Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT

TRIỂN
1. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN

-Từ việc nghiên cứu quan điểm biện chứng về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng, triết
học Mác – Lênin rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức. Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào
trên thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa
dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có quan điểm toàn
diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết
luận về bản chất hay về tính quy luật của nó.

-Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng, một mặt
chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính
khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Mặt khác, chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ
với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Đề cập đến 2 nội dung này, Lê-nin viết “muốn
thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ
trực tiếp và gián tiếp của sự vật đó”.

-Đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết
chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất
nhiên…để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hànhđộng, chúng ta
cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện nhất định.

-Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta vừa phải
chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, vừa phải chú ý tới những mối liên hệ giữa sự vật ấy
với các sự vật khác. Từ đó ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động vào sự vật nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.

-Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật cần phải xem xét nó trong
mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong
một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu
hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ
trọn vẹn. Ý thức được điều này, chúng ta mới tránh được việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có
về sự vật và tránh xem nó là những chân lí bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát
triển. Để nhận thức được sự vật, cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, cần thiết phải xem
xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc.

-Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nóchú ý tới nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng
ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những quy định khác nhau của sự vật được thể hiện
trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòihỏi chúng ta phải đi từ
tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi
phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
 Vai trò của quan điểm toàn diện khi nhìn nhận một vấn đề

-Quan điểm này đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn đúng đắn, khách quan về sự vật, hiện tượng
để rút ra bản chất. Phải đặt nó giữa các yếu tố bộ phận, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật
đó và mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác ,đồng thời luôn đặt trong mối quan hệ với nhu
cầu thực tiễn của con người.

-Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải có các biện pháp,
phương tiện khác nhau để hiểu cho rộng nhưng cũng cần xác định đâu là cái cơ bản, cái quan
trọng để hiểu sâu sắc vấn đề. Mà theo như Lê-nin là kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dân chủ”
và chính sách “có trọng điểm”.

Ví dụ: Quan điểm này thể hiện trong tất cả các hoạt động có tác động của phản ánh quan điểm.
Như những ví dụ trong đánh giá một con người với những mặt khác nhau phản ánh trong con
người họ. Không thể chỉ thực hiện quan sát phiến diện từ những thể hiện bên ngoài để đánh giá
tính cách hay thái độ, năng lực củahọ. Cũng không thể chỉ dựa trên một hành động để phán xét
con người và cách sống của họ.

Khi đánh giá, cần có thời gian cho sự quan sát tổng thể. Từ những phản ánh trong bản chất con
người, các mối quan hệ của người này với người khác. Cách cư xử cũng như việc làm trong quá
khứ và hiện tại. Những nhìn nhận và đánh giá trên từng khía cạnh và kết hợp với nhau sẽ cho ra
những quan điểm toàn diện. Từ đó mà cách nhìn nhận một người được thực hiện hiệu quả với
các căn cứ rõ ràng. Nó không phải là những phù phiếm của nhận định. Chỉ khi hiểu hết về người
đó bạn mới có thể đưa ra các nhận xét.

Hoặc trong công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam không những chú ý đến mối liên hệ
nội tại mà còn chú đến mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Hơn 20 năm đổi mới Đảng ta
đã sử dụng đồng bộ các phương tiện cũng như biện pháp khác nhau để mang lại hiệu quả đổi mới
cao nhất. Không những cần vận dụng được nguồn lực đất nước mà còn cần tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước khác. Vừa tận dụng được yếu tố chủ quan vừa tận dụng được yếu tố khách quan từ
bên ngoài

 ND:

-Khi chúng ta phân tích bất cứ một đối tượng nào, việc thực hiện xác định tiêu chí là cần thiết.
Trong xác định những mục tiêu cần xác định trên đối tượng. Mục tiêu đặt ra càng nhiều thì các
tính chất cần đánh giá càng lớn. Từ đó mà người tiến hành có những hiểu biết đối với bản chất
của đối tượng. Khi nhìn nhận trên khía cạnh nào, họ cũng có thể cho ra những đánh giá → tính
chất toàn diện được phản ánh.

-Chúng ta cần vận dụng lý thuyết một cách hệ thống, khi thực hiện trên các đối tượng khác nhau.
Tùy thuộc vào đối tượng và tính chất của nó mà cách tiếp cận trên những phương diện cụ thể
cũng như sự áp dụng linh hoạt, sáng tạo và không dập khuôn. Phải biết điều chỉnh các mức độ và
yếu tố tác động hợp lý để tìm kiếm hiệu quả tốt nhất. Tức là: xem xét nó được cấu thành nên từ
những yếu tố, những bộ phận nào với những mối quan hệ ràng buộc và tương tác ra sao. Thực
hiện các phân tích để hiểu rõ về cơ chế hay những mối liên hệ giữa những kết quả phản ánh. Từ
đó có thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố.

-Mặt khác khi nhìn nhận toàn diện, phải xem xét cả mối quan hệ của sự vật với các yếu tố xung
quanh trong tính chất tác động hay ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố. Điều này cũng làm cho
hướng tiếp cận được thể hiện hiệu quả hơn khi đánh giá toàn diện các phản ánh từ sự vật. Xem
xét sự vật ấy trong tính mở của nó, trong mối quan hệ với các hệ thống khác hay trong mối quan
hệ với các yếu tố tạo thành môi trường vận động, pháttriển của nó… Tạo ra sự toàn diện từ nhìn
nhận bên trong đến các tác động bên ngoài.

-Theo quan điểm toàn diện, con người cần nhận thức sự vật qua mối quan hệ qua lại. Chỉ có như
vậy mới mang đến những phản ánh cho hiểu biết vềsự vật. Tính nhiều chiều và phân tích càng cụ
thể, có thể mang đến những nhìn nhận đầy đủ và hiệu quả nhất. Việc am hiểu về đối tượng mới
mang đến các tính toán và tác động hiệu quả lên đối tượng đó.

QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN

-Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải luôn đặt nó trong khuynh hướng vận động, biến đổi, chuyển
hoá nhằm nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạngthái hiện tại và phát hiện ra xu hướng biến đổi
của nó.

-Nhận thức sự vật, hiện tượng trong tính biện chứng để thấy được tính quanh co, phức tạp của sự
phát triển

-Biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới

-Phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện
cho cái mới phát triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến, tránh lạc quan và bi
quan thái quá trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng.

-Phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc
điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức
hoạt động, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.

 Ví dụ: C. Mác đã đứng trên quan điểm phát triển đế phân tích sự phát triển của xã hội loài
người qua các hình thái tổ chức kinh tế - xã hội hoặc ông đã đứng trên quan điểm đó để
phân tích lịch sử phát triển của các hình thái giá trị: từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến
hình thái cao nhất của nó là hình thái tiền tệ,...

ANOTHER VER

Quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể là những quan điểm cơ bản thuộc về phương
pháp luận của phép biện chứng duy vật. Chúng được xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm
duy vật biện chứng về tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của các mối liên
hệ và sự phát triển của tất thảy các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
 Nội dung chính của quan điểm toàn diện

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều mối quan
hệ của nó. Thực hiện điều này sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc hạn chế được sự phiến diện,
siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống
thực tiễn, nhờ đó tạo ra khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử
lý chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.

Ví dụ, khi phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần vận dụng lý thuyết hệ thống,
tức là: xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu tố, bộ phận nào với những mối quan hệ ràng
buộc và tương tác nào, từ đó có thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở
mỗi yếu tố (thuộc tính “trời”); mặt khác, cũng cần phải xem xét sự vật ấy trong tính mở của nó,
tức là xem xét nó trong mối quan hệ với các hệ thống khác, với các yếu tố tạo thành môi trường
vận động, phát triển của nó...

 Nội dung chính của quan điểm phát triển

Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật theo một quá trình không ngừng thay đổi
về chất ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của nó ở các giai đoạn, các hình thái xác định, nhờ
đó giúp cho chúng ta nhận thức được sự vật theo một quá trình không ngừng phát triển của nó.
Cũng từ đó có thể dự báo được giai đoạn, hình thái phát triển trong tương lai của nó.

Ví dụ, C. Mác đã đứng trên quan điểm phát triển đế phân tích sự phát triển của xã hội loài người
qua các hình thái tổ chức kinh tế - xã hội hoặc ông đã đứng trên quan điểm đó để phân tích lịch
sử phát triển của các hình thái giá trị: từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến hình thái cao nhất của
nó là hình thái tiền tệ,...

Nội dung chính của quan điểm lịch sử cụ thể


Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong các mối quan hệ và tình huống xác
định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định; cũng tức là: khi nhận thức và xử lý các tình
huống thực tiễn cần phải tránh quan niệm chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch sử cụ
thể; tránh chiết trung, nguỵ biện.

Như vậy, khi thực hiện quan điểm toàn diện và phát triển cần phải luôn luôn gắn với quan điểm
lịch sử cụ thể thì mới có thể thực sự nhận thức chính xác được sự vật và giải quyết đúng đắn, có
hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.

1.2.1. Cơ sở hình thành quan điểm lịch sử**, c**ụ thể

Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính
khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng;
nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.

Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ không gian
nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong
cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên
hệ với những thành phần, những yếu tố khác.

Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau,
không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia
các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên
hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với
sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.

1.2.2. Nội dung và ý nghĩa của quan điểm lịch sử**, c**ụ thể

Nguyên tắc quyết định luận này đòi hỏi phải xem xét các sự vật trong sự tự vận động và phát
triển, trong tính toàn vẹn, tính chỉnh thể cụ thể.

Phương pháp lịch sử khoa học cho phép tái tạo lại sự phát triển của một hiện tượng xã hội
nào đó, tìm ra mối liên hệ tất yếu giữa các sự kiện lịch sử và nhờ đó mà tạo điều kiện cho sự tồn
tại của khoa học về xã hội – phương pháp lịch sử ấy không chỉ dựa trên cơ sở phép biện chứng.

Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về phương pháp luận sau:

Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem
xét phiến diện

Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa
sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở
đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.

Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời
gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử-cụ thể.

LLSX- Vai trò trong đời sống xã hội


1. Lực lượng sản xuất.

a) Khái niệm của lực lượng sản xuất.


Lực lượng sản xuất là toàn bộ những khả năng thực tiễn của con người dùng trong sản xuất và xã
hội ở các thời kì nhất định. Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người và tự nhiên,
là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn
làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã
hội.

Lực lượng sản xuất là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nó tạo ra tiền đề
vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến
bộ xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.

Theo quan điểm của Mác - Lênin, lực lượng sản xuất không phải là cái “bản chất tinh thần” như
quan điểm duy tâm của Ph. Li-xtơ đề cập. Đối với ông đó là những cái có sức mạnh vật chất. Từ
quan điểm duy vật về đời sống của con người nói chung và lực lượng sản xuất nói riêng, Mác -
Lênin và Ph. Ăng-ghen đã làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất. Đó cũng là cơ
sở khoa học cho việc nhận thức bản chất, là động lực của sự phát triển lịch sử - xã hội.

b) Cấu trúc của lực lượng sản xuất. Theo Mác - Lênin lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp
giữa sức mạnh về thể chất trí tuệ cùng những công cụ khác để tạo ra sức sản xuất tác động vào
vật khác. Khi phân tích các yếu tố của lực lượng sản xuất, Mác - Lênin đã chỉ ra những yếu tố
cấu thành nên lực lượng sản xuất theo công dụng gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và
người lao động.

Đối với tư liệu sản xuất: là những điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động.

+) Tư liệu lao động: bao gồm công cụ lao động là yếu tố vật chất trung gian, “truyền dẫn” giữa
người lao động và đối tượng lao động (máy móc,…) và phương tiện lao động là những yếu tố vật
chất cùng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất (phương
tiện vận chuyển, bảo quản lao động,…).

+) Đối tượng lao động: là những yếu tố nguyên nhiên vật liệu có sẵn trong tự nhiên (gỗ, than, đá,
…) hoặc những yếu tố nhân tạo (polyme, …).

Đối với người lao động: là chủ thể trong quá trình sản xuất cũng là chủ thể tiêu dùng mọi của cải
vật chất xã hội, là người có thể lực và trí lực, người tạo ra và sử dụng tư liệu lao động vào đối
tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận, là nhân tố hàng đầu giữ vai
trò quyết định.

2. Quan hệ sản xuất.

a) Khái niệm của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người
với người trong quá trình sản xuất, là một trong những biểu hiện của quan hệ xã hội, giữ vai trò
xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất là quan hệ đầu tiên, quyết định những quan
hệ khác. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã
hội.
b) Cấu trúc của quan hệ sản xuất.

Quan hệ sở hữu về tư liệu là quan hệ giữa con người và tư liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ
sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, biểu hiện thành chế
độ sở hữu. Đây là quan hệ xuất phát, cơ bản, có vai trò quyết định đối với các quan hệ sản xuất
khác, quy định địa vị trong xã hội, đồng thời quyết định phương thức phân phối sản phẩm trong
hệ thống sản xuất xã hội. Cho đến nay, đã có hai loại hình sở hữu là tư nhân và công cộng.

Quan hệ tổ chức và quản lý là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật
chất của cải, có khả năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản
xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức, có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh
hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.

Quan hệ phân phối sản phẩm là quan hệ chặt chẽ với nhau, sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu
sản xuất để làm chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao
phúc lợi cho người lao động. Đây là những nhân tố có ý nghĩa xúc tác với sự vận động của toàn
bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu sản xuất nhưng ngược lại
nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.

II. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội.

Lực lượng sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc phản ảnh căn bản trình độ chinh phục giới
tự nhiên của con người. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự biến đổi, sự phát triển
về mọi mặt của đời sống, quyết định sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao.

Vai trò của lực lượng sản xuất được xét trên hai khía cạnh: sản xuất vật chất – phương thức sản
xuất và hình thái kinh tế xã hội.

1. Vai trò của lực lượng sản xuất trong sản xuất vật chất.

Để đáp ứng được nhu cầu đầu tiên, cơ bản của con người, Mác - Lênin thấy con người cần phải
chế tạo ra công cụ lao động, gọi bằng khái niệm chính xác hơn đó là tư liệu sản xuất, tư liệu lao
động, lực lượng sản xuất.

Xét đến lực lượng sản xuất, ta thấy đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa
người lao động và công cụ lao động:

Đối với người lao động: Người lao động là nhân tố hàng đầu, chủ thể trong lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự biến đổi không ngừng của xã hội từ kinh tế, văn hóa,
chính trị đều xuất phát chủ yếu từ con người. Con người giữ vai trò trung tâm, quyết định với
công cụ lao động và đối tượng lao động. Chính con người bằng tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng
của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động và vận dụng vào trong quá trình sản xuất. Như vậy có thể
nói yếu tố con người có vị trí quan trọng hàng đầu, trở thành động lực đối với sự phát triển của
xã hội.
Đối với công cụ lao động: Công cụ lao động là yếu tố cơ bản, phải có, không thể thiếu được
trong quá trình sản xuất vật chất. Trình độ phát triển của công cụ lao động là yếu tố quyết định
tới sự tăng trưởng hoặc kìm hãm của năng suất lao động xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay,
sự phát triển của nền kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ đang dần trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp làm ra sản phẩm ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Sự hình thành và phát triển của
kinh tế tri thức gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, là những bước nhảy vọt về công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, từ đó có thể nâng cao được đời sống
con người, giúp tăng năng suất lao động, của cải vật chất.

2. Vai trò của lực lượng sản xuất trong hình thái kinh tế xã hội.

Trong hình thái kinh tế xã hội, lực lượng sản xuất có vai trò là nền tảng vật chất của xã hội, là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, quyết định sự vận động, phát
triển của hình thái kinh tế xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao
động xã hội và nâng cao năng suất lao động xã hộ. Sự thay thế hình thái kinh tế xã hội này bằng
hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn đánh dấu một bước phát triển mới của xã hội. Như vậy
có thể thấy lực lượng sản xuất đóng một vai trò quan trọng đối với sản xuất xã hội và quá trình
phát triển của lịch sử loài người.

III. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

1. Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của
lực lượng sản xuất.

Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là thành tố
động nhất, là nội dung của phương thức sản xuất. Còn quan hệ sản xuất là thành tố tương đối ổn
định, là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Có thể thấy nội dung mang yếu tố quyết định
tới hình thức, hay lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Khuynh hướng của sản xuất
xã hội là không ngừng biến đổi và ngày càng tiến bộ hơn, mà sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt
đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.

Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt nhau, quan hệ sản xuất luôn được
lực lượng sản xuất thúc đẩy đến trạng thái phù hợp. Đó là trạng thái mà trong đó quan hệ sản
xuất là hình thức phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất. Do vậy, lực lượng sản xuất có vai trò
quyết định đối với phương thức sản xuất, buộc quan hệ sản xuất phải hình thành, biến đổi và phát
triển phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất song cũng khẳng
định quan hệ sản xuất bao giờ cũng có tính độc lập tương đối và sẽ tác động trở lại lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất có nhiều ảnh hưởng lên lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất. Nếu
được vận dụng khoa học phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất có thể trở thành động lực thúc đẩy, nâng cao lực lượng sản xuất và ngược lại, nếu đã lỗi
thời, không còn phù hợp, nó sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất chỉ có thể phát triển khi quan hệ sản xuất hợp lí, đồng bộ nhau.
I. Vấn đề phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

1. Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam.

Việc nhận thức, vận dụng phù hợp mối quan hệ của Mác – Lênin với xã hội ở Việt Nam sẽ góp
phần thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh”.
Nước ta sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ năm 1975 đến trước những năm 1986,
mặc dù nước ta đã huy động được sức người, sức của cho cuộc kháng chiến và đổi mới đất nước,
song nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, hiệu quả thấp. Lúc bấy giờ, nước ta chưa
xác định được hiện thực khách quan nên chưa thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành
phần, coi kinh tế thị trường chỉ là thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hóa, dẫn đến những kế hoạch sai
phạm, không có hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam. Khi xác lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt
đối hóa vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ tồn tại dưới hai dạng là toàn dân và
tập thể. Từ đó khiến cho nền kinh tế bị đình trệ, lực lượng sản xuất không phát triển, sản xuất
ngưng trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Những hạn chế đó đều xuất phát từ nguyên
nhân chủ yếu là do sự nóng vội, duy ý trí dẫn đến việc có những nhận thức chưa đúng đắn về quy
luật giữa mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chúng ta đã tạo ra sự mâu
thuẫn trong mối quan hệ, muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến vượt thời đại trong khi nền kinh
tế đất nước còn kém phát triển, lạc hậu nghèo nàn, điều đó đã đưa đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế, xã hội.

Thực hiện đường lối chính sách mới, nước ta đã có những phát triển vượt bậc trong nền kinh tế,
đạt được những thành tựu to lớn, trong đó nổi bật là sự vận dụng hợp lí của mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với hình thức đa
dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, tiềm năng của các thành phần kinh tế. Những năm gần đây
trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, khoa học công nghệ là một trong những yếu tố đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Những thành tựu khoa học đã
góp phần trong việc cải tiến công cụ lao động, phát triển tư liệu sản xuất, từ đó tạo được những
thay đổi lớn lao trong nền kinh tế Việt Nam. Những công cụ lao động thuần túy được thay thế
bằng dây chuyền sản xuất, sức lao động của con người từ lao động tay chân dần chủ yếu chuyển
sang lao động trí óc, chuyên môn hóa. Nhờ có sự chuyển biến đó đã làm cho năng suất lao động
tăng vượt bậc, khối lượng sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao, nền kinh tế
nước ta cũng có những sự phát triển tích cực. Tuy nhiên, so với nhiều quốc gia khác trên khu vực
và thế giới, nền công nghiệp nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, mức độ hiện đại hóa chưa đồng đều
trên từng lĩnh vực cũng như ở các địa phương.

SẢN XUẤT VẬT CHẤT


a, Các khái niệm:
- Sản xuất vật chất: là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải
biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và
phát triển của con người.
+ Các tính chất cơ bản: Tính khách quan; tính mục đích; tính lịch sử - xã hội, tính sáng tạo
+ Các nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất vật chất: hoàn cảnh địa lý TN, điều kiện dân số,
phương thức SX. Các nhân tố này có mối quan hệ với nhau, phương thức sản xuất đóng vai trò
quyết định.
- Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải
biến thế giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người
+ Biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất
+ Thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất
+ Bao gồm:
 Người lao động: Trí lực và thể lực
 Tư liệu SX: Tư liệu lao động (Công cụ lao động và tư liệu khác)
Đối tượng lao động (Có sẵn tự nhiên và đã qua chế biến)
- Phương thức sản xuất dùng để chỉ cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng.
- Quan hệ sản xuất: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản
xuất xã hội)
+ Bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ thức và quản lý sản xuất,
quan hệ trong phân phối SP lao động. Ba mặt trong QHSX luôn gắn bó với nhau, quan hệ sở hữu
có ý nghĩa quyết định đối với các quan hệ khác.
b, Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
* Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
- Quan hệ sản xuất phụ thuộc lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thống nhất trong phương thức sản xuất, chúng tồn tại
không tách rời nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề
- Trong 2 yếu tố cấu tạo nên phương thức sản xuất:
+ LLSX làm thay đổi phương thức SX, sự thay đổi này là do sự thay đổi của công cụ lao động, công
cụ lao động thay đổi là do trình độ con người áp dụng vào quy trình sản xuất
+ Sự vận động và phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp
- Sự thống nhất giữa LLSX và QHSX có nhiều mâu thuẫn:
+ LLSX thường xuyên biến đổi, QHSX tương đối ổn định. Sự phát triển của LLSX đến 1 trình độ
nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp, lúc ấy QHSX trở thành xiềng
xích kìm hãm sự phát triển của LLSX
+ Sự phát triển của LLSX dẫn đến sự thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới
=> PTSX cũ mất đi, PTSX mới ra đời
* Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất:
- Nếu QHSX phù hợp trình độ LLSX sẽ làm cho LLSX phát triển
- Nếu QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX thì nó sẽ là xiềng xích làm kìm hãm LLSX phát
triển
- Việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX phải thông qua nhận thức và cải tạo xã hội của con
người, trong xã hội có giai cấp thì phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c, Ý nghĩa của việc nắm vững quy luật này trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
- Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ vào thực trạng (tình
hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ không phải
căn cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp
cho việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
- Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến (cải cách, đổi mới,...) mà cao
hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn này.
- Phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng lực lượng sản xuất tiên
tiến. Coi trọng yếu tố con người trong lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của LLSX, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất ở nước ta
- Từng bước hoàn thiện QHSX XHCN. Phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
Nâng cao sự quản lý của nhà nước đối với các thành phần kinh tế, đảm bảo các thành phần kinh tế
phát triển theo định hướng XHCN.

You might also like