năm 2030:

"Xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng, không

ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao

trùm, bền vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn,

người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội

cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin. Phát triển thị trường lao động linh hoạt,

hiệu quả, hội nhập quốc tế gắn với việc làm bền vững; nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã

hội gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân"18.

Tầm nhìn đến năm 2045:

"Hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo

đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho Nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất

nước và xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số

phát triển con người (HDI) cao trên thế giới"19.

Trong những năm tới, Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24-11-2023 yêu cầu phải tạo sự

chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị về chính sách xã

hội, thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:

- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò đặc biệt quan trọng,

quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của chính sách xã hội trong giai đoạn mới cho cán bộ,

đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý và Nhân dân, nhất là người đứng đầu. Khẳng định quyết

tâm xây dựng và thực hiện chính sách xã hội theo hướng bền vững; dựa trên quyền con người,

vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể; phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp

của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, tạo động lực góp phần phát triển

đất nước.

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã hội bảo đảm thống nhất, đồng

bộ, khả thi, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, tiệm cận với tiêu chuNn quốc tế

và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đNy mạnh

phân cấp, phân quyền, cá thể hoá trách nhiệm trong tổ chức thực hiện; đNy mạnh cải cách hành

chính theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch, nêu cao trách nhiệm giải trình, tạo điều kiện

thuận lợi cho Nhân dân trong tiếp cận chính sách xã hội.

- Chú trọng thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; quan tâm chăm lo

đời sống vật chất, tinh thần người có công, nhất là người ở vùng sâu, vùng xa, người gặp khó

khăn trong cuộc sống. Tiếp tục nâng mức chuNn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi theo hướng phải là mức

cao nhất trong các chính sách xã hội; có chính sách ưu tiên trong chăm sóc sức khoẻ, nhà ở,

giáo dục - đào tạo, việc làm, sản xuất và tạo thuận lợi cho người có công và thân nhân tiếp cận
giáo dục - đào tạo, việc làm, sản xuất và tạo thuận lợi cho người có công và thân nhân tiếp cận

các dịch vụ xã hội. Bảo đảm người có công và gia đình người có công phải có mức sống từ

trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú.

- ĐNy mạnh thực hiện chính sách dân số và phát triển theo hướng có quy mô, cơ cấu, phân

bố hợp lý, cân bằng tỉ số giới tính khi sinh ở mức tự nhiên và duy trì mức sinh thay thế trên

phạm vi cả nước, nhất là đối với một số địa bàn và nhóm dân cư. Nâng cao chất lượng dân số,

tận dụng hiệu quả thời kỳ dân số vàng; sớm hoàn thiện khung chính sách quốc gia thích ứng với

quá trình già hoá dân số; đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao

cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội,

người dân và giữa các nhóm dân cư, bảo đảm bền vững và công bằng xã hội. Chú trọng phát

triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, bao phủ

được toàn bộ lực lượng lao động; tiếp tục cải cách, mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội, tạo cơ

hội tham gia và bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người lao động.

- Nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các

dịch vụ xã hội cơ bản (về giáo dục; về y tế; về phát triển văn hóa; về thông tin; về nhà ở; về

nước sạch, vệ sinh môi trường) có chất lượng.

- Phát triển hệ thống dịch vụ xã hội đa dạng, liên thông, liên tục, chuyên nghiệp, đáp ứng

cơ bản nhu cầu và tăng khả năng tiếp cận cho các nhóm đối tượng, nhất là công nhân, người có

hoàn cảnh khó khăn, người di cư, đồng bào dân tộc thiểu số.

- Tiếp tục nội luật hoá các cam kết về tiêu chuNn lao động, quan hệ lao động, việc làm và

an sinh xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Khai thác có hiệu quả các

Hiệp định thương mại tự do (FTA) và các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên cho

thực hiện chính sách xã hội. Phấn đấu thực hiện mục tiêu là quốc gia tiên phong trong chương

trình thúc đNy toàn cầu về việc làm và an sinh xã hội hướng tới chuyển đổi công bằng theo sáng

kiến của Liên hợp quốc và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).

- Tăng cường nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống

chính trị các cấp, nhất là người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh của cả hệ thống

chính trị, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thực hiện chính sách xã hội.

Trong thời gian tới, toàn hệ thống chính trị cần tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp

theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nhà nước cần tiếp tục huy động được

sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội trong việc thực hiện phát triển xã hội, quản lý phát

triển xã hội và nâng cao chất lượng chính sách xã hội, như vậy mới có thể tạo dựng một xã hội

phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật,
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật,

1987, tr.86.

3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đảng toàn tập, t.51, Nxb CTQG, H, 2006, tr.49, tr.100,

tr.139.

6.Sđd, t.55, 2007, tr.398.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H,

1996, tr.113-114.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H,2001,

tr.162.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006,

tr.101.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H,

2011,tr.79.

11 Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01 tháng 06 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa XI Về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam:Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi

mới (1986-2016), Nxb CTQG, H, 2015, tr.105.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H,

2016, tr.134-135.

14,15. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. 1,Nxb CTQG,

H,2021, tr.47, tr.147-148.

16, 17,18,19. Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24-11-2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Thích 1 Chia sẻ Bài đăng

 Ý kiến bạn đọc Sắp xếp theo bình luận mới

Bạn cần đăng nhập với tư cách là Thành viên chính thức để có thể bình luận
Những tin cũ hơn
 BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY (/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/bao-
ve-va-phat-trien-chu-nghia-mac-lenin-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-tinh-hinh-hien-
nay-180.html) (18/03/2021)

 Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng về tư tưởng - giải
pháp quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (/vi/news/bao-ve-nen-tang-
tu-tuong-cua-dang/nang-cao-chat-luong-hieu-qua-cong-tac-xay-dung-dang-ve-
tu-tuong-giai-phap-quan-trong-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-166.html)
(01/01/2021)

 Thực hiện lời dạy đầu tiên của Bác Hồ trong Di chúc thiêng liêng (/vi/news/bao-
ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/thuc-hien-loi-day-dau-tien-cua-bac-ho-trong-di-
chuc-thieng-lieng-134.html) (17/04/2020)

 Những thủ đoạn chính của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề Dân
tộc chống phá Cách mạng Việt Nam hiện nay (/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-
cua-dang/nhung-thu-doan-chinh-cua-cac-the-luc-thu-dich-trong-viec-loi-dung-
van-de-dan-toc-chong-pha-cach-mang-viet-nam-hien-nay-133.html) (17/04/2020)

 Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới (/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-
cua-dang/tang-cuong-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-dau-tranh-phan-bac-
cac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-trong-tinh-hinh-moi-132.html) (17/04/2020)

 Lợi dụng vấn đề dân tộc trong chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch (/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/loi-dung-
van-de-dan-toc-trong-chien-luoc-dien-bien-hoa-binh-bao-loan-lat-do-cua-cac-
the-luc-thu-dich-46.html) (17/04/2020)

 Cảnh giác với các luận điệu xuyên tạc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo hiện
nay (/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/canh-giac-voi-cac-luan-dieu-
xuyen-tac-tren-linh-vuc-giao-duc-va-dao-tao-hien-nay-45.html) (24/04/2020)

 Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng xã hội
mới (/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/kien-dinh-chu-nghia-mac-
lenin-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-xay-dung-xa-hoi-moi-44.html) (09/06/2020)

 Phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên
(/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/phong-ngua-tu-dien-bien-tu-
chuyen-hoa-trong-can-bo-dang-vien-43.html) (19/06/2020)

 Không thể xa rời, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của Đảng (/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/khong-the-xa-roi-
phu-nhan-nguyen-tac-tap-trung-dan-chu-trong-to-chuc-va-hoat-dong-cua-dang-
41.html) (23/07/2020)

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH LIÊN HỆ THỐNG KÊ
KON TUM
 Liên hệ (/vi/contact/) Đang truy cập 402
 Chịu trách nhiệm: TS. Đặng Luận - TUV - Hiệu trưởng
 Máy chủ tìm kiếm 77
 Địa chỉ: Số 126 Ngô Quyền - Tp Kon Tum - tỉnh Kon Tum.
 Khách viếng 325
 Điện thoại: 02603.868281
thăm
 Fax: 02603.868281
 Email: tapsantct@gmail.com. (mailto:tapsantct@gmail.com.)  Hôm nay 94,349
 Website: http://truongchinhtri.kontum.gov.vn/  Tháng hiện tại 5,217,735
(http://truongchinhtri.kontum.gov.vn/)
 Tổng lượt truy 43,948,913
402
77
325

94,349
17,735
48,913

cập


You might also like