Professional Documents
Culture Documents
NGA
NGA
HỒ SƠ QUỐC GIA
TÊN QUỐC GIA: RUSSIA
1
Giáo dục trung học: Giáo dục trung học ở Nga được chia thành hai phần, với năm
năm đầu tiên là bắt buộc cho mọi học sinh. Sau giai đoạn này, Giáo dục Tổng quát Cơ
bản kết thúc, và tất cả học sinh phải thi các kỳ thi quốc gia.
Giáo dục đại học và sau đại học: Ở Nga, gần một phần tư triệu sinh viên nước
ngoài học tại các trường đại học chính phủ và phi chính phủ. Có hai cấp độ giáo dục:
Giáo dục đại học bao gồm một bằng cử nhân kéo dài bốn năm. Các nghiên cứu sau đại
học bao gồm một bằng thạc sĩ kéo dài hai năm. Một bằng tiến sĩ kéo dài ba năm.
Nga có một trong những hệ thống giáo dục uy tín nhất thế giới, đứng thứ 43
trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2016-20174. Ngoài
ra, tỷ lệ biết đọc biết viết của người lớn ở Nga vào năm 2018 là 99,73%, đứng thứ tư
cao nhất ở châu Âu. Hệ thống giáo dục của Nga được điều phối bởi chính phủ, và các
trường công lập miễn phí cho mọi người tham dự. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục
được cung cấp tại các trường công lập Nga có thể thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào
thành phố và chính trường học.
1.3.2 Dân cư
Dân số của Nga vào năm 2023 được ước tính là 144,444,359 người vào giữa
năm. Nơi đây là quốc gia đông dân nhất châu Âu và quốc gia đông dân thứ chín trên
thế giới, với mật độ dân số là 8,5 người/km².
1.3.3 Tôn giáo
Tôn giáo chính của Nga là Đạo Giáo Đông Phương; tuy nhiên, các tôn giáo khác,
như Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, và thậm chí Shamanism
cũng được thừa nhận. Tôn giáo thứ hai của Nga theo tỷ lệ dân số là Hồi giáo, theo sau
là Công giáo Rôma và Do Thái giáo. Tuy nhiên, tín ngưỡng không tôn giáo cũng đã
trở nên phổ biến hơn ở Nga trong thời gian gần đây.
1.4 Kinh tế
Nga có nền kinh tế lớn thứ sáu trên thế giới với sản phẩm xuất khẩu chính là dầu
mỏ và khí đốt. Quốc gia này có một nền kinh tế thị trường với mức độ kiểm soát cao
của nhà nước, vì các viên chức chính phủ sở hữu nhiều công ty lớn. Nga là một trong
nhóm các quốc gia BRICS đang trải qua sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: các mặt
hàng xuất khẩu chính của Nga bao gồm nhiên liệu hóa thạch (như than, dầu mỏ và khí
đốt) và lúa mì; các mặt hàng nhập khẩu chính bao gồm máy bay và ô tô.
Nga đã trải qua một sự phục hồi mạnh mẽ trong nửa đầu năm 2021 và dự kiến sẽ
tăng trưởng 4,3% trong năm nay. Tuy nhiên, đà tăng trưởng đã suy yếu trong nửa cuối
năm. Khi các biện pháp hạn chế COVID-19 được nới lỏng ở Nga vào cuối năm 2020
và đầu năm 2021, nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh trong quý hai, được hỗ trợ bởi việc tiết
kiệm được tích lũy trong năm 2020 và tăng trưởng tín dụng nhanh.
Nhập khẩu: Nga nhập khẩu chủ yếu bao gồm máy móc, máy móc điện, xe cộ,
dược phẩm, nhựa, quang học, các mặt hàng bằng sắt hoặc thép, sắt và thép, trái cây &
hạt ăn được và cao su.
Công nghiệp: Hiện nay, Nga bao gồm các ngành công nghiệp cạnh tranh sau: dầu
và khí, khai thác mỏ, chế biến đá quý và kim loại, xây dựng máy bay, sản xuất hàng
không vũ trụ, sản xuất vũ khí và máy móc quân sự, kỹ thuật điện, sản xuất giấy và bột
giấy, ngành công nghiệp ô tô, vận tải, đường và sản xuất máy móc nông nghiệp, ngành
công nghiệp nhẹ và ngành công nghiệp thực phẩm.
2
xã hội, khai thác tài nguyên thiên nhiên ngày càng làm trầm trọng thêm các vấn đề môi
trường, đe dọa sự phát triển bền vững của Nga.
Nga có diện tích 17.125.407 km2, dân số 146.267.288 người, là quốc gia có
diện tích lớn nhất thế giới và đứng thứ 10 về dân số. Trong đó, thủ đô Mátxcơva là TP
đông dân nhất cả nước với dân số là 16.829.125 người. Nga là một trong những quốc
gia có trữ lượng nước ngọt và nguồn tài nguyên thiên nhiên lớn nhất thế giới, đó là các
nguồn dầu mỏ, khí đốt, than đá và gỗ… Hệ động, thực vật đa dạng, phong phú, với
khoảng 25 nghìn loài thực vật và trên 130 nghìn loài động vật được ghi nhận. Hiện
nay, Nga đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, suy giảm đa dạng sinh học cả về số lượng và thành phần loài… Nguyên nhân
chủ yếu do hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, khai thác khoáng sản, cũng như các
hoạt động khác của con người gây ra.
Phá rừng và suy thoái rừng: Hiện nay, tổng diện tích rừng của Nga là 800 triệu
ha, bao phủ 45% diện tích bề mặt, bao gồm các loài cây gỗ lớn như bạch dương, tùng,
sồi… Vấn nạn phá rừng đã tồn tại từ nhiều năm nay và ngày càng khó kiểm soát. Từ
năm 2000 đến nay, tổng diện tích rừng bị phá là 40 triệu ha, nhưng chỉ có một nửa
diện tích được trồng lại. Rừng bị tàn phá mạnh tại các vùng Viễn Đông, phía Tây Bắc
và Siberia. Nạn phá rừng không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng lớn đến
môi trường và tàn phá các hệ sinh thái, làm tăng khí thải gây hiệu ứng nhà kính…
Ngoài ra, diện tích rừng bị suy giảm do các nguyên nhân khác như cháy rừng, phát
triển công nghiệp và khai thác khoáng sản cùng với việc mở rộng diện tích đất nông
nghiệp, xây dựng nhà ở và giao thông.
Ô nhiễm nguồn nước: Theo ghi nhận, 90% lượng nước thải ra môi trường
không đảm bảo chất lượng, thậm chí chưa được xử lý, trong đó có 50% lượng nước bị
ô nhiễm. Nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước tại Nga là do hoạt động của các
nhà máy công nghiệp, với hệ thống xử lý nước thải lạc hậu và không đáp ứng được các
tiêu chuẩn môi trường. Hàng năm, có hàng nghìn chất thải thuộc các ngành công
nghiệp hóa học, lọc hóa dầu và ngành sản xuất khác đổ ra sông và hồ, ảnh hưởng tới
môi trường sống của nhiều loài động, thực vật thủy sinh. Bên cạnh đó, chất thải sinh
hoạt của con người cũng gây ô nhiễm nguồn nước. Nước thải từ các khu đô thị thải
vào các thủy vực trong nhiều trường hợp không được xử lý, hoặc xử lý không đảm bảo
tiêu chuẩn môi trường do thiếu cơ sở hạ tầng, tài chính. Ngành công nghiệp năng
lượng cũng đóng góp vào sự ô nhiễm, suy thoái nguồn nước. Ngoài ra, việc xây dựng
các thủy điện, hồ chứa nhân tạo để sản xuất điện trên các dòng sông và thủy vực đã
làm thay đổi quy luật, chu trình nước tự nhiên, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng
về môi trường…
Ô nhiễm không khí: Hiện nay, vấn đề ô nhiễm không khí tại Nga chủ yếu là ở
các TP đông dân và tập trung công nghiệp, với nhiều thông số vượt tiêu chuẩn cho
phép. Cả nước có khoảng 27.600 nhà máy và cơ sở sản xuất công nghiệp, với 1,2 triệu
nguồn thải. Các ngành công nghiệp có mức độ phát sinh khí thải gây ô nhiễm cao như
alumin, luyện kim màu, hóa chất và hóa dầu, khai thác và chế biến các sản phẩm dầu
mỏ… Hoạt động giao thông cũng đóng góp lượng lớn các chất thải gây ô nhiễm không
khí. Theo tính toán, mỗi năm, có khoảng 4 triệu tấn các chất ô nhiễm phát thải từ các
phương tiện giao thông. Điển hình như tại Mátxcơva, khí thải từ ô tô chiếm 93% lượng
phát thải các chất ô nhiễm vào khí quyển. Trung bình, các phương tiện giao thông
đóng góp 42% lượng khí thải, hệ thống xả thải không được kiểm soát dẫn đến gia tăng
mức độ ô nhiễm không khí. Theo Bộ TN&MT Nga, tại các khu vực ven đường cao tốc
chạy qua các TP đều có hàm lượng các chất ô nhiễm như cadimi, chì, selen vượt 2 lần
tiêu chuẩn cho phép. Trong những năm gần đây, mức độ ô nhiễm không khí tại Nga
3
đang có xu hướng giảm. Theo thống kê, trong thời gian từ năm 2011 - 2015, tổng
lượng các chất ô nhiễm không khí như bụi lơ lửng và CO giảm 11 - 15%, nhưng tổng
lượng khí thải CO2 không thay đổi.
Ô nhiễm phóng xạ: Thảm họa Chernobyl xảy ra năm 1986 được xem là vụ tai
nạn hạt nhân trầm trọng nhất trong lịch sử năng lượng hạt nhân. Thảm họa này phát ra
lượng phóng xạ (gấp 400 lần so với quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima -
Nhật Bản năm 1945). Sau thảm họa Chernobyl, theo thống kê đến năm 2014, có
khoảng 1 triệu người bị phơi nhiễm phóng xạ. Hiện nay, nhiều nhà máy điện hạt nhân
của Nga thực hiện các điều kiện và thiết bị an toàn, tiên tiến hơn. Ngoài ra, khu vực
biên giới phía Bắc nước Nga, nơi có các căn cứ hải quân, trong đó có các tàu ngầm hạt
nhân được xem là “nghĩa trang hạt nhân” để xử lý các vật liệu phóng xạ, chất thải
phóng xạ từ các hoạt động của thiết bị quân sự và vũ khí. Các đồng vị phóng xạ có thể
gây tử vong, hoặc đột biến gen. Các chất phóng xạ xâm nhập vào cơ thể con người và
động vật, không khí, nước và thực phẩm. Vì vậy, hiện nay, vấn đề xử lý chất thải
phóng xạ cần đảm bảo an toàn ở mức cao nhất.
2.2 Ảnh hưởng của thiên nhiên/ thiên tai đến môi trường
ST. PETERSBURG, Nga (Quỹ Thomson Reuters) – Nga đang chứng kiến
những tác động mạnh mẽ hơn của biến đổi khí hậu, từ những cơn bão chết người ở
Moscow đến lũ lụt trên sông ở miền nam đất nước, nhưng các nỗ lực thích ứng với
những vấn đề ngày càng gia tăng vẫn còn hạn chế, các chuyên gia cảnh báo.
Các chuyên gia cho biết, với khoảng 10 triệu người dân cả nước phải đối mặt với
những rủi ro ngay lập tức liên quan đến khí hậu, theo các nhà nghiên cứu Nga, cần có
các chiến lược thích ứng với khí hậu của liên bang và khu vực, bao gồm hệ thống cảnh
báo sớm tốt hơn và cơ sở hạ tầng hiện đại hóa.
Tuần trước, một cơn bão với sức gió lên tới 30 mét mỗi giây (67 dặm một giờ) đã
tấn công Moscow vào giờ cao điểm, khiến 16 người thiệt mạng và hơn 200 người khác
bị thương, theo Bộ Khẩn cấp Nga. Ở đầu bên kia đất nước, phía đông nam Siberia,
cháy rừng đã nhiều lần phá hủy các khu định cư với hàng nghìn cư dân địa phương
phải sơ tán và tái định cư. Ở miền nam nước Nga, mưa lớn và lũ sông đe dọa một con
đập ở vùng Stavropol đã khiến vài nghìn người phải sơ tán vào cuối tháng 5.
“Đây là tất cả những tác động có thể nhìn thấy được của biến đổi khí hậu đang
diễn ra ở Nga hiện nay. Alexey Kokorin, người đứng đầu chương trình khí hậu và
năng lượng tại WWF-Nga, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Thomson Reuters
Foundation: Cuối cùng mọi người cũng thấy rõ rằng cuộc khủng hoảng khí hậu toàn
cầu cũng có tác động tiêu cực lớn đến Nga, với nhiều thảm họa sắp xảy ra. .
Nikolay Gudkov, người phát ngôn của Bộ Tài nguyên Thiên nhiên Nga, cho biết
chính phủ ngày càng nhận thức được vấn đề này. Bên cạnh đó, theo cơ quan khí tượng
nhà nước Roshydromet, nhiệt độ trung bình ở Nga năm 2016 tăng nhanh gấp 2,5 lần so
với mức trung bình toàn cầu.
Tổ chức Khí tượng Thế giới cho biết nhiệt độ ở các vùng thuộc Bắc Cực của Nga
xung quanh cửa sông Ob và Novaya Zemlya cao hơn mức trung bình giai đoạn 1961-
1990 từ 6 đến 7 độ C, trong khi nhiệt độ trên toàn thế giới cao hơn mức trung bình đó
gần 1 độ C. Cơ quan này cho biết cả năm 2015 và 2016 đều là những năm ấm nhất ở
Nga kể từ khi bắt đầu quan trắc khí tượng. Hầu hết các chỉ số rủi ro khí hậu quốc tế
đều đặt Nga ở mức rủi ro trung bình hoặc thấp do biến đổi khí hậu. Ví dụ, Báo cáo Rủi
ro Thế giới gần đây nhất do Đại học Liên hợp quốc tổng hợp đã xếp Nga ở vị trí thứ
128 trên toàn thế giới về mức độ rủi ro.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng những đánh giá về rủi ro tổng thể của
quốc gia không phù hợp với Nga, nơi dân số phân bố rất không đồng đều, với cả khu
4
vực dân cư thưa thớt và tập trung đông người ở các thành phố. Sergey Donskoy, Bộ
trưởng môi trường Nga, cho biết những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đã
khiến nước này thiệt hại từ 30 đến 60 tỷ rúp (530 triệu đến 1 tỷ USD) mỗi năm. Ông
cho biết các dự báo cho thấy tổn thất liên quan đến biến đổi khí hậu có thể lên tới 1
đến 2% GDP của đất nước vào năm 2030. Trong 15 đến 20 năm qua, số hiện tượng khí
tượng nguy hiểm ở Nga đã tăng gấp đôi, với khoảng 590 vào năm ngoái, từ gió mạnh,
bão đến mưa lớn, các nhà khí hậu học Nga cho biết vào tháng trước khi khai mạc Tuần
lễ Khí hậu Nga ở Moscow.
Các nhà khí hậu học cho biết, nước này cũng đang chứng kiến - hoặc dự kiến sẽ
chứng kiến - những đợt nắng nóng và rét đậm hơn, hạn hán ở các khu vực nông nghiệp
phía nam, gia tăng số vụ cháy rừng và tan băng vĩnh cửu, bao phủ hơn 60% lãnh thổ
Nga.
Mikhail Georgievsky, nhà nghiên cứu từ Viện Thủy văn Nhà nước, cho biết: “Sẽ
có nhiều mực nước dâng cao hơn, bao gồm cả lũ lụt, ở những khu vực vốn đã có nhiều
nước và thậm chí sẽ có ít nước hơn ở những vùng khô hạn”. -Hội thảo của Anh về rủi
ro khí hậu vào tháng 3 tại Moscow.
Stepan Zemtsov, nhà nghiên cứu của Học viện Kinh tế Quốc gia và Hành chính
Công của Tổng thống Nga, lưu ý rằng hơn 10 triệu người "có nguy cơ cao" phải đối
mặt với rủi ro khí hậu ở Nga.
2.3 Ảnh hưởng của kinh tế đến môi trường:
Lĩnh vực năng lượng: Nga là nước đóng vai trò quan trọng trên thị trường năng
lượng toàn cầu với trữ lượng dầu, khí đốt tự nhiên và than đá khổng lồ. Việc khai thác
và sản xuất các nguồn tài nguyên này gây ra hậu quả về môi trường, bao gồm hủy hoại
môi trường sống, ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm không khí. Đặc biệt, ngành dầu khí
góp phần phát thải khí nhà kính, góp phần làm biến đổi khí hậu.
Hoạt động công nghiệp: Nga có nền tảng công nghiệp đa dạng, bao gồm khai
thác mỏ, luyện kim và sản xuất. Những ngành công nghiệp này có thể gây ô nhiễm
không khí, nước và đất. Các quy định và việc thực thi môi trường không đầy đủ trước
đây đã góp phần làm suy thoái môi trường ở một số khu vực.
Phá rừng: Khai thác gỗ là một đóng góp đáng kể khác cho tác động môi trường.
Những khu rừng rộng lớn của Nga đang bị khai thác để lấy gỗ và việc khai thác gỗ trái
phép đang là vấn đề đáng lo ngại. Phá rừng ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, phá vỡ
hệ sinh thái và góp phần gây ra biến đổi khí hậu.
Thăm dò Bắc Cực: Các lợi ích kinh tế của Nga ở Bắc Cực, bao gồm cả việc
thăm dò dầu khí, đã làm dấy lên lo ngại về tác động đối với hệ sinh thái mong manh ở
Bắc Cực. Sự cố tràn dầu và các tai nạn khác ở khu vực xa xôi và nhạy cảm này có thể
gây ra hậu quả lâu dài cho môi trường.
Công nghiệp hạt nhân: Nga có ngành công nghiệp hạt nhân đáng kể. Mặc dù
năng lượng hạt nhân có thể sản xuất năng lượng với lượng phát thải khí nhà kính thấp
hơn so với nhiên liệu hóa thạch, nhưng nó gây ra những rủi ro về môi trường, bao gồm
khả năng xảy ra tai nạn, xử lý chất thải hạt nhân và tác động môi trường của việc khai
thác uranium.
Ô nhiễm nước: Việc xả nước thải công nghiệp và thực hành quản lý chất thải
không đầy đủ có thể dẫn đến ô nhiễm nước. Điều này có thể gây hại cho hệ sinh thái
dưới nước, ảnh hưởng đến chất lượng nước uống và có tác động lâu dài đến sức khỏe
con người và môi trường.
Tác động của biến đổi khí hậu: Nga đang phải hứng chịu những tác động của
biến đổi khí hậu, bao gồm nhiệt độ tăng cao, băng vĩnh cửu tan chảy và những thay đổi
trong hệ sinh thái. Những tác động này có thể gây ra nhiều tác động lên môi trường,
5
bao gồm làm gián đoạn môi trường sống của động vật hoang dã và làm tăng nguy cơ
cháy rừng.
Điều đáng chú ý là Nga đã thực hiện các bước để giải quyết một số vấn đề này và
đang có những nỗ lực liên tục để cải thiện các quy định và thực tiễn về môi trường.
Tuy nhiên, mức độ và sự thành công của những nỗ lực này có thể khác nhau giữa các
khu vực và ngành khác nhau.
2.4 Ảnh hưởng của văn hóa-xã hội đến môi trường
Các hoạt động truyền thống: Một số hoạt động truyền thống nhất định, chẳng
hạn như chăn nuôi du mục ở một số vùng, có thể có tác động môi trường tối thiểu khi
được tiến hành bền vững. Tuy nhiên, nếu không được quản lý cẩn thận, chúng có thể
góp phần gây ra tình trạng chăn thả quá mức và suy thoái đất.
Thái độ văn hóa đối với thiên nhiên: Thái độ văn hóa của người dân Nga đối
với thiên nhiên và môi trường có thể ảnh hưởng đến các nỗ lực bảo tồn. Sự đánh giá
cao sâu sắc đối với thiên nhiên có thể dẫn đến tăng cường hỗ trợ cho việc bảo vệ môi
trường và các hoạt động bền vững.
Đô thị hóa và mô hình tiêu dùng: Đô thị hóa và thay đổi lối sống góp phần làm
tăng mô hình tiêu dùng, dẫn đến nhu cầu lớn hơn về tài nguyên. Điều này có thể dẫn
đến mức độ phát sinh chất thải, tiêu thụ năng lượng cao hơn và dấu chân sinh thái lớn
hơn.
Tác động du lịch: Di sản văn hóa phong phú và cảnh quan thiên nhiên của Nga
thu hút khách du lịch. Mặc dù du lịch có thể mang lại lợi ích kinh tế nhưng nó cũng có
thể dẫn đến suy thoái môi trường nếu không được quản lý đúng cách. Các vấn đề như
xả rác, gián đoạn môi trường sống và tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng có thể phát
sinh.
Giáo dục Môi trường: Sự hiện diện và hiệu quả của các chương trình giáo dục
môi trường trong hệ thống văn hóa và giáo dục có thể ảnh hưởng đến nhận thức và
hành vi của mọi người đối với môi trường. Một xã hội có hiểu biết sẽ có nhiều khả
năng đưa ra những lựa chọn bền vững hơn.
Bảo tồn di sản văn hóa: Những nỗ lực bảo tồn các di sản văn hóa có thể gây ra
những hậu quả tích cực hoặc tiêu cực về môi trường. Các hoạt động bảo tồn cần được
tiến hành với tính bền vững để giảm thiểu tác động đến hệ sinh thái xung quanh.
Tác động văn hóa đến đa dạng sinh học: Các hoạt động văn hóa và tập quán
truyền thống có thể hỗ trợ hoặc đe dọa đa dạng sinh học. Ví dụ, kiến thức bản địa về
sử dụng tài nguyên bền vững có thể góp phần bảo tồn, trong khi các hoạt động không
bền vững có thể dẫn đến mất môi trường sống và suy giảm đa dạng sinh học.
Thực hành quản lý chất thải: Thái độ văn hóa đối với việc xử lý và tái chế chất
thải có thể tác động đáng kể đến môi trường. Thực hành quản lý chất thải không hiệu
quả có thể dẫn đến ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Chính sách của Chính phủ và Ảnh hưởng của Văn hóa: Sự liên kết giữa các
chính sách của Chính phủ với các giá trị văn hóa có thể đóng một vai trò quan trọng
trong việc định hình các kết quả về môi trường. Sự ủng hộ của công chúng đối với các
chính sách thúc đẩy tính bền vững và bảo tồn sẽ có nhiều khả năng xảy ra hơn khi
chúng phù hợp với các giá trị văn hóa.
Điều quan trọng là phải nhận ra rằng tác động của các hoạt động văn hóa và hành
vi xã hội đến môi trường là phức tạp và phụ thuộc vào bối cảnh. Thái độ văn hóa tích
cực, cùng với các chính sách và giáo dục hiệu quả, có thể góp phần vào sự phát triển
bền vững và bảo tồn môi trường ở Nga. Tuy nhiên, những thách thức như đô thị hóa
nhanh chóng, lối sống thay đổi và nhu cầu phát triển kinh tế cũng gây ra những lo ngại
về môi trường.
6
3. EPR HIỆN TẠI CỦA QUỐC GIA
Tại Nga, EPR được giới thiệu vào năm 2015 và được quản lý bởi hai cơ quan
chính là Chính phủ Nga và Liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU). Theo đó, các nhà sản
xuất phải quản lý việc tái chế và chất thải của mình và báo cáo trực tiếp với chính phủ
về các loại chất thải bao gồm bìa cứng, bao bì nhựa, thiết bị điện tử gia dụng và pin.
Họ cũng phải trả phí môi trường cho lượng rác thải này nếu chưa đạt được mục tiêu
thu gom đã đề ra.
Tuy nhiên, trên thực tế, EPR tại Nga không hoạt động hiệu quả như dự kiến.
Trong suốt những năm đầu hoạt động, không có sự gia tăng đáng kể về số lượng cơ sở
tái chế chất thải hay năng lực tái chế. Cùng với việc thiếu quản lý và kiểm soát thích
hợp và thu phí môi trường thấp, các vấn đề này đã thúc đẩy chính phủ Nga xem xét
điều chỉnh chính sách đối với EPR.
Vào cuối năm 2020, chính phủ Nga đã phê duyệt ý tưởng nhằm cải thiện EPR.
Đến năm 2021, lộ trình EPR tương ứng đã được thông qua. Mục tiêu chính là sửa đổi
các mục tiêu tái chế và cải thiện việc kiểm soát tái chế chất thải. Đơn cử như đối với
bao bì, mục tiêu tái chế bắt buộc sẽ tăng lên 100% vào năm 2022. Tuy nhiên các chính
sách cải cách này vẫn bị trì hoãn áp dụng do một số bộ, ngành tại Nga không tán
thành.
7
Hệ thống hạ tầng hiện tại: Nga có thể đối mặt với khó khăn khi phải điều chỉnh
hoặc nâng cấp hạ tầng thu gom, tái chế và xử lý chất thải để đáp ứng yêu cầu EPR.
Các vấn đề về hạ tầng có thể làm giảm hiệu suất của hệ thống.
Chi phí triển khai: Chi phí triển khai EPR có thể là một thách thức, đặc biệt là
khi nền kinh tế đang phải đối mặt với những áp lực tài chính. Điều này có thể tạo ra
khả năng giảm đầu tư vào các giải pháp thân thiện môi trường.
Chất lượng quản lý chính thức: Cần có một hệ thống quản lý chính thức mạnh
mẽ để thực hiện và duy trì EPR. Nếu không có sự chặt chẽ trong việc thực thi và giám
sát, có thể dẫn đến sự thiếu hiệu quả của chính sách.
Chống đối từ các ngành Công Nghiệp: Các ngành công nghiệp có thể phản đối
EPR nếu họ cảm thấy rằng nó sẽ tăng chi phí hoạt động của họ hoặc đòi hỏi sự thay
đổi đáng kể trong cách họ quản lý chất thải.
Khả năng thay đổi Công Nghiệp Nặng: Nga có nền công nghiệp nặng mà nhiều
lần liên quan đến việc sử dụng tài nguyên tự nhiên một cách lớn. Việc chuyển đổi sang
mô hình EPR có thể đối mặt với sự chống đối từ các ngành công nghiệp này và đòi hỏi
sự đầu tư lớn vào công nghệ sạch.
Vì những lí do trên, Nga cần giải quyết các nhiệm vụ sau tại S.MUN 2023:
- Kêu gọi đầu tư vào nguồn lực để nghiên cứu và phát triển công nghệ, kỹ thuật
có thể phân loại và xử lý chất thải, góp phần phát triển và loại bỏ những hạn chế khi áp
dụng mô hình EPR. Từ đó, kêu gọi đầu tư lắp đặt các thiết bị ở các nhà máy sản xuất.
- Phản đối việc các Quốc gia xuất khẩu dầu mỏ phải nộp thuế cao hơn để
phục vụ EPR.
- Kêu gọi thành lập cộng đồng các quốc gia nghiên cứu dầu mỏ áp dụng
EPR.
- Kêu gọi các phúc lợi như miến thuế, trợ giá, hỗ trợ nghiên cứu, v.v cho các
doanh nghiệp đang áp dụng mô hình DRS, khuyến khích các doanh nghiệp khác triển
khai mô hình này, với mục đích chung là thúc đẩy mô hình EPR.