Professional Documents
Culture Documents
Tai Liệu Tranh Biện
Tai Liệu Tranh Biện
Phiên bản đầu tiên của tài liệu này được tôi biên soạn
dựa trên các cách hiểu của cá nhân tôi về lĩnh vực này
có sự tham khảo nhất định của một số tài liệu khác, đặc
biệt là các tài liệu của nhóm Y2D và Fgroup.
Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu một cách bài bản hơn các tài
liệu quốc tế trong các phiên bản sau của tài liệu này.
18/6/2013
Hoàng Đức Minh
PHẦN 1: TRANH BIỆN LÀ GÌ?
Tôi thường không đưa ra một định nghĩa cụ thể cho khái
niệm “Tranh biện” mà thường so sánh nó với các hình
thức tương tự nhằm phân biệt. Hãy thử xem bảng sau:
KHÁI NIỆM MÔ TẢ
Thuyết phục người nghe nhằm thay đổi
Hùng biện
một hành vi hoặc nhận thức
Thống nhất một giải pháp hoặc một nhận
Thảo luận
thức chung về vấn đề
Thuyết phục đối phương chấp nhận quyền
Đàm phán lợi mà mình đề nghị và đổi lại các lợi ích
mà mình mong muốn
Phân tích các thông tin và đưa ra lập luận
Tranh luận
để tìm xem cái gì là đúng
Đưa ra các lập luận để thuyết phục rằng
Tranh biện
một điều là đúng hơn
Hùng biện:
Bộ trưởng Đinh La Thăng có thể có một bài phát biểu về
các giải pháp của ông nhằm giảm ách tắc giao thông ở
Hà Nội. Trong bài phát biểu này ông có thể sử dụng các
biện pháp như giọng điệu, ngôn ngữ cơ thể, những lời
hứa, cam đoạn. Ông có thể kêu gọi sự đồng cảm của
người dân, chỉ ra rằng ông đã bắt nhân viên không được
chơi golf như một tấm gương. Tất cả điều này đều
nhằm mục đích làm cho người nghe cảm thấy tin tưởng
vào ông và giải pháp của ông, và điều rõ ràng nhất là bài
hùng biện này chỉ là một chiều từ phía ông
Thảo luận
Một cuộc họp giữa các nhà chính sách và các chuyên gia
về giao thông nhằm đưa ra một bộ giải pháp cho vấn đề
giao thông được gọi là một thảo luận. Trong cuộc họp
này các bên lần lượt thống nhất về vấn đề cần giải
quyết, đưa ra các giải pháp khác nhau, phân tích ưu
nhược của các giải pháp, đưa ra các chỉnh sửa hoặc phối
hợp các giải pháp khác nhau để đưa ra một bộ giải pháp
chung.
Đàm phán
Một cuộc đàm phán có thể được diễn ra giữa chính
quyền địa phương và người dân nhằm thống nhất
phương án đền bù giải tỏa mặt bằng. Trong cuộc đàm
phán này, mục tiêu của chính quyền là có thể giải tỏa
được đất của người dân để xây dựng đường xá, còn
mục tiêu của người dân là làm sao lấy được mức đền bù
thỏa đáng nhất. Các bên sẽ phải đưa ra các lập luận và
cả các nhượng bộ về quyền lợi nhằm đạt được mục tiêu
của mình.
Tranh luận
Một cuộc tranh luận có thể diễn ra giữa các chuyên gia
về giao thông nhằm tìm ra chính xác các nguyên nhân
gây ra tắc đường ở Hà Nội. Đặc điểm nổi bật của cuộc
tranh luận này là các lập luận được dựa trên cơ sở phân
tích logic với các bằng chứng khách quan. Khác với cuộc
thảo luận ở phía trên - nơi mà kết quả có thể là một bộ
giải pháp mang tính “trung hòa” và “dung hợp” giữa các
ý kiến khi mà khó có thể có một phương án nào được
chứng minh là chính xác tuyệt đối, cuộc tranh luận của
các chuyên gia này nhằm tìm ra nguyên nhân “thực sự”
của vấn đề ách tắc giao thông.
Tranh biện
Một cuộc tranh biện sẽ diễn ra khi có một nhóm người
phản đối nhóm giải pháp được đưa ra trong cuộc thảo
luận ở phía trên. Trong trường hợp này các bên đưa ra
lý lẽ để ủng hộ hoặc phản bác nhóm giải pháp này, và
kết quả của cuộc tranh luận này là người ta có phê
duyệt chúng hay không.
Đối với thảo luận, các phương án hoặc kết luận có thể
không được đưa ra ngay từ đầu mà là kết quả của một
quá trình trao đổi và phân tích, thêm vào đó, ngay cả khi
có các phương án được đưa ra từ đầu thì có thể kết quả
sẽ là một phương án “mới” được xây dựng dựa trên các
phương án ban đầu. Phương án này có thể không phải
là một phương án chính xác tuyệt đối, mà là kết quả của
sự đồng thuận giữa các bên tham gia.
Trong tranh luận, mục tiêu của các bên là “tìm ra cái gì
đúng”. Điều này có nghĩa là có thể chẳng có ai nói đúng
cả nếu các bên đưa ra được lập luận chứng minh là
khẳng định kia không đủ chính xác. Kết luận của tranh
luận cũng có thể là một khẳng định mới dựa trên các
thông tin và lập luận đưa ra trong quá trình tranh luận,
tuy nhiên kết luận này chủ yếu không dựa trên sự đồng
thuận(hay nên hiểu theo nghĩa là sự thỏa hiệp), mà là
bởi tính thuyết phục của chính các lập luận.
Một điều rõ ràng trong một cuộc tranh biện, là bên ủng
hộ không cần thiết phải chứng minh quan điểm mà họ
ủng hộ là đúng, họ chỉ cần đưa ra các lập luận để thuyết
phục người nghe rằng quan điểm đó có tính hợp lý hơn
quan điểm đưa ra bởi phe phản đối.
Karl Popper, cha đẻ của môn khoa học tranh biện đã nói
rằng: “Tôi tin rằng có chân lý tồn tại, nhưng tôi không
tin rằng ai đó có thể nói ra được chân lý”. Ông cho rằng
mọi quan điểm đều có thể bị phản biện bởi các quan
điểm đối lập, và vì thế tranh biện được ông đưa ra như
một phương pháp nhằm giúp con người ta tiến gần hơn
đến chân lý.
Thực tế, phương pháp tìm đến chân lý của tranh biện
được xây dựng trên nguyên tắc phủ định giả thiết, một
phương pháp cũng thường xuyên được áp dụng trong
khoa học. Một giả thiết được đưa ra, sau đó một bên
bảo vệ và một bên ủng hộ giả thiết này. Giả thiết đó
được chấp nhận cho đến khi nó được chứng minh là sai.
Ví dụ như thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton, vẫn
được chấp nhận là hợp lý cho đến khi có những lời giải
thích hợp lý hơn đến từ thuyết tương đối của Einstein.
Vì thế, cá nhân tôi đưa ra một định nghĩa về tranh biện
như sau:
“Tranh biện là một hình thức tương tác giữa hai bên
ủng hộ và phản đối một quan điểm, trong đó các bên
đưa ra các lập luận chống lại nhau nhằm thuyết phục
người nghe ủng hộ hay phản đối quan điểm đó.”
PHẦN 2: CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG TRANH BIỆN
Các đội được chuẩn bị sẵn ở nhà các thông tin, tuy
nhiên họ sẽ chỉ biết được mình ở phe ủng hộ
(Affirmative) hay phe phản đối (Negative) sau phần bốc
thăm trước mỗi trận đấu.
Trong trận đấu, các bên lần lượt đưa ra các luận điểm
(Argument) của mình đồng thời chống lại luận điểm của
đối phương, tất cả nhằm thuyết phục trọng tài ủng hộ
cho đội mình.
Tôi vẫn thường gọi mô hình C-R-E là linh hồn của tranh
biện, nguyên nhân vì phần lớn các công việc của một
người tranh biện như trình bày quan điểm, tấn công đối
phương đều xoay xung quanh mô hình này. Nắm được
C-R-E là điều cốt lõi của một người tranh biện.
Câu nói này không thể được gọi là một thông tin, bởi vì
nó hoàn toàn không phải là một điều chắc chắn đang
diễn ra và cũng không đo đếm được.
Trong một cuộc tranh biện, nếu một khẳng định được
đưa ra độc lập như trên mà không có các lập luận hay
dẫn chứng đi kèm, tôi gọi đây là một “khẳng định vô
căn cứ”
Hãy thử phân tích một câu nói có cấu trúc tương tự:
Trong tình yêu thì làm con gái sướng hơn con trai vì
con gái thường được con trai tặng quà
Câu nói này cũng có thể được phân tích thành một tam
đoạn luận như sau
o Con gái thường được con trai tặng quà
o Được tặng quà thì sướng hơn là không được
tặng quà
o Vì thế con gái sướng hơn con trai
Tuy nhiên, bạn cũng có thể thấy rằng lập luận trên
không được củng cố bởi bất cứ một thông tin thực tế
nào. Lập luận này sẽ trở nên không thuyết phục nếu phe
phản đối đưa ra những bằng chứng về việc “tặng quà là
một hành vi khiến cả hai đều sướng”, hoặc “nhận quà
cũng có thể không sướng” (ví dụ nhận phải món quà
mà mình không thích).
Những lập luận được đưa ra dù cho hợp lý đến đâu
nhưng không đi kèm các bằng chứng thì đều chỉ là các
giả thiết, suy luận mà thôi.
Ngộ nhận
Hãy xem xét câu sau:
Thiếu nữ Việt Nam nói chung là rất hư hỏng, bằng
chứng là có số liệu cho thấy tỷ lệ nạo phá thai của Việt
Nam đứng thứ 5 trên thế giới.
Chúng ta sẽ không phân tích câu nói trên thành một tam
đoạn luận vì một kết luận “Thiếu nữ Việt Nam nói chung
là rất hư hỏng” đã được rút ra trực tiếp từ một dẫn
chứng (tỷ lệ nạo phá thai của Việt Nam cao). Tác giả của
câu nói này không chỉ ra quá trình suy luận mà chỉ minh
họa bằng số liệu cho khẳng định của mình.
Trong tranh biện, tôi gọi điều này là một ngộ nhận, hay
một áp đặt bởi vì hoàn toàn không có một mối liên hệ
nào được chỉ ra giữa số liệu được dẫn chứng và kết luận
mà chúng ta có. Điều này hoàn toàn có thể dẫn đến việc
kết luận mà chúng ta có là hoàn toàn vô giá trị.
Ví dụ:
Tôi là thần may mắn của đội bóng này, bằng chứng là
lần nào tôi đi xem thì đội này cũng chiến thắng
Chúng ta có thể thấy, việc tỷ lệ nạo phá thai của Việt
Nam cao có thể là vì nguyên nhân thiếu hiểu biết về an
toàn tình dục, còn việc đội bóng chiến thắng hoàn toàn
có thể là sự tình cờ.
Các diễn giải bằng lý lẽ rất quan trọng khi đưa ra một
luận điểm, nếu không thứ bạn có chỉ là một sự chụp mũ.
Mô hình C-R-E
Khi một luận điểm được đưa ra bao gồm một khẳng
định kèm theo bằng chứng minh họa và những lý lẽ diễn
giải thì nó đã đáp ứng yêu cầu của mô hình Claim –
Reason – Evidence (C-R-E) . Dưới đây là ví dụ minh họa
về mô hình này:
Bạn có thể thấy, trong luận điểm thứ 2, tôi đã đưa ra tới
hai lời giải thích khác nhau cho khẳng định “Hút thuốc lá
gây hại cho môi trường”. Một luận điểm của bạn chỉ có
thể có một lời khẳng định, tuy nhiên bạn có thể có
nhiều lập luận khác nhau cũng như nhiều bằng chứng
để củng cố nó.
Trong thi đấu tranh biện, sau lượt nói đầu tiên, bạn
không thể bổ sung thêm các luận điểm mới, tuy nhiên
bạn được quyền phát triển các luận điểm đã có bằng
cách bổ sung thêm các lý lẽ và bằng chứng.
Hãy thử nhìn lại ba luận điểm mà tôi vừa đưa ra bên
trên, nếu tôi dùng nó để ủng hộ kiến nghị rằng “Cần có
các biện pháp làm giảm việc hút thuốc lá” thì có lẽ là đã
đủ thuyết phục rồi. Thế nhưng nếu trong một trận thi
đấu với kiến nghị rằng “Phải cấm hoàn toàn việc hút
thuốc lá” thì khó mà có thể thuyết phục được trọng tài.
Nếu bạn chỉ đưa ra những lập luận như vậy, và tôi ở phe
đối lập, tôi có thể hoàn toàn thừa nhận những luận
điểm này và sau đó đặt lại một câu hỏi “Thì sao ?”.
Có hại cho sức khỏe thì sao? Ô nhiêm mỗi trường thì
sao? “Chẳng lẽ mọi thứ có hại cho sức khỏe thì đều
phải cấm hoàn toàn? Liệu bạn có thể cấm đường vì
chúng gây béo phì, hay cấm dầu mỏ vì chúng làm biến
đổi khí hậu?”
Hãy cùng bổ sung thêm “Impact” cho các luận điểm bên
trên, với kiến nghị là “Cần cấm hút thuốc lá ở nơi công
cộng”
Một điều quan trọng là bạn cần phải biết được sự khác
biệt giữa các hình thức này sẽ đem lại điều gì, hoặc tạo
ra sự thay đổi gì với người tranh biện. Bên cạnh đó, tùy
theo tình huống thực tế như thời gian cho phép, trình
độ của các bên tham gia… bạn nên tùy chỉnh format cho
phù hợp (tuy vậy bạn nên thông báo về sự thay đổi này
nhằm tránh sự hỗn loạn trong các format đã được quy
chuẩn)