Professional Documents
Culture Documents
Tiểu Luận PLĐC Chương 1
Tiểu Luận PLĐC Chương 1
So với Bộ luật Hình sự 1999, chủ thể của tội phạm đã được mở rộng hơn, bao
gồm tất cả những người tham gia giao thông đường bộ. Trước đây, theo quy
định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự 1999 thì chỉ những người “điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ” mới là chủ thể của tội phạm này.
Trong khi đó, khoản 22 Điều 3 Luật giao thông đường bộ quy định “Người
tham gia giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham
gia giao thông đường bộ, người điều khiển, dẫn dắt súc vật, người đi bộ trên
đường bộ” và trên thực tế cho thấy không phải chỉ những người điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ có vi phạm, mà cả những chủ thể khác (như
người đi bộ) khi tham gia giao thông cũng vi phạm quy định về an toàn giao
thông dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản của
người khác.
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng
tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Giữa hành vi vi phạm quy
định về an toàn giao thông đường bộ và hậu quả xảy ra cần có mối quan hệ
nhân quả. Trong trường hợp chưa gây hậu quả, nhưng có khả năng thực tế dẫn
đến hậu quả (bằng một trong các tình tiết sau đây: làm chết 03 người trở lên;
hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên; hoặc gây thiệt
hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên), nếu không được ngăn chặn kịp thời,
thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.4. Biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn
giao thông đường bộ
1.4.1. Xử phạt hành chính
Biện pháp xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ có thể bao gồm phạt tiền, tước giấy pháp lái xe hoặc
các biện pháp khác tùy thuộc vào mức độ vi phạm của người tham gia giao
thông.
1.4.2. Bồi thường các thiệt hại
Bồi thường thiệt hại đối với hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ thường liên quan đến trách nhiệm pháp lý của người vi phạm.
Người đó có thể phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại gây ra và bồi thường
cho các bên bị ảnh hưởng, bao gồm cả thiệt hại về người và tài sản. Mức bồi
thường phụ thuộc vào quy định cụ thể và mức độ thiệt hại mà người vi phạm
gây ra.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân khi gây tai nạn
giao thông được quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được phát sinh khi: Người nào có hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại; người gây thiệt hại không phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do
sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
1.4.3. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ liên quan đến những hành vi mang tính chất nghiêm
trọng và đặc biệt nguy hiểm. Điều này có thể bao gồm việc đánh giá mức độ cố
ý, hậu quả gây ra như tai nạn giao thông làm chết người hoặc làm tổn thương
nặng nề.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 thì người vi phạm giao thông phải có
hành vi vi phạm một trong các tội được quy định tại Bộ luật trên thì mới bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, các tội xâm phạm an toàn giao thông được
quy định tại mục 1 chương XXI Bộ luật Hình sự 2015.