Triết học Mác - Lênin là gì? Nêu đối tượng và chức năng cơ bản của Triết học Mác - Lênin?

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

⸎⸎⸎⸎⸎

BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

Đề bài: “Triết học Mác - Lênin là gì? Nêu đối tượng và chức năng cơ bản của
Triết học Mác - Lênin?”

Giảng viên hướng dẫn: Đồng Thị Tuyền

Lớp học: Triết học Mác - Lê-nin_1_2(15CHUNG).3_LT

Nhóm số: 08

HÀ NỘI, THÁNG 04/2022


Thành viên nhóm:

1. Đoàn Phương Linh 21011483

2. Lê Thị Ngọc Lan 21010537

3. Nguyễn Thị Mận 21011485

4. Nguyễn Thị Thanh Loan 21011936

5. Nguyễn Phương Loan 21013080

6. Trần Ngọc Ly 21011948

7. Phạm Thị Thùy Linh 21011484

8. Sầm Bảo Long 21011937

9. Đỗ Vũ Hùng Mạnh 21010526

1
MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU ..............................................................................................................3
B. NỘI DUNG ...........................................................................................................6
1. Khái niệm triết học Mác Lênin. ......................................................................6
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng
và nghiên cứu những quy luật vận động , phát triển chung nhất của tự
nhiên, xã hội, tư duy.............................................................................................6
2.1. Vật chất quyết định ý thức .......................................................................7
2.2. Ý thức tác động trở lại vật chất ...............................................................9
3. Chức năng cơ bản của triết học ....................................................................12
3.1. Chức năng thế giới quan của Triết học.................................................12
3.2. Chức năng phương pháp luận của Triết học .......................................13
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................16

2
A. MỞ ĐẦU
Khái quát nguồn gốc hình thành triết học
Nguồn gốc hình thành triết học ( nói chung ):
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII – VI (TCN). Trong tiếng Anh, từ
“Philosophy” (triết học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, được ghép từ hai từ “Philos
– Tình yêu” và “Sophia – Sự thông thái”. Theo nghĩa đen: Triết học (philosophia)
là tình yêu đối với sự thông thái. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy; những
vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn
ngữ. Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung
nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ
thống dưới dạng lý luận. Nói cách khác Triết học là một trong những hình thái ý
thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức,
của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc của triết học: Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người,
triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây (phương Đông: Ấn độ và Trung
hoa, phương Tây: Hy lạp) gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến
thế kỷ VI trước CN) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại. Ý
thức triết học xuất hiện không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội
với một trình độ nhất định của sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con
người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của
mình đã sáng tạo ra những luật thuyết chung nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế
giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết học là dạng tri thức lý luận
xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại.

3
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức:
+ Trước khi triết học xuất hiện thế giới quan thần thoại đã chi phối hoạt động nhận
thức của con người
+ Triết học là hình thức tư duy lý luận đầu tiên và thể hiện khả năng tư duy trừu
tượng, năng lực khái quát của con người để giải quyết tất cả các vấn đề nhận thức
chung về tự nhiên, xã hội, tư duy
- Nguồn gốc của xã hội:
+ Phân công lao động xã hội dẫn đến sự phân chia lao động là nguồn gốc dẫn đến
chế độ tư hữu
+ Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, triết học ra đời bản thân nó đã mang “tính
đảng” (nhiệm vụ của nó là luận chứng và bảo vệ lợi ích của một giai cấp xác định).

Nguồn gốc hình thành triết học ( nói riêng ):


Triết học Marx-Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Marx-
Lenin, được Marx, Engels sáng lập vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được Lenin và
các nhà macxit khác phát triển thêm. Triết học Marx-Lenin ra đời vào những năm
40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn
trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của triết học Marx-Lenin là một
cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học.
Triết học Marx-Lenin hình thành dựa trên hệ thống quan điểm của Marx, Engels và
được Lenin bổ sung sau này. Trong đó Engels đã phát triển triết học Marx, thông
qua việc khái quát các thành tựu khoa học và phê phán các lý thuyết triết học duy
tâm, siêu hình và cả những quan niệm duy vật tầm thường ở những người muốn trở
thành những người Mác-xít. Với những tác phẩm chủ yếu của mình như: Chống
Duyring, Biện chứng của tự nhiên, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
4
nhà nước, Lut vich Phoi bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Engels đã
trình bày học thuyết Mác nói chung và triết học Mác nói riêng dưới dạng một hệ
thống lý luận. Ngoài ra những ý kiến bổ sung, giải thích của Engels sau khi Mác qua
đời đối với một số luận điểm của ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc phát triển học thuyết Mác.
Cấu trúc của triết học Mác-Lênin- đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và cùng
với nó, trong sự thống nhất gắn bó không tách rời là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong
thành phần của triết học Mác-Lênin còn có những vấn đề triết học trong khoa học tự
nhiên, tâm lý học, lôgíc học, đạo đức học, mỹ học, chủ nghĩa vô thần khoa học và
lịch sử triết học. Triết học- đó không chỉ là lý luận của biện chứng khách quan và
lôgíc của nhận thức khoa học, mà còn là lý luận của học thuyết xã hội học chung,
của học thuyết đạo đức học và mỹ học.

5
B. NỘI DUNG

1. Khái niệm triết học Mác Lênin :


Triết học Mác Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên,xã
hội và tư duy-thế giới quan và phương pháp luận khoa học cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác-Lênin, định hướng vào sự phản ánh tương ứng, chân thực các qui
luật của tự nhiên và trên cơ sở đó, thấy trước những sự kiện, biến cố của tương lai.
Khi áp dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật và dựa vào sự nhận thức
các qui luật của sự phát triển của xã hội, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã tiên
đoán được thời đại của những sự thay đổi xã hội sâu sắc rất lâu trước khi điều đó
xảy ra.
Cùng với những vấn đề trên, triết học Mác-Lênin có sự khác biệt sâu sắc với bất
kỳ một khoa học chuyên ngành nào, trước hết ở chỗ, triết học là thế giới quan của
giai cấp công nhân- đó là đặc thù chính của triết học Mác-Lênin. Đưa ra và phát triển
thế giới quan khoa học là sứ mạng lịch sử của triết học Mác-Lênin. Hệ thống triết
học đó không chỉ gắn trong mình học thuyết về bản chất và các qui luật của sự vận
động và phát triển của thế giới, mà còn đưa ra những tư tưởng và các quan điểm về
đạo đức, luân lý, nghĩa là triết học Mác-Lênin không chỉ phản ánh những qui luật
của hiện thực, mà còn thể hiện mối quan hệ của con người và của các nhóm người
với hiện thực đó.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện
chứng và nghiên cứu những quy luật vận động , phát triển chung
nhất của tự nhiên, xã hội, tư duy :
* Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức

6
2.1. Vật chất quyết định ý thức
Trước tiên chúng ta phải đi tìm hiểu vật chất là gì? Theo Lênin thì “Vật chất
là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác và được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác’’. như vậy định nghĩa vật chất của Lê- nin nổi
lên một số nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức.
- Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực
tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con người.
- Thứ ba, vật chất cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của
nó.
Qua đó, Lênin muốn khẳng định rằng, trong nhận thức luận, vật chất luôn
mang tính thứ nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự hình thành ý thức,
quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức và nó còn là điều
kiện để hiện thực hoá ý thức.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật
chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý
thức. Khoa học cũng đã chứng minh được rằng, thế giới vật chất nói chung và trái
đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người và bộ óc người,
rằng ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi
xuất hiện con người và bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên
cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người. Bộ não người bao gồm
khoảng 15 đến 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này tạo nên vô số các mối liên hệ
nhằm thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều khiển toàn bộ các hoạt động của cơ thể
7
trong quan hệ đối với thế giới bên ngoài qua cơ chế phản xạ không điều kiện và có
điều kiện.
Không chỉ có thế, vận động của ý thức, tư duy trên thực tế cũng là sản phẩm
của sự vận động của vật chất. Điều đó được chứng minh một cách khá rõ ràng ở
hình thức vận động xã hội của vật chất. Đó là sự thay thế lẫn nhau của các hình
thái kinh tế- xã hội, từ đó sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của
cách nghĩ, bởi tồn tại xã hội bao giờ cũng quyết định ý thức xã hội. Vai trò cơ sở,
quyết định của vật chất còn được thể hiện ở chỗ nó quyết định nội dung phản ánh,
quyết định sự biến đổi của ý thức.
Từ nội dung thứ hai trong định nghĩa vật chất của Lênin rằng: Vật chất mà cái
cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, mà ta thấy rằng nội
dung phản ánh của ý thức là thế giới bên ngoài, là hiện thực khách quan. Hay nói
như chủ nghĩa duy vật macxit: Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong
bộ óc của con người. Chính vì vậy mà thế giới khách quan như thế nào thì ý thức
phản ánh như thế ấy, không nên phản ánh một cách xuyên tạc, hư ảo, bóp méo sự
thật về thế giới khách quan như việc tô vẽ hình tượng các vị thần linh. Nói cách khác,
nội dung phản ánh của ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề và bị cái khách
quan quy định.
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Do ý thức là chức năng của bộ não
người. Hoạt động ý thức không diễn ra ở đâu ngoài những hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não. ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ não, do đó khi bộ não bị tổn
thương thì hoạt động ý thức sẽ không được bình thường hoặc bị rối loạn. Mặt khác,
trong hoạt động của con người, nhu cầu vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định,
chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi vì con người trước hết phải được thoả
mãn nhu cầu vật chất tối thiểu: ăn, ở, mặc… rồi mới nghĩ đến vui chơi, giải trí, các
hoạt động tinh thần.Tức là, hoạt động nhận thức của con người trước hết hướng tới
mục tiêu cải biến tự nhiên để thoả mãn nhu cầu sống.
8
Cuộc sống tinh thần của con người phụ thuộc và bị chi phối bởi nhu cầu vật
chất và những điều kiện vật chất hiện có. ý thức con người không thể tạo ra các đối
tượng vật chất, cũng không thay đổi được quy luật vận động của nó. Do đó, mọi mục
tiêu ước muốn của con người không dựa trên điều kiện vật chất hiện có, trên mảnh
đất hiện thực đều là ước mơ chủ quan, không tưởng.
Ví dụ: Vận dụng trong sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta.
Trước kia do không nhận thức được rằng mọi chủ trương đường lối…đều phải dựa
trên điều kiện vật chát hiện có mà chúng ta đã chủ trương phát triển công nghiệp
nặng trong khi mọi tiền đề vật chất thì chưa có. Do đó, chúng ta đã bị thất bại.
Không chỉ có thế, tính thứ nhất của vật chất so với tính thứ hai của ý thức còn
được thể hiện ở chỗ vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức. Nó quy định khả
năng các nhân tố tinh thân có thể tham gia vào hoạt động của con người. Nó tạo điều
kiện cho nhân tố tinh thần này hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và
qua đó quy định mục đích, chủ trương, biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động
của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa, bổ sung, cụ thể hoá các mục đích, chủ trương
biện pháp đó.
Khi khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của vật chất đối với ý thức,
chủ nghĩa duy vật macxit đồng thời cũng vạch rõ sự tác dộng trở lại vô cùng quan
trọng của ý thức đối với vật chất.

2.2. Ý thức tác động trở lại vật chất


Ý thức do vật chất sinh ra song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên
có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
Ý thức đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan của con người. Do đó nó có
tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất khách quan theo nhu cầu của
mình.
9
Ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con người có tác động tiêu cực thậm
chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách quan, kéo lùi lịch sử. Bởi
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ tác động qua lại. Không nhận
thức được điều này sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh nảo thủ trì trệ
trong nhận thức và hành động.
Nói tới vai trò của ý thức về thực cất là nói tới vai trò của con người bởi ý thức là ý
thức của con người.
Trái với các nhà triết học duy tâm muốn biến ý thức của con người thành động
lực của lịch sử, Các mac và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xưa nay, tư tưởng không
thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được, trong bất cứ tình huống nào,
tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế
giới cũ mà thôi”. Thật vậy, tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết.
Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn.
Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện các quy luật khách quan thì phải
nhận thức, vận dụng đúng đắn các quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ
chức hành động. Như vậy vai trò của ý thức là ở chỗ nó giúp con người đề ra chủ
trương, đường lối, chính sách, những mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng
phù hợp với thực tế khách quan. Nói như vậy có nghĩa là cũng có những ý thức khoa
họcvà những ý thức không khoa học so với hiện thực khách quan, tương ứng với nó
là hai tác động trái ngược nhau tích cực và tiêu cực của ý thức đối với vật chất.
Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay
thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế khách quan từ đó hình thành được mục
đích, phương hướng, biện pháp đúng đắn đồng thời có ý chí, quyết tâm cần thiết cho
hoạt dộng của mình. Sức mạnh cuả ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều
kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan, mà là biết dựa vào điều kiện vật chất
đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách
chủ động, sáng tạo với ý chí và quyết tâm cao nhằm phục vụ lợi ích của con người
10
và xã hội. Con người nhận thức và phản ánh thế giới thế giới khách quan càng đầy
đủ chính xác bao nhiêu thì cải tạo chúng càng có hiệu quả bấy nhiêu. Ở đây vai trò
năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan của con người có vị trí hết sức
quan trọng. Bảo thủ trì trệ hoặc tiêu cực thụ động, ỷ lại ngồi chờ chính là kìm hãm
sự phát triển, triệt tiêu tính năng động tích cực sáng tạo của ý thức.
Mặt khác, do có tính vượt trước, nên ý thức giúp cho hoạt động của con người
trở nên tự giác, tích cực, chủ động hơn như trong việc dự báo, lập kế hoạch, đề ra
đường lối, phương pháp hành động.
Vai trò của ý thức còn thể hiện ở vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm và ý chí.
Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực của
thực tiễn. Không có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt động thực tiễn sẽ diễn ra
một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn ra được. Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức
quy định tốc độ và bản sắc của hoạt động thực tiễn. Tinh thần, dũng cảm, dám nghĩ
dám làm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm, tình yêu, niềm say mê với công việc, khả
năng sáng tạo và vượt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác định đều có ảnh
hưởng to lớn đến hoạt động thực tiễn làm cho nó diễn ra nhanh hay chậm. Tuy nhiên,
ý chí, tình cảm chỉ là động lực mà không thể là kim chỉ làm cho hoạt động thực tiễn.
Bởi vì, sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn, tác dụng tích cực hay tiêu
cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên và xã hội chủ yếu phụ thuộc vào
vai trò chỉ đạo ý thức. Chính vì vậy phải biết kết hợp giữa tri thức, trí tuệ, khoa học
với ý chí, tình cảm. Bởi tri thức càng được tích luỹ, con người ngày càng đi sâu vào
bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức là việc
thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã
hội. Nếu như thế giới vật chất – với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó –
tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực thể khách quan
11
làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, Lênin đã nhiều lần nhấn
mạnh rằng, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được
lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ
xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay
cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Không chỉ có thế, khi vai trò chỉ đạo của ý thức phạm sai lầm thì tinh thần, dũng
cảm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm cũng làm cho hoạt động thực tiễn thất bại một
cách nhanh chóng.
Qua những điều vừa trình bày ở trên về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể rút ra một ý nghĩa hết sức quan
trọng trong hoạt động thực tiễn của con người như sau: Mọi hoạt động của con người
(cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn) đều phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phát huy được tính năng động sáng tạo của ý thức, tư tưởng, của nhân tố chủ
quan của con người và đồng thời chống chủ quan duy ý chí.

3. Chức năng cơ bản của triết học


Cũng như mọi khoa học triết học có thể cùng một lúc có thể thực hiện nhiều
chức năng khác nhau. Triết học có chức năng thế giới quan và phương pháp luận,
chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng phê phán… Tuy nhiên, chức năng thế
giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết học nói
chung, đặc biệt là triết học Mác – Lênin nói riêng.

3.1. Chức năng thế giới quan của Triết học

- Thế giới quan: đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của loài người
và xã hội loài người. Có thể ví thế giới quan như một “thấu kính”, qua đó, con người
nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như xem xét bản thân mình nhằm xác định cho
12
mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động sao cho phù hợp
để đạt được mục đích đặt ra. Đây là cơ sở đúng đắn để cho mỗi người xây dựng nhân
sinh quan, xác định để sống một cách tích cực trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình
độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân
cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.

- Thế giới quan duy vật biện chứng: có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân tố
định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực đây chính là
“thấu kính”, triết học để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự
vật hiện tượng và xem xét chính mình. Nó giúp cho con người có cơ sở khoa học
đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích, ý nghĩa
của cuộc sống Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành
quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động, nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo
của con người.
3.2. Chức năng phương pháp luận của Triết học

Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm những nguyên tắc xuất phát,
những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm kết quả
tối ưu.
Phương pháp luận cũng cố định nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp là hệ
thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn vận dụng các phương
pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ
biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.

+ Phương pháp luận ngành của triết học (còn gọi là phương pháp luật bộ môn):
là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung của triết học là phương pháp luận được sử dụng trong
một số ngành khoa học.
13
+ Phương pháp luận chung nhất của triết học là phương pháp được dùng làm
điểm suất phát cho việc xác định phương pháp luận chung, phương pháp luận ngành
và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối
hóa phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận triết học sẽ
xa vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong
công tác. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương pháp luận triết học sẽ xa
vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy
vật biện chứng giúp cho mọi người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí
và phương pháp tư duy máy móc, siêu hình gây ra.

C. KẾT LUẬN
Bài tiểu luận đã phân tích đầy đủ về khái niệm triết học Mác - Lenin cũng như đối
tượng và chức năng cơ bản của triết học Mác - Lenin. Triết học Mác - Lenin là hệ
thống quan điểm duy vật biện chứng và tư duy thế giới quan. Chính vì vậy việc
nghiên cứu "Triết học Mác - Lenin là gì" là việc làm giúp ta hiểu sâu hơn về sự hình
thành của triết học. Triết học Mác - Lenin là thế giới quan, phương pháp luận khoa

14
học và cách mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn, phân tích xu hướng
phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại phát triển mạnh mẽ. Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận
thức, quan sát, nhìn nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh và từ đó có thể giúp
con người có định hướng, thái độ và cách thức hoạt động của mình.

15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành
cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. (Phần
thứ nhất).

[3]. Đại học Nguyễn Trãi, Dề cương chuyên đề 1 Những vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng – TS Phạm Bá Khoa

[4]. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức –
Hocluat.vn

[5]. Chức năng của Triết học Mác – Lênin

16
17

You might also like