Professional Documents
Culture Documents
Triết học Mác - Lênin là gì? Nêu đối tượng và chức năng cơ bản của Triết học Mác - Lênin?
Triết học Mác - Lênin là gì? Nêu đối tượng và chức năng cơ bản của Triết học Mác - Lênin?
Triết học Mác - Lênin là gì? Nêu đối tượng và chức năng cơ bản của Triết học Mác - Lênin?
⸎⸎⸎⸎⸎
Đề bài: “Triết học Mác - Lênin là gì? Nêu đối tượng và chức năng cơ bản của
Triết học Mác - Lênin?”
Nhóm số: 08
1
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..............................................................................................................3
B. NỘI DUNG ...........................................................................................................6
1. Khái niệm triết học Mác Lênin. ......................................................................6
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng
và nghiên cứu những quy luật vận động , phát triển chung nhất của tự
nhiên, xã hội, tư duy.............................................................................................6
2.1. Vật chất quyết định ý thức .......................................................................7
2.2. Ý thức tác động trở lại vật chất ...............................................................9
3. Chức năng cơ bản của triết học ....................................................................12
3.1. Chức năng thế giới quan của Triết học.................................................12
3.2. Chức năng phương pháp luận của Triết học .......................................13
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................16
2
A. MỞ ĐẦU
Khái quát nguồn gốc hình thành triết học
Nguồn gốc hình thành triết học ( nói chung ):
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII – VI (TCN). Trong tiếng Anh, từ
“Philosophy” (triết học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, được ghép từ hai từ “Philos
– Tình yêu” và “Sophia – Sự thông thái”. Theo nghĩa đen: Triết học (philosophia)
là tình yêu đối với sự thông thái. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy; những
vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn
ngữ. Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung
nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ
thống dưới dạng lý luận. Nói cách khác Triết học là một trong những hình thái ý
thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức,
của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc của triết học: Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người,
triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây (phương Đông: Ấn độ và Trung
hoa, phương Tây: Hy lạp) gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến
thế kỷ VI trước CN) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại. Ý
thức triết học xuất hiện không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội
với một trình độ nhất định của sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con
người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của
mình đã sáng tạo ra những luật thuyết chung nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế
giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết học là dạng tri thức lý luận
xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại.
3
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức:
+ Trước khi triết học xuất hiện thế giới quan thần thoại đã chi phối hoạt động nhận
thức của con người
+ Triết học là hình thức tư duy lý luận đầu tiên và thể hiện khả năng tư duy trừu
tượng, năng lực khái quát của con người để giải quyết tất cả các vấn đề nhận thức
chung về tự nhiên, xã hội, tư duy
- Nguồn gốc của xã hội:
+ Phân công lao động xã hội dẫn đến sự phân chia lao động là nguồn gốc dẫn đến
chế độ tư hữu
+ Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, triết học ra đời bản thân nó đã mang “tính
đảng” (nhiệm vụ của nó là luận chứng và bảo vệ lợi ích của một giai cấp xác định).
5
B. NỘI DUNG
6
2.1. Vật chất quyết định ý thức
Trước tiên chúng ta phải đi tìm hiểu vật chất là gì? Theo Lênin thì “Vật chất
là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác và được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác’’. như vậy định nghĩa vật chất của Lê- nin nổi
lên một số nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức.
- Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực
tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con người.
- Thứ ba, vật chất cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của
nó.
Qua đó, Lênin muốn khẳng định rằng, trong nhận thức luận, vật chất luôn
mang tính thứ nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự hình thành ý thức,
quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức và nó còn là điều
kiện để hiện thực hoá ý thức.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật
chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý
thức. Khoa học cũng đã chứng minh được rằng, thế giới vật chất nói chung và trái
đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người và bộ óc người,
rằng ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi
xuất hiện con người và bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên
cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người. Bộ não người bao gồm
khoảng 15 đến 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này tạo nên vô số các mối liên hệ
nhằm thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều khiển toàn bộ các hoạt động của cơ thể
7
trong quan hệ đối với thế giới bên ngoài qua cơ chế phản xạ không điều kiện và có
điều kiện.
Không chỉ có thế, vận động của ý thức, tư duy trên thực tế cũng là sản phẩm
của sự vận động của vật chất. Điều đó được chứng minh một cách khá rõ ràng ở
hình thức vận động xã hội của vật chất. Đó là sự thay thế lẫn nhau của các hình
thái kinh tế- xã hội, từ đó sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của
cách nghĩ, bởi tồn tại xã hội bao giờ cũng quyết định ý thức xã hội. Vai trò cơ sở,
quyết định của vật chất còn được thể hiện ở chỗ nó quyết định nội dung phản ánh,
quyết định sự biến đổi của ý thức.
Từ nội dung thứ hai trong định nghĩa vật chất của Lênin rằng: Vật chất mà cái
cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, mà ta thấy rằng nội
dung phản ánh của ý thức là thế giới bên ngoài, là hiện thực khách quan. Hay nói
như chủ nghĩa duy vật macxit: Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong
bộ óc của con người. Chính vì vậy mà thế giới khách quan như thế nào thì ý thức
phản ánh như thế ấy, không nên phản ánh một cách xuyên tạc, hư ảo, bóp méo sự
thật về thế giới khách quan như việc tô vẽ hình tượng các vị thần linh. Nói cách khác,
nội dung phản ánh của ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề và bị cái khách
quan quy định.
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Do ý thức là chức năng của bộ não
người. Hoạt động ý thức không diễn ra ở đâu ngoài những hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não. ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ não, do đó khi bộ não bị tổn
thương thì hoạt động ý thức sẽ không được bình thường hoặc bị rối loạn. Mặt khác,
trong hoạt động của con người, nhu cầu vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định,
chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi vì con người trước hết phải được thoả
mãn nhu cầu vật chất tối thiểu: ăn, ở, mặc… rồi mới nghĩ đến vui chơi, giải trí, các
hoạt động tinh thần.Tức là, hoạt động nhận thức của con người trước hết hướng tới
mục tiêu cải biến tự nhiên để thoả mãn nhu cầu sống.
8
Cuộc sống tinh thần của con người phụ thuộc và bị chi phối bởi nhu cầu vật
chất và những điều kiện vật chất hiện có. ý thức con người không thể tạo ra các đối
tượng vật chất, cũng không thay đổi được quy luật vận động của nó. Do đó, mọi mục
tiêu ước muốn của con người không dựa trên điều kiện vật chất hiện có, trên mảnh
đất hiện thực đều là ước mơ chủ quan, không tưởng.
Ví dụ: Vận dụng trong sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta.
Trước kia do không nhận thức được rằng mọi chủ trương đường lối…đều phải dựa
trên điều kiện vật chát hiện có mà chúng ta đã chủ trương phát triển công nghiệp
nặng trong khi mọi tiền đề vật chất thì chưa có. Do đó, chúng ta đã bị thất bại.
Không chỉ có thế, tính thứ nhất của vật chất so với tính thứ hai của ý thức còn
được thể hiện ở chỗ vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức. Nó quy định khả
năng các nhân tố tinh thân có thể tham gia vào hoạt động của con người. Nó tạo điều
kiện cho nhân tố tinh thần này hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và
qua đó quy định mục đích, chủ trương, biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động
của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa, bổ sung, cụ thể hoá các mục đích, chủ trương
biện pháp đó.
Khi khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của vật chất đối với ý thức,
chủ nghĩa duy vật macxit đồng thời cũng vạch rõ sự tác dộng trở lại vô cùng quan
trọng của ý thức đối với vật chất.
- Thế giới quan: đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của loài người
và xã hội loài người. Có thể ví thế giới quan như một “thấu kính”, qua đó, con người
nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như xem xét bản thân mình nhằm xác định cho
12
mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động sao cho phù hợp
để đạt được mục đích đặt ra. Đây là cơ sở đúng đắn để cho mỗi người xây dựng nhân
sinh quan, xác định để sống một cách tích cực trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình
độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân
cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.
- Thế giới quan duy vật biện chứng: có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân tố
định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực đây chính là
“thấu kính”, triết học để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự
vật hiện tượng và xem xét chính mình. Nó giúp cho con người có cơ sở khoa học
đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích, ý nghĩa
của cuộc sống Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành
quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động, nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo
của con người.
3.2. Chức năng phương pháp luận của Triết học
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm những nguyên tắc xuất phát,
những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm kết quả
tối ưu.
Phương pháp luận cũng cố định nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp là hệ
thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn vận dụng các phương
pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ
biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Phương pháp luận ngành của triết học (còn gọi là phương pháp luật bộ môn):
là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung của triết học là phương pháp luận được sử dụng trong
một số ngành khoa học.
13
+ Phương pháp luận chung nhất của triết học là phương pháp được dùng làm
điểm suất phát cho việc xác định phương pháp luận chung, phương pháp luận ngành
và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối
hóa phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận triết học sẽ
xa vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong
công tác. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương pháp luận triết học sẽ xa
vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy
vật biện chứng giúp cho mọi người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí
và phương pháp tư duy máy móc, siêu hình gây ra.
C. KẾT LUẬN
Bài tiểu luận đã phân tích đầy đủ về khái niệm triết học Mác - Lenin cũng như đối
tượng và chức năng cơ bản của triết học Mác - Lenin. Triết học Mác - Lenin là hệ
thống quan điểm duy vật biện chứng và tư duy thế giới quan. Chính vì vậy việc
nghiên cứu "Triết học Mác - Lenin là gì" là việc làm giúp ta hiểu sâu hơn về sự hình
thành của triết học. Triết học Mác - Lenin là thế giới quan, phương pháp luận khoa
14
học và cách mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn, phân tích xu hướng
phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại phát triển mạnh mẽ. Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận
thức, quan sát, nhìn nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh và từ đó có thể giúp
con người có định hướng, thái độ và cách thức hoạt động của mình.
15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành
cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. (Phần
thứ nhất).
[3]. Đại học Nguyễn Trãi, Dề cương chuyên đề 1 Những vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng – TS Phạm Bá Khoa
[4]. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức –
Hocluat.vn
16
17