Professional Documents
Culture Documents
World Bank East Asia and The Pacific Economic Update April 2024
World Bank East Asia and The Pacific Economic Update April 2024
World Bank East Asia and The Pacific Economic Update April 2024
NGÂN HÀNG THẾ GIỚI ĐÔNG Á VÀ CẬP NHẬT KINH TẾ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
NGÂN HÀNG THẾ GIỚI ĐÔNG Á VÀ CẬP NHẬT KINH TẾ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
© 2024 Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế / Ngân hàng Thế giới
1 2 3 4 27 26 25 24
Công trình này là sản phẩm của đội ngũ cán bộ Ngân hàng Thế giới với sự đóng góp từ bên ngoài. Những phát hiện, diễn giải và kết luận trình
bày trong báo cáo này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Ngân hàng Thế giới, Ban Giám đốc Điều hành hoặc các chính phủ mà họ đại diện.
Ngân hàng Thế giới không đảm bảo tính chính xác, đầy đủ hoặc cập nhật của dữ liệu trong báo cáo này và không chịu trách nhiệm về bất kỳ sai
sót, thiếu sót hoặc sai lệch nào trong thông tin hoặc trách nhiệm pháp lý liên quan đến việc sử dụng hoặc không sử dụng tài liệu này. thông
tin, phương pháp, quy trình hoặc kết luận được đưa ra. Các ranh giới, màu sắc, tên gọi, liên kết/chú thích và các thông tin khác được trình
bày trong tài liệu này không hàm ý bất kỳ đánh giá nào của Ngân hàng Thế giới liên quan đến tình trạng pháp lý của bất kỳ lãnh thổ nào hoặc
việc chứng thực hay chấp nhận các ranh giới đó. Việc trích dẫn các tác phẩm của tác giả khác không có nghĩa là Ngân hàng Thế giới tán thành
quan điểm của các tác giả đó hoặc nội dung tác phẩm của họ.
Không có nội dung nào trong tài liệu này sẽ cấu thành hoặc được hiểu hoặc coi là hạn chế hoặc từ bỏ các đặc quyền và quyền miễn trừ của Ngân
Tác phẩm này được cung cấp theo giấy phép Creative Commons Ghi công 3.0 IGO (CC BY 3.0 IGO) http://creativecommons.org/licenses/
bởi/3.0/igo. Theo giấy phép Creative Commons Ghi công, bạn được tự do sao chép, phân phối, truyền tải và điều chỉnh tác phẩm này, kể cả cho
Ghi công—Xin trích dẫn công việc như sau: Ngân hàng Thế giới. 2024. Nền tảng vững chắc của tăng trưởng Ngân hàng Thế giới Cập nhật kinh tế Đông Á và
Thái Bình Dương (tháng 4 năm 2024). Washington, DC: Ngân hàng Thế giới, doi: 10.1596/978-1-4648-2102-8. Giấy phép: Creative Commons Ghi công CC BY 3.0
IGO
Bản dịch—Nếu bạn tạo bản dịch của tác phẩm này, vui lòng thêm tuyên bố từ chối trách nhiệm sau cùng với phần ghi công: Bản dịch này không phải
do Ngân hàng Thế giới tạo ra và không được coi là bản dịch chính thức của Ngân hàng Thế giới. Ngân hàng Thế giới sẽ không chịu trách nhiệm về
bất kỳ nội dung hoặc sai sót nào trong bản dịch này.
Chuyển thể—Nếu bạn tạo bản chuyển thể từ tác phẩm này, vui lòng thêm tuyên bố từ chối trách nhiệm sau đây cùng với phần ghi công: Đây là bản
chuyển thể từ tác phẩm gốc của Ngân hàng Thế giới. Quan điểm và ý kiến thể hiện trong bản chuyển thể là trách nhiệm duy nhất của tác giả hoặc
các tác giả của bản chuyển thể và không được Ngân hàng Thế giới xác nhận.
Nội dung của bên thứ ba— Ngân hàng Thế giới không nhất thiết sở hữu từng phần nội dung trong tác phẩm. Do đó, Ngân hàng Thế giới không đảm
bảo rằng việc sử dụng bất kỳ thành phần riêng lẻ nào thuộc sở hữu của bên thứ ba hoặc một phần có trong tác phẩm sẽ không vi phạm quyền của
các bên thứ ba đó. Nguy cơ khiếu nại do hành vi vi phạm đó hoàn toàn thuộc về bạn. Nếu bạn muốn sử dụng lại một phần của tác phẩm, bạn có
trách nhiệm xác định xem việc sử dụng lại đó có cần sự cho phép hay không và phải xin phép chủ sở hữu bản quyền. Ví dụ về các thành phần có
thể bao gồm nhưng không giới hạn ở bảng, hình hoặc hình ảnh.
Mọi thắc mắc về quyền và giấy phép phải được gửi tới Nhà xuất bản Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Thế giới, 1818 H Street NW, Washington, DC
DOI: 10.1596/978-1-4648-2102-8
Ảnh bìa: Một nữ doanh nhân dẫn đầu cuộc họp với các thành viên nhóm đa sắc tộc của Koh Sze Kiat © Getty Images. Được sử dụng với sự cho phép
Nội dung
Tổng quan xv
4. Chính sách 35
5. Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 47
Tổng quan
Hình O1. Khu vực EAP đang tăng trưởng nhanh hơn phần còn lại của thế giới nhưng chậm hơn so với trước đại dịch ở hầu hết
các nền kinh tế lớn; sản lượng bình quân đầu người vẫn thấp hơn mức trước đại dịch ở hầu hết các quốc
đảo Thái Bình Dương và tiếp tục giảm ở một số xvii
Hình O2. Sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và trong nước đang ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở khu vực EAP xviii
Hình O3. Ba sự phát triển quốc tế liên kết sẽ định hình hiệu quả kinh tế ở các nước EAP:
Nền kinh tế toàn cầu chậm lại, thắt chặt tài chính và các biện pháp bóp méo thương mại xix
Hình O4. Các nước giàu và lớn, tức là G20, là những nước thực thi chính sách công nghiệp hàng đầu. Hình O5. Nợ tư nhân xix
và nợ công cao hơn trước đại dịch; tỷ lệ nợ công trong GDP có thể sẽ tăng do thâm hụt cơ bản cao hơn, lãi suất cao hơn và
tăng trưởng thấp hơn Hình O6. Chính sách tài khóa đã trở nên ít mở rộng hơn ở hầu hết các nước, trong xx
khi chính sách tiền tệ lại thắt chặt trong khu vực, ngoại trừ ở Trung Quốc và Việt Nam. Hình O7. Sự bất ổn về chính
sách kinh tế đã gia tăng ở Mỹ và Trung Quốc Hình O8. Tăng trưởng xx
trong khu vực bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của các đối tác thương mại lớn nhất trong xx
khu vực Hình O9. Xu hướng tiêu dùng cá nhân ổn định hơn so với giai đoạn trước đại dịch Hình O10. Tỷ trọng đầu tư tư nhân xx
trong GDP thấp hơn so với trước đại dịch và do đó, ở một số nơi xxii
Hình O11. Xuất khẩu hàng hóa đang bắt đầu phục hồi nhưng chậm; lượng khách du lịch đã ổn định ở mức dưới
mức trước đại dịch ở một số nền kinh tế Hình O12. xxiii
Tỷ trọng tiêu dùng trong GDP vẫn tương đối thấp ở Trung Quốc; đầu tư đang tăng nhanh hơn vào lĩnh vực sản xuất nhưng lại chậm
lại vào cơ sở hạ tầng và bất động sản Hình O13. Tăng trưởng khu vực được thúc xxiv
đẩy bởi tích lũy vốn hơn là tăng trưởng TFP Hình O14. Nguồn tăng trưởng năng suất tổng hợp Hình O15. Tăng trưởng xxvi
năng suất ở EAP chủ yếu được thúc đẩy bởi sự gia tăng năng suất xxvi
trong nội bộ doanh nghiệp Hình O16. Biên giới quốc gia ở các nước EAP đang tụt hậu so với biên giới toàn cầu, đặc biệt là về kỹ xxvii
thuật số
lĩnh vực xxviii
Hình O17. Các doanh nghiệp có năng suất cao hơn cho biết các quy định thương mại, kỹ năng của lực lượng lao động
và cơ sở hạ tầng giao thông hoặc viễn thông là những hạn chế quan trọng đối với hoạt động kinh doanh xxviii
Hình O18. Sự hiện diện của SOE cao hơn ở EAP có liên quan đến sự hiện diện của doanh nghiệp nước ngoài thấp hơn và cao hơn với
tăng trưởng năng suất cao hơn của các công ty biên giới xxxx
Hình O19. Các công ty được quản lý tốt nhất trong việc phát triển EAP có kỹ năng kém hơn nhiều so với những công ty tốt nhất ở xxx
các nền kinh tế tiên tiến Hình O20. Mở cửa dịch vụ cho cạnh tranh có thể tăng năng suất của các ngành dịch vụ và hạ nguồn
Hình I.1. Khu vực EAP đang tăng trưởng nhanh hơn phần còn lại của thế giới nhưng có quỹ đạo tăng trưởng chậm hơn
Sản lượng bình quân đầu người đã tăng trên mức trước đại dịch vào năm 2023 ở phần lớn các nền kinh tế EAP, nhưng lại
giảm hơn nữa ở một số Quốc đảo Thái Bình Dương Hình I.3. 2
Trong các lĩnh vực, CNTT, tài chính và bán lẻ đang tăng trưởng nhanh chóng, trong khi du lịch và bất động sản đang tăng trưởng.
hậu Hình I.4. Tỷ lệ nghèo dự kiến sẽ tiếp tục giảm Hình B1.1. Tình 3
trạng nghèo cùng cực (tiền tệ và phi tiền tệ) vẫn ở mức cao ở Papua New Guinea Hình B1.2. Các biện pháp phi tiền tệ cho thấy 4
Hình I.5. Tiêu dùng tư nhân tăng trưởng bền vững ở tất cả các nước lớn; xuất khẩu dịch vụ có
hỗ trợ Malaysia, Philippines và Thái Lan cũng như đầu tư công ở Trung Quốc, Indonesia và
Philippines; Đầu tư tư nhân và xuất khẩu hàng hóa vẫn còn yếu 7
Hình I.6. Các yếu tố bên ngoài và trong nước ảnh hưởng đến tăng trưởng số 8
kinh tế Hình I.7. Ba diễn biến quốc tế liên kết với nhau sẽ định hình hiệu quả kinh tế ở các nước EAP: phục
hồi thương mại toàn cầu, tăng các biện pháp bóp méo thương mại và thắt chặt điều kiện tài chính số 8
Hình I.8. Số lượng các biện pháp bóp méo thương mại mới được thực hiện đối với các nước EAP đã tăng lên
nhanh chóng trong khi các biện pháp mà các nước EAP thực hiện đã giảm trong những năm gần đây. 9
Hình B2.1. Số lượng các biện pháp công nghiệp có mối tương quan chặt chẽ với số đô la chi 9
tiêu Hình B2.2. Người giàu và người lớn là những người thực thi chính sách công 10
nghiệp hàng đầu Hình I.9. Nợ công và nợ tư nhân đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua 11
Hình I.10. Trả lãi nợ nước ngoài tăng đáng kể vào năm 2023 ở hầu hết các quốc gia Hình I.11. Chính sách 11
tài khóa đã trở nên ít mở rộng hơn ở hầu hết các nước Hình I.12. Chính sách 12
tiền tệ đã được thắt chặt trong khu vực, ngoại trừ Trung Quốc và Việt Nam Hình I.13. lạm 12
phát CPI đang giảm dần; một số nước đối mặt với áp lực giảm phát Hình I.14. Diễn 13
biến đồng thời giữa giá sản xuất của Trung Quốc và giá sản xuất và tiêu dùng của EAP Hình I.15. Dòng vốn 13
lớn chảy ra khỏi Trung Quốc trong khi tiền tệ đang suy yếu ở tất cả các nền kinh tế Hình I.16. Sự 14
không chắc chắn về chính sách kinh tế đã gia tăng trong những năm gần đây ở EAP 14
Hình I.17. Tăng trưởng trong khu vực bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của các đối tác thương mại lớn nhất 15
trong khu vực Hình I.18. Sự bất ổn kinh tế vĩ mô ở Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể tác động tiêu cực đến sản lượng trong nước.
Nền kinh tế khu vực EAP 15
Hình I.19. Cầu trong nước đã chạm đáy nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn chậm Hình I.20. Xu 16
hướng tiêu dùng cá nhân ổn định hơn so với thời kỳ trước đại dịch Hình I.21. Tỷ trọng đầu 16
tư tư nhân trong GDP thấp hơn so với trước đại dịch và do đó, ở một số nơi
nước, là đầu tư công Hình I.22. 17
Tăng trưởng đầu tư gắn liền với tăng trưởng xuất khẩu, bất ổn chính sách, nợ doanh nghiệp và chính phủ Hình
B3.1. Vòng quay 17
sản xuất một phần được thúc đẩy bởi hỗ trợ cho các lĩnh vực ưu tiên Hình B3.3. Tái cân 19
bằng dần dần sang tăng trưởng dựa vào tiêu dùng Hình B3.4. Tỷ lệ sản 19
lượng vốn tăng cho thấy lợi tức đầu tư giảm Hình I.23. Xuất khẩu hàng hóa đang bắt 20
đầu phục hồi nhưng chậm Hình I.24. Những thay đổi trong chính 21
sách thương mại và công nghiệp tiếp tục làm thay đổi mô hình thương mại Hình I.25. Lượng 22
khách du lịch đã ổn định dưới mức trước đại dịch ở một số nền kinh tế Hình B4.1. Lượng hành 23
khách hàng không đến EAP phần lớn đã phục hồi nhưng đã ổn định ở mức dưới mức trước đại dịch
24
Hình I.26. Tăng trưởng dự kiến sẽ duy trì ở mức trước đại dịch 27
Hình B5.1. Du lịch, kiều hối, tiền thuê và trợ cấp là động lực chính cho tăng trưởng GDP ở các nền kinh tế
đảo Thái Bình Dương 29
Hình B5.2. Tăng trưởng GDP ở các quốc đảo Thái Bình Dương được dự đoán sẽ ổn định 30
Hình I.27. Tầm quan trọng của Trung Quốc với tư cách là điểm đến của giá trị gia tăng trong nước đã tăng lên 30
đáng kể Hình I.28. Các nền kinh tế nhỏ hơn dễ bị tổn thương trước các điều kiện tài 31
chính bên ngoài Hình I.29. Rủi ro địa chính trị đã gia tăng sau cuộc xung đột Israel-Hamas sau ngày 7 tháng 31
10 năm 2023 Hình B6.1. Nhiều tàu đang tránh kênh đào Suez sau sự gia tăng các cuộc tấn công của Yemen Houthi kể từ đó
Tháng 12 năm 2023, trong khi giao thông qua kênh đào Panama sụt giảm do hạn hán 32
Hình B6.2. Chi phí vận chuyển từ khu vực EAP tới một số điểm đến đã tăng Hình B6.3. Các 33
biện pháp gây căng thẳng trong mạng lưới chuỗi cung ứng hàng hải toàn cầu đã gia tăng do sự gián đoạn gần đây
ở Kênh đào Suez 34
4. Chính sách
Hình I.30. Cú sốc COVID-19 đã đẩy nhanh xu hướng tăng tỷ lệ nợ công trên GDP được quan sát thấy ở
hầu hết các nước EAP đang phát triển kể từ GFC 2008–2009 35
Hình I.31. Nợ công tính theo tỷ lệ GDP có thể sẽ tăng do thâm hụt cơ bản cao hơn,
lãi suất và tăng trưởng thấp hơn 37
Hình I.32. Mặc dù lãi suất được kỳ vọng sẽ duy trì ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng, nhưng nợ ngày càng tăng có
thể thúc đẩy tăng trưởng và làm giảm tốc độ tăng trưởng. 37
Hình A1. Cả chính sách công nghiệp và thương mại đều có mối tương quan với GDP bình quân đầu 40
người Hình A1.1. Sự phát triển của sự bất ổn trong nền kinh tế toàn cầu và Hoa Kỳ 41
Hình A1.2. Diễn biến của sự bất ổn kinh tế ở EAP Hình A1.3. 42
Tác động của sự không chắc chắn của Hoa Kỳ đối với 42
EAP Hình A1.4. Tác động của sự không chắc chắn của Mỹ và Trung 43
Quốc đối với EAP Hình A2.1. Rủi ro địa chính trị đã chuyển thành một khoản chênh lệch nhỏ đối với giá dầu 44
thô Brent Hình A2.2. Tùy thuộc vào thời gian và quy mô của bất kỳ sự leo thang nào, giá có thể tăng nhưng vẫn ở mức
dưới 90 USD/thùng; theo một kịch bản cực đoan hơn, giá sẽ dao động quanh mức 100 USD 45
5. Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Hình II.1. Tăng trưởng trong khu vực được thúc đẩy bởi tích lũy vốn hơn là tăng trưởng TFP Hình II.B1.1 47
Tỷ lệ chênh lệch về năng suất lao động giữa các quốc gia được giải thích bởi Vốn nhân lực Hình II.2. Tăng 48
trưởng năng suất tổng hợp đã chậm lại ở các nước đang phát triển ở Đông Á Hình II.3. 49
Nguồn tăng trưởng năng suất tổng hợp Hình II.4. Tăng 49
trưởng năng suất ở EAP chủ yếu được thúc đẩy bởi sự gia tăng năng suất trong nội bộ doanh nghiệp Hình B1. Tái phân 50
bổ việc làm sang các doanh nghiệp có năng suất cao hơn là thấp so với Hoa Kỳ Hình II.5. Các công nghệ 51
mới đã được phổ biến nhanh chóng trong khu vực EAP Hình II.6. Công nghệ mới 52
đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng năng suất nội bộ doanh nghiệp Hình 52
II.7. Ở các nền kinh tế tiên tiến, các công ty tiên phong đang tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn các công ty khác, đặc biệt là
trong lĩnh vực kỹ 54
thuật số Hình II.8A. …nhưng ở khu vực EAP, tăng trưởng năng suất của các doanh nghiệp sản xuất biên giới đã chậm hơn
hơn các hãng khác… 56
Hình II.8B. …và tương tự đối với các doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh 57
vực dịch vụ Hình II.9. Biên giới quốc gia ở các nước EAP đang tụt hậu so với biên giới toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật 57
số Hình II.10. Khoảng cách trong việc sử dụng công nghệ giữa các nước Đông Á đang phát triển và các nước tiên tiến ngày càng rộng hơn.
Hình II.11. Khoảng cách lớn về trình độ công nghệ giữa các công ty quốc gia tốt nhất và các công ty tốt nhất
trên toàn cầu hiện rõ ở một số quốc gia ở các khu vực khác. 60
Hình II.12. Mức độ phức tạp về công nghệ của một công ty trung bình ở EAP phù hợp với mức thu nhập tương tự
các quốc gia, nhưng các công ty tiên tiến nhất ở EAP lại đứng sau các công ty tiên tiến nhất ở nơi khác 61
Hình II.13 Việc sử dụng phần mềm phân tích dữ liệu tiên tiến còn hạn chế trong quá trình phát triển 61
EAP Hình II.14. Về nguyên tắc, cạnh tranh cao hơn sẽ làm tăng năng suất của các doanh nghiệp biên giới. 62
Hình II.15. Sự hiện diện của SOE cao hơn có liên quan đến mức độ gia nhập thấp hơn và mức độ tập trung cao hơn 62
Hình II.16. Sự hiện diện của SOE cao hơn ở EAP có liên quan đến sự hiện diện của doanh nghiệp nước ngoài thấp hơn và cao hơn với
tăng trưởng năng suất cao hơn của các doanh nghiệp 63
biên giới Hình II.17. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong 63
hoạt động trong EAP Hình II.18. Sự gia nhập của doanh nghiệp ở EAP đã chậm lại, đặc 64
biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số Hình II.19. Hầu hết các nước EAP hạn chế thương mại dịch vụ nhiều hơn các nền kinh tế khác ở
Hình II.20. Trung Quốc, Lào, Philippines và Việt Nam thể hiện các biện pháp phi thuế quan ở biên giới cao hơn mức trung bình
II.21 Nhiều doanh nghiệp có năng suất cao hơn báo cáo các quy định thương mại, kỹ năng lực lượng lao động và
cơ sở hạ tầng giao thông hoặc viễn thông là những hạn chế quan trọng đối với hoạt động kinh doanh 69
Hình II.22. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhất cho biết có ít hạn chế hơn liên quan đến cấp phép kinh doanh,
Hình II.23. Băng thông rộng tốc độ cao được cung cấp không đồng đều trong và khắp các quốc gia EAP 70
Hình II.24. Các kỹ năng có sẵn không đồng đều trong EAP 70
Hình II.25. Các công ty được quản lý tốt nhất trong việc phát triển EAP có kỹ năng kém hơn nhiều so với các công ty tốt nhất ở các nền kinh tế tiên tiến71
Hình II.26. Độ mở đối với đầu tư nước ngoài có mối tương quan tích cực với phổ biến công nghệ và năng suất 72
Hình II.27. Mở cửa dịch vụ cho cạnh tranh có thể tăng năng suất trong các lĩnh vực dịch vụ này và
Hình II.28. Việc phổ biến các nền tảng trong PHL có thể được coi là một cú sốc cạnh tranh giúp tăng năng suất của doanh nghiệp73
Hình II.29. TFP của công ty hoặc việc sử dụng phân tích dữ liệu có liên quan chặt chẽ đến việc có cả quyền truy cập
sở hữu nước ngoài Hình II.30. Các công ty đổi mới hơn có nhu cầu cao hơn về kỹ năng phân tích hoặc giao tiếp cá nhân 74
Tổng quan
4. Chính sách
Bảng 2. Lỗ hổng tài chính ở EAP 38
Hộp 2. EAP và các chính sách công nghiệp và bảo hộ có khả năng bóp méo thương mại Hộp 9
Hộp 5. Phục hồi và triển vọng kinh tế ở các quốc đảo Thái Bình Dương 29
Hộp 6. Rủi ro và hậu quả tiềm tàng của sự gián đoạn trong ngành vận tải biển 32
4. Chính sách
Những tác động của sự không chắc chắn toàn cầu ngày càng tăng đối với 40
Hộp A2 của EAP. Rủi ro từ sự gián đoạn của thị trường hàng hóa 44
5. Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Hộp II.B1. Thước đo mới về đóng góp của tích lũy vốn con người vào năng suất lao động Hộp II.B2. Tạo việc làm 47
hiệu quả – tái phân bổ việc làm trong Hộp II.B3 của EAP. Các doanh nghiệp biên 51
giới và phổ biến công nghệ ở Việt Nam Hộp II.B4. Các công ty biên giới 53
là ai? 53
thuật số Hộp II.B6. Cạnh tranh và quy mô kinh tế - Công nghiệp dừa Kiribati 68
Báo cáo này là nỗ lực chung và có sự tham gia của nhiều bộ phận của Ngân hàng Thế giới, bao gồm EAP và EFI.
Nó được chuẩn bị bởi nhóm nòng cốt bao gồm Francesca de Nicola, Daisuke Fukuzawa, Ergys Islamaj (Trưởng nhóm đặc nhiệm), Dương Trung Lê,
Jonathan Timmis và Aaditya Mattoo. Các thành viên khác của đội là Omar Arias, Alessandro Baratieri, Caroline Gerd G De Roover, Jongrim
Những đóng góp đáng kể cho phần đầu tiên của báo cáo được thực hiện bởi Kevin C. Chua, Reno Dewina, Sebastian Eckardt, Jun Ge, Yusha Li,
Yuntian Lu, Valerie Mercer-Blackman, Elitza Mileva, Veronica Sonia Montalva Talledo, Cordula Rastogi, Sharad Alan Tandon, Kaltrina Temaj,
Trọng tâm đặc biệt về “ Nền tảng tăng trưởng vững chắc” phản ánh công việc chung giữa EAPCE và IFC. Nó được hưởng lợi từ những đóng góp
đáng kể của Arlan Brucal, Xavier Cirera, Elwyn Davies, Edne Gambe, Leonardo Iacovone, Antonio Neto, Trang Tran, và phân tích về
Philippines được hưởng lợi từ sự hợp tác nghiên cứu với ADB, cụ thể là Benedict Evangelista, Jiang Yi và Martino Pelli .
Manuela V. Ferro đã cung cấp những hướng dẫn có giá trị và những nhận xét hữu ích. Chúng tôi rất biết ơn vì đã khuyến khích các cuộc
thảo luận, nhận xét và đóng góp ý kiến cho Paolo Agnolucci, Maria Angelica, Jean Fransois Arvis, Diomedes Berroa, Dandan Chen, Alba
Suris Coll Vinent, Ndiame Diop, Benedict Eijbergen, Yasser El-Gammal, Julia Fraser, Samuel Christopher Hill, Aleksander Kremer, Jessie
McComb, Dawit Mekonnen, Lars Moller, Lalita M. Moorty, Alen Mulabdic, Rinku Murgai, Zafer Mustafaoglu, Coleman Nee, Cecile Thioro Niang,
Habib Rab, Rajesh Rohatgi, Michele Ruta, Giovani Ruta, Mariam Sherman, Janmejay Singh , Carolyn Turk,
Gonzalo Varela, Ekaterine T. Vashakmadze, Mara Warwick, Fabricio Zarcone, nhân viên của khu vực EAP đã tham gia
các cuộc họp đánh giá vào ngày 6 tháng 2 và ngày 5 tháng 3 năm 2024 và cuộc họp của Nhóm Quản lý Khu vực EAP vào ngày 7 tháng 3 năm 2024.
Chúng tôi đánh giá rất cao sự hỗ trợ phổ biến của Geetanjali Chopra, Mariana Lucia De Lama Odria, Mark Felsenthal và Kym Louise Smithies.
Các nhân viên sau đây từ Phòng Thực hành Toàn cầu về Kinh tế Vĩ mô, Thương mại và Đầu tư và Phòng Thực hành Toàn cầu về Nghèo đói và
Công bằng đã chuẩn bị các trang triển vọng kinh tế vĩ mô cho từng quốc gia cụ thể: Dwi Endah Abriningrum, Vishesh Agarwal, Tanida
Arayavechkit, Kiatipong Ariyapruchya, Mehwish Ashraf, Mahama Samir Bandaogo, Undral Batmunkh, Nadia Belhaj Hassine Belghith, Andrew
Blackman, Yew Keat Chong, Kevin C. Chua, Souleymane Coulibaly, Andrea Coppola, Kevin Thomas Garcia Cruz, Somneuk Davading, Quang Hong
Doan, Kim Alan Edwards, Karen Annette Lazaro Enriquez, David M. Gould, Indira Maulani Hapsari, Rashad Hasanov, Faya Hayati, Ahya Ihsan,
Assyifa Szami Ilman, Taufik Indrakesuma, Wendy Karamba, Demet Kaya, Yusha Li, Sodeth Ly, Dorsati Madani, Kemoh Mansaray, Wael Mansour,
Pedro Miguel Gaspar Martins, Elitza Mileva, Thi Da Myint, Darian Naidoo, Shohei Nakamura, Konesawang Nghardsaysone, Thu-Ha Thi Nguyen,
Ruth Nikijuluw, Samuel Nursamsu, Anthony Obeyesekere, Yus Medina Pakpahan, Utz Johann Pape, Keomanivone Phimmahasay, Ruslan Piontkivsky,
Sharon Faye Alariao Piza, Warunthorn Puthong, Ririn Salwa Purnamasari, Rong Qian, Habib Rab, Ratih Dwi Rahmadanti, Thanapat Reungsri,
Alief Aulia Rezza, Anna Robinson, Sutirtha Sinha Roy, Jose Luis Diaz Sanchez, Apurva Sanghi, Shakira Binti Teh Sharifuddin, Reshika
Singh, Bambang Suharnoko Sjahrir, Lodewijk Smets, Katherine Anne Stapleton, Ekaterine T. Vashakmadze, Dũng Việt Đỗ, Veronica Sonia
Montalva Talledo, Sharad Alan Tandon, Kathleen Victoria Tedi, Sailesh Tiwari, Kimsun Tong, Tuimasi Radravu Ulu, Phonthanat Uruhamanon,
Ralph Van Doorn, Matthew Wai-Poi, Ikuko Uochi, Samuel Wills và Judy Yang. Công việc này được quản lý bởi Sebastian Eckardt và Lars
Christian Moller về Kinh tế vĩ mô, Thương mại và Đầu tư Toàn cầu, và bởi Rinku Murgai về Thực hành Toàn cầu về Nghèo đói và Công bằng
với sự hỗ trợ của Anna Twum (Kinh tế vĩ mô, Thương mại và Đầu tư Toàn cầu). Benoit Philippe Marcel Campagne, Alexander Haider, Monika
Anna Matyja và Kristina Catherine Tan Mercado đã có những đóng góp cho
mô hình, sản xuất bảng và hỗ trợ nhân viên dự báo. Deviana Djalil, Sandra Buana Sari và Yu Shang đã hỗ trợ kỹ thuật.
Báo cáo đã được chỉnh sửa và sắp chữ bởi Circle Graphics, Inc., Reisterstown, MD.
Trong suốt báo cáo, các nhóm địa lý được xác định như sau:
Đang phát triển ở Đông Á và Thái Bình Dương bao gồm Campuchia, Trung Quốc, Indonesia, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (PDR),
Malaysia, Mông Cổ, Myanmar, Papua New Guinea, Philippines, Thái Lan, Timor-Leste, Việt Nam và đảo Thái Bình Dương
Quốc gia.
Các quốc đảo Thái Bình Dương bao gồm Fiji, Kiribati, Quần đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Nauru, Palau, Samoa, Quần đảo
Các nước thành viên ASEAN bao gồm Brunei Darussalam, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan
và Việt Nam.
ASEAN -5 bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam.
Phân tích trong báo cáo này dựa trên dữ liệu cấp quốc gia mới nhất có được tính đến ngày 22 tháng 3 năm 2024.
AE Nền kinh tế tiên tiến NIPO Đài quan sát chính sách công nghiệp mới
Khu vực, Phân loại của Ngân hàng Thế giới và Nhóm Quốc gia LẠC Châu Mỹ Latinh và vùng Caribe
CR Riel Campuchia
Rp Rupiah Indonesia
D đồng Việt Nam SI$ Đô la quần đảo Solomon
F$ Đô la Fiji
Tog Tugrik Mông Cổ
K Kyat Myanmar ĐÔ LA MỸ$ Timor-Leste (đô la Mỹ)
K Đồng kina Papua New Guinea ĐÔ LA MỸ$ đô la Mĩ
kip Kíp Lào
trừu tượng
Các nước đang phát triển ở Đông Á và Thái Bình Dương đang tăng trưởng nhanh hơn phần còn lại của thế giới nhưng chậm hơn so với trước đại dịch.
Trong khi thương mại toàn cầu phục hồi và các điều kiện tài chính nới lỏng được kỳ vọng sẽ hỗ trợ các nền kinh tế trong khu vực, nợ gia tăng,
chủ nghĩa bảo hộ và sự bất ổn về chính sách có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng.
Tăng trưởng khu vực được dự đoán sẽ giảm xuống còn 4,5% vào năm 2024 từ mức 5,1% của năm ngoái. Tăng trưởng ở các nước đang phát triển ở Đông
Á và Thái Bình Dương, ngoại trừ Trung Quốc, được dự đoán sẽ tăng lên 4,6% trong năm nay từ mức 4,4% vào năm 2023. Tăng trưởng ở Trung Quốc được
dự đoán sẽ giảm xuống mức 4,5% trong năm nay từ mức 5,2% vào năm 2023, do những vấn đề ngắn hạn, chẳng hạn như như nợ cao và lĩnh vực bất động
sản yếu kém, cũng như những thách thức dài hạn hơn, chẳng hạn như tình trạng già hóa dân số và xung đột thương mại. Tăng trưởng giữa các quốc
đảo Thái Bình Dương được dự báo sẽ giảm xuống 3,6% vào năm 2024 từ mức 5,6% của năm ngoái khi quá trình phục hồi sau đại dịch tan biến.
Những thách thức kinh tế vĩ mô hiện tại của EAP có nguy cơ che khuất nền tảng kinh tế vi mô của tăng trưởng dài hạn. Trong thập kỷ qua, tăng
trưởng chủ yếu được thúc đẩy bởi đầu tư hơn là nhờ tăng năng suất của các doanh nghiệp. Hiện nay đầu tư tư nhân yếu và năng suất giảm - càng
hạn chế động lực đầu tư. Doanh nghiệp là chủ thể của tăng trưởng năng suất. Một số doanh nghiệp có năng suất thấp hơn ở các nước EAP đang bắt
đầu bắt kịp những doanh nghiệp có năng suất cao hơn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có năng suất cao nhất trong khu vực không tận dụng tối đa lợi
thế của công nghệ mới và không nhận thấy sự tăng trưởng năng suất như các doanh nghiệp hàng đầu thế giới. Ví dụ, trong các lĩnh vực sản xuất
kỹ thuật số, chẳng hạn như điện tử, từ năm 2005 đến năm 2015, năng suất của 5% doanh nghiệp hàng đầu trên toàn cầu đã tăng nhanh hơn 2,5 lần
so với các doanh nghiệp hàng đầu ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam. .
Cả ưu đãi và năng lực đều là một vấn đề. Các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp cạnh tranh và đổi mới đã bị giảm bớt bởi sự bảo hộ rõ ràng
trong dịch vụ và bảo hộ ngầm trong hàng hóa. Năng lực quản lý và đổi mới đã bị suy yếu do thiếu kỹ năng. Việc sử dụng các chính sách công
nghiệp để cải thiện động cơ và năng lực sẽ khó khăn vì cả nguồn lực tài chính và năng lực thể chế đều còn hạn chế. Thay vào đó, hành động chính
sách táo bạo nhằm giải phóng cạnh tranh, cải thiện cơ sở hạ tầng và cải cách giáo dục có thể đem lại sức sống mới cho nền kinh tế khu vực.
trừu tượng xv
Machine Translated by Google
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Tổng quan
Ì Tăng trưởng
Hầu hết các nền kinh tế đang phát triển ở Đông Á và Thái Bình Dương (EAP), ngoại trừ một số Quốc đảo Thái Bình Dương, đang tăng trưởng
nhanh hơn phần còn lại của thế giới (hình O1A; bảng O1), nhưng chậm hơn so với trước đại dịch.
• Tăng trưởng ở Trung Quốc được dự báo sẽ giảm xuống còn 4,5% vào năm 2024, từ mức 5,2% vào năm 2023, do sự phục hồi từ việc mở cửa
lại nền kinh tế mờ dần và các vấn đề gần kề, chẳng hạn như nợ tăng cao và sự yếu kém trong lĩnh vực bất động sản. khi các yếu
tố cấu trúc dài hạn hơn, chẳng hạn như tình trạng già hóa dân số và xung đột thương mại, đè nặng lên tăng trưởng.
• Phần còn lại của khu vực EAP, vốn đã phải chịu thiệt hại vào năm 2023 do tăng trưởng thương mại chậm và điều kiện tài chính thắt
chặt, dự kiến sẽ tăng trưởng 4,6% vào năm 2024. Thương mại hàng hóa toàn cầu có khả năng phục hồi và các điều kiện tài chính
toàn cầu dần dần được nới lỏng được dự kiến sẽ bù đắp tác động của việc Trung Quốc chậm lại.
• Các quốc đảo Thái Bình Dương dự kiến sẽ có mức tăng trưởng chậm hơn, ở mức 3,6% vào năm 2024, do đà phục hồi sau đại dịch COVID-19
giảm dần và khu vực chuyển sang xu hướng tăng trưởng dài hạn ước tính là 2,6%. Trong khi sản lượng bình quân đầu người đã vượt
qua mức trước đại dịch ở hầu hết các nền kinh tế lớn hơn ở EAP, thì Myanmar, Papua New Guinea, Timor-Leste và một số quốc đảo
Thái Bình Dương vẫn đang phải vật lộn để trở lại mức trước đại dịch (hình O1B).
Hình O1. Khu vực EAP đang tăng trưởng nhanh hơn phần còn lại của thế giới nhưng chậm hơn so với trước đại dịch ở hầu hết các nền kinh tế
lớn; sản lượng bình quân đầu người vẫn thấp hơn mức trước đại dịch ở hầu hết các quốc đảo Thái Bình Dương và còn giảm hơn
nữa ở một số quốc gia.
A. Tăng trưởng GDP giữa các nhóm quốc gia B. Diễn biến GDP bình quân đầu người so với năm 2019
số 8 25
20
15
6
10
5
4 0
trăm
Phần
–5
–10
2
trăm
Phần
–15
–20
0 –25
Fiji
Kiribati
Palau
PNG
Campuchia
Tuvalu
Tonga
Malaysia
Samoa
Indonesia
Vanuatu
Trung
Quốc
–2
CHDCND
Myanmar
Philippin
Mông
Marshall.
Lào
Việt
Thái
nước
Solomon.
Lan
Nam
Cổ
Timor-
Micronesia,
Leste
EAP Trung Quốc EAP Thái Bình Dương EMDE Trình độ cao
Đảo
Đảo
Nguồn: Cơ sở dữ liệu Triển vọng Kinh tế Thế giới; Liên Hiệp Quốc; Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Hiệu quả kinh tế trong khu vực đang được định hình bởi sự phát triển trong và ngoài nước (hình O2). Các yếu tố bên ngoài quan
trọng là thương mại phục hồi nhưng gia tăng bảo hộ thương mại kết hợp với các chính sách công nghiệp và điều kiện tài chính
vẫn thắt chặt. Trong số các yếu tố trong nước, quan trọng nhất là nợ công và nợ tư nhân tăng cao; lập trường chính sách bị
ràng buộc, đặc biệt là tài chính và tiền tệ; và sự bất ổn chính trị và chính sách gia tăng.
Thứ nhất, thương mại toàn cầu đang phục hồi mặc dù tăng trưởng GDP toàn cầu đang chậm lại. Thương mại hàng hóa và dịch vụ chỉ
tăng 0,2% vào năm 2023 nhưng được dự đoán sẽ tăng 2,3% vào năm 2024 – mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP sẽ chậm lại từ 2,6% năm
2023 xuống 2,4% vào năm 2024 (hình O3). Sự phục hồi dự kiến trong thương mại là do thu nhập thực tế được cải thiện, khi tăng
trưởng tiền lương nhanh hơn lạm phát và nhu cầu chuyển hướng trở lại hướng tới những hàng hóa dễ giao dịch hơn từ những dịch
vụ ít khả năng giao dịch hơn. Thứ hai, mặc dù lạm phát đã giảm ở các nền kinh tế lớn, lạm phát cơ bản ở Mỹ và EU vẫn tăng cao
và thị trường lao động vẫn thắt chặt, cho thấy lãi suất sẽ vẫn cao hơn mức trước đại dịch trong tương lai gần. Thứ ba, gần
3.000 biện pháp bóp méo thương mại mới được áp dụng vào năm 2023, gấp ba lần so với năm 2019.
Một tỷ lệ đáng kể các biện pháp bóp méo thương mại được thực hiện dưới hình thức chính sách công nghiệp. Thứ nhất, những nước
sử dụng chính sách công nghiệp tích cực nhất là các nước G-20, như Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và hầu hết các nước trong EU (hình
O4). Thứ hai, số lượng biện pháp chính sách công nghiệp được thực hiện cũng tương quan thuận với mức độ phát triển, ngoại trừ
trường hợp của Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ và Nga. Thứ ba, các nước EAP (trừ Trung Quốc và Indonesia) ít có xu hướng thực hiện
các chính sách công nghiệp hơn so với các nước khác có quy mô và trình độ phát triển tương tự. Cuối cùng, các nước EAP có khả
năng chịu tác động bóp méo thương mại của các chính sách như vậy vì Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản là những thị trường
điểm đến quan trọng và vì các công ty nhận trợ cấp là đối thủ cạnh tranh tiềm năng của các công ty EAP.
Hình O2. Sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và trong nước đang ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở khu vực EAP
Phục hồi thương mại toàn cầu Chính sách bóp méo thương mại Điều kiện tài chính vẫn eo hẹp
hiệu suất
Nợ tăng cao
Không gian chính sách vĩ mô hạn chế Sự không chắc chắn về chính sách
Nguồn: Minh họa của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Hình O3. Ba diễn biến quốc tế liên kết với nhau sẽ định hình hiệu quả kinh tế ở các nước EAP: phục hồi thương mại toàn cầu,
tăng cường các biện pháp bóp méo thương mại và thắt chặt điều kiện tài chính
A. Tăng trưởng GDP và thương mại toàn cầu B. Các biện pháp bóp méo thương mại mới C. Lãi suất
6 3.500 6
3.000 5
2.500 4
4 3
2.000
2
trăm
Phần
1.500
1
trăm
Phần
2 1.000
0
500
–1
thiệp
can
lần
Số
0
0
2011
2021
2010
2018
2020
2014
2015
2013
2023
2012
2022
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
2009
2016
2017
2019
tháng
tháng
tháng
May
tháng
tháng
tháng
2022 2023 2024f 2025f
24
19
21
17
23
25
19
21
17
23
25
1
1
1
18
20
22
9
9
5
5
GDP Buôn bán Các mặt hàng Sự đầu tư Dịch vụ CHÚNG TA Khu vực đồng Euro
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Cảnh báo Thương mại Toàn cầu, Haver Analytics, Fed watch.
Lưu ý: Hình B. cho thấy số lượng các biện pháp có hại mới được thực hiện bởi tất cả các thành viên WTO, được điều chỉnh theo độ trễ báo cáo.
Hình O4. Các nước giàu và lớn, tức là G20, là những nước Yếu tố trong nước
thực thi chính sách công nghiệp hàng đầu
Món nợ
Chính sách công nghiệp: Biện pháp và phát triển,
2023
Cả nợ tư nhân và nợ công đều tăng đáng kể tính theo tỷ trọng trong GDP ở
6
Hoa Kỳ hầu hết các nền kinh tế trong khu vực (hình O5A).
5 CÓ THỂ
Nợ doanh nghiệp ở Trung Quốc và Việt Nam đã tăng hơn 40 điểm phần trăm GDP
ITA
IND ÁO NGỰC
Nhật Bản DEU
GBR
AUS kể từ năm 2010 và hiện đã vượt quá mức ở các nền kinh tế tiên tiến. Nợ tư
4 CHN Nga
KOR
ESP FRA
ARG TUR CHE nhân trên GDP tăng 10 điểm phần trăm có liên quan đến sự sụt giảm 1,1 điểm
NLD
3 MEX POL
ID phần trăm trong tăng trưởng đầu tư. Và nợ hộ gia đình hiện cao hơn nhiều ở
PRT SAU AUBEL
PAK THA SÉC DNK
(trong
2023-
nhật
Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan so với mức ở các thị trường mới nổi khác.
ký)
2 VNM
ZAF GRC SWE
pháp
biện
Tổng
HUN VÒI
NZL
số
nợ cao như Lào đã trải qua mức thanh toán lãi tăng mạnh vào năm 2023. Nợ
GDP bình quân đầu người năm 2021 (theo nhật ký)
cao có liên quan đến các quốc gia và theo thời gian với mức tăng trưởng thấp
Thu nhập cao EAP EMDE Giá trị được trang bị
hơn và lãi suất cao hơn (Cập nhật EAP tháng 4 năm 2021).
Nguồn: Nhân viên Ngân hàng Thế giới xây dựng dựa trên dữ liệu từ NIPO và Chỉ số Phát triển Thế giới.
Lưu ý: Các chính sách công nghiệp mới, theo định nghĩa của NIPO, bao gồm cả chính sách công nghiệp trong nước cũng như
các chương trình xúc tiến xuất khẩu và các rào cản thương mại nhập khẩu. Tất cả các biện pháp bóp méo thương mại có thể
xảy ra đều được bao gồm.
Chính sách kinh tế vĩ mô ở hầu hết các nền kinh tế đã rút lui khỏi quan điểm mở rộng trong giai đoạn 2020-2022. Các nền kinh tế lớn trong khu vực
được dự đoán sẽ có cân bằng cơ cấu tài chính tích cực hoặc trung lập trong giai đoạn 2023–24 so với những năm trước (hình O6A). Đồng thời, lãi suất
chính sách đã được tăng lên ở khu vực EAP để giải quyết mối đe dọa lạm phát nhưng vẫn thấp hơn so với các nền kinh tế đang phát triển và thị trường
mới nổi khác (hình O6B) - vì khu vực này nhìn chung ít bị ảnh hưởng bởi áp lực lạm phát và các chính sách trung ương. các ngân hàng cũng đã sử dụng
các biện pháp chính sách tiền tệ khác, chẳng hạn như điều chỉnh yêu cầu dự trữ. Tuy nhiên, lạm phát vẫn ở mức cao trên khắp đảo Thái Bình Dương
Hình O5. Nợ tư nhân và nợ công cao hơn trước đại dịch; nợ công tính theo tỷ lệ GDP có thể sẽ tăng lên do
thâm hụt cơ bản cao hơn, lãi suất cao hơn và tăng trưởng thấp hơn
100 6
4
80
2
60
trăm
phần
Điểm
trăm
Phần
GDP
40
–2
20
-4
2000–07 2010–19 2023–25 2000–07 2010–19 2023–25
Trung Quốc
EAP không bao gồm Trung Quốc
0
Nợ tư nhân Nợ công
Đóng góp của thâm hụt cơ bản
2015–2019 2023 Đóng góp của tăng trưởng so với lãi suất
Nguồn: Viện Tài chính Quốc tế; Triển vọng kinh tế thế giới, IMF, nhân viên Ngân hàng Thế giới ước tính.
Lưu ý: A. Các thanh hiển thị nợ/GDP trung bình của các nền kinh tế EAP; nợ tư nhân đề cập đến nợ doanh nghiệp phi tài chính. B. Vùng chấm thể hiện hình chiếu. Xem ghi chú trong Hình 31 để biết phương pháp.
Hình O6. Chính sách tài khóa đã trở nên ít mở rộng hơn ở hầu hết các nước, trong khi chính sách tiền tệ lại thắt chặt ở khu vực,
ngoại trừ ở Trung Quốc và Việt Nam
2 7
5
1
4
trăm
Phần
3
0
2
trăm
Phần
GDP
1
–1
0
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
20
21
22
23
tháng
21
24
22
23
7
7
1
1
1
1
20
1
–2
nước Thái Lan Malaysia Philippin Indonesia Trung Quốc Trung Quốc Indonesia Malaysia
xx Tổng quan
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Các quốc gia, cũng như ở Mông Cổ, Lào và Myanmar, phản ánh việc tăng giá của Hình O7. Sự bất ổn về chính sách kinh tế gia tăng ở Mỹ và Trung Quốc
một số mặt hàng như gạo, sự phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu và/hoặc đồng tiền mất
giá nhanh chóng. Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia gần đây đã giảm lãi
Sự không chắc chắn về chính sách kinh tế và thế giới
suất do nhu cầu trong nước yếu và khu vực doanh nghiệp gặp khó khăn.
600
0,5
500
Sự không chắc chắn về chính trị và chính sách 0,4
Mục lục
400
lục
Mục
0,3
Chỉ số bất ổn chính sách kinh tế trong khu vực đã tăng lên trong những năm gần
300
đây (hình O7). Những diễn biến chính trị trong nước cũng như căng thẳng địa
0,2
200
chính trị gia tăng đang làm tăng thêm sự bất ổn. Việc thiếu khả năng dự đoán
hoặc thiếu rõ ràng về chính sách của chính phủ, điều kiện thị trường hoặc các 0,1
100
sự kiện địa chính trị có tác động tiêu cực đến tăng trưởng đầu tư, do các nhà
đầu tư ngần ngại đầu tư vào các dự án mới hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh 0 0
2015 2017 2019 2021 2023
hiện tại của họ.
Nguồn: Chỉ số bất ổn thế giới; Chỉ số không chắc chắn về chính sách kinh tế.
Lưu ý: “Trung Quốc” thể hiện chỉ số Không chắc chắn về Chính sách Kinh tế dựa trên South China Morning Post và các tờ báo của
Ì Ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài và trong nước Trung Quốc đại lục. “EAP khác” hiển thị mức trung bình của Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Việt Nam sử dụng đường
trung bình động 4 quý của Chỉ số Bất ổn Thế giới. “Toàn cầu” hiển thị chỉ số Không chắc chắn về Chính sách Kinh tế toàn cầu. Trung
Cú sốc tăng trưởng bắt nguồn từ các đối tác thương mại lớn nhất của khu vực,
Trung Quốc và Mỹ, sẽ tác động đến các nền kinh tế EAP thông qua các dòng chảy
tài chính và thương mại song phương, bao gồm cả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (Ngân hàng Thế giới 2023a). Tốc độ tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ (Trung Quốc) giảm bất
ngờ 1 điểm phần trăm sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng ở các nước EAP đang phát triển khác ước tính trung bình khoảng 0,5 (0,3) điểm phần trăm (hình O8A). Những cú sốc
không lường trước được đối với chính sách tiền tệ của Mỹ cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng; mức tăng 25 điểm cơ bản sẽ làm giảm mức tăng trưởng ước tính khoảng 0,5 điểm
phần trăm.
Hình O8. Tăng trưởng trong khu vực bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của các đối tác thương mại lớn nhất trong khu vực
A. Tác động của việc giảm 1 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP của Trung Quốc và Hoa Kỳ, và lợi suất trái phiếu B. Tác động của cú sốc bất định cấp 1 đối với tăng trưởng sản lượng công nghiệp khu vực EAP ở Mỹ và Trung Quốc
0,0 0,6
0,4
0,2
0,0
–0,4
–0,2
trăm
phần
Điểm
–0,4
–0,6
trăm
phần
Điểm
–0,8 –0,8
–1.0
t = 0 6 12 24 t = 0 6 12 24
Vĩ mô Mỹ Trung Quốc vĩ mô
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Các kết quả dựa trên bảng tự hồi quy Vector cho Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan. A. Các thanh thể hiện tác động của những cú sốc sau: tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc và Hoa Kỳ giảm 1 điểm phần trăm và lãi suất kỳ hạn 2 năm của Hoa Kỳ tăng 25 điểm cơ
bản. Các hiệu ứng được ước tính bằng cách sử dụng mô hình VAR Bayesian cấu trúc. B. Các thanh thể hiện phản ứng linh hoạt của sản phẩm EAP đối với sự gia tăng độ lệch một tiêu chuẩn trong sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô ở Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Xem Hộp A1 để biết thêm chi tiết.
Tổng quan xx
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Ngoài những thay đổi về mức độ của các biến số kinh tế vĩ mô ở Mỹ và Trung Quốc, sự gia tăng bất ổn kinh tế vĩ mô cũng có tác động
đến các nước EAP, bằng cách hạn chế đầu tư và tiêu dùng. Sự gia tăng một độ lệch chuẩn trong sự không chắc chắn về vĩ mô ở Mỹ và
Trung Quốc có liên quan tương ứng với mức tăng trưởng sản lượng công nghiệp giảm 0,5 và 0,3 điểm phần trăm và giá tài sản ở EAP
Sự tiêu thụ
Mặc dù doanh số bán lẻ của hầu hết các quốc gia đã vượt qua mức trước đại dịch, nhưng xu hướng tăng trưởng của doanh số bán lẻ vẫn
thấp hơn tốc độ trước đại dịch ở hầu hết các nền kinh tế EAP (Hình O9). Các yếu tố gần như sự gia tăng nợ hộ gia đình (ví dụ ở
Malaysia, Thái Lan), giá trị tài sản mất giá (ví dụ ở Trung Quốc) và sự bất ổn chính trị gia tăng đã đè nặng lên niềm tin của
Hình O9. Xu hướng tiêu dùng cá nhân ổn định hơn thời kỳ trước đại dịch
A. Doanh số bán lẻ thực tế, không bao gồm EAP. Trung Quốc B. Doanh số bán lẻ thực tế, Trung Quốc
COVID COVID
Sóng alpha Omicron Sóng alpha Omicron
180 180
sóng
sóng
Đồng bằng
160 Đồng bằng
160
sóng
sóng
140 140
120 120
lục
Mục
lục
Mục
100 100
80 80
60 60
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
16
17
18
19
20
21
22
23
24
tháng
16
17
18
19
20
21
22
23
24
1
15
1
1
1
15
1
Lưu ý: Hình cho thấy doanh số bán lẻ thực tế được điều chỉnh theo mùa được tính đến tháng 1-2015. Khi không có dữ liệu về doanh số bán lẻ dựa trên số lượng, doanh số bán lẻ dựa trên giá trị sẽ được điều chỉnh theo chỉ số giá tiêu dùng. Doanh số bán lẻ của
Trung Quốc bao gồm một số lĩnh vực dịch vụ hạn chế. Đường thẳng thể hiện xu hướng trước COVID và đường đứt nét thể hiện xu hướng kể từ tháng 1 năm 2021. A. Bình quân không trọng số của Indonesia, Malaysia, Philippines (doanh số sản xuất), Thái Lan và Việt Nam.
Sự đầu tư
Tỷ trọng đầu tư tư nhân trong GDP đã thấp hơn mức trước đại dịch ở các nước đang phát triển EAP trong những năm gần đây (hình
O10), do nợ, lãi suất cao hơn và sự không chắc chắn về chính sách. Đầu tư công nhìn chung hỗ trợ hoạt động kinh tế trong thời kỳ
đại dịch và vượt mức trước đại dịch xét về tỷ trọng GDP ở Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam.
Xuất khẩu
Sau khi giảm hơn 20% so với mức đỉnh trong quý 2 năm 2022 tại Indonesia và Malaysia, và giảm hơn 10% tại Trung Quốc và Việt Nam,
xuất khẩu hàng hóa trên khắp các nước EAP đã bắt đầu phục hồi cùng nền kinh tế thế giới trong nửa cuối năm. của năm 2023 (hình
O11A). Tính đến Quý 4-2023, tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa đã quay trở lại hoặc tiến gần đến mức tích cực ở Trung Quốc, Thái Lan
và Việt Nam. Sự hồi sinh của du lịch đã giúp xuất khẩu dịch vụ ở Malaysia và Fiji, nhưng nhìn chung tổng lượng khách du lịch (và
doanh thu du lịch) dường như đã ổn định dưới mức trước đại dịch, một phần vì số lượng khách du lịch Trung Quốc chưa quay trở lại
Hình O10. Tỷ trọng đầu tư tư nhân trong GDP thấp hơn so với trước đại dịch và do đó, ở một số quốc gia, đầu tư công đang giảm.
30 25
25
20
20
15
15
10
10
trăm
Phần
trăm
Phần
GDP
GDP
5
5
0 0
Indonesia Việt Nam Trung Quốc Philippines Thái Lan Malaysia Trung Quốc
Malaysia Thái Lan Việt Nam Indonesia Philippines
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Hình O11. Xuất khẩu hàng hóa đang bắt đầu phục hồi nhưng chậm; lượng khách du lịch đã ổn định dưới mức trước đại dịch ở một số nền kinh tế
A. Xuất khẩu hàng hóa (tăng trưởng hàng năm) B. Lượng khách du lịch so với trước đại dịch
50 140
120
25
100
80
trăm
Phần
lục
Mục
60
0
40
20
–25
0
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
22
24
23
23
11
22
6
22
2
4
9
1
20
21
22
23
tháng
21
24
22
23
7
7
1
1
1
1
20
1
nước Thái Lan Việt Nam trung bình EAP Việt Nam Indonesia
Fiji trung bình EAP
Lưu ý: A. đường trung bình động ba tháng. Hình B. cho thấy lượng khách du lịch hàng tháng được lập chỉ mục trong cùng tháng năm 2019.
Trung Quốc
Sau đợt phục hồi mạnh mẽ sau COVID vào đầu năm 2023, đà tăng trưởng ở Trung Quốc đã chậm lại. Áp lực giảm phát, công suất sử
dụng giảm và thị trường lao động trì trệ cho thấy tổng cầu đang thiếu tổng cung. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và bất động sản –
động lực chính thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây – đã chậm lại đáng kể do thị trường bất động sản
đang trải qua một đợt điều chỉnh kéo dài nhưng cần thiết trong khi mức nợ cao và lợi nhuận đầu tư giảm dần sẽ hạn chế việc mở
rộng cơ sở hạ tầng hơn nữa. Trung Quốc đang đặt mục tiêu chuyển sang con đường tăng trưởng cân bằng hơn nhưng nỗ lực kích
thích các động lực nhu cầu thay thế đang tỏ ra khó khăn.
Thách thức chính là tỷ lệ tiết kiệm cao và do đó mức tiêu dùng trong nước tương đối thấp (hình O12A). Để duy trì tổng cầu,
Trung Quốc cần tỷ lệ đầu tư cao, mức xuất khẩu cao hoặc mức chi tiêu chính phủ cao.
Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã thành công trong việc giảm sự phụ thuộc vào xuất khẩu và chuyển đổi từ nguồn cầu bên ngoài
sang nguồn cầu trong nước. Nhưng kết quả là sự mất cân bằng trong nước, phụ thuộc nhiều vào đầu tư vào cơ sở hạ tầng và bất
động sản. Hiện Trung Quốc đang cố gắng tái cân bằng trong đầu tư, ưu tiên sản xuất tiên tiến (hình O12B). Rủi ro là sự mất
cân bằng mới có thể xuất hiện giữa năng lực sản xuất và nhu cầu, cả trong nước và quốc tế.
Để hỗ trợ tổng cầu, chính phủ đã công bố kích thích kinh tế vĩ mô vừa phải. Cách tiếp cận chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng
của chính phủ cho thấy rằng họ đang tìm cách đạt được sự cân bằng giữa việc cung cấp các biện pháp kích thích ngắn hạn và đạt
được mục tiêu dài hạn là tăng trưởng ổn định và bền vững. Giải quyết sự mất cân bằng cơ cấu trong tổng cầu sẽ đòi hỏi nhiều
biện pháp kích thích tài chính thông thường hơn. Thay vào đó, những cải cách nhằm giảm tiết kiệm phòng ngừa, chẳng hạn như
tăng cường bảo trợ xã hội và lương hưu, đánh thuế lũy tiến hơn và tái phân bổ chi tiêu công từ cơ sở hạ tầng sang vốn con
người, sẽ kích thích tiêu dùng và dẫn đến tăng trưởng cân bằng hơn. Đồng thời, môi trường chính sách minh bạch, có thể dự
đoán và đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp bất kể quyền sở hữu sẽ hỗ trợ niềm tin của nhà đầu tư và khuyến khích đầu tư tư
nhân, đồng thời cho phép các lực lượng thị trường đóng vai trò lớn hơn trong việc phân bổ vốn, giảm thiểu rủi ro dư thừa công
suất.
Hình O12. Tỷ trọng tiêu dùng trong GDP vẫn tương đối thấp ở Trung Quốc; đầu tư đang tăng nhanh hơn trong sản xuất nhưng
chậm lại về cơ sở hạ tầng và bất động sản
120 15
100
10
80
5
trăm
Phần
60
trăm
Phần
GDP
0
40
20
–5
6 số 8 10 12
2015–19 2020 2021 2022 2023 cho năm 2024 cho năm 2025 cho năm 2023 cho năm 2024
Đông Á và Thái Bình Dương 6,4 1.3 7,5 3,4 5,1 4,5 4.3 5.0 4,5
Đông Á và Thái Bình Dương (trừ Trung Quốc) 4,9 3,5 2.7 5,8 4,4 4.6 4,8 4.6 4,7
Các quốc đảo Thái Bình Dương 3.0 10,2 3,5 6,4 5,6 3.6 3.3 5.2 3.6
Trung Quốc 6,7 2.2 8,4 3,0 5,2 4,5 4.3 5.1 4.4
Indonesia 5.0 2,1 3,7 5,3 5,0 4,9 5.0 5.0 4,9
Malaysia 4,9 5,5 3.3 8,7 3,7 4.3 4.4 3,9 4.3
Philippin 6,6 9,5 5,7 7,6 5,6 5,8 5,9 5,6 5,8
nước Thái Lan 3,4 6,1 1.6 2,5 1.9 2,8 3.0 3,4 3,5
Việt Nam 7.1 2.9 2.6 8,1 5,0 5,5 6.0 4,7 5,5
Campuchia 7.1 3,1 3.0 5,2 5,4 5,8 6.1 5,5 6.1
CHDCND Lào 6,6 0,5 2,5 2,7 3,7 4.0 4.1 3,7 4.1
Mông Cổ 4.6 4,4 1.6 5,0 7,1 4,8 6,6 5.1 6.1
Myanmar 6,4 6,6 9,0 12,0 4,0 1.3 2.0 3.0 2.0
Papua New Guinea 4.0 3,2 0,1 4,3 2,7 4,8 3.6 3.0 5.0
Timor-Leste 5.1 8,3 2.9 4.0 2.1 3.6 4,5 2.4 3,5
Palau 1.0 9,1 13,4 2,0 0,8 12,4 11.9 1,4 10,4
Đảo 3.1 17,0 4,9 20,0 8,0 3,5 3.3 7,7 4.0
Fiji Solomon 3.0 3,4 0,6 4,1 1,9 2,8 3.1 1.8 2.7
Tuvalu 6,7 4,3 1.8 0,7 3,9 3,5 2.4 3,9 3,5
Đảo Marshall. 4,8 1,8 1,0 4,5 3,0 3.0 2.0 3.0 3.0
Vanuatu 3,5 5,0 0,6 1,9 2,5 3,7 3,5 1,5 2.6
Kiribati 2,5 0,6 8,5 3,9 4,2 5,6 2.0 2,5 2.4
Tonga 2.4 0,5 2,7 2,0 2,6 2,5 2.2 2.6 2,5
Samoa 3,4 3,1 7,1 5,3 8,0 4,5 3.6 6.0 4.0
Micronesia 1.9 1,8 3,2 0,6 0,8 1.1 1.7 2,8 2,8
Nauru 2.4 0,7 7.2 2,8 0,6 1.4 1.2 2.0 1,5
Nguồn: Ngân hàng Thế giới; Ước tính và dự báo của Ngân hàng Thế giới.
Ghi chú: Phần trăm tăng trưởng GDP theo giá thị trường. Giá trị năm 2023 của các nền kinh tế đảo nhỏ tham khảo ước tính tăng trưởng GDP. Các giá trị của Timor-Leste thể hiện GDP phi dầu mỏ. Đối với các quốc gia sau, các giá trị tương ứng với năm tài
chính: Các bang liên bang Micronesia, Palau và Cộng hòa Quần đảo Marshall (từ ngày 1 tháng 10 đến ngày 30 tháng 9); Nauru, Samoa và Tonga (1 tháng 7 – 30 tháng 6). Tỷ lệ tăng trưởng của Myanmar đề cập đến năm tài chính từ tháng 10 đến tháng 9.
Ì Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng vững chắc cho tăng trưởng
Mặc dù mức tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người ở khu vực EAP đã vượt qua mức tăng trưởng ở hầu hết các nền kinh tế đang
phát triển và thị trường mới nổi khác trong hai thập kỷ qua, nhưng nó chủ yếu được thúc đẩy bởi đầu tư vào vốn hơn là cải thiện
về tăng trưởng tổng năng suất (hình O13). Tăng trưởng năng suất lao động có thể xuất phát từ nguồn vốn lớn hơn (tăng cường
vốn), cải thiện vốn con người (thông qua giáo dục và kỹ năng) và năng suất các yếu tố tổng hợp hay TFP cao hơn (phần sản xuất
có thể quy cho đổi mới vì nó không thể giải thích được bằng sự gia tăng về số lượng). lao động hoặc vốn vật chất và con người).
Về lâu dài, năng suất (TFP) – hiệu quả chuyển hóa đầu vào thành đầu ra – là động lực chính của tăng trưởng.
Hiểu được nguồn gốc của sự suy giảm tăng trưởng năng suất ở các nền kinh tế EAP sẽ giúp thiết kế các chính sách hỗ trợ tăng
trưởng dài hạn.
Trọng tâm đặc biệt của Bản cập nhật này xem xét thách thức tăng trưởng Hình O13. Tăng trưởng khu vực được thúc đẩy bởi
năng suất thông qua phân tích cấp độ doanh nghiệp mới; các yếu tố đằng tích lũy vốn hơn là tăng trưởng TFP
sau sự chậm lại của nó; và những chính sách nào sẽ khơi dậy TFP, động
Phân rã năng suất lao động
lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế.
12
11
10
Ì Điều gì đã xảy ra với năng suất ở cấp độ doanh nghiệp? 9
số 8
7
6
Tăng trưởng năng suất tổng hợp là một quá trình năng động bao gồm: (i) 5
4
tăng trưởng năng suất trong các doanh nghiệp hiện có; (ii) 3
2
trăm
phần
lệ
Tỷ
tái phân bổ thị phần cho các doanh nghiệp có năng suất cao hơn; Và 1
0
(iii) sự ra vào chắc chắn (hình O14). Chẩn đoán chính xác –1
–2
nguyên nhân làm giảm năng suất là vấn đề quan trọng đối với việc kê đơn –3
-4
những chính sách đúng đắn. –5
2002–
2013–
2020–
2022–
2002–
2013–
2020–
2022–
2002–
2013–
2020–
2022–
2002–
2013–
2020–
2022–
07
19
21
23
07
19
21
23
07
19
21
23
07
19
21
23
Ở nhiều nền kinh tế Đông Á, tăng trưởng năng suất chủ yếu là do cải
EAP không bao gồm Trình độ cao
thiện năng suất trong các doanh nghiệp hiện có (hình O15). Về mặt này,
Trung Quốc EMDE khác
gồm cả Mỹ, Mỹ Latinh và Đông Âu. Vì hầu hết tăng trưởng năng suất là TFP Tăng vốn
do tăng trưởng năng suất nội bộ doanh nghiệp, nên sự chậm lại trong Nguồn lực con người Năng suất lao động
năng suất tổng hợp có thể phản ánh sự chậm lại trong tăng trưởng nội
Nguồn: Conference Board, cơ sở dữ liệu tổng thể về kinh tế.
bộ doanh nghiệp. Tại sao sự suy giảm năng suất lại xảy ra vào thời điểm Lưu ý: Hình hiển thị giá trị trung bình không có trọng số (EAP ngoại trừ Trung Quốc phản ánh 7 quốc gia). TFP: Năng suất nhân tố tổng hợp.
Nhập thêm
doanh nghiệp sản xuất Tái phân bổ
Lưu ý: Các công ty biên giới đề cập đến các công ty có năng suất cao nhất trong một quốc gia và trong ngành.
Hình O15. Tăng trưởng năng suất ở EAP chủ yếu được thúc đẩy bởi sự gia tăng năng suất trong các doanh nghiệp
120
100
80
60
40
trăm
Phần
20
–20
–40
Trong nội bộ công ty Tái phân bổ Lối vào Lối ra
Nguồn: Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam phản ánh tính toán của tác giả sử dụng dữ liệu vi mô của Văn phòng Thống kê, Trung Quốc được lấy từ Brandt et al. (2020), Hoa Kỳ được lấy từ Pancost và Yeh (2022).
Lưu ý: Các phần chia được tính ở mức 2 chữ số và tổng hợp bằng trọng số giá trị gia tăng. Biểu đồ phản ánh mức trung bình của 5 hoặc 6 thay đổi về năng suất hàng năm, trong các khoảng thời gian được đề cập trong chú giải (5 hoặc 6 năm
tùy thuộc vào nguồn dữ liệu sẵn có của quốc gia). Lưu ý mục này chỉ phản ánh sự tham gia của các doanh nghiệp trẻ, việc tham gia khảo sát do thay đổi mẫu đã bị loại trừ.
Ì Điều gì đã xảy ra với năng suất ở các doanh nghiệp tiên phong và tụt hậu?
Vào những năm 1990, các công nghệ mới đã được các công ty tiên phong ở EAP áp dụng sớm hơn, được coi là những công nghệ có năng suất cao
nhất ở một quốc gia, nhưng việc phổ biến đến các công ty khác chậm hơn so với trước đây (Cirera và cộng sự, 2021; Nhu cầu đổi mới Báo cáo).
Mô hình này phù hợp với kinh nghiệm của các nền kinh tế tiên tiến.
Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất của các công ty tiên phong quốc gia ở các nền kinh tế EAP ngày càng tụt hậu so với mức tăng trưởng toàn cầu
trong các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số trong những năm gần đây, chẳng hạn như điện tử (hình O16). Sự tăng trưởng chậm lại ở biên giới
quốc gia càng rõ ràng hơn trong các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số – những lĩnh vực mà các công ty tốt nhất ở các nước giàu đang rút lui.
Ví dụ, trong các lĩnh vực sản xuất kỹ thuật số, từ năm 2005 đến năm 2015, năng suất của các công ty tiên phong toàn cầu đã tăng 76%, trong
khi các công ty tiên phong quốc gia ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam chỉ tăng năng suất trung bình 31%. Đối với các lĩnh vực
ít sử dụng nhiều kỹ thuật số hơn, khoảng cách giữa các công ty tiên phong trong nước và các công ty toàn cầu sẽ ít rõ ràng hơn. Sự trì trệ
tương đối của biên giới quốc gia cũng được quan sát thấy ở các nước đang phát triển ngoài EAP, mặc dù ở mức độ thấp hơn. Vì các công nghệ
mới thường đến trước tiên ở các công ty tiên phong, sau đó lan tỏa sang các công ty khác, nên việc khôi phục các công ty tiên phong quốc gia
có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng trong tương lai của tất cả các công ty.
Các công nghệ kỹ thuật số tiên tiến, chẳng hạn như phân tích dữ liệu, đang dần được phổ biến đến các nhà lãnh đạo quốc gia ở EAP. Không có
gì đáng ngạc nhiên khi các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển ở Đông Á kém phức tạp hơn các doanh nghiệp ở các nước tiên tiến. Tuy
nhiên, trong khi công ty trung bình ở EAP có phần tụt hậu so với công ty trung bình ở các nền kinh tế tiên tiến, thì các công ty phức tạp
nhất ở EAP lại tụt hậu xa so với các công ty phức tạp nhất trên toàn cầu (Cirera và cộng sự, sắp xuất bản). Sự thiếu phức tạp tương đối của
biên giới quốc gia cũng đúng ở bên ngoài Đông Á, mặc dù ở mức độ thấp hơn một chút.
Hình O16. Biên giới quốc gia ở các nước EAP đang tụt hậu so với biên giới toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số
A. Các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số B. Các lĩnh vực ít sử dụng kỹ thuật số hơn
0,4 0,4
0,2 0,2
0 0
–0,2 –0,2
–0,4 –0,4
tiên
(Năm
tiên
(Năm
đầu
Chỉ
đầu
Chỉ
0)
số
0)
số
=
=
–0,6 –0,6
–0,8 –0,8
–1 –1
–1.2 –1.2
–1.4 –1.4
2003 2006 2009 2012 2015 2018 2003 2006 2009 2012 2015 2018
VNM - Sản xuất MYS - Sản xuất VNM - Sản xuất MYS - Sản xuất
CHN - Sản xuất IDN - Sản xuất CHN - Sản xuất IDN - Sản xuất
PHL - Sản xuất PHL -Dịch vụ PHL - Sản xuất PHL -Dịch vụ
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng dữ liệu vi mô của Văn phòng Thống kê và Criscuolo et al. (2023) cho biên giới toàn cầu.
Lưu ý: Biên giới quốc gia được xác định như trong hình trước (năng suất doanh nghiệp ở phân vị thứ 90 cho mỗi quốc gia và ngành). Cường độ kỹ thuật số của các ngành được xác định theo Eurostat.
Ì Tại sao người lãnh đạo không lãnh đạo? Hình O17. Các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn cho biết các quy định
thương mại, kỹ năng của lực lượng lao động và cơ sở hạ tầng giao
thông hoặc viễn thông là những hạn chế quan trọng đối với hoạt
Quán tính tương đối của EAP trong tăng trưởng năng suất có thể động kinh doanh.
suất cao nhất ở Đông Á và Thái Bình Dương có nhiều khả năng coi
các rào cản thương mại, thiếu kỹ năng và điểm yếu trong cơ sở 0,20
hạ tầng giao thông và viễn thông là những hạn chế chính (hình
O17). 0,15
0,10
0,05
Mức độ cạnh tranh thấp có thể giải thích cho sự tăng trưởng năng
suất tương đối thấp của các công ty tiên phong ở EAP. Cạnh tranh 0,00
cao hơn (hoặc mối đe dọa cạnh tranh), có thể đến từ sự mở cửa Quy định thương mại Kỹ năng Vận tải Viễn thông
thương mại và đầu tư, làm tăng động lực cho các công ty tiên Tứ phân vị thứ 2 Tứ phân vị thứ 3 Tứ phân vị năng suất cao nhất
phong đổi mới và phát triển (Aghion và cộng sự, 2009, 2021).
Trong khi thuế quan sản xuất ở các nước EAP tương đối thấp,
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Các tứ phân vị năng suất lao động sản xuất được tính toán trong từng quốc gia và từng năm (áp dụng quyền số lấy mẫu). Điểm số phản
thuế quan trong nông nghiệp và các biện pháp phi thuế quan trong
ánh mức độ nghiêm trọng của những hạn chế được báo cáo bởi các doanh nghiệp (theo thang điểm từ 0 đến 4) trong mỗi nhóm, so với các doanh
nghiệp có năng suất kém nhất ở nhóm cuối cùng. Trình bày kết quả hồi quy ở cấp độ doanh nghiệp về những hạn chế được báo cáo đối với các
sản xuất vẫn hạn chế cạnh tranh. Hơn nữa, các quy định về thị
phần tư năng suất lao động, kiểm soát quy mô doanh nghiệp và các tác động cố định theo năm và quốc gia.
Phản ánh dữ liệu của 13 quốc gia EAP có thu nhập thấp và trung bình.
trường sản phẩm ở Trung Quốc và Indonesia còn hạn chế hơn 50%
so với ở Mỹ (OECD). Một số thị trường EAP, chẳng hạn như ở Việt Nam, do các Doanh nghiệp Nhà nước (SOE) thống trị, điều này cũng có
thể ảnh hưởng đến các điều kiện cạnh tranh. TRONG
EAP, số lượng công ty khởi nghiệp đã giảm đáng kể trong những thập kỷ qua, đặc biệt là trong các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số và khu
vực này ngày càng có nhiều doanh nghiệp đương nhiệm già nua.
Các công ty tiên phong ở EAP dễ bị cạnh tranh hơn cho thấy tăng trưởng năng suất nhanh hơn (hình O18). Các công ty tiên phong thuộc sở hữu
nước ngoài cho thấy tốc độ tăng năng suất hàng năm nhanh hơn 5% so với các công ty tiên phong khác, trong khi các công ty nhà nước có tốc độ
tăng năng suất chậm hơn 3%. Hơn nữa, sự cạnh tranh từ các công ty nước ngoài hoặc công ty nhà nước trong một ngành có thể có tác động lan
tỏa gián tiếp quan trọng đến sự phát triển của các công ty tiên phong trong nước hoặc tư nhân.
Hình O18. Sự hiện diện của SOE cao hơn ở EAP có liên quan đến sự hiện diện của doanh nghiệp nước ngoài ngày càng thấp và mức tăng trưởng năng suất cao hơn
của các doanh nghiệp biên giới
5 3
4 2
3 2
1
2
1
1
0
trăm
Phần
trăm
Phần
0
–1
–1
–1
–2
–2
–3 –2
-4 –3
doanh nghiệp nhà nước
Nước ngoài
doanh nghiệp nhà nước
Nước ngoài
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng dữ liệu vi mô của Văn phòng Thống kê cho Trung Quốc, Indonesia và Philippines.
Lưu ý: Tác động trực tiếp của sở hữu nước ngoài phản ánh sự khác biệt trong tăng trưởng TFP hàng năm giữa các công ty biên giới thuộc sở hữu nước ngoài và trong nước. Các doanh nghiệp tiên phong phản ánh 10% doanh nghiệp có năng suất cao nhất trong một quốc gia
và ngành. Hiệu ứng gián tiếp thể hiện sự tăng trưởng TFP hàng năm khác biệt đối với các doanh nghiệp tiên phong thuộc sở hữu trong nước trong các ngành có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao hơn 10% (được đo bằng tỷ trọng doanh thu của ngành do các doanh nghiệp sở hữu
nước ngoài). Sở hữu nhà nước (SOE) được định nghĩa tương tự.
Tăng năng suất và áp dụng các công nghệ phức tạp đòi hỏi kỹ năng tiên tiến và cơ sở hạ tầng kỹ thuật số chất lượng cao.
Trong khi khả năng truy cập băng thông rộng di động phổ biến ở EAP, cáp quang tốc độ cao không đồng đều ở khắp và trong các quốc gia.
Một số công nghệ (chẳng hạn như thương mại điện tử) chỉ cần băng thông rộng di động cơ bản. Ngược lại, các công nghệ dữ liệu hiện đại (như
phân tích dữ liệu hoặc điện toán đám mây) yêu cầu băng thông rộng cáp quang tốc độ cao để gửi và nhận dữ liệu đến và đi từ khách hàng/
nhà cung cấp/trong nội bộ doanh nghiệp và sự kết hợp phù hợp giữa kỹ năng kỹ thuật số và quản lý để đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu trong
doanh nghiệp.
Khả năng tiếp cận các kỹ năng và cơ sở hạ tầng dữ liệu hiện đại không đồng đều ở EAP. Tại 14 trong số 22 quốc gia có thu nhập trung bình
trong khu vực, hơn một nửa số trẻ 10 tuổi không thể đọc và hiểu văn bản phù hợp với lứa tuổi. Ngay cả những kỹ năng kỹ thuật số cơ bản cũng
không được phổ biến rộng rãi ở EAP, với chưa đến một phần tư số người lao động ở Campuchia, Mông Cổ, Philippines, Thái Lan và Việt Nam có
thể sử dụng chức năng “sao chép và dán” trong một tài liệu. Hơn 50% doanh nghiệp đổi mới sáng tạo ở Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines,
Thái Lan và Việt Nam coi việc thiếu kỹ năng quản lý và lãnh đạo là một thách thức khi tuyển dụng lao động mới (Ngân hàng Thế giới 2022, Nhu
cầu đổi mới ở Đông Á). Các công ty trung bình ở cả EAP đã phát triển và đang phát triển đều được quản lý kém hơn so với Hoa Kỳ (xem Hình
O19). Tuy nhiên, các công ty được quản lý tốt nhất trong việc phát triển EAP lại xếp sau các công ty được quản lý tốt nhất ở EAP tiên tiến
Ì Chính sách có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng năng suất như thế nào? Hình O19. Các công ty được quản lý tốt nhất trong việc phát triển EAP có kỹ năng kém
hơn nhiều so với những công ty tốt nhất ở các nền kinh tế tiên tiến
Mặc dù có thể cho rằng vấn đề năng lực chỉ là vấn đề đối với các 0,0
công ty tụt hậu, nhưng bằng chứng của chúng tôi trong phần trước
cho thấy các công ty tiên phong cũng không có đủ năng lực ở một số
–0,5
khía cạnh, chẳng hạn như kỹ năng quản lý. Chúng tôi nhấn mạnh những
cải cách bổ sung nhằm thúc đẩy cạnh tranh, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
số và kỹ năng là những ưu tiên chính sách nhằm khôi phục năng suất –1.0
–1,5
Cải cách thị trường hàng hóa và dịch vụ có thể thúc đẩy cạnh tranh
10% dưới cùng Công ty trung bình Tôp 10%
và thúc đẩy tăng trưởng năng suất. Trong khi thị trường hàng hóa
Việt Nam
EAP tương đối cởi mở, việc tự do hóa các mức thuế còn lại và các Trung Quốc
Singapore
cơ cạnh tranh trong nước và trang bị cho các công ty khả năng cạnh
Nguồn: Maloney và Sarrias (2017) sử dụng Khảo sát Quản lý Thế giới.
tranh ở nước ngoài. Ví dụ, một cuộc khảo sát gần đây cho thấy 55% Lưu ý: Các biểu đồ phản ánh khoảng cách về điểm quản lý giữa 10% công ty được quản lý tốt nhất ở EAP so với 10% công ty
được quản lý tốt nhất ở Hoa Kỳ. 10% dưới cùng và trung vị được định nghĩa tương tự.
nhà xuất khẩu ở khu vực EAP coi NTM là gánh nặng hạn chế khả năng
mở rộng sang các thị trường mới của họ (ITS, 2023). Việc loại bỏ
các hạn chế đối với việc gia nhập và hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ cũng có thể có tác động thúc đẩy cạnh tranh (Ngân hàng Thế giới 2023).
Ví dụ, cải cách dịch vụ ở Việt Nam gắn liền với việc tăng hơn 3% năng suất lao động của các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực này cũng như
Các chính sách nâng cao cạnh tranh có tác động lớn hơn khi kết hợp với các chính sách và đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng.
Bằng chứng ban đầu từ việc triển khai đường trục cáp quang của Philippines tới 12 tỉnh cho thấy điều này dẫn đến việc sử dụng ngày càng tăng
Hình O20. Mở cửa dịch vụ cho cạnh tranh có thể tăng năng suất của các ngành dịch vụ và các ngành sản xuất hạ nguồn
A. Hiệu quả năng suất của cải cách dịch vụ đối với các doanh nghiệp dịch vụ B. Hiệu ứng năng suất của cải cách dịch vụ đối với các doanh nghiệp sản xuất (hiệu ứng
0,2 0,25
0,2
0,15
0,15
0,1
0,1
trăm)
(phần
trăm)
(phần
biên
Hiệu
biên
Hiệu
cận
ứng
cận
ứng
0,05
0,05
0 0
–0,05 –0,05
(bé nhỏ) (trung bình) (lớn) (bé nhỏ) (trung bình) (lớn)
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới dựa trên dữ liệu từ khảo sát doanh nghiệp Việt Nam năm 2008 và 2016.
Lưu ý: Kết quả hồi quy OLS. Biến phụ thuộc là sự thay đổi trong log giá trị gia tăng trên mỗi lao động từ năm 2016 đến năm 2008. Biến giải thích chính là sự thay đổi giá trị STRI trong các lĩnh vực Thương mại, Vận tải, Tài chính, Chuyên môn và Viễn
thông giữa năm 2016 và 2008 trong Bảng A, và thay đổi trong STRI “hạ nguồn” đối với các lĩnh vực sản xuất trong Bảng B. STRI hạ nguồn là thước đo cụ thể theo ngành cho từng lĩnh vực sản xuất 2 chữ số, được tính bằng STRI trung bình của năm lĩnh vực
dịch vụ trên được tính theo giá trị mua tương ứng từ mỗi lĩnh vực dịch vụ. các lĩnh vực sản xuất. Mẫu hồi quy trong Bảng A bao gồm tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực Thương mại, Vận tải, Tài chính, Chuyên môn và Viễn thông, cũng như
tất cả các doanh nghiệp sản xuất trong Bảng B, trong năm 2008 và 2016. Tất cả các hồi quy đều kiểm soát doanh thu cơ bản và việc làm của các công ty. Các lỗi tiêu chuẩn được nhóm lại ở cấp độ ngành.
thương mại điện tử, nhưng chủ yếu dành cho các doanh nghiệp có kết nối chất lượng cao hơn và dành cho các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cạnh tranh hơn.
Sự cởi mở đối với cạnh tranh nước ngoài và khả năng tiếp cận băng thông rộng cáp quang cho các doanh nghiệp trong nước đều làm tăng việc áp dụng công nghệ
riêng lẻ, nhưng tác động tổng hợp của chúng cao hơn gấp đôi.
Cải thiện vốn con người là bắt buộc và có ít nhất ba chiều. Đầu tiên là củng cố nền tảng của các kỹ năng cơ bản để có thể xây dựng các kỹ năng nâng cao
hơn (Ngân hàng Thế giới 2023). Kiến thức của giáo viên về nội dung và phương pháp giảng dạy được xác định là những vấn đề then chốt. Đầu tư vào đào tạo
giáo viên được ước tính sẽ tạo ra lợi ích về mặt thu nhập được chiết khấu trong suốt cuộc đời lớn hơn mười lần so với chi phí.
Thứ hai, các cá nhân phải được trang bị kỹ năng làm việc với công nghệ mới cũng như khả năng đổi mới. Điều đó đòi hỏi phải nhấn mạnh vào đầu tư vào giáo
dục đại học để phát triển các kỹ năng nâng cao về nhận thức, kỹ thuật và cảm xúc xã hội của người lao động. Để khắc phục những khoảng trống này, sinh
viên cần được tiếp xúc sớm với nhiều nhiệm vụ khác nhau, từ nhà máy đến bộ phận R&D. Cần phải tăng cường liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu và doanh
nghiệp, bao gồm cả thông qua các biện pháp khuyến khích hợp tác giữa tổ chức nghiên cứu và ngành công nghiệp.
Thứ ba, là nâng cao năng lực của các nhà quản lý đã có mặt trong lực lượng lao động. Sự khác biệt về chất lượng quản lý là yếu tố quan trọng tạo nên sự
khác biệt về năng suất giữa các quốc gia. Nghiên cứu gần đây cho thấy chất lượng quản lý có thể được cải thiện.
Ví dụ, các công ty được cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý ở Colombia đã cải thiện phương pháp quản lý của họ và tăng việc làm (Iacovone và cộng sự, 2022).
Cả hoạt động tư vấn và tư vấn trực tiếp chuyên sâu và tốn kém trong các nhóm nhỏ doanh nghiệp đều dẫn đến những cải tiến trong thực tiễn quản lý ở mức độ
tương tự (8–10 điểm phần trăm) cũng như doanh thu, lợi nhuận và năng suất lao động của doanh nghiệp. Hỗ trợ có mục tiêu như vậy có thể đặc biệt hiệu quả
khi kết hợp với việc thúc đẩy cạnh tranh, điều này thúc đẩy nâng cao kỹ năng của nhà quản lý (McKenzie, 2023).
Hầu hết các nước đang phát triển ở Đông Á và Thái Bình Dương (EAP), ngoại trừ một số quốc đảo Thái Bình Dương, đang tăng
trưởng nhanh hơn phần còn lại của thế giới nhưng tốc độ tăng trưởng lại chậm hơn so với trước đại dịch. Năm 2023, nền kinh tế
Trung Quốc tăng trưởng 5,2% và phần còn lại của khu vực tăng 4,4% (hình I.1), chậm hơn so với mức tăng lần lượt 6,7% và 4,9%
được ghi nhận trong giai đoạn 2015–19. Các Quốc đảo Thái Bình Dương tăng trưởng ước tính khoảng 5,6% vào năm 2023, nhanh hơn
mức 3% trong giai đoạn 2015–19.
Hình I.1. Khu vực EAP đang phát triển nhanh hơn phần còn lại của thế giới nhưng có quỹ đạo tăng trưởng chậm hơn so với trước đại dịch
số 8
4
trăm
Phần
–2
EAP Trung Quốc EAP Thái Bình Dương EMDE Trình độ cao
B. Tăng trưởng GDP ở Đông Á C. Tăng trưởng GDP ở Thái Bình Dương
số 8
12
6 10
4 số 8
6
2
4
0 2
trăm
Phần
0
trăm
Phần
–2
–2
-4 -4
–6
–6
-số 8
Fiji
Kiribati
Palau
Tuvalu
Nauru
Tonga
Campuchia
PNG
Samoa
Vanuatu
Trung
Micronesia
Malaysia
Indonesia
Quốc
CHDCND
Myanmar
Mông
Philippin
Việt
Lào
Solomon.
Thái
nước
Nam
Lan
Cổ
Thống
Timor-
isl.
Leste
chế
đảo
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
1
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Tăng trưởng trong khu vực được dự báo sẽ đạt 4,5% vào năm 2024, nhưng vẫn thấp hơn so với trước đại dịch do điều kiện toàn cầu
tiếp tục được cải thiện và áp lực lạm phát tiếp tục giảm. Trung Quốc được dự báo sẽ tăng trưởng 4,5% vào năm 2024 khi sự phục
hồi từ việc mở cửa lại nền kinh tế mờ dần và cả những vấn đề gần kề, chẳng hạn như nợ tăng cao và sự yếu kém trong lĩnh vực bất
động sản, cũng như các yếu tố cấu trúc dài hạn hơn, chẳng hạn như lão hóa và tách rời, đè nặng lên sự tăng trưởng.
Phần còn lại của khu vực, vốn đã phải chịu thiệt hại vào năm 2023 do tăng trưởng toàn cầu chậm lại và các điều kiện tài chính
thắt chặt, dự kiến sẽ tăng trưởng 4,6% vào năm 2024. Khả năng phục hồi của thương mại toàn cầu và các điều kiện tài chính toàn
cầu dự kiến sẽ được nới lỏng sẽ bù đắp cho tác động này. của Trung Quốc chậm lại. Tốc độ tăng trưởng ở các quốc đảo Thái Bình
Dương dự kiến sẽ ở mức vừa phải ở mức 3,6% vào năm 2024, khi quá trình phục hồi sau COVID-19 tan biến.
Mặc dù sản lượng bình quân đầu người đã vượt qua mức trước đại dịch ở hầu hết các nền kinh tế EAP lớn hơn, nhưng quá trình phục
hồi vẫn không đồng đều trên toàn khu vực. Sản lượng bình quân đầu người ở Trung Quốc và Việt Nam đã vượt mức trước đại dịch vào
năm 2020 và hiện cao hơn lần lượt khoảng 20% và 15%. Đến cuối năm 2022, chỉ có Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia và một quốc
đảo Thái Bình Dương, Kiribati, cũng vượt mức sản lượng bình quân đầu người trước đại dịch. Đến cuối năm 2023, Mông Cổ,
Philippines, Thái Lan và hai quốc đảo Thái Bình Dương khác (Fiji và Tuvalu) ước tính đã vượt mức sản lượng bình quân đầu người
trước đại dịch. Nhưng sản lượng vẫn ở dưới mức trước đại dịch ở các quốc đảo Thái Bình Dương (PIC) còn lại cũng như ở Myanmar và
Papua New Guinea (Hình I.2).
Hình I.2. Sản lượng bình quân đầu người đã tăng trên mức trước đại dịch vào năm 2023 ở phần lớn các nền kinh tế EAP, nhưng lại giảm hơn nữa ở
một số quốc đảo Thái Bình Dương
Diễn biến GDP bình quân đầu người so với năm 2019
25
20
15
10
5
0
trăm
Phần
–5
–10
–15
–20
–25
Fiji
Kiribati
Palau
PNG
Tuvalu
Tonga
Malaysia
Samoa
Indonesia
Vanuatu
Trung
Campuchia
Quốc
CHDCND
Myanmar
Philippin
Marshall.
Lào
Mông
Việt
Thái
nước
Solomon.
Lan
Nam
Timor-
Cổ
Micronesia,
Leste
Đảo
Đảo
FS
Nguồn: Cơ sở dữ liệu Triển vọng Kinh tế Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế; Liên Hiệp Quốc; Ngân hàng thế giới.
Sự phục hồi cũng không đồng đều giữa các ngành. Công nghệ thông tin, truyền thông và tài chính có tốc độ tăng trưởng tương đối
mạnh. Các lĩnh vực dịch vụ bắt đầu phục hồi sau khi kinh tế mở cửa trở lại ở một số nền kinh tế trong khu vực, được hưởng lợi từ
việc giải phóng nhu cầu bị dồn nén. Tuy nhiên, sản lượng trong lĩnh vực vận tải, lưu trú và ăn uống ở Philippines và Thái Lan
cũng như xây dựng và bất động sản ở Malaysia và Philippines vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước đại dịch (Hình I.3). Hoạt động
sản xuất phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch COVID-19 nhưng gần đây đã chậm lại và sản lượng hiện thấp hơn mức trước đại dịch ở Thái
Lan.
Tỷ lệ nghèo trong vùng tiếp tục giảm (hình I.4). Tốc độ giảm nghèo của Trung Quốc đã tăng lên vào năm 2023 sau thành tích tương
đối khiêm tốn vào năm 2022. Tốc độ nhanh hơn này dự kiến sẽ tiếp tục trong những năm tới dựa trên mức thu nhập trung bình cao
Hình I.3. Trên khắp các lĩnh vực, CNTT, tài chính và bán lẻ đang tăng trưởng nhanh chóng, trong khi du lịch và bất động sản vẫn tụt hậu
140
130
120
110
100
lục
Mục
90
80
70
60
2021
2021
2021
2021
2021
2020
2020
2020
2020
2020
2023
2023
2023
2023
2023
2022
2022
2022
2022
2022
2021
2023
2020
2022
ngưỡng nghèo (6,85 USD/ngày, PPP 2017) mặc dù vẫn ở tốc độ chậm hơn so với những năm trước đại dịch. Tỷ lệ nghèo theo chuẩn
nghèo thu nhập trung bình thấp (3,65 USD/ngày, PPP 2017) đạt mức thấp lịch sử vào năm 2023, giảm xuống dưới 1%. Ở phần còn lại
của khu vực, tỷ lệ giảm nghèo cũng sẽ tăng vào năm 2023, trung bình khoảng 1/3 tỷ lệ của Trung Quốc. Nhìn chung, 9 triệu người
trong khu vực dự kiến sẽ thoát nghèo từ năm 2023 đến năm 2024 dựa trên chuẩn nghèo của thu nhập trung bình thấp, trong khi 34
triệu người được dự đoán sẽ thoát nghèo dựa trên chuẩn nghèo của thu nhập trung bình cao. Bất chấp những tiến bộ đáng chú ý
trong công cuộc giảm nghèo, thành quả của tiến bộ kinh tế không phải lúc nào cũng được phân phối đến các hộ gia đình và các nhóm
nghèo cùng cực vẫn tồn tại trong khu vực (hộp 1).
A. Chuẩn nghèo của tầng lớp thu nhập trung bình thấp ($3,65 mỗi ngày trong năm 2017PPP) B. Chuẩn nghèo của tầng lớp thu nhập trung bình cao ($6,85 mỗi ngày trong năm 2017PPP)
18 50
16,5 46,1 46,4 46,4 46,2
16.0 15,8 44,9
16 43,4
14.9 42,0
14 13,7 40
12.6
11.7
12
30
10 24,7 24,7
20.8
số 8
19.3
20 17.2
6 15.3
13.6
trăm
Phần
trăm
Phần
dân
dân
số
số
4 3.0 10
2.0
2 1.3 1.1
0,8 0,6 0,5
0 0
2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới. Ước tính nghèo đói dựa trên dự báo tăng trưởng, dự báo dân số và độ co giãn tăng trưởng lịch sử của nghèo đói.
Lưu ý: Dự báo dựa trên dự báo tăng trưởng GDP tính đến ngày 19 tháng 3 năm 2024.
Hộp 1. Chặng cuối trong quá trình giảm nghèo ở khu vực EAP: Trường hợp Papua New Guinea
Mặc dù các quốc gia EAP đã thành công trong việc giảm dân số sống trong tình trạng nghèo cùng cực (với mức tiêu dùng trên
2,15 USD mỗi ngày, theo PPP 2017), nhưng vẫn còn những vùng đáng kể về tình trạng nghèo cùng cực trong khu vực. Hơn nữa,
nghèo đói mang tính đa chiều và những thiếu hụt đáng kể có thể vẫn tồn tại mặc dù thu nhập hộ gia đình đã được cải thiện.
Phân tích kinh nghiệm của Papua New Guinea (PNG) của Baxi et al. (2024) minh họa điều này. Ước tính chính thức mới nhất
hiện có cho thấy khoảng 40% dân số ở PNG sống trong tình trạng cực kỳ nghèo khổ vào năm 2009. Con số này chiếm 10% tổng
dân số sống trong tình trạng nghèo cùng cực ở khu vực EAP. Có bằng chứng cho thấy mặc dù PNG có tốc độ tăng trưởng kinh tế
đáng kể, được hỗ trợ bởi sự gia tăng viện trợ bên ngoài, nhưng tình trạng nghèo cùng cực vẫn ở mức cao. Tăng trưởng GDP
bình quân đầu người hàng năm ở PNG là 3,3 từ năm 2010 đến năm 2017. Những dự đoán về tình trạng nghèo tiền tệ sử dụng dữ
liệu khảo sát hộ gia đình từ năm 2016–2018 cho thấy tình trạng nghèo tiền tệ hầu như không thay đổi trong giai đoạn này
(hình B1.1; Baxi và cộng sự 2024). Hơn nữa, phần lớn dân số không được tiếp cận với điện, nước và dịch vụ vệ sinh đầy đủ,
và 20% sống trong các hộ gia đình không có người lớn nào học xong tiểu học. Các chỉ số này không được cải thiện kể từ năm
Tăng trưởng kinh tế ở PNG chủ yếu được thúc đẩy bởi các ngành công nghiệp khai thác, vốn sử dụng một phần nhỏ dân số (UNFPA
2023). Để lợi ích của sự tăng trưởng này giảm xuống, nó sẽ phải thúc đẩy hoạt động kinh tế trong các lĩnh vực khác và/hoặc
lợi ích cần được phân phối lại thông qua đầu tư công và chuyển giao cho người dân. Có
Hình B1.1. Tình trạng nghèo cùng cực (tiền tệ và phi tiền tệ) vẫn ở mức cao ở Papua New Guinea
B. Tỷ lệ dân số ở PNG trong tình trạng nghèo đói cùng cực về tiền tệ (dự đoán) và không
A. Tăng trưởng GDP bình quân đầu người của PNG được tiếp cận các dịch vụ cơ bản
12 100
10
80
số 8
60
6
40
trăm
Phần
4 Trung bình
trăm
Phần
20
2
0
0 Nghèo
Tiền tệ Điện Nước vệ sinh
Nghèo giáo dục
–2 Đạt được-
(Dự đoán)
HH Người lớn
-4
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2009 HIES DHS 2016–18
Nguồn: Baxi và cộng sự. (2024). Khảo sát Thu nhập và Chi tiêu Hộ gia đình của PNG (HIES) 2009, Khảo sát Nhân khẩu học và Sức khỏe của PNG 2016–18, Nền tảng về Nghèo đói và Bất bình đẳng của Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Ước tính tỷ lệ dân số trong tình trạng nghèo cùng cực về tiền tệ và không được tiếp cận các dịch vụ thiết yếu. Râu đại diện cho khoảng tin cậy 90 phần trăm. Nghèo đói cùng cực về tiền tệ là một dự đoán sử dụng một số biến
số nhân khẩu học và kinh tế xã hội của hộ gia đình (trình độ học vấn của chủ hộ, mức tiêu thụ các mặt hàng thiết yếu cơ bản). Chỉ số trình độ học vấn được đo bằng tỷ lệ dân số sống trong một hộ gia đình không có người lớn nào
học xong tiểu học.
(tiếp theo)
bằng chứng cho thấy cả hai đều chưa xảy ra đầy đủ. Các Hình B1.2. Các biện pháp phi tiền tệ cho thấy tình
nghiên cứu cho thấy rằng môi trường kinh doanh hạn chế và
trạng thiếu hụt đáng kể trong khu vực
vốn nhân lực thấp cản trở sự lan tỏa và sự phổ biến của
Tỷ lệ dân số trong tình trạng nghèo đói cùng cực, không được tiếp cận
chủ nghĩa khách hàng làm suy yếu các khuyến khích ưu tiên các dịch vụ cơ bản và có trình độ học vấn thấp ở EAP
25
trăm
Phần
Nhu cầu tập trung vào nhiều khía cạnh của nghèo đói có liên 20
15
quan rộng rãi hơn đến khu vực EAP. Mặc dù tỷ lệ nghèo cùng
10
cực về tiền tệ ở khắp khu vực ở mức thấp nhưng tình trạng
5
thiếu hụt đáng kể vẫn tồn tại. Tại một nửa số quốc gia
0
trong khu vực, ít nhất 18% dân số vẫn chưa được tiếp cận Tiền tệ Nghèo Điện vệ sinh Nước
đầy đủ các điều kiện vệ sinh và tại 1/4 số quốc gia, ít Nghèo giáo dục
Đạt được-
nhất 40% dân số không được tiếp cận đầy đủ các điều kiện
HH Người lớn
Ở hầu hết các nền kinh tế lớn của EAP, tiêu dùng tư nhân, phục hồi trở lại sau đại dịch COVID-19 và chính sách thắt lưng buộc bụng do lạm
phát, đã duy trì mức tăng trưởng trong năm 2023. Trong khi đó, xuất khẩu cả hàng hóa sản xuất và hàng hóa cơ bản đều giảm, trong khi xuất
khẩu dịch vụ lại hỗ trợ tăng trưởng ở Malaysia, Philippines và Thái Lan (hình I.5). Đầu tư công đã hỗ trợ tăng trưởng ở Trung Quốc,
Indonesia và Philippines, nhưng đầu tư tư nhân vẫn ở mức thấp ở hầu hết khu vực. Chính sách tài khóa hiện nay ít mở rộng hơn ở hầu hết
các nước.
Hình I.5. Tiêu dùng tư nhân tăng trưởng bền vững ở tất cả các nước lớn; xuất khẩu dịch vụ đã giúp ích ở Malaysia,
Philippines, Thái Lan và đầu tư công ở Trung Quốc, Indonesia và Philippines; Đầu tư tư nhân và xuất khẩu
hàng hóa vẫn còn yếu
25
20
15
10
5
trăm
phần
Điểm
–5
–10
–15
–20
2020 2021 2022 2023 2020 2021 2022 2023 2020 2021 2022 2023 2020 2021 2022 2023 2020 2021 2022 2023
Trung Quốc Indonesia Malaysia Philippin nước Thái Lan
Tiêu dùng cá nhân Tiêu dùng của chính phủ Đầu tư công và tư nhân
Xuất khẩu dịch vụ Nhập khẩu Xuất khẩu ròng (đối với Trung Quốc)
Hiệu quả kinh tế trong khu vực đang được định hình bởi sự phát triển trong và ngoài nước (hình I.6). Các yếu tố bên ngoài quan trọng là
thương mại phục hồi nhưng gia tăng bảo hộ thương mại kết hợp với các chính sách công nghiệp và điều kiện tài chính vẫn thắt chặt. Trong
số các yếu tố trong nước, quan trọng nhất là nợ công và nợ tư nhân tăng cao, lập trường chính sách bị hạn chế, đặc biệt là tài chính và
tiền tệ, cũng như sự bất ổn về chính sách và chính trị gia tăng.
Thứ nhất, thương mại toàn cầu đang phục hồi mặc dù tăng trưởng GDP toàn cầu đang chậm lại. Thương mại hàng hóa và dịch vụ chỉ tăng 0,2%
vào năm 2023 nhưng dự kiến sẽ tăng 2,3% vào năm 2024 – mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP sẽ chậm lại từ 2,6% năm 2023 xuống 2,4% vào năm 2024
(Hình I.7). Sự phục hồi dự kiến trong thương mại là do thu nhập thực tế được cải thiện, như tiền lương
Hình I.6. Các yếu tố bên ngoài và trong nước ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Phục hồi thương mại toàn cầu Chính sách bóp méo thương mại Điều kiện tài chính vẫn eo hẹp
hiệu suất
Nợ tăng cao
Không gian chính sách vĩ mô hạn chế Sự không chắc chắn về chính sách
Nguồn: Minh họa của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Hình I.7. Ba diễn biến quốc tế liên kết với nhau sẽ định hình hiệu quả kinh tế ở các nước EAP: phục hồi thương mại toàn cầu, tăng cường các
biện pháp bóp méo thương mại và thắt chặt điều kiện tài chính
A. Tăng trưởng GDP và thương mại toàn cầu B. Các biện pháp bóp méo thương mại mới C. Lãi suất
6 3.500 6
3.000 5
2.500 4
4 3
2.000
2
trăm
Phần
1.500
1
trăm
Phần
2 1.000
0
500
–1
thiệp
can
lần
Số
0
0
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
May
2022 2023 2024f 2025f
19
21
17
23
25
19
21
17
23
25
24
1
1
1
18
20
22
9
9
5
5
GDP Buôn bán Các mặt hàng Sự đầu tư Dịch vụ CHÚNG TA Khu vực đồng Euro
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Cảnh báo Thương mại Toàn cầu, Haver Analytics, Fed watch.
Lưu ý: Hình B. cho thấy số lượng các biện pháp có hại mới được thực hiện bởi tất cả các thành viên WTO, được điều chỉnh theo độ trễ báo cáo.
tăng trưởng nhanh hơn lạm phát và nhu cầu chuyển hướng trở lại hướng tới những hàng hóa có khả năng giao dịch cao hơn từ những dịch vụ ít có
khả năng giao dịch hơn. Thứ hai, mặc dù lạm phát đã giảm ở các nền kinh tế lớn, lạm phát cơ bản ở Mỹ và EU vẫn tăng cao và thị trường lao động
vẫn thắt chặt, cho thấy lãi suất sẽ vẫn cao hơn mức trước đại dịch trong tương lai gần. Thứ ba, gần 3.000 biện pháp bóp méo thương mại mới
được áp dụng vào năm 2023, gấp ba lần so với năm 2019.
Những năm gần đây được đánh dấu bằng sự gia tăng các hoạt động chính sách công nghiệp (IP) có khả năng gây bóp méo thương mại ở nhiều quốc gia.
Thuật ngữ “chính sách công nghiệp” rất rộng và bao gồm nhiều loại can thiệp khác nhau nhắm vào các lĩnh vực cụ thể (như trợ cấp trong nước,
trợ cấp tài chính, giảm thuế). Nhưng những biện pháp này có thể có tác động bóp méo thương mại, chẳng hạn do yêu cầu về hàm lượng nội địa có
thể gây tổn hại đến xuất khẩu của các nước đang phát triển EAP. Số lượng các biện pháp bảo hộ mới được các quốc gia khác áp dụng có ảnh hưởng
đến nền kinh tế trong khu vực đã gia tăng trong những năm gần đây và số lượng các biện pháp được các nền kinh tế đang phát triển EAP đưa ra
Hình I.8. Số lượng các biện pháp bóp méo thương mại mới được thực hiện đối với các nước EAP đang gia tăng nhanh chóng trong khi
những biện pháp do các nước EAP thực hiện đã giảm trong những năm gần đây
B. Số lượng các biện pháp thương mại mới được áp dụng ảnh hưởng đến việc phát triển EAP
A. Số biện pháp thương mại mới được áp dụng ảnh hưởng đến Trung Quốc loại trừ Trung Quốc
1400 200
1200
1000 150
800
100
600
400
50
thiệp
can
lần
Số
thiệp
can
lần
Số
200
0
0
2011
2021
2010
2018
2020
2014
2009
2015
2016
2019
2013
2023
2017
2012
2022
2009
2016
2019
2017
2011
2015
2021
2013
2023
2018
2010
2020
2012
2022
2014
Lưu ý: số liệu thể hiện số lượng biện pháp có hại mới được thực hiện, được điều chỉnh theo độ trễ báo cáo.
Hộp 2. EAP và các chính sách công nghiệp và bảo hộ có khả năng bóp méo thương mại
Cơ quan quan sát chính sách công nghiệp mới (NIPO), Hình B2.1. Số lượng các biện pháp công nghiệp có mối tương quan
chặt chẽ với số đô la chi tiêu
một cơ sở dữ liệu mới được phát hành vào tháng 1 năm
2024 (Evenett, Jakubik, Martín, Ruta, 2024) cho phép
Chính sách công nghiệp: Chi tiêu và Biện pháp, 2023
xem xét kỹ hơn các chính sách công nghiệp trong năm
14
2023. Một đổi mới quan trọng trong NIPO, so với dữ Hoa Kỳ
liệu toàn diện hơn nguồn gốc của nó (Cảnh báo Thương 12
CHN DEU
FRA
mại Toàn cầu), là trong nhiều trường hợp, nó cũng đưa AU ÁO NGỰC
ZAF ITA
10 VÒI NLD
ESP
AUS
CÓ THỂ
số 8
PRT Nga Nhật Bản
một hành động chính sách cụ thể. Mặc dù thước đo thứ TRỨNG
DNK ARG
SAU
SVN THA
hai là không hoàn hảo (số tiền đô la có thể đề cập 6 BOL SWE
HR V
4 HKG
tháng 3
nhất, các quốc gia tham gia chính sách công nghiệp Nguồn: Văn phòng Kinh tế trưởng EAP xây dựng dựa trên dữ liệu từ NIPO và Chỉ số Phát triển Thế giới.
Lưu ý: Các chính sách công nghiệp mới, theo định nghĩa của NIPO, bao gồm cả chính sách công nghiệp trong nước cũng như các chương trình
tích cực nhất là các quốc gia thuộc G-20, như Mỹ, xúc tiến xuất khẩu và các rào cản thương mại nhập khẩu. Tất cả các biện pháp bóp méo thương mại có thể xảy ra đều được bao gồm.
Trung Quốc, Ấn Độ và hầu hết các quốc gia trong EU (Hình B2.2).
(tiếp theo)
Thứ hai, số lượng các biện pháp chính sách công nghiệp được thực hiện cũng tương quan tích cực với mức độ phát triển, ngoại trừ Brazil, Trung
Quốc, Ấn Độ và Nga, những nước hoạt động tích cực hơn trong không gian này so với dự đoán của GDP bình quân đầu người của họ. Cuối cùng, các
nước EAP (trừ Trung Quốc và Indonesia) ít có xu hướng thực hiện các chính sách công nghiệp hơn so với các nước khác có quy mô và trình độ phát
Hình B2.2. Người giàu và người lớn là những người thực thi chính sách công nghiệp
A. Các biện pháp bảo hộ và dân số B. Các biện pháp bảo hộ và thu nhập bình quân đầu người
Chính sách công nghiệp: Biện pháp so với quy mô quốc gia, Chính sách công nghiệp: Biện pháp và phát triển,
2023 2023
6 Hoa Kỳ
6
Hoa Kỳ
CÓ THỂ
5 CÓ THỂ
5
DEU Nhật Bản ITA
ITA IND IND Nhật Bản
DEU
ÁO NGỰC
AUS ÁO NGỰC
GBR AUS
Nga CHN CHN Nga GBR
4 KOR KOR
FRA 4
ESP TUR ESP FRA
ARG TUR CHE
CHE ARG NLD
NLD POL MEX POL
3 AU 3 MEX
AU
DNK PRT SÉC THA ID ID
SAU PRT SAU BEL
(trong
BEL
2023-
nhật
(trong
PAK THA
ký)
SÉC
2023-
DNK
nhật
VÒI SWE 2
pháp
biện
Tổng
0 0
14 16 18 20 22 số 8 9 10 11 12
Dân số năm 2021 (theo log) GDP bình quân đầu người năm 2021 (theo nhật ký)
Thu nhập cao EAP EMDE Giá trị được trang bị Thu nhập cao EAP EMDE Giá trị được trang bị
Nguồn: Văn phòng Kinh tế trưởng EAP xây dựng dựa trên dữ liệu từ NIPO và Chỉ số Phát triển Thế giới.
Lưu ý: Các chính sách công nghiệp mới, theo định nghĩa của NIPO, bao gồm cả chính sách công nghiệp trong nước cũng như các chương trình xúc tiến xuất khẩu và các rào cản thương mại nhập khẩu. Tất cả các biện pháp bóp méo thương mại có thể xảy ra đều được bao gồm.
Trong phụ lục, chúng tôi trình bày một phiên bản của Hình B2.2 trong đó chúng tôi xem xét các biện pháp chính sách công nghiệp riêng biệt,
chẳng hạn như trợ cấp và các biện pháp chính sách thương mại, chẳng hạn như hạn chế nhập khẩu. Chính sách công nghiệp chiếm 2/3 tổng số biện pháp.
Trong cả hai trường hợp, chúng tôi tìm thấy mối tương quan dương giữa số lượng biện pháp và GDP bình quân đầu người của các quốc gia.
Các nước EAP có khả năng chịu tác động bóp méo thương mại của những chính sách như vậy vì hai lý do. Thứ nhất, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc và
Nhật Bản là những thị trường điểm đến quan trọng cho xuất khẩu của các nước EAP đang phát triển. Thứ hai, các công ty nhận được trợ cấp ở các
quốc gia lớn và phát triển là đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của các công ty ở các nước EAP.
Một khía cạnh quan trọng cần xem xét đối với các quốc gia EAP trong tương lai là sự tương tác giữa việc triển khai các chính sách này của các
quốc gia đại diện cho các thị trường xuất khẩu quan trọng hoặc có tiềm năng quan trọng và việc phát triển các hiệp định thương mại ưu đãi mới
hoặc việc triển khai dần dần các hiệp định hiện có (như như RCEP).
Ì Nợ
Tỷ lệ nợ trên GDP đã tăng lên trong thập kỷ qua ở hầu hết các nước EAP. Nợ chung của chính phủ tính theo tỷ lệ GDP hiện nay
cao hơn nhiều ở hầu hết các nền kinh tế trong khu vực (Hình I.9) do điều kiện tài chính dễ dàng hơn sau cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu và thâm hụt ngân sách gia tăng trong thời kỳ đại dịch. Nợ chính phủ cao sẽ hạn chế không gian tài khóa, hạn
chế đầu tư công và cũng có thể cản trở đầu tư tư nhân do tăng lãi suất. Nợ tư nhân cũng tăng vọt ở các nền kinh tế lớn.
Tỷ lệ nợ doanh nghiệp trong GDP đã tăng ở Trung Quốc và Việt Nam hơn 40 điểm phần trăm kể từ năm 2010, và hiện đã vượt quá
mức ở các nền kinh tế tiên tiến. Nợ doanh nghiệp cao có thể gây tổn hại đến đầu tư tư nhân do khiến các công ty có ít nguồn
lực hơn cho các dự án mới. Nợ hộ gia đình hiện cũng cao hơn đáng kể ở Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan so với mức ở các thị
trường mới nổi khác và điều đó đang gây sức ép lên tiêu dùng.
80 160
80
60 120
40 80
40
trăm
Phần
GDP
trăm
Phần
trăm
Phần
GDP
GDP
20 40
0 0 0
AE
AE
AE
Trung
Trung
Trung
Quốc
Quốc
Quốc
Malaysia
Malaysia
Malaysia
CHDCND
CHDCND
CHDCND
Lào
Lào
Lào
Indonesia
Indonesia
Indonesia
Mông
Mông
Mông
Thái
nước
Thái
nước
Thái
nước
Lan
Lan
Lan
Việt
Việt
Việt
Nam
Nam
Nam
Cổ
Cổ
Cổ
Philippin
Philippin
Philippin
khác
EMDE
khác
EMDE
khác
EMDE
2010 2019 2023 2010 2019 2023 2010 2019 2023
Nguồn: Viện Tài chính Quốc tế, ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Vào năm 2023, thanh toán lãi nợ nước ngoài tăng đáng kể ở Hình I.10. Trả lãi nợ nước ngoài tăng đáng kể
hầu hết các nước trong khu vực. Các quốc gia mắc nợ cao như
vào năm 2023 ở hầu hết các quốc gia
CHDCND Lào đã trải qua mức thanh toán lãi vay tăng mạnh hơn,
Trả lãi nợ nước ngoài dài hạn theo tỷ lệ GDP
đặc biệt là đối với nợ tư nhân với lãi suất có xu hướng tuân
theo lãi suất thị trường (Hình I.10). Tại Lào, quốc gia được 7
đánh giá là đang gặp khó khăn về nợ nần, các khoản thanh 6
toán lãi cho Trung Quốc (khoảng 165 triệu USD hay 1,1% GDP) 5
đã được hoãn lại vào năm 2023. Mặc dù việc hoãn nợ mang lại 4
sự cứu trợ tạm thời nhưng hồ sơ trả nợ vẫn chưa chắc chắn và
3
phải tuân theo các chính sách kết thúc đàm phán nợ. Việc
trăm
Phần
GDP
2
tăng thanh toán lãi suất sẽ hạn chế không gian tài chính và
1
có thể hạn chế đầu tư công và tư nhân.
0
2023
2023
2023
2023
2023
2023
2023
2023
2023
2018–
2018–
2018–
2018–
2018–
2018–
2018–
2018–
2018–
22
22
22
22
22
22
22
22
22
Lãi suất danh nghĩa cao hơn, lạm phát được kiềm chế và tốc
MNG LAO FJI KHM IDN THA VNM PHL CHN
độ tăng trưởng thấp hơn có thể khiến tỷ lệ nợ công trên GDP
tăng nhanh hơn so với trước đây. Kết quả sẽ là sự gia tăng Công cộng Riêng tư
đóng góp của thanh toán lãi vào nợ trên GDP (gánh nặng trả
Nguồn: Thống kê nợ quốc tế, ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới
lãi rất đáng kể ở Indonesia, Lưu ý: Số liệu theo kế hoạch trả nợ ban đầu và có thể bao gồm nợ trả chậm như ở Lào.
Lào, Papua New Guinea và Mông Cổ) và tỷ lệ nợ trên GDP giảm ít Hình I.11. Chính sách tài khóa đã trở nên ít mở rộng hơn ở hầu
hết các nước
hơn do tăng trưởng.
2
Ì Chính sách kinh tế vĩ mô
Quan điểm chính sách kinh tế vĩ mô đã trở nên thu hẹp sau quan 1
điểm mở rộng trong giai đoạn 2020–2022 ở hầu hết các nền kinh
tế. Khi tình hình COVID-19 ổn định và các chính phủ phải vật
lộn với tình trạng nợ nần ngày càng gia tăng, chi tiêu cho các 0
chương trình hỗ trợ được thực hiện trong thời kỳ đại dịch đã
trăm
Phần
GDP
giảm. Việc giảm hỗ trợ này dẫn đến giảm thu nhập khả dụng của
–1
các hộ gia đình và doanh nghiệp, điều này có khả năng làm giảm
tiêu dùng và đầu tư. Các nền kinh tế lớn trong khu vực được dự
đoán sẽ có sự cân bằng cơ cấu tích cực hoặc trung tính trong
–2
giai đoạn 2023–24 so với những năm trước (Hình I.11). nước Thái Lan Malaysia Philippines Indonesia Trung Quốc
2020–22 2023–24
Nguồn: Cơ sở dữ liệu Triển vọng Kinh tế Thế giới, tháng 10 năm 2023, Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Lãi suất chính sách đã được tăng lên trên toàn cầu và trong
khu vực EAP để giải quyết mối đe dọa lạm phát. Tuy nhiên, lãi
suất chính sách ở nhiều quốc gia EAP vẫn thấp hơn so với các
nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi (EMDE) khác, Hình 12. Chính sách tiền tệ đã được thắt chặt trong khu vực,
đồng thời mức tăng lãi suất chính sách cũng nhẹ hơn. Điều này ngoại trừ Trung Quốc và Việt Nam
là do khu vực EAP nhìn chung ít bị ảnh hưởng bởi áp lực lạm
Lãi suất chính sách
phát hơn các khu vực khác. Các ngân hàng trung ương trong khu
vực cũng đã sử dụng các biện pháp chính sách tiền tệ khác như 7
trường mở. Do nhu cầu trong nước yếu và khu vực doanh nghiệp
5
gặp khó khăn, lãi suất gần đây đã giảm ở Trung Quốc và Việt
4
Nam (Hình I.12).
trăm
Phần
2
Lạm phát đã giảm trên toàn khu vực EAP do giá hàng hóa giảm,
giảm bớt những hạn chế về nguồn cung và nhu cầu trong nước giảm 1
Tuy nhiên, lạm phát vẫn ở mức cao ở các quốc đảo Thái Bình
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
20
21
22
23
tháng
21
24
22
23
7
7
1
1
1
1
20
1
Dương cũng như ở Mông Cổ, Lào và Myanmar, phản ánh giá một số
mặt hàng như gạo tăng, sự phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu và/hoặc Trung Quốc Indonesia Malaysia
đồng tiền mất giá nhanh chóng. Các quốc gia như Thái Lan, Trung Philippin nước Thái Lan Việt Nam
Quốc và Campuchia hiện đang phải đối mặt với tình trạng lạm
Nguồn: Haver Analytics.
phát âm.
Mặc dù áp lực giảm phát một phần phản ánh nhu cầu trong nước tương đối yếu, nhưng có nguy cơ chúng có thể lan sang các nền kinh tế
khác trong khu vực. Ví dụ, do Trung Quốc tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong thương mại và sản xuất toàn cầu, những thay đổi
về chi phí sản xuất ở Trung Quốc có thể dẫn đến lạm phát giá cả ở các nước EAP khác. Quả thực, dường như có sự đồng chuyển động
mạnh mẽ giữa giá sản xuất của Trung Quốc và cả lạm phát PPI và CPI ở các nền kinh tế EAP khác, với độ trễ khoảng hai phần tư (hình
I.14).
Hình I.13. lạm phát CPI đang giảm dần; Một số nước đối mặt với áp lực giảm phát
A. Các chỉ số lạm phát khác nhau B. Lạm phát giá tiêu dùng mới nhất và mục tiêu
30 28,6
20
25,4
25
15
20
10
15
5
trăm
Phần
10
trăm
Phần
7,0
–5
0 –0,7 –0,3
–5
–10
Fiji
Campuchia
Trung
Quốc
Malaysia
Indonesia
CHDCND
Mông
Myanmar
Việt
Philippin
Lào
Thái
nước
Nam
Lan
tháng
tháng
tháng
tháng
Cổ
tháng
tháng
tháng
tháng
22
23
22
23
12
22
12
23
22
23
tháng
6
9
9
12
21
Hình I.14. Sự đồng biến động giữa giá sản xuất của Trung Quốc và giá sản xuất và tiêu dùng của EAP
A. PPI của Trung Quốc và PPI của EAP B. PPI của Trung Quốc và CPI của EAP
12 số 8
12
7
số 8
số 8
6
5
4
4
4
0
0 3
2
-4
-4
1
-số 8 -số 8 0
2016q4
2016q1
2015q2
2014q3
2013q4
2013q1
2012q2
2011q3
2010q4
2017q3
2023q3
2022q4
2022q1
2021q2
2020q3
2019q4
2019q1
2018q2
2016q4
2016q1
2015q2
2014q3
2013q4
2013q1
2012q2
2011q3
2010q4
2010q1
2017q3
2023q3
2022q4
2022q1
2021q2
2020q3
2019q4
2019q1
2018q2
2010q1
lạm phát PPI của Trung Quốc lạm phát PPI của Trung Quốc
Lạm phát PPI: trung bình EAP, không bao gồm Trung Quốc (RHS) Lạm phát CPI: trung bình EAP, không bao gồm Trung Quốc (RHS)
Chính sách tiền tệ trong khu vực dường như đang cân bằng giữa nhu cầu hỗ trợ chính sách tiền tệ và rủi ro lạm phát
tiếp tục. Cụ thể, các nhà hoạch định chính sách ở khu vực EAP đã giữ lãi suất cao hơn trước đại dịch để giải quyết áp
lực lạm phát do giá hàng hóa vẫn ở mức cao và ngăn chặn dòng vốn chảy ra ngoài do chênh lệch lãi suất giữa các nền
kinh tế tiên tiến. Khi Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ, Trung Quốc, Indonesia và
Malaysia đã chứng kiến dòng vốn chảy ra ngoài. Áp lực đã giảm bớt vào cuối năm 2022 ở Indonesia và Malaysia, nhưng dòng vốn chảy ra
tiếp tục diễn ra ở Trung Quốc trong bối cảnh niềm tin của nhà đầu tư suy yếu (hình I.15). Đến cuối năm 2023, dòng vốn cổ phần và trái phiếu chảy ra khỏi
Trung Quốc lên tới hơn 1% GDP. Đồng tiền mất giá ở tất cả các nền kinh tế lớn nhưng đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia có hoặc có nguy cơ khủng hoảng nợ
Hình I.15. Dòng vốn lớn chảy ra khỏi Trung Quốc trong khi tiền tệ đang suy yếu ở mọi nền kinh tế
A. Dòng vốn danh mục đầu tư (tích lũy kể từ tháng 2 năm 2022) B. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (USD/đồng nội tệ)
1.0
100 100
0,5
0,0
trăm
Phần
GDP
90 75
–0,5
tháng
2022
100
năm
số,
Chỉ
=
2
–1.0
80 50
–1,5
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
22
23
10
22
10
23
22
23
24
22
23
6
6
12
22
12
23
2
2
4
4
22
23
tháng
8
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
24
23
tháng
11
22
11
23
22
23
22
23
2
2
22
2
8
5
Ì Sự không chắc chắn về chính trị và chính sách Hình I.16. Sự không chắc chắn về chính sách kinh tế đã gia tăng trong
những năm gần đây ở EAP
Chỉ số bất ổn về chính sách kinh tế trong khu vực đã tăng lên trong những Chỉ số không chắc chắn
năm gần đây (hình I.16). Sự bất ổn chính trị cũng như căng thẳng địa chính
700 COVID Sóng Omron & 0,6
trị gia tăng cũng có thể gây ra sự bất ổn.
Sóng alpha chiến tranh ở Ukraine
Sự không chắc chắn đề cập đến việc thiếu khả năng dự đoán hoặc sự rõ ràng 600
0,5
về các điều kiện kinh tế trong tương lai, chẳng hạn như những thay đổi trong
500
chính sách của chính phủ, điều kiện thị trường hoặc các sự kiện địa chính 0,4
Mục lục
trị. Mức độ không chắc chắn cao có tác động tiêu cực đến tăng trưởng đầu 400
lục
Mục
tư, khi các nhà đầu tư chọn “chờ xem” thay vì đầu tư vào các dự án mới hoặc 0,3
300
mở rộng hoạt động kinh doanh hiện tại của họ.
0,2
200
0,1
100
Một cú sốc tăng trưởng bắt nguồn từ các đối tác thương mại lớn nhất của khu Nguồn: Chỉ số bất ổn thế giới; Chỉ số không chắc chắn về chính sách kinh tế.
Lưu ý: “Trung Quốc” thể hiện chỉ số Không chắc chắn về Chính sách Kinh tế dựa trên South China Morning Post và các tờ báo của
vực, Trung Quốc và Mỹ, sẽ tác động đến các nền kinh tế EAP thông qua các Trung Quốc đại lục. “EAP khác” hiển thị mức trung bình của Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Việt Nam sử dụng đường
trung bình động 4 quý của Chỉ số Bất ổn Thế giới. “Toàn cầu” hiển thị chỉ số Không chắc chắn về Chính sách Kinh tế toàn cầu.
dòng chảy tài chính và thương mại song phương, bao gồm cả dòng chảy nước ngoài. Trung bình động 3 quý.
đầu tư trực tiếp (FDI) (như đã thảo luận chi tiết trong Ngân hàng Hình I.17. Tăng trưởng trong khu vực bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của
các đối tác thương mại lớn nhất trong khu vực
Thế giới 2023a). Những thay đổi trong tăng trưởng ở Mỹ hoặc Trung
Quốc cũng có thể tác động đến các nền kinh tế khu vực bằng cách ảnh
Tác động của việc giảm 1 pp trong tăng trưởng GDP của Trung Quốc và Hoa Kỳ, và lợi suất trái
hưởng đến niềm tin và từ đó ảnh hưởng đến tiêu dùng và đầu tư trong phiếu kỳ hạn 2 năm của Hoa Kỳ tăng 25 bps
nước. Tốc độ tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ (Trung Quốc) giảm 1 điểm phần
0,0
trăm một cách bất ngờ sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng ở các nước EAP
đang phát triển khác ước tính trung bình khoảng 0,5 (0,3) điểm phần
trăm trong năm tới (hình I.17). ). Những cú sốc không lường trước
được đối với chính sách tiền tệ của Mỹ cũng ảnh hưởng đến tăng –0,4
trưởng; mức tăng 25 điểm cơ bản sẽ làm giảm mức tăng trưởng ước tính
trăm
phần
Điểm
khoảng 0,5 điểm phần trăm.
–0,8
Ngoài ra, những cú sốc bất ổn ở Mỹ và Trung Quốc có thể tác động tiêu
cực đến các điều kiện tài chính và vĩ mô ở các nước EAP. Sự bất ổn
vĩ mô của Hoa Kỳ tăng một độ lệch chuẩn có liên quan đến sự sụt giảm
–1.2
0,5 điểm phần trăm trong tăng trưởng sản lượng và giá tài sản ở EAP GDP của Mỹ GDP Trung Quốc tiền tệ Mỹ
giảm 3% trong vòng một năm (Hình I.18; Hộp A1). Những tác động này chính sách
Lưu ý: Thanh biểu thị tác động của những cú sốc sau: tăng trưởng của Trung Quốc và Hoa Kỳ giảm 1 điểm phần trăm và lãi suất kỳ hạn
2 năm của Hoa Kỳ tăng 25 điểm cơ bản. Tác động được ước tính bằng cách sử dụng mô hình VAR Bayesian cấu trúc bao gồm các biến số
đầu ra. Hơn nữa, trong khi bản thân Trung Quốc bị ảnh hưởng tiêu cực sau: Cú sốc phản ứng chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ, tăng trưởng GDP thực của Hoa Kỳ, tăng trưởng GDP thực của Trung Quốc, giá hàng
hóa bình quân gia quyền đối với quốc gia tiếp nhận, tăng trưởng GDP thực của quốc gia tiếp nhận và tỷ giá hối đoái của quốc gia
bởi sự bất ổn toàn cầu và của Hoa Kỳ, thì những cú sốc bất ổn của tiếp nhận đối với Đô la Mỹ. Các quốc gia EAP được đưa vào ước tính là Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Các mô hình
được ước tính từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2022, ngoại trừ ở Malaysia bắt đầu vào quý 1 năm 2005. Cú sốc chính sách tiền tệ của
chính nước này lại có liên quan tiêu cực đến các điều kiện tài chính Hoa Kỳ dựa trên Arteta, Kamin và Ruch (2022) và nắm bắt những thay đổi trong đánh giá của nhà đầu tư rằng chức năng phản ứng của
chắc chắn về vĩ mô ở Trung Quốc có liên quan đến sự sụt giảm 0,3 điểm
phần trăm trong sản xuất công nghiệp ở các quốc gia EAP—khoảng một
Hình I.18. Sự bất ổn kinh tế vĩ mô ở Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể tác
nửa số phản hồi đối với cùng loại sự không chắc chắn ở Hoa Kỳ. Tương
động tiêu cực đến sản lượng của các nền kinh tế khu
tự, sự không chắc chắn về chính sách ngày càng gia tăng của Trung vực EAP
Quốc kéo theo sự sụt giảm giá cổ phiếu và sự bất ổn ngày càng gia
Tác động của cú sốc bất định cấp 1 ở Mỹ và Trung Quốc tới sản xuất công nghiệp EAP
tăng ở các nước EAP. Những kết quả này cho thấy Trung Quốc vừa là nạn
nhân vừa là nguồn gốc của những cú sốc bất ổn trên thị trường toàn
cầu, đặc biệt là đối với các nền kinh tế EAP. 0,6
0,4
0,2
0,0
–0,2
trăm
phần
Điểm
–0,6
–0,8
Các biến đại diện tần số cao về nhu cầu trong nước cho thấy chi tiêu
–1.0
tiêu dùng đang hồi phục chậm. Cả doanh số bán lẻ và nhập khẩu đều t = 0 6 12 24 t = 0 6 12 24
cao hơn so với trước đại dịch (hình I.19). Vĩ mô Mỹ Trung Quốc vĩ mô
Dữ liệu gần đây cho thấy chi tiêu của người tiêu dùng đã chạm đáy, tính không chắc chắn tính không chắc chắn
sốc sốc
mặc dù tốc độ tăng trưởng vẫn chậm. Mặc dù nhu cầu trong nước sẽ tiếp
tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng nó vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Các thanh thể hiện phản ứng linh hoạt của sản phẩm EAP đối với sự gia tăng độ lệch một tiêu chuẩn trong sự không chắc chắn
tiêu cực bởi sự không chắc chắn cao và chi phí tài chính tăng cao. về kinh tế vĩ mô ở Hoa Kỳ và Trung Quốc. Các kết quả được dựa trên bảng tự hồi quy Vector cho Indonesia, Malaysia, Philippines và
Thái Lan. Theo thứ tự này, mô hình bao gồm sản xuất của Hoa Kỳ, CPI của Hoa Kỳ, sự không chắc chắn của Hoa Kỳ, sản xuất của Trung
Niềm tin của người tiêu dùng vẫn ở mức thấp ở Trung Quốc và bằng hoặc Quốc, CPI, thước đo sự không chắc chắn và sản xuất công nghiệp trong nước (EAP), giá cả, giá cổ phiếu, tỷ giá hối đoái và các thước
Hình I.19. Cầu trong nước đã chạm đáy nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn chậm
A. Doanh số bán lẻ (chỉ số) B. Niềm tin của người tiêu dùng (chỉ số)
120
Làn sóng Covid Alpha Sóng Omicron của Covid
130
100
110
90 80
lục
Mục
70
60
trung
2019
bình
năm
100
SỐ:
CHỈ
=
50
40
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
21
24
22
23
21
tháng
22
23
2
2
2
2
8
8
20
8
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
20
21
22
23
12
20
12
21
12
22
12
23
tháng
6
12
19
Trung Quốc Indonesia
Malaysia
Philippin
Việt Nam nước Thái Lan
Trung Quốc Đông Á khác
Lưu ý: A. Philippines đề cập đến doanh số sản xuất. Đường trung bình động 3 tháng. B. Các nước Đông Á khác bao gồm Indonesia, Thái Lan, Philippines và Malaysia (trung bình). Mỗi chỉ số được lập chỉ mục lại đến tháng 12 năm 2019 (100).
Mặc dù doanh số bán lẻ ở hầu hết các quốc gia đều vượt mức trước đại dịch nhưng xu hướng tăng trưởng doanh số bán lẻ vẫn thấp hơn tốc
độ trước đại dịch ở hầu hết các nền kinh tế EAP (Hình I.20). Các yếu tố gần như sự gia tăng nợ hộ gia đình (ví dụ ở Malaysia, Thái Lan)
và sự bất ổn chính trị gia tăng có thể đã ảnh hưởng đến nhu cầu của người tiêu dùng. Tại Trung Quốc, doanh số bán lẻ tiếp tục duy trì ở
mức thấp hơn xu hướng trước đại dịch do sức mua hàng hóa lâu bền và các sản phẩm liên quan đến tài sản yếu đi trong bối cảnh lĩnh vực
bất động sản gặp khó khăn trong khi niềm tin của người tiêu dùng nói chung vẫn ở mức thấp.
Hình I.20. Xu hướng tiêu dùng cá nhân ổn định hơn thời kỳ trước đại dịch
A. Doanh số bán lẻ thực tế, không bao gồm EAP. Trung Quốc B. Doanh số bán lẻ thực tế, Trung Quốc
COVID COVID
Sóng alpha Omicron Sóng alpha Omicron
180 180
sóng
sóng
Đồng bằng
160 Đồng bằng
160 sóng
sóng
140 140
120 120
lục
Mục
lục
Mục
100 100
80 80
60 60
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
16
18
19
20
21
24
17
22
23
tháng
16
18
19
20
21
24
17
22
23
1
1
1
1
1
15
1
1
1
1
1
1
15
1
Lưu ý: Hình cho thấy doanh số bán lẻ thực tế được điều chỉnh theo mùa được tính đến tháng 1-2015. Khi không có dữ liệu về doanh số bán lẻ dựa trên số lượng, doanh số bán lẻ dựa trên giá trị sẽ được điều chỉnh theo chỉ số giá tiêu dùng. Doanh số bán lẻ của
Trung Quốc bao gồm một số lĩnh vực dịch vụ hạn chế. Đường thẳng thể hiện xu hướng trước COVID và đường đứt nét thể hiện xu hướng kể từ tháng 1 năm 2021. A. Bình quân không trọng số của Indonesia, Malaysia, Philippines (doanh số sản xuất), Thái Lan và Việt Nam.
Ì Đầu tư
Tỷ trọng đầu tư tư nhân trong GDP ở các nước đang phát triển EAP trong những năm gần đây đã thấp hơn mức trước đại dịch (hình I.21).
Đầu tư công nhìn chung hỗ trợ tăng trưởng trong thời kỳ đại dịch và vượt mức trước đại dịch xét về tỷ trọng GDP ở Indonesia,
Philippines và Việt Nam, nhưng tỷ trọng này thấp hơn ở Trung Quốc và Malaysia.
Hình I.21. Tỷ trọng đầu tư tư nhân trong GDP thấp hơn so với trước đại dịch và do đó, ở một số quốc gia, là đầu tư công.
sự đầu tư
25
30
25 20
20 15
trăm
Phần
GDP
15
trăm
Phần
GDP
10
10
5
5
0
0
Trung Quốc
Malaysia Thái Lan Việt Nam Indonesia Philippines
Indonesia Việt Nam Trung Quốc Philippines Thái Lan Malaysia
2015–19 2022–23
2015–19 2022–23
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Sự không chắc chắn về chính sách tăng cao và nợ tư nhân và chính Hình I.22. Tăng trưởng đầu tư gắn liền với tăng trưởng xuất
khẩu, bất ổn chính sách, nợ doanh nghiệp và chính
phủ tăng lên có thể ảnh hưởng đến đầu tư ở các nước EAP. Tăng
phủ
trưởng đầu tư có liên quan chặt chẽ với tăng trưởng xuất khẩu ở
EAP, cũng như sự bất ổn về chính sách ngày càng gia tăng và mức Mối tương quan giữa tăng trưởng đầu tư tư nhân ở các thị trường mới nổi và các
nợ doanh nghiệp và chính phủ ngày càng tăng (Hình I.22). Sự nền kinh tế đang phát triển
không chắc chắn về chính sách ở Malaysia và Thái Lan rất cao
2
nhưng đã giảm gần đây. Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng
ngay cả mức độ không chắc chắn về chính sách ở mức độ vừa phải 0
cũng có thể có tác động tiêu cực lớn đến đầu tư (Rodrik 1991).
Gần đây hơn, các nghiên cứu sử dụng phương pháp đo lường sự –2
không chắc chắn về chính sách dựa trên tin tức đã phát hiện ra
biên
Hiệu
cận
ứng
rằng sự không chắc chắn về chính sách kinh tế có mối tương quan -4
nghịch với tăng trưởng đầu tư (Bloom 2009; Baker và cộng sự,
2016). Sự bất ổn ở khu vực EAP đã gia tăng trong những năm gần –6
đây, có khả năng gây tổn hại đến tăng trưởng đầu tư.
-số 8
Ở Trung Quốc, sự sụt giảm trong đầu tư bất động sản giải thích sự phát triển
Mục lục (Thay đổi trong (% trên GDP)
một phần đáng kể nguyên nhân khiến đầu tư chậm lại. Trong khi % GDP)
đầu tư vào sản xuất tăng mạnh nhờ tăng trưởng đầu tư nhanh chóng
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
vào ô tô và chất bán dẫn, việc chuyển hướng tín dụng từ bất động Lưu ý: Các thanh thể hiện tác động biên của từng biến trong việc dự đoán tăng trưởng đầu tư. Các hệ số được chuẩn hóa bằng cách lặn theo độ lệch
chuẩn của từng biến. Các đường màu đen hiển thị khoảng tin cậy 90 phần trăm (1,68 x sai số chuẩn). Các biến số khác được đưa vào hồi quy là độ
sản sang sản xuất có nguy cơ phân bổ sai nguồn lực và phát triển trễ tăng trưởng GDP, tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng FDI, độ trễ nợ chính phủ tính theo tỷ lệ GDP, độ trễ đầu tư công tính theo tỷ lệ GDP và
thay đổi trong đầu tư tư nhân tính theo tỷ lệ GDP và biến giả cho khủng hoảng. . Các hồi quy bao gồm các hiệu ứng cố định theo quốc gia và năm.
năng lực dư thừa trong một số lĩnh vực nhất định (Hộp 3). Mẫu bao gồm 98 thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển.
Sau đợt phục hồi mạnh mẽ sau COVID vào đầu năm 2023, đà tăng trưởng ở Trung Quốc đã chậm lại. Áp lực giảm phát, công suất sử
dụng giảm và thị trường lao động trì trệ cho thấy tổng cầu đang thiếu tổng cung. Nhu cầu yếu kéo dài gây ra nguy cơ suy giảm
khả năng đạt được mục tiêu tăng trưởng 5% mà chính phủ đã đề ra cho năm 2024.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và bất động sản – những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây
– có cấu trúc yếu kém, do mức nợ cao và lợi nhuận đầu tư giảm dần đã hạn chế việc mở rộng hơn nữa. Nhưng nhiệm vụ kích thích
các động lực thúc đẩy nhu cầu thay thế đang tỏ ra khó khăn. Đầu tư sản xuất linh hoạt đã có phần chững lại nhưng đang gặp rủi
ro tạo ra khả năng cung ứng dư thừa. Tiêu dùng đã phục hồi vào năm ngoái, nhưng sự phục hồi này một phần được thúc đẩy bởi sự
thúc đẩy mở cửa trở lại tạm thời và tốc độ quá chậm để bù đắp sự thiếu hụt nhu cầu phát sinh do tăng trưởng đầu tư thấp hơn.
Trong khi tăng trưởng toàn cầu ổn định hơn dự kiến, nhu cầu bên ngoài khó có thể tạo ra động lực đủ mạnh để tăng tổng cầu nhằm
nâng cao triển vọng tăng trưởng trong ngắn hạn ở Trung Quốc, đặc biệt khi áp lực phân mảnh địa kinh tế tiếp tục sẽ khiến việc
dựa vào thị trường bên ngoài trở nên khó khăn hơn.
Sự suy thoái đang diễn ra trong lĩnh vực bất động sản tiếp Hình B3.1. Vòng quay đầu tư của Trung Quốc
tục làm giảm tốc độ tăng trưởng đầu tư nói chung, mặc dù đã
Tăng trưởng bình quân đầu tư tài sản cố định
chuyển hướng sang đầu tư vào sản xuất. Trong bối cảnh thị
trường nhà ở có sự điều chỉnh kéo dài nhưng cần thiết, đầu 15
tư vào bất động sản giảm 8,1% vào năm 2023 (hình B3.1). Tăng
chính của chính quyền địa phương và lợi nhuận đầu tư vào cơ 5
sở hạ tầng giảm dần. Ngược lại, đầu tư vào sản xuất có khả
trăm
Phần
năng phục hồi, một phần được thúc đẩy nhờ hỗ trợ chính sách
0
cho các lĩnh vực ưu tiên như ô tô và chất bán dẫn (hình
B3.2). Mặc dù có khả năng phục hồi nhưng tăng trưởng đầu tư
–5
vào sản xuất không đủ để bù đắp cho sự sụt giảm của bất động
sản và đầu tư cơ sở hạ tầng yếu hơn, khiến tốc độ tăng
–10
trưởng đầu tư chung của năm ngoái ở mức 3,6%, thấp hơn gần Địa ốc
Chế tạo Cơ sở hạ tầng
Hơn nữa, đầu tư sản xuất tạo ra rủi ro phát triển năng lực
Nguồn: Haver Analytics.
cung ứng dư thừa, đặc biệt là trong bối cảnh có những hạn
chế về khả năng tiếp cận thị trường trên thị trường toàn cầu.
Tăng trưởng chi tiêu tiêu dùng tăng nhanh (Hình B3.3A) nhưng tốc độ quá chậm để bù đắp sự thiếu hụt tổng cầu. Mức tiêu dùng
cuối cùng tăng 8,0% vào năm 2023 sau mức tương đối thấp 2,0% vào năm 2022, chủ yếu do nhu cầu dịch vụ bị dồn nén. Với mức tăng
trưởng tiêu dùng cao hơn mức tăng trưởng GDP chung, việc tái cân bằng theo hướng tăng trưởng dựa vào tiêu dùng ít nhất đã tạm
thời được khôi phục với tỷ trọng tiêu dùng của Trung Quốc trong GDP tăng nhẹ nhưng vẫn ở mức cực kỳ thấp (hình B3.3B). Tuy
nhiên, tăng trưởng tiêu dùng có thể mất đà khi nỗ lực mở cửa trở lại chi tiêu hộ gia đình vốn thúc đẩy phần lớn sự phục hồi
vào năm 2023 đang mờ dần. Ngoài những tác động mang tính chu kỳ này, chi tiêu tiêu dùng bị kìm hãm bởi mức tiết kiệm hộ gia
(tiếp theo)
Hình B3.2. Đầu tư sản xuất một phần được thúc đẩy bởi sự hỗ trợ cho các lĩnh vực ưu tiên
7
Chất bán dẫn
6
Thiết bị máy tính
Bình quân gia quyền
3 Địa ốc
Cơ sở hạ tầng
2
Nông nghiệp
1
Kim loại quý
0 Năng lượng
2015–19 2023
trang trí
Giáo dục
Người khác Máy tính và truyền thông
Sản phẩm kim loại và khoáng sản Sản phẩm hóa chất Phần trăm
Hình B3.3. Tái cân bằng dần dần (cũng) theo hướng tăng trưởng dựa vào tiêu dùng
A. Tiêu dùng hộ gia đình, nghìn RMB, giá cố định B. Tiêu dùng hộ gia đình, % GDP
7,0 120
100
6.0
80
5.0
trăm
Phần
GDP
60
4.0
2015p
Nghìn
RMB
sa
40
3.0
20
6 10 12
2.0
số 8
15 tháng 12 17 tháng 12 19 tháng 12 21 tháng 12 23 tháng 12 GDP bình quân đầu người, log
Tiêu dùng hộ gia đình Xu hướng 2022–2023 Trung Quốc, 2001–2022 EAP, 2022
(tiếp theo)
Nhu cầu bên ngoài khó có thể tạo ra động lực đủ mạnh để tăng cường nhu cầu nhằm nâng cao triển vọng tăng trưởng ở Trung Quốc.
Sau khi xuất khẩu hàng hóa tăng vọt vào năm 2021 và 2022, xuất khẩu hàng hóa giảm 4,6% vào năm 2023. Tuy nhiên, Trung Quốc đã
chứng kiến sự gia tăng đột biến trong một số mặt hàng xuất khẩu sản xuất nhất định. Ví dụ, tỷ trọng xuất khẩu ô tô đã tăng từ
4,6% xuất khẩu năm 2015 lên 7,1% vào năm 2023, trong đó xe điện (EV) chiếm khoảng một nửa tổng lượng xe xuất khẩu. Tuy nhiên,
vào tháng 10 năm 2023, Liên minh Châu Âu đã khởi xướng một cuộc điều tra chống trợ cấp đối với việc nhập khẩu xe điện của EU từ
Trung Quốc, phản ánh thách thức lớn hơn khi phải dựa vào thị trường bên ngoài để bù đắp cho sự thiếu hụt nhu cầu trong nước.
Để hỗ trợ tổng cầu, chính phủ đã công bố kích thích kinh Hình B3.4. Tỷ lệ sản lượng vốn tăng cho thấy lợi tức đầu tư giảm
tế vĩ mô vừa phải.
Cách tiếp cận chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng của 4,5
chính phủ cho thấy rằng họ đang cố gắng đạt được sự cân 3,9 3,9
4.0 3,8 3,8
3.6
bằng giữa việc cung cấp các biện pháp kích thích ngắn 3,5 3,5
3,4
3,5 3.3
hạn và đạt được mục tiêu dài hạn là tăng trưởng ổn định 3.2
3.0
2.9
3.0 2.7
và bền vững. Thâm hụt ngân sách lớn hơn theo kế hoạch dự 2.6
kiến sẽ tài trợ cho chi tiêu cơ sở hạ tầng và hỗ trợ cho 2,5
các ngành ưu tiên. Tuy nhiên, chính quyền địa phương đang 2.0
phải vật lộn với nợ nần cao và doanh thu cho thuê đất
1,5
sụt giảm. Nếu kích thích đầu tư hôm nay sẽ tạo ra tăng
1.0
trưởng đáng kể vào ngày mai thì những hạn chế về tài
0,5
chính sẽ ít đáng lo ngại hơn. Nhưng tỷ lệ vốn/sản lượng
ngày càng tăng của Trung Quốc (hình B3.4) cho thấy rằng 0,0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
- mặc dù tăng trưởng đầu tư chậm hơn nhưng đầu tư đang
trở nên kém hiệu quả hơn trong việc tạo ra tăng trưởng.
Nguồn: NBS, ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Về cơ bản hơn, kích thích kinh tế vĩ mô thông thường không phù hợp để giải quyết sự mất cân bằng cơ cấu kéo dài.
Thay vào đó, cần phải cải cách cơ cấu. Mở rộng phạm vi bao phủ và lợi ích của các chương trình bảo trợ xã hội và lương hưu, hệ
thống thuế lũy tiến hơn và chuyển chi tiêu từ cơ sở hạ tầng sang vốn con người có thể làm giảm tiết kiệm phòng ngừa và đẩy nhanh
quá trình tái cân bằng tổng cầu theo hướng tiêu dùng. Chính phủ tuyên bố sẽ đảm bảo môi trường chính sách minh bạch và có thể
dự đoán được cũng như đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp bất kể quyền sở hữu. Về nguyên tắc, một môi trường chính sách minh
bạch, có thể dự đoán và đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp bất kể quyền sở hữu sẽ hỗ trợ niềm tin của nhà đầu tư và khuyến
khích đầu tư tư nhân, đồng thời cho phép các lực lượng thị trường đóng vai trò lớn hơn trong việc phân bổ vốn, giảm thiểu rủi
ro dư thừa công suất. Tác động cuối cùng đến niềm tin và đầu tư của khu vực tư nhân sẽ phụ thuộc vào việc thực hiện hiệu quả
Ì Thương mại
Sau khi giảm hơn 20% so với mức đỉnh trong quý 2 năm 2022 tại Indonesia và Malaysia, và giảm hơn 10% tại Trung Quốc và Việt Nam, xuất
khẩu hàng hóa trên khắp các nước EAP đã có dấu hiệu phục hồi trong nửa cuối năm 2023. (hình I.23). Tính đến Quý 4-2023, tăng trưởng xuất
khẩu hàng hóa đã quay trở lại hoặc tiến gần đến mức tích cực ở Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam khi thương mại toàn cầu phục hồi.
Hình I.23. Xuất khẩu hàng hóa đang bắt đầu phục hồi nhưng chậm
A. Xuất khẩu hàng hóa (tăng trưởng hàng năm) B. Sản xuất công nghiệp (tăng trưởng hàng năm)
50 30
20
25
10
trăm
Phần
trăm
Phần
0
0
–10
–25 –20
nước Thái Lan Việt Nam trung bình EAP Việt Nam nước Thái Lan
Thuế quan và hạn chế xuất khẩu, cùng với những thay đổi trong bối cảnh địa chính trị, đang tác động đến các nền kinh tế trong khu vực EAP thông qua
việc chuyển hướng thương mại đối với các sản phẩm thay thế hoặc liên kết sản xuất cho các sản phẩm trung gian. Ví dụ, căng thẳng Mỹ - Trung chuyển
hướng thương mại: rời xa Mỹ và hướng tới các nhà cung cấp thay thế như EU tại thị trường Trung Quốc; rời xa Trung Quốc và hướng tới các nhà cung
cấp thay thế như Việt Nam tại thị trường Mỹ. Tuy nhiên, các nền kinh tế có chung mối liên kết sản xuất chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) với Mỹ hoặc
Trung Quốc (hoặc cả hai), chẳng hạn như Nhật Bản và Hàn Quốc, có thể bị sụt giảm nhu cầu xuất khẩu đầu vào trung gian sang Trung Quốc do những hạn
chế về Xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường đích cuối cùng là Mỹ.
Trong khi tỷ trọng hàng nhập khẩu từ Mỹ của Trung Quốc giảm gần 8 điểm phần trăm từ năm 2018 đến năm 2023, với mức giảm lớn nhất trong ngành công
nghiệp điện tử, các nền kinh tế như Việt Nam, và ở mức độ thấp hơn, Indonesia, Malaysia và Thái Lan đã chứng kiến sự gia tăng tỷ trọng của họ trong
hàng nhập khẩu từ Mỹ. nhập khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử, cho thấy sự chuyển hướng thương mại từ Trung Quốc (hình I.24). Trong khi đó,
Nhật Bản, quốc gia có mối liên kết sản xuất GVC với cả Mỹ và Trung Quốc, đã giảm nhẹ tỷ trọng của GVC từ Mỹ.
nhập khẩu.
Đồng thời, Trung Quốc giảm nhập khẩu từ Mỹ, vốn giảm khoảng 1 điểm phần trăm trong ngành điện tử và các ngành sản xuất khác, đồng thời tăng nhập
khẩu từ Indonesia, Malaysia và Việt Nam. Mỹ không phải là đối tác duy nhất chứng kiến sự sụt giảm trong thị phần nhập khẩu từ Trung Quốc; Thị phần
của Nhật Bản và Hàn Quốc cũng giảm, có thể do mối liên kết sản xuất của họ với hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ. Tuy nhiên, sự thay đổi đáng
kể nhất trong cơ cấu nhập khẩu của Trung Quốc dường như là do nhu cầu hàng hóa của Trung Quốc tăng lên. Các nền kinh tế như Nga, Úc, Malaysia và
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) đã tăng cường xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, phản ánh nhu cầu bị dồn nén sau đại dịch của Trung
Quốc và sự gia tăng sản xuất trong nước của các sản phẩm sản xuất chính như xe điện và chất bán dẫn). Trong khi Trung Quốc giảm đáng kể xuất khẩu
hàng điện tử sang Mỹ, nước này lại tăng xuất khẩu hàng điện tử sang EU.
Sự hồi sinh liên tục của du lịch đã giúp xuất khẩu dịch vụ ở Malaysia, Philippines và nhiều quốc đảo Thái Bình Dương (Hình I.25). Số lượng khách du
lịch đã đạt hoặc vượt mức trước đại dịch ở Fiji, Malaysia và Campuchia, nhưng dường như đã ổn định dưới mức trước đại dịch ở các nền kinh tế EAP
còn lại, một phần do sự phục hồi chậm chạp của du lịch nước ngoài của Trung Quốc (Hộp 4). Xuất khẩu du lịch đã đạt đến mức trước đại dịch chỉ ở hai
Hình I.24. Những thay đổi trong chính sách thương mại và công nghiệp tiếp tục làm thay đổi mô hình thương mại
A. Thay đổi tỷ trọng nhập khẩu của Hoa Kỳ, 2018–2023 B. Thay đổi tỷ trọng nhập khẩu của Trung Quốc, 2018–2023
2 5
4
0
3
2
–2
1
-4 0
trăm
phần
Điểm
–1
trăm
phần
Điểm
–6
–2
–3
-số 8
-4
EU
EU
México
Nga
Malaysia
México
Indonesia
Philippin
Philippin
Độ
Ấn
Trung
Nhật
Độ
Ấn
Quốc
Người
Nhật
Bản
khác
Bản
Nga
Việt
Người
khác
Thái
nước
Nam
Malaysia
Thái
nước
Lan
Lan
Indonesia
Châu
Úc
Việt
Quốc,
Nam
Cộng
Hoa
hòa
Hàn
Kỳ
Trung
Loan,
Trung
Loan,
Quốc
Quốc
Đài
Đài
Phương tiện giao thông Dệt may Sản xuất khác Khai thác mỏ Phương tiện giao thông Dệt may Sản xuất khác Khai thác mỏ
Kim loại Máy móc Thiết bị điện tử Nông nghiệp Kim loại Máy móc Thiết bị điện tử
Nông nghiệp
C. Thay đổi tỷ trọng nhập khẩu của EU, 2018–2023 D. Thay đổi tỷ trọng nhập khẩu của Nhật Bản, 2018–2023
4 3
2 2
0 1
0
–2
trăm
phần
Điểm
trăm
phần
Điểm
–1
-4
–2
–6
EU
Độ
Ấn
Trung
Nga
Quốc
México
Độ
Ấn
Nhật
Trung
Nga
Người
Bản
Quốc
khác
México
Malaysia
Người
khác
Malaysia
Indonesia
Châu
Thái
nước
Lan
Indonesia
Úc
Việt
Philippin
Thái
nước
Nam
Lan
Việt
Philippin
Nam
Quốc,
Cộng
hòa
Hàn
Quốc,
Cộng
hòa
Hàn
Hoa
Hoa
Kỳ
Kỳ
Trung
Loan,
Trung
Loan,
Quốc
Quốc
Đài
Đài
Phương tiện giao thông Dệt may Sản xuất khác Khai thác mỏ Phương tiện giao thông Dệt may Sản xuất khác Khai thác mỏ
Kim loại Máy móc Thiết bị điện tử Nông nghiệp Kim loại Máy móc Thiết bị điện tử Nông nghiệp
Hình I.25. Lượng khách du lịch đã ổn định dưới mức trước đại dịch ở một số nền kinh tế
A. Lượng khách du lịch so với trước đại dịch B. Xuất khẩu du lịch so với trước đại dịch
140 120
120
100
100
80
80
60
lục
Mục
60
lục
Mục
40 40
20 20
0
0
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
Q3-20
Q2-21
Q1-22
Q4-22
Q3-23
20
21
22
23
Q4-19
tháng
21
24
22
23
7
7
1
1
1
1
20
1
Bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch, du lịch, một phần năng động của tăng trưởng EAP, tiếp tục chứng kiến sự phục hồi chậm hơn dự kiến
và không đồng đều vì cả lý do cung và cầu, ngay cả khi các hạn chế đi lại liên quan đến đại dịch phần lớn đã được dỡ bỏ.
Sự phục hồi không đồng đều của du lịch ở EAP một phần có thể là do sự hồi phục chậm của du lịch từ Trung Quốc và Nhật Bản. Lượng hành
khách đến bằng đường hàng không, một đại diện tốt cho xu hướng du lịch, cho thấy lượng khách du lịch đến từ Trung Quốc vẫn ở mức một
nửa so với mức trước đại dịch (Hình B4.1). Tùy thuộc vào nền kinh tế ở các nước đang phát triển ở Đông Á, lượng hành khách đến từ
Trung Quốc có thể chiếm từ 10 đến 40% tổng số khách du lịch. Mặc dù lượng hành khách đến từ các thị trường khác phục hồi nhanh hơn
nhưng vẫn tụt hậu so với mức trước đại dịch (Nhật Bản, 72%; EU, 80%; và Mỹ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc và du lịch nội vùng ở mức khoảng
90%).
Các hạn chế đi lại kéo dài liên quan đến đại dịch của Trung Quốc đã cản trở sự phục hồi của một trong những thị trường nguồn khách du
lịch lớn của khu vực. Việc mở lại hoàn toàn biên giới của Trung Quốc vào tháng 1 năm 2023 đã đánh dấu một bước ngoặt, nhưng tiến độ
diễn ra dần dần. Vào tháng 2, các chuyến du lịch nước ngoài theo nhóm đã được nối lại tới 20 quốc gia, bao gồm 8 quốc gia EAP (Thái
Lan, Indonesia, Campuchia, Philippines, Malaysia, Singapore, Lào và Fiji), nhưng ngoại trừ Mông Cổ, Myanmar và Việt Nam. Tháng 3 chứng
kiến các yêu cầu xét nghiệm COVID-19 được nới lỏng, mở rộng các điểm đến được phê duyệt cho các chuyến du lịch theo nhóm (bao gồm Mông
Cổ, Việt Nam và Vanuatu, Tonga và Samoa), đồng thời mở lại hoạt động du lịch quốc tế qua Sân bay Quốc tế Hồng Kiều Thượng Hải, một
trong những sân bay quốc tế lớn nhất Trung Quốc. sân bay (tất cả các chuyến bay quốc tế đã bị đình chỉ kể từ tháng 3 năm 2020).1
1 Thông tin cơ bản và cập nhật được tổng hợp từ các thông báo từ www.gov.cn và china-briefing.com.
(tiếp theo)
Hình B4.1. Lượng hành khách hàng không đến EAP phần lớn đã phục hồi nhưng đã ổn định ở mức dưới mức trước đại dịch
A. Lượng hành khách hàng không đến các nước đang phát triển EAP ngoại trừ Trung Quốc, B. Cơ cấu lượng hành khách đến bằng đường hàng không theo điểm khởi hành
140 100
120 23 25
80
100 5
5
3
5 3
80 5
60 9
10
lục
Mục
6
60 6
trăm
Phần
40 40
32
20 37
20
0
18
9
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
0
20
21
22
23
12
20
12
21
12
22
tháng
11
23
6
6
12
19
2019 2023
Trung Quốc
Nhật Bản Hàn Quốc, Cộng hòa CHÚNG TA
Trung Quốc Nội EAP Nhật Bản Hàn Quốc, Cộng hòa
Úc & New Zealand EU HÀNG NGANG Nội EAP Úc & New Zealand CHÚNG TA EU HÀNG NGANG
Chi phí du lịch tăng cao do giá vé máy bay cao hơn và tỷ giá hối đoái giảm ở một số quốc gia có thể làm xói mòn sức mua của du khách trong
khu vực, ảnh hưởng tiêu cực đến chi tiêu tùy ý của họ cho các hoạt động du lịch. Ví dụ, vào năm 2023, số thu từ đền Angkor của Campuchia
(điểm thu hút khách du lịch lớn) chỉ đạt 1/3 số thu được trong cùng kỳ năm 2019 (Ly và cộng sự, 2023). Các loại tiền tệ chính của EAP,
chẳng hạn như đồng nhân dân tệ và đồng yên, mất giá so với đồng đô la Mỹ và một số bằng chứng giai thoại cho thấy điều đó cũng có thể ảnh
Về phía nguồn cung, số ghế của hãng hàng không đến các điểm đến EAP phục hồi chậm. Những thách thức như tắc nghẽn chuỗi cung ứng đối với
các đội bay mới, sự thiếu hụt kỹ năng trong ngành hàng không ở các vai trò quan trọng bao gồm phi công, phi hành đoàn bảo trì và kiểm soát
viên không lưu, cũng như khó khăn trong việc tuyển dụng những vị trí sa thải liên quan đến đại dịch đều góp phần khiến năng lực bị hạn chế.
Ngoài ra, tình trạng thiếu lao động còn lan sang lĩnh vực du lịch, được củng cố bởi sự trở lại chậm của cả lao động địa phương và người
nhập cư. Campuchia, Malaysia và Thái Lan báo cáo thiếu hụt nhân sự, đặc biệt là những vị trí có tay nghề cao như Đầu bếp và quản lý cấp
cao.3 Một số công nhân bị sa thải vẫn chưa quay trở lại và các viện đào tạo phải vật lộn để lấp đầy các vị trí trong các cơ sở cao cấp,
một số cơ sở phải mất nhiều năm Kinh nghiệm. Tình trạng thiếu nhân lực vẫn tồn tại ở các vị trí quản lý cấp trung, trong đó các cựu nhân
viên du lịch tìm được triển vọng tốt hơn ở các ngành khác hoặc các thị trường lân cận.4,5
2 https://www.travelvoice.jp/english/jtb-outbound-travel-report-2023-says-that-the-japan-s-outbound-travel-market-in-2022-was-affected-by-weaker -yên-và-tăng-vào-
giá tại điểm đến
“Tình trạng thiếu nhân viên trầm trọng ảnh hưởng đến lĩnh vực khách sạn” https://www.khmertimeskh.com/501294994/cut-staff-shortage-hits-hospitality-sector/
3 4 ““Khách sạn đối mặt với tình trạng thiếu nhân viên” https://www.bangkokpost.com/business/general/2663964
5 “Du lịch đối mặt với nỗi lo thiếu lao động” https://www.ttrweekly.com/site/2023/04/tourism-faces-labour-shortage-fears/
Mặc dù các yếu tố bên ngoài và trong nước nêu trên đã tác động đến nền kinh tế của các nền kinh tế đảo Thái Bình Dương, nhưng sự phục
hồi về thu nhập bình quân đầu người của họ lại chậm hơn các nền kinh tế lớn hơn trong khu vực vì một số lý do. Đầu tiên, tình trạng
lây nhiễm COVID-19 đến với PIC ở giai đoạn sau, dẫn đến thu nhập bình quân đầu người tiếp tục giảm trong giai đoạn 2022–23. Điều này
cộng thêm những tác động bất lợi trước đó của suy thoái kinh tế toàn cầu, khiến ngành du lịch giảm sút trong giai đoạn 2020-21 với
những tác động tàn khốc đối với các nền kinh tế phụ thuộc vào du lịch (Palau, Samoa, Tonga, Vanuatu). Thứ hai, do phụ thuộc vào nhập
khẩu và khoảng cách với các thị trường lớn khác, các nền kinh tế này phải chịu những ảnh hưởng lâu dài do chi phí hàng hóa tăng cao
sau khi Nga xâm chiếm Ukraine, ảnh hưởng trực tiếp đến giá thực phẩm cơ bản cũng như chi phí vận chuyển.
Cuối cùng, một số nền kinh tế ở các đảo Thái Bình Dương phải hứng chịu những cú sốc đặc thù. Ở Tonga, một trận sóng thần bùng phát
vào tháng 1 năm 2022 đã tàn phá phần lớn cơ sở hạ tầng du lịch. Ngành du lịch của Palau phải đối mặt với những thất bại đáng kể khi
các hoạt động bay không thể tiếp tục trở lại sau đại dịch. Samoa phải vật lộn với dịch sởi cùng với nhiễm trùng COVID-19. Vanuatu gặp
phải thiệt hại kinh tế do một cơn bão nhiệt đới vào tháng 10 năm 2023. Tuvalu bị gián đoạn chi tiêu do sự chậm trễ liên quan đến việc
mua sắm các hợp đồng của chính phủ, trong khi Quần đảo Solomon chịu hậu quả kinh tế nghiêm trọng do tình trạng bất ổn dân sự vào tháng
11 năm 2021. Sự phục hồi của Kiribati bị cản trở bởi hạn hán Micronesia và Quần đảo Marshall đang vật lộn với sự phục hồi chậm chạp
Quan điểm
Khu vực EAP được dự đoán sẽ tăng trưởng 4,5% vào năm 2024 (hình Hình I.26. Tăng trưởng dự kiến sẽ vẫn ở mức trước đại dịch
I.26; bảng 1). Trong khi các yếu tố trong nước có thể có ảnh
tăng trưởng GDP
hưởng chủ đạo đến tăng trưởng ở Trung Quốc, thì các yếu tố bên
ngoài sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đến tăng trưởng ở phần lớn các
số 8
nước còn lại trong khu vực. Tăng trưởng ở Trung Quốc được dự
đoán sẽ giảm xuống còn 4,5% vào năm 2024, từ mức 5,2% vào năm 6
2023, do sự phục hồi từ việc mở cửa lại nền kinh tế yếu dần và
4
cả những vấn đề gần kề, chẳng hạn như nợ tăng cao và sự suy yếu
trong lĩnh vực bất động sản, và thời gian dài hơn. -Các yếu tố
2
trăm
Phần
cấu trúc lâu dài, chẳng hạn như sự lão hóa và sự tách rời, ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng. Phần còn lại của khu vực, vốn đã phải 0
chịu thiệt hại vào năm 2023 do tăng trưởng toàn cầu chậm lại và
–2
các điều kiện tài chính thắt chặt, dự kiến sẽ tăng trưởng 4,6% vào năm 2024.
Khả năng phục hồi của thương mại toàn cầu và sự nới lỏng các
-4
điều kiện tài chính toàn cầu dự kiến sẽ bù đắp cho tác động của 2015–19 2020–22 2023 2024–25
việc Trung Quốc tăng trưởng chậm lại. Tốc độ tăng trưởng ở các
EAP Trung Quốc
EAP không bao gồm Trung Quốc
quốc đảo Thái Bình Dương dự kiến là 3,6% vào năm 2024, khi quá
Các quốc đảo Thái Bình Dương
trình phục hồi sau COVID-19 biến mất (Hộp 5). Tuy nhiên, tăng
trưởng ở khu vực EAP đang phát triển được dự đoán sẽ cao hơn so Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Rủi ro
Dự báo cơ bản cho khu vực phải đối mặt với một số rủi ro suy giảm, bao gồm sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu và các điều kiện tài
chính toàn cầu thắt chặt hơn dự kiến. Tại Trung Quốc, niềm tin của người tiêu dùng ngày càng mất đi có thể kìm hãm chi tiêu và đè nặng
lên tăng trưởng ngay cả khi lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc vẫn dễ bị tổn thương.
Tăng trưởng ở nhiều nước EAP phụ thuộc vào nhu cầu bên ngoài đối với hàng xuất khẩu của họ. Tầm quan trọng của Trung Quốc với tư cách
là điểm đến cuối cùng của giá trị gia tăng trong nước trong khu vực đã tăng lên đáng kể kể từ đầu những năm 2000, đặc biệt là đối với
Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và Lào (hình I.27). Mông Cổ, Quần đảo Solomon, CHDCND Lào và Myanmar đặc biệt coi Trung Quốc là điểm đến
cho xuất khẩu vật liệu xây dựng cũng như là nguồn vốn FDI (Ngân hàng Thế giới 2023). Một số quốc gia trong khu vực cũng bị ảnh hưởng
bởi các liên kết thương mại với hoạt động kinh tế ở Mỹ và EU (Campuchia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam). Sự suy giảm tăng
trưởng hơn nữa ở các nền kinh tế điểm đến này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu xuất khẩu của EAP.
Các nền kinh tế EAP cũng chịu ảnh hưởng của các điều kiện tài chính bên ngoài. Các nền kinh tế nhỏ hơn như Timor-Leste, Campuchia và
Lào đặc biệt dễ bị tổn thương do nhu cầu tài chính bên ngoài lớn để bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai cũng như trả nợ và tái cấp vốn
(hình I.28). Trong khi việc trả nợ nợ dài hạn là nhu cầu tài chính lớn đối với Mông Cổ (chủ yếu là của các công ty khai thác mỏ) và
CHDCND Lào, việc tái cấp vốn cho nợ ngắn hạn là nhu cầu chính đối với Campuchia và Malaysia. Timor-Leste và các quốc đảo Thái Bình
Dương có xu hướng thâm hụt lớn do phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Lãi suất tiếp tục ở mức cao ở Mỹ sẽ khiến các chính phủ phải tốn kém
hơn trong việc tăng nợ mới hoặc tái cấp vốn cho các khoản nợ hiện có. Sự không chắc chắn về các điều kiện tài chính và kinh tế vĩ mô
trong tương lai có thể làm tăng phần bù rủi ro cho các nền kinh tế dễ bị tổn thương này (Hộp A1).
2015–19 2020 2021 2022 2023 cho năm 2024 cho năm 2025 cho năm 2023 cho năm 2024
Đông Á và Thái Bình Dương 6,4 1.3 7,5 3,4 5,1 4,5 4.3 5.0 4,5
Đông Á và Thái Bình Dương (trừ Trung Quốc) 4,9 3,5 2.7 5,8 4,4 4.6 4,8 4.6 4,7
Các quốc đảo Thái Bình Dương 3.0 10,2 3,5 6,4 5,6 3.6 3.3 5.2 3.6
Trung Quốc 6,7 2.2 8,4 3,0 5,2 4,5 4.3 5.1 4.4
Indonesia 5.0 2,1 3,7 5.3 5.0 4,9 5.0 5.0 4,9
Malaysia 4,9 5,5 3.3 8,7 3,7 4.3 4.4 3,9 4.3
Philippin 6,6 9,5 5,7 7,6 5,6 5,8 5,9 5,6 5,8
nước Thái Lan 3,4 6,1 1.6 2,5 1.9 2,8 3.0 3,4 3,5
Việt Nam 7.1 2.9 2.6 8,1 5,0 5,5 6.0 4,7 5,5
Campuchia 7.1 3,1 3.0 5,2 5,4 5,8 6.1 5,5 6.1
CHDCND Lào 6,6 0,5 2,5 2,7 3,7 4.0 4.1 3,7 4.1
Mông Cổ 4.6 4,4 1.6 5,0 7,1 4,8 6,6 5.1 6.1
Myanmar 6,4 6,6 9,0 12,0 4,0 1.3 2.0 3.0 2.0
Papua New Guinea 4.0 3,2 0,1 4,3 2,7 4,8 3.6 3.0 5.0
Timor-Leste 5.1 8,3 2.9 4.0 2.1 3.6 4,5 2.4 3,5
Palau 1.0 9,1 13,4 2,0 0,8 12,4 11.9 1,4 10,4
Đảo Fiji Solomon 3.0 3,4 0,6 4,1 1,9 2,8 3.1 1.8 2.7
Tuvalu 6,7 4,3 1.8 0,7 3,9 3,5 2.4 3,9 3,5
Đảo Marshall. 4,8 1,8 1,0 4,5 3,0 3.0 2.0 3.0 3.0
Vanuatu 3,5 5,0 0,6 1,9 2,5 3,7 3,5 1,5 2.6
Kiribati 2,5 0,6 8,5 3,9 4,2 5,6 2.0 2,5 2.4
Tonga 2.4 0,5 2,7 2,0 2,6 2,5 2.2 2.6 2,5
Samoa 3,4 3,1 7,1 5,3 8,0 4,5 3.6 6.0 4.0
Micronesia 1.9 1,8 3,2 0,6 0,8 1.1 1.7 2,8 2,8
Nauru 2.4 0,7 7.2 2,8 0,6 1.4 1.2 2.0 1,5
Nguồn: Ngân hàng Thế giới; Ước tính và dự báo của Ngân hàng Thế giới.
Ghi chú: Phần trăm tăng trưởng GDP theo giá thị trường. Giá trị năm 2023 của các nền kinh tế đảo nhỏ tham khảo ước tính tăng trưởng GDP. Các giá trị của Timor-Leste thể hiện GDP phi dầu mỏ. Đối với các quốc gia sau, các giá trị tương ứng với năm tài
chính: Các bang liên bang Micronesia, Palau và Cộng hòa Quần đảo Marshall (từ ngày 1 tháng 10 đến ngày 30 tháng 9); Nauru, Samoa và Tonga (1 tháng 7 – 30 tháng 6). Tỷ lệ tăng trưởng của Myanmar đề cập đến năm tài chính từ tháng 10 đến tháng 9.
Hộp 5. Phục hồi kinh tế và triển vọng ở các quốc đảo Thái Bình Dương
Quần đảo Thái Bình Dương bao gồm 11 quốc gia, trong đó Fiji là quốc gia đông dân nhất và có ý nghĩa kinh tế nhất, tiếp
theo là Quần đảo Solomon. 9 nền kinh tế khác có thể được phân thành hai nhóm chính. Nhóm đầu tiên phụ thuộc nhiều vào du
lịch và kiều hối (Palau, Samoa, Tonga, Vanuatu). Nhóm thứ hai phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, nguồn thu ngoài thuế
và viện trợ (FSM, Kiribati, Nauru, RMI, Tuvalu) (Cập nhật kinh tế đảo Thái Bình Dương tháng 3 năm 2024).
Các nền kinh tế của nhóm trước dễ bị tổn thương trước những thay đổi kinh tế toàn cầu và điều kiện đi lại, trong khi sự
ổn định của nhóm sau gắn liền với giá cả hàng hóa, doanh thu đánh bắt cá và phi thuế cũng như nguồn tài trợ của các nhà
tài trợ. Thật vậy, các quốc gia dựa vào du lịch và kiều hối đã trải qua sự suy giảm nghiêm trọng hơn do các hạn chế đi
Hình B5.1. Du lịch, kiều hối, tiền thuê và trợ cấp là động lực chính cho tăng trưởng GDP ở các nền kinh tế đảo Thái Bình Dương
120 4
2
80
0
40
trăm
Phần
GDP
–2
0
Fiji
Palau
-4
Nauru
Tonga
Samoa
Tuvalu
Kiribati
Vanuatu
trăm
Phần
Marshall.
Micronesia,
–6
Đảo
Solomon.
Đảo
FS
Du lịch &
-số 8
Vào năm 2024, các Quốc đảo Thái Bình Dương được dự đoán sẽ tăng trưởng ở mức 3,6%, giảm so với mức tăng trưởng ước tính
5,6% vào năm 2023, nhưng cao hơn mức trung bình 3,0% trước đại dịch. Sự chậm lại một phần phản ánh quá trình bình thường
hóa hoạt động đang diễn ra ở Fiji theo hướng dài hạn. Tăng trưởng ở Quần đảo Solomon được dự báo sẽ tăng tốc nhờ các dự
án cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng quan trọng. Ở các nền kinh tế nhỏ hơn, tăng trưởng được dự báo sẽ có mức tăng
khiêm tốn từ 3,2% vào năm 2023 lên 3,7% vào năm 2024. Các quốc gia dẫn đầu về du lịch và kiều hối dự kiến sẽ tăng trưởng
trung bình 4% vào năm 2024 (hình B5.2). Palau dự kiến sẽ ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ 12,3% do du lịch phục hồi chậm
vào năm 2024. Tăng trưởng của Vanuatu cũng dự kiến sẽ tăng nhanh khi các nỗ lực tái thiết tiếp tục sau hai cơn bão kép
vào năm 2023. Tăng trưởng ở Samoa và Tonga dự kiến sẽ giảm nhẹ trong dài hạn trung bình, sau đợt phục hồi mạnh mẽ vào
năm 2023. Ngược lại, các quốc gia dựa trên tiền thuê nhà có chủ quyền được dự đoán sẽ có mức tăng trưởng tương đối khiêm
tốn, trung bình 2,3% trong năm 2024–25 khi họ hội tụ theo xu hướng tăng trưởng của mình.
(tiếp theo)
29
Triển vọng và rủi ro
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình B5.2. Tăng trưởng GDP ở các quốc đảo Thái Bình Dương được dự đoán sẽ ổn định
A. PIC dẫn đầu về du lịch và kiều hối (phần trăm) B. PIC do chủ quyền thuê (phần trăm)
6 6
4 4
2 2
0 0
–2 –2
trăm
Phần
trăm
Phần
-4 -4
–6 –6
-số 8 -số 8
2020 2021 2022 2023e 2024f 2025f 2020 2021 2022 2023e 2024f 2025f
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Đường màu đỏ biểu thị mức tăng trưởng trung bình dài hạn.
Hình I.27. Tầm quan trọng của Trung Quốc với tư cách là điểm đến cho giá trị gia tăng trong nước đã tăng lên đáng kể
Điểm đến của giá trị gia tăng trong nước trong tổng xuất khẩu
60
50
40
30
20
trăm
Phần
GDP
10
0
1995
1995
1995
1995
1995
1995
1995
1995
2019
2019
2019
2019
2019
2019
2019
2019
2007
2007
2007
2007
2007
2007
2007
2007
1995
2019
2007
Hình I.28. Các nền kinh tế nhỏ hơn dễ bị tổn thương trước các điều Hình I.29. Rủi ro địa chính trị gia tăng sau xung đột Israel-Hamas
kiện tài chính bên ngoài sau ngày 7 tháng 10 năm 2023
Nhu cầu tài trợ bên ngoài Rủi ro địa chính trị
50 400
cuộc xâm lược của Nga Xung đột trong
40 của Ukraine Trung đông
30 300
20
10 200
0
trăm
Phần
GDP
–10 100
1985–
2019
100
số,
Chỉ
–20
=
–30
0
Fiji
PNG
Tonga
Samoa
Vanuatu
Malaysia
Myanmar
Indonesia
Campuchia
Philippin
Trung
tháng
tháng
Quốc
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
CHDCND
tháng
Mông
24
23
tháng
Việt
11
22
11
23
tháng
22
23
Solomon.
22
23
2
2
tháng
22
tháng
Lào
8
11
21
5
năm
21
Thái
nước
Nam
21
Timor-
8
Lan
Cổ
Leste
Đảo
Lưu ý: Chỉ số rủi ro địa chính trị (GPR) phản ánh việc tìm kiếm văn bản tự động các bài báo điện tử từ 10 tờ báo liên quan
Thâm hụt tài khoản vãng lai Dịch vụ nợ Nợ ngắn hạn đến các sự kiện địa chính trị bất lợi trên mỗi tờ báo trong mỗi tháng. Chỉ số cao hơn có liên quan đến đầu tư, giá cổ
phiếu và việc làm thấp hơn. Dữ liệu hàng ngày. Lần quan sát cuối cùng là ngày 12 tháng 2 năm 2024. Các đường thẳng đứng
màu đỏ thể hiện các sự kiện địa chính trị bất lợi.
Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Fitch, Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Thống kê năm 2023.
Sự gia tăng căng thẳng địa chính trị tạo ra một rủi ro giảm giá bổ sung. Một loạt sự kiện đã làm gia tăng rủi ro địa chính trị
toàn cầu trong những tháng gần đây. Xung đột Israel-Hamas nổ ra vào ngày 7 tháng 10, ngoài việc tạo ra cuộc khủng hoảng nhân đạo
ở Gaza, còn thêm vào đó là việc Nga kéo dài cuộc xâm lược Ukraine. Rủi ro địa chính trị gia tăng sau xung đột ở Trung Đông (hình
I.29). Trong khi mức tăng giá hàng hóa cho đến nay vẫn còn hạn chế, việc tăng cường hoặc mở rộng xung đột ở Trung Đông có thể làm
gián đoạn thị trường dầu mỏ và các hàng hóa khác (Hộp A2). Hơn nữa, một loạt sự gián đoạn vận chuyển, bao gồm các hạn chế ở Kênh
đào Panama và các cuộc tấn công liên tục vào tàu thuyền ở Biển Đỏ có thể gây tổn hại đến thương mại và tăng chi phí đầu vào cho
các thị trường ở các nước đang phát triển ở Đông Á (Hộp 6).
Thiên tai, bao gồm các hiện tượng thời tiết cực đoan liên quan đến biến đổi khí hậu, đặc biệt đối với các nền kinh tế nhỏ ở đảo
Thái Bình Dương, có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng. Dữ liệu lịch sử cho thấy thiệt hại do thiên tai có thể rất lớn đối với một số
quốc gia như Fiji, Samoa, Tonga và Vanuatu. Thiệt hại do thiên tai gây ra khi chúng xảy ra là khoảng 60% GDP ở Vanuatu và 29% ở
Tonga, cho thấy thiệt hại lớn đối với sinh kế (Ngân hàng Thế giới, 2023b; Ngân hàng Thế giới 2023c). Các quốc gia đảo san hô ở
Thái Bình Dương—Kiribati, RMI và Tuvalu—cũng phải đối mặt với rủi ro đáng kể từ biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng.
Hộp 6. Rủi ro và hậu quả tiềm tàng của sự gián đoạn trong ngành vận tải biển
Trong những tháng gần đây, tuyến đường Biển Đỏ, tuyến đường quan trọng cho thương mại toàn cầu, đã bị gián đoạn đáng kể, làm
đảo lộn chuỗi cung ứng trên toàn thế giới. Vào năm 2023, khoảng 26.000 tàu và khoảng 22% thương mại container toàn cầu đã đi
qua kênh đào Suez. Cùng năm đó, tuyến đường này cũng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại không vận chuyển
container bằng đường biển. Tuy nhiên, việc vận chuyển thương mại bằng đường biển qua Biển Đỏ đã giảm đáng kể kể từ khi Khủng
hoảng Biển Đỏ bắt đầu vào cuối năm 2023 (tháng 11 năm 2023), trong đó hoạt động vận tải biển chở hàng container toàn cầu bị
ảnh hưởng nhiều nhất.
Tiếp theo là sự chuyển hướng do sự gián đoạn tuyến đường Biển Đỏ và cùng tồn tại với các hạn chế về hạn hán ở Kênh đào Panama
khiến các hoạt động vận chuyển bị hạn chế vào giữa năm 2023. Hàng hóa Đông Á đi đến các cảng Bờ Đông và Bờ Vịnh Hoa Kỳ trước
đây đã chuyển từ Panama sang Kênh Suez và hiện đang được định tuyến lại trên các chuyến đi dài hơn quanh Mũi Hy vọng.
Một số tuyến vận tải toàn cầu, đặc biệt là những tuyến phục vụ thương mại hàng hóa quốc tế đến và đi từ châu Á, bị ảnh hưởng
nặng nề bởi cuộc khủng hoảng. Đến tháng 1 năm 2024, nhiều nhà khai thác và vận chuyển tàu container đã đình chỉ các chuyến tàu
đi qua Biển Đỏ và Vịnh Aden sau một số cuộc tấn công vào các tàu thương mại của phiến quân Houthi. Các tàu này hiện đang sử
dụng một tuyến đường khác đi qua Mũi Hảo Vọng, bổ sung thêm gần 6.000 hải lý cho một hành trình thông thường từ châu Á đến
châu Âu và mất tới 3 tuần (10–20 ngày) đi thuyền để đến các điểm đến cho các tuyến đường xuất phát từ khu vực Đông Á và biển
Hình B6.1. Nhiều tàu hơn đang tránh kênh đào Suez sau khi các cuộc tấn công của Houthi ở Yemen gia tăng kể từ tháng 12
năm 2023, trong khi giao thông trên kênh đào Panama giảm do hạn hán
số 8
Mũi Tốt
Mong
4
2
vận
7
Tháng 1-2023 Tháng 3-2023 Tháng 5-2023 Tháng 7-2023 Tháng 9-2023 Tháng 11-2023 Tháng 1-2024 Tháng 3-2024
Nguồn: UN Comtrade (cơ sở dữ liệu); UNCTAD, Cơ quan Năng lượng Quốc tế; Giám sát Cảng IMF; Ngân hàng thế giới.
Ghi chú: Trung bình luân phiên trong 7 ngày, phần trăm thay đổi hàng năm về số lượng hàng hóa và tàu. Lần quan sát cuối cùng là ngày 6 tháng 2 năm 2024.
Để giảm thiểu sự gián đoạn do các thách thức vận hành (định tuyến lại và tăng thời gian đi thuyền) trên các tuyến thương mại
cụ thể, các hãng tàu đang sử dụng các chiến lược sau đây như một cách tuân thủ lịch giao hàng: (i) tăng số lượng tàu hoạt động
trên các tuyến bị ảnh hưởng và/ hoặc (ii) tốc độ đi thuyền cao hơn.
(tiếp theo)
Tập trung vào cách tiếp cận trước đây, để đáp ứng thời gian vận chuyển kéo dài quanh Mũi Hy vọng, các hãng vận tải biển toàn
cầu buộc phải phân bổ lại năng lực vận chuyển container toàn cầu từ các tuyến khác để đáp ứng nhu cầu trên tuyến thương mại Á
– Âu và Á – Bờ Đông Hoa Kỳ. Việc tái phân bổ này đã dẫn đến việc giảm năng lực cho các tuyến xuyên Thái Bình Dương (Bắc Mỹ),
Giá cước vận chuyển giao ngay tăng đến và đi từ các nước EAP
Kể từ tháng 11 năm 2023, giá cước vận chuyển container giao ngay trung bình đã tăng mạnh (hình B6.2), với mức tăng kỷ lục 500
USD chỉ trong tuần cuối cùng của tháng 12. Giá giao ngay đối với vận chuyển container từ Thượng Hải đã tăng đáng kể, cho thấy
mức tăng trưởng hơn 122% kể từ đầu tháng 12. Đối với tuyến Á-Âu, thường đi qua Kênh Suez, giá cước đã tăng hơn gấp ba lần
trong cùng một khung thời gian. Tuyến đường Bờ Đông châu Á-Bắc Mỹ, thường sử dụng kênh đào Suez hoặc Panama, đã bị ảnh hưởng
nặng nề bởi các hạn chế về kênh đào Panama và các sự cố ở Biển Đỏ, dẫn đến việc phải định tuyến lại qua Mũi Hảo Vọng hoặc sử
dụng tuyến châu Á – Bờ Tây Tuyến đường Bắc Mỹ với vận chuyển nội địa bổ sung trên khắp Hoa Kỳ. Việc phân bổ lại công suất này
đã dẫn đến việc tăng giá cước vận tải giao ngay cao hơn đáng kể so với mức trung bình. Hơn nữa, giá cước vận chuyển cho các
tuyến không đi qua kênh Suez hoặc Panama, chẳng hạn như tuyến Châu Á – Bờ Tây Bắc Mỹ, cũng tăng trên mức trung bình.
Điều này là do sự thay đổi trong việc phân bổ năng lực vận chuyển container toàn cầu để hỗ trợ nhu cầu ngày càng tăng trên
các tuyến Á-Âu, dẫn đến năng lực hạn chế hơn trên các tuyến khác và sau đó là tăng giá giao ngay.
Hình B6.2. Chi phí vận chuyển từ khu vực EAP đến một số điểm đến đã tăng lên
Giá cước giao ngay cho các tuyến được chọn từ Thượng Hải (USD/đơn vị tương đương 20 feet, TEU)
7.000,00
6.000,00
5.000,00
4.000,00
USD/
TEU
3.000,00
2.000,00
1.000,00
0,00
Thượng Hải Châu Âu Thượng Hải Bờ Đông Bắc Mỹ Thượng Hải Bờ Tây Bắc Mỹ
Tác động dự kiến của sự gián đoạn kép đối với các cảng ở Đông Á
Tác động của Khủng hoảng Biển Đỏ, cùng với việc giảm lưu lượng qua Kênh đào Panama, dự kiến sẽ ảnh hưởng đến các cảng toàn
cầu ở Đông Á, đặc biệt đối với lưu lượng đi lại và khối lượng thương mại.
(tiếp theo)
Việc chuyển hướng các tuyến vận tải biển từ Kênh đào Panama và Suez đến Mũi Hảo Vọng đã làm gia tăng căng thẳng cho chuỗi cung
ứng, đặc biệt là ở các khu vực hàng hải như Biển Trung Hoa và Đông Nam Á (hình B6.3). Chỉ số căng thẳng chuỗi cung ứng toàn
cầu do Ngân hàng Thế giới phát triển nhằm theo dõi căng thẳng trong mạng lưới chuỗi cung ứng hàng hải toàn cầu. Sự căng thẳng
này được phản ánh thông qua hai chỉ số chính: năng lực triển khai trên một tuyến đường cụ thể (năng lực di chuyển) và các số
liệu liên quan đến thời gian, bao gồm thời gian đi thuyền, thời gian chờ tại cảng và thời gian xếp/dỡ hàng.
Khu vực EAP cũng có thể chứng kiến sự gia tăng chi phí nhập khẩu hàng hóa nông nghiệp. Năm 2022, Mỹ xuất khẩu 26% đậu nành và
17% ngô qua Kênh đào Panama sang thị trường châu Á. Xuất khẩu nông sản đang được chuyển hướng từ Kênh đào Panama sang Kênh đào
Suez cho đến cuối năm 2023, phải chịu chi phí tăng thêm 18 ngày cho thời gian hành trình (so với tuyến Kênh đào Panama). Giờ
đây, các hãng vận tải hàng rời lại buộc phải chuyển hướng tuyến đường của họ và đi qua Mũi Hảo Vọng. Với thời gian hành trình
được cộng thêm 22 ngày, tuyến đường này đi qua xích đạo hai lần, dẫn đến nhiệt độ thay đổi, có thể ảnh hưởng đến chất lượng
hàng hóa thực phẩm. Châu Á cũng chiếm 21% xuất khẩu nông sản của EU và 16% nhập khẩu nông sản. Coldiretti ước tính chi phí vận
chuyển trái cây xuất khẩu từ Ý sang Đông Nam Á đã tăng 6–7 cent/kg (Corriere Ortofrutticolo, 2024).
Do tính chất mùa vụ của nhu cầu thấp hơn trong nửa đầu năm và việc ấn định trước các hợp đồng vận chuyển nên tác động hiện tại
của những gián đoạn này đã được hạn chế. Tuy nhiên, tình trạng gián đoạn kéo dài sang quý 2 năm 2024, khi nhu cầu tăng theo
mùa, có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn đối với thương mại quốc tế.
Hình B6.3. Các biện pháp gây căng thẳng trong mạng lưới chuỗi cung ứng hàng hải toàn cầu đã gia tăng do sự gián đoạn gần đây ở Kênh
đào Suez
Chỉ số căng thẳng về năng lực chuỗi cung ứng toàn cầu, 2019–2024
0,7
COVID-19
0,6
0,5
0,4
0,3
0,2
0,1
0
2019-01
2019-04
2019-07
2019-10
2020-01
2020-04
2020-07
2020-10
2021-01
2021-04
2021-07
2021-10
2022-01
2022-04
2022-07
2022-10
2023-01
2023-04
2023-07
2023-10
2024-01
Nguồn: Chỉ số căng thẳng chuỗi cung ứng của Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Chỉ số Căng thẳng Chuỗi Cung ứng Toàn cầu ước tính năng lực bị hạn chế khi có sự chậm trễ quá mức trong thời gian vận chuyển từ cảng đến cảng trước đây. Chỉ số này được thiết kế để ước tính độ trễ liên quan đến cảng đích bằng cách sử dụng chiều dài hành trình lịch sử
(lấy từ thông tin ghé cảng) trên các tuyến đường cụ thể được tổng hợp cho các luồng giao thông giữa các vùng hàng hải. Chỉ số này tập trung vào lưu lượng truy cập toàn cầu, được xác định cho các tàu thuộc các lớp Panamax, Post-Panamax, New Panamax và ULCV.
Chính sách
Cú sốc COVID-19 đã đẩy nhanh quỹ đạo đi lên hiện có của tỷ lệ nợ công trên GDP được quan sát thấy ở các nền kinh
tế EAP đang phát triển kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC) năm 2008–2009. Trong trường hợp đang phát
triển EAP, ngoại trừ Trung Quốc, nợ công trên GDP đã tăng từ khoảng 35% năm 2008 lên khoảng 47% vào năm 2019 và
tăng thêm lên 61% vào năm 2022 (hình I.30). Nợ tăng ở tất cả các nền kinh tế lớn và đặc biệt là ở Fiji, Palau và
Timor-Leste. Tương tự, ở Trung Quốc, tỷ lệ nợ công trên GDP đã tăng từ khoảng 27% năm 2008 lên khoảng 60% năm
2019, đạt gần 77% vào năm 2022. Các dự báo cho thấy nợ công sẽ giảm nhẹ trong giai đoạn 2023-2025. ở khu vực EAP
ngoại trừ Trung Quốc, nơi nợ công được dự đoán sẽ tiếp tục tăng theo quỹ đạo trong giai đoạn này.
Hình I.30. Cú sốc COVID-19 đã đẩy nhanh xu hướng tăng tỷ lệ nợ công trên GDP được quan sát thấy ở hầu hết các nước đang phát triển.
Các quốc gia EAP kể từ GFC 2008–2009
90 90
75 75
60 60
45 45
trăm
Phần
trăm
Phần
GDP
GDP
30 30
15 15
0 0
2000 2005 2010 2015 2020 2025 2000 2005 2010 2015 2020 2025
Nguồn: Triển vọng kinh tế thế giới, IMF; Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: EAP loại trừ Trung Quốc bao gồm Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Mông Cổ, Papua New Guinea, Philippines, Thái Lan và Việt Nam. Vùng màu xám hiển thị các dự báo cho năm 2023, 2024 và 2025.
Thâm hụt cơ bản ngày càng góp phần tích lũy nợ, trong khi tỷ lệ nợ trên GDP giảm do lãi suất thực tế thấp hơn tốc
độ tăng trưởng sản lượng đang giảm dần theo thời gian. Phân tích động thái nợ (Hộp 7) cho thấy thâm hụt cơ bản dự
kiến sẽ tăng thêm 1,1 điểm phần trăm mỗi năm vào nợ trên GDP trong giai đoạn 2023–2025, tăng từ 0,9 điểm phần
trăm mỗi năm trong giai đoạn 2010–2019 (hình I.31 ). Tại Trung Quốc, sự đóng góp của thâm hụt cơ bản vào tỷ lệ nợ
công trên GDP dự kiến sẽ tăng từ 1,6 điểm phần trăm mỗi năm trong giai đoạn hậu GFC lên 5,8 điểm phần trăm mỗi
năm trong giai đoạn 2023–2025.6 Mức giảm lịch sử về thâm hụt ngân sách cơ bản tỷ lệ nợ trên GDP, xuất phát từ lãi
suất thực tế thấp hơn tốc độ tăng trưởng sản lượng (mẫu số trong tỷ lệ nợ), dự kiến sẽ giảm dần theo thời gian.
6 Thâm hụt cơ bản đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ công trên GDP trong cả GFC và cuộc suy thoái toàn cầu do COVID-19 sau đó (Islamaj và Samano; 2022).
Chính sách 35
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hộp 7. Kế toán nợ
Phương pháp kế toán truyền thống phân tích những thay đổi trong tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP thành:7
J N J N J r N
Tôi
t
- gt - t
đ tt - = - ---
K
trang 1 111 t
ồ
dt K ồ dt K ồ d + t (1)
K
+ g
111 + tg ồ
K
+ gt ồ K ồ
L P L P L t
P
trong đó d là tỷ lệ nợ trên GDP, r là lãi suất thực, g là tốc độ tăng trưởng thực, π là tỷ lệ lạm phát và p
là thâm hụt cơ bản (thâm hụt tài chính không bao gồm các khoản thanh toán lãi cho khoản nợ của chính phủ).8
Số hạng đầu tiên ở bên phải phản ánh nghĩa vụ nợ, số hạng thứ hai phản ánh sự xói mòn của tỷ lệ nợ bắt nguồn
từ sự tăng trưởng của sản lượng ( mẫu số trong tỷ lệ nợ), số hạng thứ ba phản ánh sự pha loãng nợ liên quan
đến tỷ lệ lạm phát và số hạng thứ tư biểu thị tác động trực tiếp của thâm hụt cơ bản đến tích lũy nợ.
J r N JRt -G N
gt
- -
đt = = =
t t t
"
Tôi
t
- --
1 11
K ồ
dt K ồ dt P t. (2)
K
1 + gt ồ
K
L
1 + g tP ồ
L P
trong đó πt = rt biểu thị lãi suất thực tại thời điểm t. Phương trình (2) gợi ý rằng khi rt gt < 0, thì chính
phủ có thể duy trì mức thâm hụt cơ bản vừa phải mà không gặp rủi ro khủng hoảng nợ. Mặc dù điều này xảy ra ở hầu
hết các quốc gia EAP do lãi suất thấp hơn và tăng trưởng cao trong giai đoạn hậu GFC, rt gt < 0 có thể bị đảo
chiều khi tăng trưởng giảm mạnh hoặc lãi suất tăng đột biến (Ngân hàng Thế giới; 2021).
7 Xem Mauro và Zilinsky (2016) và Blanchard (2021) để trình bày về vấn đề này.
8 Phương trình cũng có thể bao gồm phần dư “dòng chứng khoán” phản ánh các yếu tố như hiệu ứng định giá do thay đổi tỷ giá hối đoái, tư nhân hóa và bán các tài sản công khác,
giải cứu nợ của các đơn vị không thuộc chính phủ nói chung (ngân hàng). , doanh nghiệp nhà nước) và tài trợ thâm hụt ngân hàng trung ương, chẳng hạn như mua nợ chính
phủ (chủ quyền). Đối với các khoản nợ bằng ngoại tệ, chúng tôi ước tính sự đóng góp của lạm phát vào tích lũy nợ sau khi trừ đi sự giảm giá của tỷ giá hối đoái.
Nợ tăng tạo điều kiện cho việc tích lũy nợ tăng nhanh hơn. Mặc dù sự khác biệt giữa lãi suất thực và tăng trưởng
kinh tế chủ yếu là âm trong khu vực EAP, nợ cao hơn có tương quan với lãi suất cao hơn và tốc độ tăng trưởng
thấp hơn (hình I.32).9 Thâm hụt lớn hơn được quan sát thấy ở EAP kể từ GFC năm 2008 –2009 được coi là bền vững
do lãi suất thực thấp và tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, trong tương lai, lãi suất danh nghĩa cao hơn, lạm
phát được kiềm chế và tốc độ tăng trưởng thấp hơn có thể sẽ khiến tỷ lệ nợ công trên GDP tăng nhanh hơn so với trước đây.
Kết quả sẽ là sự gia tăng đóng góp của thanh toán lãi vào nợ trên GDP (gánh nặng trả lãi rất đáng kể ở
Indonesia, Lào, Papua New Guinea và Mông Cổ) và tỷ lệ nợ trên GDP giảm ít hơn do sự phát triển.
9 Nợ cao hơn cũng tương quan với nguy cơ đảo chiều rt gt cao hơn , tương ứng với lãi suất thực tế thấp hơn tốc độ tăng trưởng sản lượng, điều này sẽ khiến nợ không bền vững trong
dài hạn (Ngân hàng Thế giới; 2021).
36 Chính sách
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Nợ cao hơn kết hợp với chi phí vay tăng đã thu hẹp không gian Hình I.31. Nợ công tính theo tỷ lệ GDP có thể sẽ tăng do
thâm hụt cơ bản cao hơn, lãi suất cao hơn
tài chính, làm giảm khả năng các nước EAP chi tiền cho các
và tăng trưởng thấp hơn
chương trình quan trọng hoặc ứng phó với các sự kiện kinh tế bất
ngờ. Các nền kinh tế EAP không thể dựa vào lãi suất thấp, tăng Động lực tích tụ nợ
trưởng GDP mạnh và lạm phát để giảm gánh nặng nợ trên GDP. Sự
6
suy giảm áp lực giá hàng hóa gần đây tạo cơ hội cho các quốc gia
thoát khỏi các khoản trợ cấp lãng phí và bắt đầu tăng cường
4
không gian tài chính của mình. Các chính phủ có thể cam kết cải
cách tài chính thông qua việc ban hành luật, đặc biệt là để tăng
2
nguồn thu từ thuế.
Cam kết tuân thủ kỷ luật tài chính thông qua việc ban hành các
0
trăm
phần
Điểm
quy tắc tài chính có thể làm giảm chênh lệch lãi vay ngay cả khi
đối mặt với những cú sốc kinh tế trong tương lai (Islamaj,
–2
Samano và Sommers 2024), và do đó dẫn đến đầu tư cao hơn
(Esquivel và Samano 2023).
-4
2000–07 2010–19 2023–25 2000–07 2010–19 2023–25
Trung Quốc
EAP không bao gồm Trung Quốc
Lạm phát trên toàn khu vực đã giảm đáng kể so với mức cao nhất Nguồn: Triển vọng kinh tế thế giới, IMF; Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Sử dụng phương pháp phân tách kế toán động nợ tiêu chuẩn, những thay đổi trong tỷ lệ nợ công trên GDP trong bất kỳ năm nào
năm 2022, nhưng các ngân hàng trung ương cần thận trọng không cũng có thể được phân tách thành những thay đổi trong thâm hụt tài khóa cơ bản (được định nghĩa là thu trừ đi chi tiêu trừ đi các
khoản trả lãi), tốc độ tăng trưởng, các khoản thanh toán lãi, tỷ lệ lạm phát, giảm tỷ giá hối đoái và phần dư có thể được giải
nới lỏng lãi suất chính sách quá mạnh vì chênh lệch lãi suất thích bằng các yếu tố như tư nhân hóa hoặc thực hiện các khoản nợ tiềm tàng.
EAP loại trừ Trung Quốc sẽ xem xét Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Mông Cổ, Papua New Guinea, Philippines, Thái Lan và Việt
thực giữa các nền kinh tế tiên tiến có thể làm tăng nguy cơ dòng Nam. Vùng chấm thể hiện dự đoán cho năm 2023, 2024 và 2025.
vốn chảy ra nước ngoài và đồng tiền mất giá. Các nhà hoạch định
Hình I.32. Mặc dù lãi suất dự kiến sẽ duy trì ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng, nợ ngày càng tăng có thể đẩy
cái trước và hạ cái sau
A. r – g, mức trung bình để phát triển EAP ngoại trừ Trung Quốc B. Nợ công, tăng trưởng kinh tế và lãi suất
0 7
–1 5
3
trăm
Phần
–2
trăm
Phần
1
–3
0
Nợ/GDP Nợ/GDP Nợ/GDP Nợ/GDP
[0–20] [20–40] [40–60] [>60]
-4
2022 2023* 2024* 2025* Nợ cao hơn
Lãi suất trừ tăng trưởng (r – g) tăng trưởng GDP thực tế Lãi suất thực tế
Nguồn: Chỉ số Phát triển Thế giới; Triển vọng kinh tế thế giới; Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: A. là lãi suất thực tế và là tốc độ tăng trưởng GDP. B. Biểu đồ thể hiện mức tăng trưởng GDP thực tế trung bình và lãi suất thực dài hạn ở các mức khác nhau của tỷ lệ nợ công trên GDP (trục x). Mẫu bao gồm 50 quốc gia đang phát triển (trong đó có 10 quốc gia EAP)
với ít nhất 10 quan sát về r – g và nợ công trên GDP trong giai đoạn 2000–2019.
Chính sách 37
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
báo hiệu sự sẵn sàng thắt chặt chính sách tiền tệ một lần nữa nếu có dấu hiệu cho thấy áp lực lạm phát gia tăng, chẳng hạn như những áp lực xuất
phát từ đồng tiền suy yếu. Theo nghĩa rộng hơn, các cơ quan quản lý tiền tệ có thể nâng cao độ tin cậy trong khuôn khổ tiền tệ của mình bằng cách
tham gia vào hoạt động truyền thông rõ ràng, minh bạch và bằng cách thể hiện cam kết mạnh mẽ và rõ ràng trong việc duy trì sự ổn định về giá,
điều này có thể giúp giảm bớt áp lực lạm phát dai dẳng (Ngân hàng Thế giới 2024).
Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách có thể thực hiện các bước để bảo toàn hoặc tăng dự trữ ngoại tệ của mình bằng cách cam kết thực hiện các
chính sách cải thiện niềm tin của nhà đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài.
Chính sách tiền tệ thắt chặt hơn trên thị trường toàn cầu đã dẫn đến chi phí tài trợ cao hơn cho những người đi vay là doanh nghiệp, điều này có
thể làm tăng tính dễ bị tổn thương của họ. Mặc dù các ngân hàng dường như có khả năng giải quyết những khó khăn tài chính mà cả doanh nghiệp và
hộ gia đình gặp phải, nhưng họ vẫn phải cảnh giác trước những mối đe dọa tiềm ẩn đối với sự an toàn và lành mạnh của mình. Tín dụng đang tăng
trưởng ở hầu hết các quốc gia trong khu vực, được thúc đẩy bởi các yếu tố như việc dỡ bỏ các hạn chế liên quan đến đại dịch (bảng 2).
Mặc dù đây là một dấu hiệu tích cực của sự phục hồi kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng cho vay nhanh chóng và việc đầu tư quá mức vào lĩnh vực bất
động sản đang gặp khó khăn, như ở Trung Quốc và Việt Nam, đã gây ra những lo ngại. Việc loại bỏ dần các biện pháp hoãn trả được áp dụng trong
thời kỳ đại dịch đã bộc lộ những điểm yếu trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam và Campuchia, dẫn đến việc tái áp dụng các biện pháp này ở Việt
Nam trong tháng 4 năm 2023. Tương tự, các biện pháp này có thể sẽ tiếp tục diễn ra ở Lào và Trung Quốc. dẫn tới việc đánh giá thấp mức độ thực sự
của các khoản nợ xấu (NPL). Ngay cả ở những quốc gia đã loại bỏ dần các biện pháp như vậy, thường vẫn thiếu một kế hoạch rõ ràng để giải quyết
Tài chính
Mở rộng tín dụng An toàn vốn Chất lượng tài sản Khả năng sinh lời khả năng thanh toán Thanh khoản
2023 thay đổi 2023 thay đổi 2023 thay đổi 2023 thay 2023 thay 2023 thay đổi
38 Chính sách
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Mặc dù mức độ an toàn về vốn nói chung là ổn định nhưng vẫn tồn tại nhiều lỗ hổng về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và tính thanh khoản
ở một số quốc gia EAP. Lợi nhuận của các ngân hàng đã giảm sút ở Trung Quốc, Campuchia và Mông Cổ, trong khi tỷ lệ tiền gửi trên cho vay giảm
ở Việt Nam và Campuchia, bên cạnh sự gia tăng nợ xấu. Bộ đệm thanh khoản của các ngân hàng nhìn chung ở mức thấp ở Đông Á trong khi Trung Quốc
có thể tăng bộ đệm thanh khoản để đáp ứng việc nới lỏng các điều kiện tiền tệ trong bối cảnh nhu cầu trong nước yếu.
Ở Trung Quốc, trong khi các ngân hàng báo cáo đủ vốn và thanh khoản, biên lãi ròng của họ lại giảm do các khoản cho vay liên quan đến tài sản
dành cho các nhà phát triển chậm lại và nợ xấu của họ ngày càng tăng lên. Hơn nữa, các ngân hàng khu vực ở các khu vực kém phát triển đang ngày
càng phải đối mặt với khoản nợ từ phương tiện tài trợ của chính quyền địa phương (LGFV). Các cơ quan quản lý sẽ cần tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình tái cơ cấu hoặc thủ tục phá sản của các chủ đầu tư mất khả năng thanh toán đồng thời bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và khôi phục
niềm tin của thị trường.
Các biện pháp an toàn vĩ mô có thể được sử dụng trước để giải quyết rủi ro trong các ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng, bao gồm cả những rủi
ro liên quan đến những doanh nghiệp vay nợ nhiều và các lĩnh vực bất động sản dễ bị tổn thương. Sự chênh lệch về tiền tệ và thời gian đáo hạn
giữa tài sản và nợ phải trả cần được theo dõi để đối phó với sự gia tăng rủi ro về thanh khoản và khả năng thanh toán. Các tập đoàn phi ngân
hàng có đòn bẩy tài chính cao cũng dễ bị tổn thương trước lãi suất tăng. Do đó, việc báo cáo kịp thời và minh bạch về các khoản nợ xấu là rất
quan trọng để giám sát hiệu quả tình hình hoạt động của ngành ngân hàng.
Với mức độ nhạy cảm cao hiện nay với thương mại và tài chính, đặc biệt là với Trung Quốc, các nước EAP nên tăng cường nỗ lực cải cách để giảm
bớt tác động của sự giảm tốc kinh tế trung và dài hạn dự kiến của Trung Quốc và xu hướng lo ngại rủi ro trên toàn thế giới. Với vị thế sâu rộng
của EAP trong mạng lưới cung ứng quốc tế, việc tăng cường hợp tác đa phương và khu vực, cũng như giải quyết các thách thức của sự phân mảnh
kinh tế, sẽ có lợi trong việc duy trì lợi thế của hội nhập thương mại và kinh tế. Điều này liên quan đến các sáng kiến nhằm giảm bớt các rào
cản thương mại phi thuế quan cả trong và giữa các khu vực, tăng cường kết nối và thúc đẩy hợp tác khu vực. Các thỏa thuận quốc tế với nhiều đối
tác cũng có thể hữu ích. Malaysia tốt hơn nên có các hiệp định thương mại với cả Trung Quốc và Mỹ thay vì bị loại khỏi bất kỳ hiệp định nào
hoặc trở thành một phần của khối thương mại độc quyền (Cập nhật kinh tế EAP, tháng 4 năm 2023).
Đẩy nhanh cải cách cơ cấu trong lĩnh vực tài chính có thể giúp phát triển sâu hơn lĩnh vực tài chính của các quốc gia và nâng cao hiệu quả cũng
như khả năng phục hồi của khu vực này. Một số ví dụ bao gồm việc Indonesia thông qua Luật Tổng hợp khu vực tài chính, trong đó tập trung vào
việc tăng cường chiều sâu và nâng cao hiệu quả của khu vực tài chính, đồng thời đề cập đến một số trụ cột như (1) mở rộng khả năng tiếp cận và
mở rộng các sản phẩm thị trường tài chính, (2) thúc đẩy phát triển dài hạn. đầu tư dài hạn, (3) tăng tính cạnh tranh và hiệu quả, (4) tăng
cường giảm thiểu rủi ro và (5) cải thiện việc bảo vệ người tiêu dùng và nhà đầu tư. Lộ trình phát triển khu vực tài chính quốc gia của
Philippines (FSDR), do Lực lượng đặc nhiệm chiến lược khu vực tài chính mới thành lập chuẩn bị, thể hiện cam kết của chính phủ đối với việc
phát triển khu vực tài chính. FSDR bổ sung cho các nỗ lực cải cách hậu COVID-19 gần đây của đất nước, chẳng hạn như Đạo luật Phục hồi Doanh
nghiệp và Ưu đãi Thuế cho Doanh nghiệp nhằm cung cấp các quy định về thuế minh bạch hơn và cải thiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, Luật
Chuyển giao Chiến lược của các Tổ chức Tài chính nhằm đảm bảo các cơ chế vững chắc cho các vấn đề tài chính khó khăn. các tổ chức để củng cố
bảng cân đối kế toán của họ và sửa đổi Đạo luật chống rửa tiền/chống tài trợ khủng bố nhằm hình sự hóa các tội phạm về thuế vì rửa tiền.
Ngoài ra, những cải cách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và cơ cấu pháp lý là rất quan trọng để thu hút thêm đầu tư, cả trong và ngoài
nước. Để thúc đẩy đổi mới và tăng năng suất, điều quan trọng là phải tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, cũng như tăng cường giáo
dục hỗ trợ khởi nghiệp và tăng cường số hóa (xem chương trọng tâm).
Chính sách
39
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Phụ lục I
Hình A1. Cả chính sách công nghiệp và thương mại đều có mối tương quan với GDP bình quân đầu người
A. Chính sách công nghiệp và GDP bình quân đầu người B. Chính sách thương mại và GDP bình quân đầu người
5 6
CÓ THỂ
ITA
DEU
Hoa Kỳ
Nhật Bản
5
4 GBR
ÁO NGỰC KOR AUS
CHN FRA
IND ESP IND
4
Nga NLD ÁO NGỰC AUS
3 ARG TUR Nga
AU CÓ THỂ
CHE
POL
SAU 3 CHN
DNK TUR
MEX GBR
PRT SÉC BEL
(trong
KOR
2023-
(trong
THA MEX
2
nhật
2023-
GRC ID
ký)
nhật
ZAF SWE
ký)
Nhật Bản
PAK POL
HUN VÒI 2 ARG
pháp
biện
Tổng
ID
pháp
biện
Tổng
số
của tôi
số
HR V
VNM SVN IRL
1 1 NPL NZL SGP
ZAF NLD
BOL NZL BGD THA
SVK
VNM DEU
0 0
số 8 9 10 11 12 số 8 9 10 11 12
GDP bình quân đầu người năm 2021 (theo nhật ký)
GDP bình quân đầu người năm 2021 (theo nhật ký)
EAP EMDE Thu nhập cao EAP EMDE Giá trị được trang bị
Thu nhập cao Giá trị được trang bị
Nguồn: Văn phòng Kinh tế trưởng EAP xây dựng dựa trên dữ liệu từ NIPO và Chỉ số Phát triển Thế giới.
Lưu ý: Các chính sách công nghiệp mới, theo định nghĩa của NIPO, bao gồm cả chính sách công nghiệp trong nước cũng như các chương trình xúc tiến xuất khẩu và các rào cản thương mại nhập khẩu. Ở đây chúng tôi tách các biện pháp chính sách công nghiệp
(Bảng A và C) khỏi các biện pháp chính sách thương mại (Bảng B và D).
Hộp A1. Ý nghĩa của sự không chắc chắn toàn cầu ngày càng tăng đối với EAP
Sự bất ổn về kinh tế toàn cầu đã tăng mạnh lên mức cao kỷ lục sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát và duy trì ở mức cao này cho
đến năm 2023 và đầu năm 2024. Hộp này thảo luận về tác động của sự không chắc chắn toàn cầu và đặc thù của EAP đối với các
điều kiện tài chính và kinh tế vĩ mô ở EAP. Nó nêu bật ba loại bất ổn: bất ổn kinh tế vĩ mô – các biện pháp dựa trên dự báo;
sự không chắc chắn về chính sách – các biện pháp dựa trên tin tức; và sự không chắc chắn về tài chính – các biện pháp dựa trên
Sự bất ổn về kinh tế vĩ mô gia tăng ở Hoa Kỳ, phản ánh diễn biến lạm phát và tăng trưởng sản lượng trong tương lai không chắc
chắn (Hình A1.1).10 Sau khi đạt đỉnh vào tháng 4 năm 2020 khi đại dịch COVID-19 bắt đầu, nó lại tăng vọt vào năm 2022, chủ yếu
là do sự gia tăng đột biến trong lạm phát. Bất chấp sự suy giảm kể từ giữa năm 2022, tình trạng bất ổn lạm phát vẫn ở mức cao
ở Mỹ, phản ánh những bất đồng về tốc độ và mức độ của quá trình (giảm) lạm phát trong tương lai. Sự không chắc chắn về chính
sách kinh tế toàn cầu, bao gồm các chính sách tiền tệ, tài chính và tài chính trong tương lai, cao gấp đôi so với mức trước
đại dịch. Tại Mỹ, vẫn còn những cuộc tranh luận đang diễn ra về lộ trình đưa ra các quyết định chính sách tiền tệ trong tương
lai của Cục Dự trữ Liên bang; chỉ số không chắc chắn về chính sách tiền tệ đã liên tục ở trên mức trung bình dài hạn kể từ năm 2020.
Tương tự, mức độ không chắc chắn về tài chính (VIX) đã tăng vọt vào năm 2020 và 2022 và mặc dù mức giảm vẫn ở trên mức trước
đại dịch.
10 Các chỉ số không chắc chắn của Hoa Kỳ thường được sử dụng trong tài liệu như là đại diện cho sự không chắc chắn toàn cầu khi không có chỉ số toàn cầu.
(tiếp theo)
40 Chính sách
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hình A1.1. Sự phát triển của sự bất ổn trong nền kinh tế toàn cầu và Hoa Kỳ
Sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô của AUS B. Sự không chắc chắn về chính sách toàn cầu và của Hoa Kỳ Sự không chắc chắn về tài chính của CUS (VIX)
400
1.2 300
350
300 250
1.1
250
200
1
200
150 150
0,9
100 100
0,8 50
2000 2005 2010 2015 2020 50
0
Sự không chắc chắn vĩ mô 2000 2005 2010 2015 2020
0
Sự không chắc chắn về GDP (RHS)
EPU toàn cầu MPU Hoa Kỳ (RHS) 2000 2005 2010 2015 2020
Sự không chắc chắn về lạm phát (RHS)
Nguồn: Ước tính của Ngân hàng Thế giới, Haver Analytics, Baker, Bloom và Davis (2016), Jurado et al. (2015).
Lưu ý: A. Sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô dựa trên các biện pháp dựa trên dự báo của Jurado et al. (2015). Mức trung bình dài hạn là 0,9. Sự không chắc chắn về GDP và lạm phát dựa trên độ lệch chuẩn của Dự báo đồng
thuận đối với lạm phát GDP và CPI của Hoa Kỳ. B. Chỉ số Bất ổn về Chính sách Kinh tế Toàn cầu (EPU) và Chỉ số Bất ổn về Chính sách Tiền tệ (MPU) của Hoa Kỳ dựa trên các biện pháp dựa trên tin tức của Baker et al. (2016). BC
Các đường ngang biểu thị mức trung bình dài hạn = 100.
Sự không chắc chắn về sản lượng trong tương lai, lạm phát, thị trường tài chính và chính sách kinh tế cao hơn so với trước đại
dịch ở nhiều quốc gia EAP. Sự bất ổn vĩ mô, từng đạt mức cao kỷ lục vào năm 2020–21 (sự không chắc chắn về sản lượng) hoặc 2022
(sự không chắc chắn về lạm phát), nhìn chung đã giảm kể từ năm 2023 (hình A1.2). Điều đó cho thấy, các biện pháp đo lường sự không
chắc chắn đang ở mức cao hơn các biện pháp trước đại dịch và ở một số quốc gia (Thái Lan), sự không chắc chắn về sản lượng và lạm
phát vẫn đang có xu hướng gia tăng. Sự không chắc chắn về chính sách kinh tế dựa trên tin tức tiếp tục tăng cao, đặc biệt là ở
Trung Quốc. Các chỉ số không chắc chắn dựa trên khảo sát về lãi suất ngắn hạn và dài hạn, thường là yếu tố quyết định quan trọng
của đầu tư, đã tăng lên ở tất cả các nền kinh tế EAP (Ngân hàng Thế giới 2023).
Để đánh giá tác động của sự không chắc chắn toàn cầu đối với EAP, một loạt mô hình tự hồi quy vectơ cấu trúc (SVAR) được ước tính
trong giai đoạn 2000–2019 cho 5 quốc gia EAP: Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines. Các mô hình này bao gồm
một tập hợp các biến số vĩ mô và tài chính ở Hoa Kỳ (hoặc toàn cầu), Trung Quốc và từng quốc gia EAP.11 Ba nguồn gây bất ổn được
Các phát hiện cho thấy những cú sốc bất ổn toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến các điều kiện tài chính và vĩ mô ở các nước EAP.12
Sau khi độ bất định vĩ mô của Hoa Kỳ tăng một độ lệch chuẩn, tốc độ tăng trưởng sản lượng và giá tài sản ở EAP giảm lần lượt 0,5
và 3% trong vòng một năm. sau cú sốc (hình A1.3). Những tác động này có thể so sánh với tác động từ sự sụt giảm một độ lệch chuẩn
trong sản lượng của Hoa Kỳ (0,3 và 1%). Sự không chắc chắn về thị trường tài chính và chính sách kinh tế toàn cầu cũng có tác động
đáng kể đến các biến số tài chính quan trọng trong nước, mặc dù tác động của chúng nhìn chung là ngay lập tức nhưng ngắn ngủi so
với sự bất ổn vĩ mô. Sau cú sốc VIX có độ lệch chuẩn, giá cổ phiếu trung bình ở EAP giảm 1,2%, tương đương với tác động của cú sốc
tiêu cực đối với giá cổ phiếu của Hoa Kỳ (-1,6%). Tác động của những cú sốc bất ổn chính sách dường như tạo ra một lớp tác động
tiêu cực khác đối với các nước EAP. Trong khi việc thắt chặt tiền tệ của Hoa Kỳ khiến giá cổ phiếu EAP giảm tới 1,4%, thì sự không
chắc chắn về chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ càng gia tăng cũng khiến giá cổ phiếu giảm 0,7%.
11 Trung Quốc, EMDE lớn nhất, được tách riêng ra trong mô hình để phản ánh vai trò là nguồn và là nước hứng chịu những cú sốc bất ổn toàn cầu.
12 Điều này có ý nghĩa về mặt kinh tế và thống kê dựa trên kết quả trung bình (tức là dựa trên mô hình dữ liệu bảng) cũng như theo quan điểm của từng quốc gia cụ thể - kết quả này đúng cho tất cả các quốc gia.
(tiếp theo)
Chính sách 41
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
600 0,7
0,6
1,5 500
0,5
400
0,4
1.0
300
0,3
200
0,2
0,5
100 0,1
0 0,0
0,0 2000 2005 2010 2015 2020
2000 2005 2010 2015 2020
Sự không chắc chắn về chính sách (Trung Quốc) Lãi suất dài hạn Unc (RHS)
Nguồn: Ước tính của Ngân hàng Thế giới, Kinh tế đồng thuận, Baker, Bloom và Davis (2016).
Lưu ý: A. Sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô của EAP dựa trên độ lệch chuẩn trung bình của các khảo sát Dự báo đồng thuận cho 4 quốc gia (CHN, IDN, MYS và THA).
B. Sự không chắc chắn về chính sách của Trung Quốc dựa trên các biện pháp dựa trên tin tức của Baker et al. (2016). Sự không chắc chắn về tài chính của EAP dựa trên độ lệch chuẩn trung bình của Dự báo đồng thuận về lợi suất TB 3
tháng và lợi suất trái phiếu 10 năm ở 4 quốc gia (CHN, IDN, MYS và THA).
Hình A1.3. Tác động của sự không chắc chắn của Hoa Kỳ đối với EAP
A. Phản ứng của sản lượng EAP đối với sản lượng B. Giá cổ phiếu EAP phản ứng tiêu cực C. Phản ứng của giá cổ phiếu EAP đối với tiền tệ của Hoa Kỳ
tiêu cực của Hoa Kỳ và những cú sốc bất ổn vĩ mô Giá cổ phiếu của Hoa Kỳ và chính sách thắt chặt bất ổn tài chính và các cú sốc chính sách tiền tệ
0,4 0,5
0,2 –0,5
0,0
0,0
–0,5
–0,2 –1.0
trăm
Phần
trăm
Phần
trăm
Phần
–1.0
–0,4
–1,5
–0,6 –1,5
–0,8 –2.0
Mỹ tiêu cực Sự không chắc chắn về vĩ mô Mỹ tiêu cực tài chính Mỹ Chính sách tiền tệ của Mỹ Chính sách tiền tệ của Mỹ
cú sốc đầu ra sốc giá cổ phiếu sự không chắc chắn (VIX) sốc cú sốc không chắc chắn
Nguồn: Ước tính của Ngân hàng Thế giới, Jarocinksy và Karadi (2020).
Lưu ý: Các kết quả dựa trên bảng tự hồi quy Vector được ước tính với một mẫu cho 2000m1–2019m12 cho Hoa Kỳ và bốn EMDE ở EAP (MYS, IDN, PHL, THA). Theo thứ tự này, mô hình bao gồm sản xuất của Hoa Kỳ, CPI của Hoa Kỳ, sự không chắc
chắn của Hoa Kỳ, sản xuất công nghiệp trong nước (EAP), giá cả, giá cổ phiếu, tỷ giá hối đoái và các biện pháp không chắc chắn. A. Cho thấy phản ứng linh hoạt của sản xuất công nghiệp EAP đối với sự gia tăng một độ lệch chuẩn
trong sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô và sự sụt giảm sản lượng. Các thanh biểu thị các phản hồi trung bình và các đường thẳng đứng biểu thị khoảng tin cậy 16–84 phần trăm. B. Hiển thị phản ứng linh hoạt của giá cổ phiếu EAP
đối với sự gia tăng một độ lệch chuẩn trong sự không chắc chắn về tài chính (VIX) và sự sụt giảm giá cổ phiếu của Hoa Kỳ. C. Cho thấy phản ứng linh hoạt của giá cổ phiếu EAP trước cú sốc thắt chặt chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ và
cú sốc bất ổn về chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ.
(tiếp theo)
42 Chính sách
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Những tác động đáng kể của sự không chắc chắn phản ánh các kênh truyền tải khác nhau của các cú sốc không chắc chắn trên phạm vi quốc
tế. Trước hết, phản ứng động của các biến số vĩ mô nhất quán với các lý thuyết về tác động kinh tế của sự không chắc chắn—
điển hình là kênh “chờ xem” gây áp lực lên đầu tư và tiêu dùng tư nhân (Binder 2017; Bloom 2009).
Đặc biệt, mức độ bất ổn vĩ mô cao có tác động tiêu cực đến tăng trưởng đầu tư, khi các nhà đầu tư trở nên ngần ngại đầu tư vào các
dự án mới hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh hiện tại của họ (Leduc và Liu 2016). Thứ hai, phản ứng của giá tài sản tài chính và sự
gia tăng chi phí tín dụng cũng góp phần làm giảm tác động của tình trạng bất ổn kinh tế.
Thứ ba, sau sự bất ổn ngày càng tăng trên toàn cầu và của Hoa Kỳ, các chỉ số về sự không chắc chắn ở từng quốc gia EAP cũng phản ứng
đáng kể, điều này hỗ trợ cho các câu chuyện về rủi ro và sự không chắc chắn có liên quan quốc tế (Londono và cộng sự 2021). Sự bất ổn
ngày càng tăng trong nền kinh tế trong nước được ước tính đã đóng vai trò tiêu cực đối với niềm tin/tình cảm kinh tế ở các nước EAP
(Ha và So 2023).
Kết quả ước tính cũng cho thấy rằng trong khi Trung Quốc bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các cú sốc bất ổn toàn cầu và Hoa Kỳ, thì những
cú sốc bất ổn của chính nước này lại có tác động đến các điều kiện tài chính và kinh tế vĩ mô ở EAP (Hình A1.4).
Sau một lần tăng độ lệch chuẩn về tình trạng bất ổn vĩ mô ở Trung Quốc, sản xuất công nghiệp ở các nước EAP đã giảm khoảng 0,3%—
khoảng một nửa số câu trả lời đối với cùng loại tình trạng bất ổn ở Hoa Kỳ. Một lần nữa, sự bất ổn chính sách ngày càng gia tăng của
Trung Quốc kéo theo sự sụt giảm giá cổ phiếu và sự bất ổn ngày càng gia tăng ở các nước EAP.
Những kết quả này cho thấy chung rằng Trung Quốc vừa là nguồn vừa là đối tượng hứng chịu những cú sốc bất ổn trên thị trường toàn
Hình A1.4. Tác động của sự không chắc chắn của Mỹ và Trung Quốc đối với EAP
A. Phản ứng của sản lượng và giá cổ phiếu Trung Quốc trước vĩ mô tăng cao
sự bất ổn ở Mỹ B. Phản ứng của EAP trước sự bất ổn ngày càng tăng ở Trung Quốc
0,2 0,3
0,2
0,0 0,1
0,0
–0,2 –0,1
trăm
Phần
–0,2
–0,4
–0,3
trăm
Phần
–0,4
–0,6
–0,5
–0,6
–0,8
–0,7
–1.0 t = 0 6 12 24 t = 0 6 12 24
t = 0 6 12 24 t = 0 6 12 24 Đầu ra EAP sang vĩ mô Trung Quốc Giá EAP theo vĩ mô Trung Quốc
Sản xuất công nghiệp lạm phát CPI Tính không chắc chắn Tính không chắc chắn
Lưu ý: Các kết quả dựa trên bảng tự hồi quy Vector được ước tính bằng mẫu cho 2000m1–201912 cho bốn EMDE ở EAP (MYS, IDN, PHL, THA). Theo thứ tự này, mô hình bao gồm sản xuất của Hoa Kỳ, CPI của Hoa Kỳ, sự không chắc chắn của
Hoa Kỳ, sản xuất của Trung Quốc, CPI, thước đo sự không chắc chắn và sản xuất công nghiệp trong nước (EAP), giá cả, giá cổ phiếu, tỷ giá hối đoái và các thước đo không chắc chắn. A. Thanh cho thấy phản ứng linh hoạt của sản
xuất công nghiệp và CPI của Trung Quốc đối với sự gia tăng độ lệch một tiêu chuẩn trong sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô trong Thanh USB cho thấy phản ứng linh hoạt của sản xuất EAP đối với sự gia tăng một độ lệch chuẩn
trong sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô ở Hoa Kỳ và Trung Quốc.
(tiếp theo)
Chính sách 43
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Những phát hiện này dẫn đến ít nhất hai loại ý nghĩa mới. Thứ nhất, tác động của sự không chắc chắn - chủ yếu liên quan đến
sự biến động hoặc thời điểm thứ hai của các biến số - có đặc điểm khác biệt với tác động của biến động cấp độ (thời điểm đầu
tiên) trong các biến số kinh doanh, tài chính và chính sách. Hậu quả kinh tế của những cú sốc không chắc chắn là khá lớn,
gần như có thể so sánh được với tác động của những cú sốc “mức độ”. Những phát hiện này khá chắc chắn đối với các loại thước
đo mức độ không chắc chắn khác nhau—về những bất ổn vĩ mô, tài chính và chính sách. Thứ hai, kết quả cho thấy các loại cú
sốc không chắc chắn khác nhau gây ra những tác động không đồng nhất ở các nước EAP. Xét về tác động tích lũy, sự không chắc
chắn về vĩ mô, tiếp theo là sự không chắc chắn về chính sách tài chính và kinh tế, có đóng góp đáng kể nhất vào sự thay đổi
của các biến số chính trong nước ở EAP. Đặc biệt, sự không chắc chắn về vĩ mô, vốn giải thích tới 40% tổng biến động trong
sản lượng và giá cả của Hoa Kỳ, có thể giải thích tới 1/4 biến động trong các biến số vĩ mô ở EAP. Kết quả này phù hợp với
những phát hiện của Stock và Watson (2012), những người cho rằng cú sốc bất ổn toàn cầu là nguyên nhân chính gây ra suy
thoái kinh tế toàn cầu và những biến động nghiêm trọng khác.
Hộp A2. Rủi ro từ sự gián đoạn của thị trường hàng hóa
Thị trường tương lai cho thấy giá dầu thô Brent đã cộng Hình A2.1. Rủi ro địa chính trị đã tạo ra một khoản chênh
lệch nhỏ đối với giá dầu thô Brent
thêm tới 5 đô la phí bảo hiểm rủi ro địa chính trị vào
giá dầu khi xung đột ở Trung Đông nổ ra vào tháng 10. Giá dầu Brent tương lai
là những nước xuất khẩu năng lượng. Giá dầu Brent giao 95
Sự chuyển động của đường cong giá dầu thô Brent kỳ hạn
80
thùng
USD/
tháng gần đây liên quan đến xung đột và căng thẳng địa 75
chính trị ở Biển Đỏ, bao gồm những lo ngại về nguồn cung
70
toàn cầu vào đầu tháng Hai. Đường cong tương lai mới
65
nhất cho thấy thị trường hiện đang định giá Brent ở mức
80,57 USD/thùng cho năm 2024, phù hợp với dự báo mới
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
24
25
26
27
28
12
26
12
27
12
24
12
25
12
28
4
4
24
25
26
27
28
8
nhất của Ngân hàng Thế giới là 81 USD/thùng (Ngân hàng Thế giới, 2024).
Ngày 5 tháng 10 năm 2023 Ngày 19 tháng 10 năm 2023 Ngày 15 tháng 2 năm 2024
Trung đông Lưu ý: Dữ liệu tương lai dầu thô Brent, quan sát mới nhất là ngày 15 tháng 2 năm 2024.
Hai kịch bản được xem xét để đánh giá tác động lên giá
dầu do xung đột leo thang ở Trung Đông: một kịch bản vừa
phải và một kịch bản cực đoan. Mỗi kịch bản phản ánh mức độ nghiêm trọng của tác động của những sự kiện này đối với nguồn
cung dầu, được xây dựng dựa trên sự gián đoạn nguồn cung do nguyên nhân địa chính trị trước đó và liên quan đến phạm vi
tương ứng của tác động ban đầu đến giá cả. Việc đánh giá tác động giá ban đầu được dựa trên
(tiếp theo)
44 Chính sách
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
về độ co giãn được ước tính từ mối quan hệ thực nghiệm giữa gián đoạn nguồn cung và thay đổi giá trong các giai đoạn trước đó
• Kịch bản gián đoạn được đo lường hoặc kiểm duyệt. Kịch bản này giả định rằng nguồn cung dầu toàn cầu giảm 0,5 triệu thùng/
ngày xuống 2 triệu thùng/ngày (0,5 và 2% nguồn cung năm 2023), tùy thuộc vào diễn biến địa chính trị (hình A2.2).
Sự suy giảm này có thể so sánh với sự thay đổi nguồn cung được quan sát thấy trong cuộc nội chiến ở Libya năm 2011 và lệnh
cấm vận dầu mỏ đầu tiên của Iran (nguồn cung toàn cầu giảm gần 2% vào thời điểm đó). Theo kịch bản này, giá dầu ban đầu sẽ
tăng từ 3 đến 13% (2,40 USD/thùng đến 10 USD/thùng) so với mức giá quan sát cuối cùng là 80 USD/thùng.
• Kịch bản gián đoạn cực độ hoặc leo thang. Tùy thuộc vào mức độ xung đột leo thang, kịch bản gián đoạn trung bình giả định
nguồn cung dầu toàn cầu giảm từ 3 đến 5 triệu thùng/ngày. Mức giảm này có thể tương đương với mức giảm 3% nguồn cung dầu
toàn cầu trong cuộc xâm lược chiến tranh Iraq năm 2003 nhưng thấp hơn một chút so với mức tổn thất dự kiến sau các cuộc tấn
công vào các cơ sở sản xuất dầu của Saudi Arabia vào tháng 9 năm 2019. Theo kịch bản này, giá dầu ban đầu sẽ tăng khoảng 21
đến 35% (17 USD/thùng đến 28 USD/thùng) so với mức giá quan sát cuối cùng là 80 USD/thùng.
Hình A2.2. Tùy thuộc vào thời gian và quy mô của bất kỳ sự leo thang nào, giá có thể tăng nhưng vẫn ở mức dưới 90 USD/thùng;
theo một kịch bản cực đoan hơn, giá sẽ dao động quanh mức 100 USD
A. Kịch bản gián đoạn nguồn cung dầu B. Kịch bản gián đoạn giá dầu
6 120
5
110
4
100
ngày
Mb/
3
thùng
USD/
90
2
80
1
Đường cơ sở: 80 USD/thùng
0 70
Sự gián đoạn được đo lường Sự gián đoạn cực độ Sự gián đoạn được đo lường Sự gián đoạn cực độ
Nguồn: Bloomberg, Cơ quan Năng lượng Quốc tế và Ngân hàng Thế giới.
Ghi chú: Phạm vi nguồn cung dầu (C) và giá dầu thô Brent ban đầu (D) ứng phó với sự gián đoạn nguồn cung theo hai kịch bản. Kịch bản “gián đoạn được đo lường” giả định rằng nguồn cung dầu toàn cầu giảm 0,5 triệu thùng/ngày
xuống 2 triệu thùng/ngày dựa trên những diễn biến địa chính trị. Một kịch bản gián đoạn cực độ giả định nguồn cung dầu toàn cầu giảm từ 3 đến 5 triệu thùng/ngày.
Khả năng giá dầu tăng đột biến do kịch bản cực đoan được duy trì là thấp. Sự gián đoạn nguồn cung gần đây hơn liên quan đến xung
đột trong khu vực đã gây ra những đợt tăng đột biến trong thời gian ngắn (Yang và cộng sự, 2022). Mặc dù xung đột ở Trung Đông
về mặt lịch sử gắn liền với giá dầu cao hơn, nhưng những thay đổi đáng chú ý trong điều kiện chung của thị trường năng lượng và
những cải thiện trong khả năng phục hồi của nền kinh tế toàn cầu trước những cú sốc giá năng lượng cho thấy rằng tác động tổng
thể có thể nhỏ hơn và ngắn hạn hơn so với các cuộc xung đột ở Trung Đông. trong những thập kỷ qua.14 Nguồn cung sẵn có từ các
nguồn khác có khả năng giảm thiểu tác động của sự gián đoạn trong tương lai.
13 Trong kịch bản gián đoạn nghiêm trọng, tác động đến giá có được bằng cách sử dụng hàm phản ứng xung sốc cung (IRF) do Caldara, Cavallo và Iacoviello (2019) báo cáo. Trong kịch bản vừa
phải, các ước tính được đưa ra dựa trên tác động giá trong tháng được quan sát thấy trong một số giai đoạn lịch sử. Để thảo luận rộng hơn về tác động của cú sốc nguồn cung đối với giá
dầu, hãy xem Baumeister và Peersman (2013) và Boer, Pescatori, và Stuermer (2023). Phép tính đơn giản này nhằm mục đích cung cấp ý thức về phạm vi thay đổi ban đầu có thể xảy ra trong
nguồn cung dầu, cho phép tạo ra nhiều kết quả có thể xảy ra phản ánh sự không chắc chắn về nguồn gián đoạn cơ bản, mức độ nguồn cung sẽ giảm ở các quốc gia bị ảnh hưởng và mức độ mà
các nhà sản xuất dầu khác sẽ nhanh chóng bước vào để lấp đầy sự sụt giảm nguồn cung.
14 Cụ thể, trong thập kỷ qua: (i) nguồn cung năng lượng ngày càng đa dạng hơn về mặt địa lý và đến từ nhiều nguồn, trong đó có năng lượng xanh; (ii) sự phát triển của hợp đồng tương lai đã
giúp cải thiện khả năng xác định giá và hiệu quả thị trường; (iii) các chính phủ cùng nhau nắm giữ nguồn dự trữ chiến lược rất lớn. Xem Ngân hàng Thế giới (2023) để biết thêm chi tiết.
Chính sách
45
Machine Translated by Google
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Trong những thập kỷ gần đây, tăng trưởng kinh tế của khu vực Hình II.1. Tăng trưởng khu vực được thúc đẩy bởi
EAP đã vượt qua mức tăng trưởng ở hầu hết các nền kinh tế tích lũy vốn hơn là tăng trưởng TFP
đang phát triển và thị trường mới nổi khác trong những năm
Phân rã năng suất lao động
gần đây, chủ yếu được thúc đẩy bởi tích lũy vốn hơn là tăng
trưởng năng suất (Hình II.1). EAP được hưởng lợi từ sự tăng 12
trưởng nhanh chóng trong những năm 2000 - tăng lương và giúp 10
hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên, tính bền số 8
vững của tăng trưởng phụ thuộc vào nguồn gốc của nó. Tăng 6
trưởng chung về năng suất lao động có thể là do tăng vốn trên
4
mỗi lao động (được gọi là tăng cường vốn), tăng vốn nhân lực
2
(như kỹ năng) và tăng “năng suất” (năng suất tổng các yếu tố,
0
trăm
phần
Điểm
TFP). Các nước đang phát triển có thể đạt được tốc độ tăng
–2
trưởng bắt kịp bằng cách đầu tư nhiều hơn vào vốn vật chất,
-4
chẳng hạn như nhà cửa, máy móc và thiết bị, cũng như vốn con
người, thông qua giáo dục và đào tạo ngày càng tốt hơn. Nhưng –6
2020–
2020–
2020–
2013–
2013–
2013–
2022–
2022–
2022–
2002–
2002–
2002–
đầu tư vốn cuối cùng cho thấy lợi nhuận giảm dần - mặc dù sự
21
21
21
19
19
19
07
23
07
23
07
23
2013–
2002–
2020–
2022–
19
07
21
23
khởi đầu của chúng có lẽ còn xa hơn nhiều trong trường hợp
Trình độ cao
vốn con người. Nhưng về lâu dài, năng suất (TFP) – hiệu quả Trung Quốc
EAP không bao gồm EMDE khác
Bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng tăng trưởng năng suất Nguồn lực con người Năng suất lao động
lao động trong khu vực chủ yếu được thúc đẩy bởi tích lũy vốn
Nguồn: Conference Board, cơ sở dữ liệu tổng thể về kinh tế.
hơn là tăng trưởng TFP. Đóng góp của tích lũy vốn nhân lực Lưu ý: Hình hiển thị giá trị trung bình không có trọng số (EAP ngoại trừ Trung Quốc phản ánh 7 quốc gia). TFP: Năng suất nhân tố tổng hợp.
vào tăng trưởng năng suất lao động cũng tương đối thấp (mặc
dù nghiên cứu gần đây cho thấy rằng đóng góp của tích lũy vốn nhân lực vào tăng trưởng năng suất lao động ở các nền kinh tế đang
phát triển có thể bị đánh giá thấp do các phân tích kế toán tăng trưởng hiện tại không tính đến kết quả học tập một cách phù
hợp) (Hộp II.B1). Mặc dù việc đo lường TFP và vốn nhân lực còn nhiều thách thức, nhưng về tổng thể, các kết quả cho thấy rằng
tăng cường vốn nhân lực là động lực quan trọng hơn để tăng năng suất khi các quốc gia phát triển. Vấn đề này và các khía cạnh
khác của chương trình nghị sự về năng suất phải là ưu tiên chính sách - mức sống trong tương lai phụ thuộc vào đó.
Hộp II.B1. Thước đo mới về đóng góp của tích lũy vốn con người vào năng suất lao động
Phân tích phân tích các nguồn năng suất lao động dựa trên các thước đo về vốn con người tính theo số năm đi học trung
bình, kỹ năng và lương thưởng của dân số trong độ tuổi lao động.15 Mặc dù các thước đo hiện tại có ưu điểm là được áp
dụng rộng rãi ở khắp các quốc gia nhưng chúng không thể thực hiện được quan tâm đến chất lượng lao động đầu vào. Điều
này bị ảnh hưởng không chỉ bởi trình độ học vấn mà còn bởi việc học tập thực tế và các kỹ năng có được cũng như sức khỏe
của lực lượng lao động. Chất lượng giáo dục và y tế chính quy cũng như tác động của đào tạo tại chỗ và học tập bên ngoài
hệ thống giáo dục rất khó đo lường một cách nhất quán.
15 Ước tính vốn nhân lực cho nhiều quốc gia EAP có sẵn từ cơ sở dữ liệu Triển vọng Năng suất Châu Á, The Conference Board và Penn World Tables.
(tiếp theo)
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
47
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Trong một phân tích gần đây, Angrist và cộng sự (2021), đã sử dụng cơ sở dữ liệu có thể so sánh toàn cầu về kết quả học tập (164 quốc
gia từ năm 2000 đến năm 2017) để ước tính vai trò của vốn nhân lực trong việc giải thích sự khác biệt về thu nhập giữa các quốc gia,
điều chỉnh số năm đi học bằng thước đo trực tiếp. về chất lượng giáo dục. Họ nhận thấy rằng mức đóng góp này dao động từ 1/5 đến 1/2,
với sự không đồng nhất đáng kể giữa các nhóm thu nhập. Hình II.B1.1 minh họa các kết quả và nêu bật vai trò ngày càng quan trọng của
vốn nhân lực trong việc thúc đẩy năng suất khi các quốc gia tiến lên trong quá trình phát triển kinh tế. Điều này nhấn mạnh sự cần
thiết đối với các quốc gia EAP để đảm bảo các kỹ năng nền tảng vững chắc cho các nhóm sinh viên hiện tại, điều này cũng sẽ giúp họ có
được các kỹ năng phức tạp hơn phù hợp với nền kinh tế dịch vụ mới.
Hình II.B1.1 Tỷ lệ chênh lệch về năng suất lao động giữa các quốc gia do Vốn nhân lực giải thích
1,00
0,80
0,60
0,40
0,20
0,00
học
học
học
học
Đi
Đi
Đi
Đi
học
học
học
học
đi
đi
đi
đi
lượng
chỉnh
lượng
chỉnh
lượng
chỉnh
lượng
chỉnh
chất
Điều
chất
Điều
chất
Điều
chất
Điều
EAP Thu nhập cao MIC trên MIC thấp hơn
Nguồn: Angrist, N., Djankov, S., Goldberg, PK và cộng sự. Đo lường vốn con người bằng cách sử dụng dữ liệu học tập toàn cầu. Bản chất 592, 403–408 (2021). https://doi.org/10.1038/s41586-021-03323-7.
Lưu ý: Năng suất được định nghĩa là sản lượng thực tế trên mỗi công nhân tính bằng đô la Mỹ (theo giá năm 2010) từ Penn World Tables v.9.0. Việc phân rã kế toán năng suất dựa trên Var(log[H])/Var(log[Y]), trong đó H là thước đo vốn
con người được xây dựng bằng cách sử dụng cả số năm đi học trung bình của dân số và kết quả học tập, cũng như các ước tính tiêu chuẩn vốn và lợi nhuận từ vốn và vốn con người. Mẫu nghiên cứu toàn cầu bao gồm 164 quốc gia từ năm 2000
đến năm 2017, bao gồm phần lớn các quốc gia Đông Á và Thái Bình Dương (EAP).
Trọng tâm đặc biệt của Bản cập nhật này xem xét thách thức tăng trưởng năng suất thông qua phân tích cấp độ doanh nghiệp mới; các yếu tố đằng
sau sự chậm lại của nó; và những chính sách nào có thể thúc đẩy tăng trưởng TFP.
Các nền kinh tế ở Đông Á và Thái Bình Dương đã trải qua tình trạng suy giảm năng suất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cũng như hầu
hết các nền kinh tế còn lại trên thế giới. Mặc dù tăng trưởng năng suất toàn cầu đã chậm lại nhưng tình trạng suy giảm này lại nghiêm trọng
hơn ở các nước đang phát triển ở Đông Á và xảy ra ngay cả ở các nền kinh tế tăng trưởng nhanh trước đây như Trung Quốc (Hình II.2). Trên thực
tế, tăng trưởng năng suất ở các nước đang phát triển ở Đông Á chậm hơn so với các nước phát triển trong khu vực và Hoa Kỳ, cho thấy rằng quá
trình hội tụ đến các quốc gia có thu nhập cao đã chậm lại. Hơn nữa, sự suy giảm năng suất các nhân tố tổng hợp đã dẫn đến tốc độ tăng trưởng
năng suất lao động và tiền lương giảm sút, bù đắp cho tác động của việc tăng cường thâm dụng vốn. Nhưng điều gì giải thích cho sự sụt giảm năng suất?
48 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Tăng trưởng năng suất tổng hợp là một quá trình năng động bao gồm tăng trưởng Hình II.2. Tăng trưởng năng suất tổng hợp đã chậm lại ở các nước
đang phát triển Đông Á
năng suất trong nội bộ doanh nghiệp cũng như việc gia nhập và rút lui (hình II.2).
Năng suất tổng hợp, được đo bằng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), là tổng
Xu hướng tăng trưởng TFP (thay đổi phần trăm hàng năm)
TFP của mỗi công ty cơ bản tính theo quy mô của công ty (giá trị gia tăng).16
Năng suất tổng hợp tăng nếu các công ty hiện tại trở nên năng suất hơn thành 1,5
phần (“trong công ty” trong Hình II.3), ví dụ thông qua việc sử dụng công nghệ
1
mới hoặc cải tiến trong quản lý.
0,5
Năng suất tổng hợp cũng tăng nếu các doanh nghiệp có năng suất cao hơn mở rộng 0
trăm
Phần
quy mô hoặc các doanh nghiệp có năng suất kém hơn thu hẹp lại, phản ánh sự phân
–0,5
bổ lại thị phần sang các doanh nghiệp có năng suất cao hơn (thành phần “tái phân
–1
bổ”).17 Quá trình gia nhập và rời bỏ năng động cũng có thể nâng cao năng suất
thông qua việc gia nhập nhiều hơn các công ty hoạt động hiệu quả và sự rút lui –1,5
của các công ty kém hiệu quả hơn (các thành phần “gia nhập” và “rút lui”). Trước 1995 2000 2005 2010 2015 2020
tiên, chúng tôi phân tích tăng trưởng năng suất tổng hợp thành các thành phần
Trung Quốc Đông Á tiên tiến EAP không bao gồm Trung Quốc
này. Sau đó, chúng tôi xem xét kỹ hơn các thành phần bên trong công ty, đối Hoa Kỳ EMDE khác
chiếu sự tăng trưởng của các công ty tiên phong và công ty tụt hậu.18 Việc chẩn
Nguồn: Conference Board, cơ sở dữ liệu tổng thể về kinh tế.
đoán chính xác các nguyên nhân gây suy giảm năng suất đóng vai trò quan trọng Lưu ý: Phản ánh xu hướng tăng trưởng TFP sau khi áp dụng bộ lọc Hodrick-Prescott để loại bỏ những biến động ngắn hạn.
Nhập thêm
Lưu ý: Các công ty biên giới đề cập đến các công ty có năng suất cao nhất trong một quốc gia và trong ngành.
16 Cụ thể, chúng tôi tính toán các phân tách này trong mỗi ngành có 2 chữ số, sử dụng TFP của công ty và quy mô doanh nghiệp (giá trị gia tăng) và các ngành tổng hợp có 2 chữ số sử dụng giá trị gia tăng của ngành
cổ phần trong nền kinh tế.
17 Lưu ý rằng có thể có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nguồn tăng trưởng tổng hợp này. Ví dụ, phạm vi tái phân bổ lớn hơn thông qua thị trường sản phẩm và yếu tố linh hoạt có thể khuyến khích các công ty thực hiện đầu
tư chìm, điều này có thể nâng cao cả năng suất nội bộ công ty và quy mô của các công ty sản xuất. Hơn nữa, mối đe dọa cạnh tranh từ sự gia nhập của công ty có thể khuyến khích những đổi mới trong nội bộ công ty để
đi trước đối thủ. Chúng ta quay lại những điểm này trong các phần tiếp theo.
18 Những người tiên phong và những người tụt hậu được định nghĩa là những người có mức năng suất cao nhất và thấp nhất tương ứng, chúng tôi sẽ xem xét trong phần tiếp theo.
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 49
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.4. Tăng trưởng năng suất ở EAP chủ yếu được thúc đẩy bởi sự gia tăng năng suất trong các doanh nghiệp
120
100
80
60
40
trăm
Phần
20
–20
–40
Trong nội bộ công ty Tái phân bổ Lối vào Lối ra
Nguồn: Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam phản ánh tính toán của tác giả sử dụng dữ liệu vi mô của Văn phòng Thống kê, Trung Quốc được lấy từ Brandt et al. (2020a), Hoa Kỳ được lấy từ Pancost và Yeh (2022).
Lưu ý: Các phần chia được tính ở mức 2 chữ số và tổng hợp bằng trọng số giá trị gia tăng. Biểu đồ phản ánh mức trung bình của 5 hoặc 6 thay đổi về năng suất hàng năm, trong các khoảng thời gian được đề cập trong chú giải (5 hoặc 6 năm tùy
thuộc vào nguồn dữ liệu sẵn có của quốc gia). Việc tham gia chỉ phản ánh sự tham gia của các doanh nghiệp trẻ, việc tham gia khảo sát do thay đổi mẫu đã bị loại trừ.
Ở khu vực EAP, tăng trưởng tổng hợp của TFP dường như chủ yếu là do cải thiện năng suất ở các doanh nghiệp hiện có. Đối với các quốc gia EAP, trung
bình khoảng 3/4 năng suất tổng hợp là do tăng trưởng nội bộ doanh nghiệp và đối với mỗi quốc gia, nó phản ánh ít nhất 45% tổng năng suất (hình II.4).19
Phần có thể quy cho việc doanh nghiệp rút lui và tái phân bổ là nhỏ (Hộp II.B2), điều này có thể gợi ý rằng các nguồn lực bị mắc kẹt trong các doanh
nghiệp kém hiệu quả hơn nên rút lui và do đó các doanh nghiệp có năng suất cao hơn phải vật lộn để mở rộng quy mô và tăng thị phần của mình. Tuy nhiên,
có sự đóng góp đáng kể hơn từ sự gia nhập của doanh nghiệp vào đầu những năm 2000 ở Trung Quốc và trong lĩnh vực dịch vụ.20
Vì hầu hết tăng trưởng năng suất là do tăng trưởng nội bộ doanh nghiệp, nên sự chậm lại trong năng suất tổng hợp cũng có thể chủ yếu là do tăng trưởng
nội bộ doanh nghiệp chậm lại. Bằng chứng về ngành sản xuất của Thái Lan, sử dụng cách phân tích năng suất khác, cũng cho thấy phần lớn tình trạng suy
giảm năng suất từ năm 2006 đến năm 2011 là do sự trì trệ trong nội bộ doanh nghiệp, với việc tái phân bổ và gia nhập hoặc rút lui đóng góp không đáng
kể (Paweenawat và cộng sự, 2017; Ngân hàng Thế giới, 2020). Một mối lo ngại có thể là việc đo lường TFP đòi hỏi thông tin về vốn không phải lúc nào
cũng có sẵn rộng rãi.21 Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi cũng tính toán phân rã năng suất lao động và tương tự, tìm ra thành phần bên trong doanh
nghiệp đóng góp ít nhất một nửa tổng thay đổi cho mỗi EAP quốc gia (và trung bình là hơn 80%).
Tăng trưởng thông qua các doanh nghiệp mới gia nhập cũng có thể quan trọng trong thời kỳ cải cách, mặc dù hầu hết tăng trưởng năng suất diễn ra trong
nội bộ doanh nghiệp. Trong thời gian Trung Quốc gia nhập WTO, gần một nửa tăng trưởng tổng hợp là do các doanh nghiệp mới, mặc dù các doanh nghiệp nội bộ
19 Vai trò chủ đạo của tăng trưởng nội bộ doanh nghiệp là bất chấp việc xem xét những thay đổi trong khoảng thời gian 5 năm trở lên, mà theo kết cấu sẽ có tầm quan trọng lớn hơn đối với việc gia nhập và rút lui so với những thay đổi hàng năm,
vì những người tham gia sẽ bao gồm bất kỳ công ty nào có tuổi đời dưới 5 năm.
20 Lưu ý rằng chúng tôi đã phân tách thành phần gia nhập vào mẫu gia nhập của các công ty trẻ mới và gia nhập mẫu của các công ty lâu đời hơn (loại sau có thể phản ánh những thay đổi trong mẫu) và chúng tôi phản ánh
21 Đối với hầu hết các quốc gia trong mẫu của chúng tôi, dữ liệu về vốn có sẵn từ 3/4 doanh nghiệp trở lên, tuy nhiên, đối với Việt Nam, con số này là gần 1/3. Tuy nhiên chúng ta thấy sự phân hủy tương tự
cho Việt Nam sử dụng năng suất lao động hoặc TFP.
50 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hộp II.B2. Tạo việc làm hiệu quả – tái phân bổ việc làm ở EAP
Việc tái phân bổ cho các công ty có năng suất cao hơn có EAP Hình II.B2.1. Tái phân bổ việc làm sang các công ty có
thấp nhưng khó đo lường do hạn chế về dữ liệu. Việc đo lường
năng suất cao hơn là thấp so với Hoa Kỳ
Philippines và Việt Nam trong một số năm nhất định). Dựa trên
lường việc tái phân bổ bằng cách đánh giá liệu các doanh nghiệp
4
có năng suất cao hơn có tăng việc làm hay không. Đối với Trung
trưởng
việc
Tăng
2
làm
Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam, các doanh
(pp)
năng
nghiệp có năng suất cao hơn sẽ tăng việc làm nhiều hơn các doanh
TFP
với
ứng
đáp
Khả
0
nghiệp có năng suất kém hơn – một dấu hiệu của sự tái phân bổ
năng suất (hình II.B2.1). Tuy nhiên, mức độ phản ứng của việc
PHL
CHN
MYS
VNM
ID
HOA
-
KỲ
-
-
-
-
-
tạo
Chế
tạo
Chế
tạo
Chế
tạo
Chế
tạo
Chế
tạo
Chế
Dịch
làm đối với năng suất dường như thấp so với mức chuẩn ở các thị
Dịch
PHL
VNM
vụ
vụ
-
-
trường linh hoạt hơn như Mỹ và đồng thời, nó không tăng theo
thời gian. Điều này cho thấy rằng các công ty có năng suất cao
Nguồn: Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam phản ánh tính toán của tác giả bằng cách sử dụng dữ
nhất đang gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô việc làm. liệu vi mô của Văn phòng Thống kê. Khả năng đáp ứng của Hoa Kỳ có nguồn gốc từ Decker et al (2020).
Lưu ý: Hình cho thấy mức tăng điểm phần trăm trong tăng trưởng việc làm trong một năm tương quan với TFP cao hơn
một độ lệch chuẩn (độ trễ một năm) – đối với các doanh nghiệp sản xuất. Phản ánh năm 2013 hoặc năm cuối cùng có
sẵn, nếu sớm hơn.
tăng trưởng vẫn chiếm phần lớn tăng trưởng (tái phân bổ trong các doanh nghiệp hiện có và rút lui đóng góp không đáng kể).22 Ở các quốc gia
khác cũng vậy, tăng trưởng trong nội bộ doanh nghiệp vẫn quan trọng ngay cả trong giai đoạn cải cách, mặc dù việc tái phân bổ, đặc biệt thông
qua việc doanh nghiệp gia nhập doanh nghiệp có thể đóng một vai trò quan trọng. Bartelsman và cộng sự. (2004) xem xét 25 nền kinh tế phát triển
và mới nổi trong những năm 1980 và 1990 (nhiều nền kinh tế đã trải qua cải cách trong thời kỳ của họ) và thấy rằng đóng góp của nội bộ doanh
nghiệp chiếm ưu thế, trong khi sự gia nhập của doanh nghiệp có thể giải thích 20–50% tăng trưởng năng suất tổng hợp. Các nghiên cứu về cải cách
của Ấn Độ trong những năm 1990 cho thấy hầu hết tăng trưởng năng suất diễn ra trong các nhà máy, thay vì thông qua tái phân bổ hoặc gia nhập và
rút lui (Bollard và cộng sự, 2013; Harrison và cộng sự, 2011; Sivadasan, 2009).
Tầm quan trọng của tăng trưởng năng suất nội bộ, yếu tố chi phối động lực của doanh nghiệp ở EAP, cũng phổ biến ở các khu vực khác. Các nghiên
cứu ở các vùng khác sử dụng TFP chưa được phổ biến rộng rãi và thường dựa vào năng suất lao động. Sử dụng dữ liệu doanh nghiệp sản xuất ở
Brazil, Bazzi và cộng sự (2014) nhận thấy rằng thành phần bên trong doanh nghiệp giải thích phần lớn sự tăng trưởng về năng suất lao động từ
năm 1987 đến năm 2009. Tương tự, thành phần bên trong doanh nghiệp chi phối các thành phần khác (gia nhập, rút lui hoặc tái phân bổ). ) về tăng
trưởng năng suất lao động trong các lĩnh vực sản xuất ở Chile, Colombia, Mexico và Peru từ năm 1995 đến năm 2012 (Brown và cộng sự, 2018).
Ngân hàng Thế giới (sắp xuất bản) nhận thấy rằng tăng trưởng năng suất lao động ở các nước châu Âu có thu nhập trung bình gần như được phân
chia đồng đều giữa tái phân bổ và đóng góp nội bộ doanh nghiệp, điều mà các tác giả cho rằng có thể có nghĩa là các công ty châu Âu đang gặp
khó khăn trong việc đầu tư vào năng suất (áp dụng công nghệ, thực tiễn quản lý) .23 Đây là chủ đề mà chúng ta sẽ quay lại trong phần tiếp theo.
Tại sao sự suy giảm năng suất lại xảy ra vào thời điểm công nghệ tiến bộ nhanh chóng vẫn là một câu đố. Nhiều công nghệ mới như tự động hóa,
internet băng thông rộng và thương mại điện tử đang được phổ biến nhanh chóng (Hình II.5). Việc áp dụng các công nghệ mới có ý nghĩa quan trọng
đối với năng suất, với bằng chứng từ Philippines cho thấy điều này đặc biệt đúng đối với lĩnh vực dịch vụ
22 Lưu ý rằng ở đây chúng tôi chỉ phản ánh sự tham gia của các doanh nghiệp trẻ mới và loại trừ việc tham gia vào mẫu của các doanh nghiệp lâu đời hơn (danh sách sau có thể phản ánh những thay đổi trong việc lấy mẫu). Bao gồm cả cái sau đối với Trung Quốc sẽ
phản ánh việc tăng sự đóng góp của những người mới gia nhập lên khoảng 60% và giảm sự đóng góp trong nội bộ doanh nghiệp xuống khoảng 40%.
23 Lưu ý rằng những kết quả này sử dụng phân tích năng suất của Melitz-Polanec (2015), khác với Foster et al. (2001) chúng tôi sử dụng sự phân rã, trong đó nó có thể gán trọng số lớn hơn
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
51
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.5. Các công nghệ mới đã lan tỏa nhanh chóng trong khu vực EAP
–5 50
–7 40
–9 30
–11 20
Robot
nhân
công
1000
trên
nhập
Đăng
–13 10
–15
0
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016 2018 2020 2012 2015 2018 2021
của tôi PHL THA VNM KHM của tôi THA VNM
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng IFR và WDI (bảng a), tính toán của tác giả sử dụng dữ liệu ITU (bảng b).
Lưu ý: Băng thông rộng nhanh được xác định là kết nối > 10MBps.
doanh nghiệp (hình II.6). Ví dụ, trong trường hợp sử dụng phân tích dữ Hình II.6. Công nghệ mới đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng
sản xuất. Trong phần tiếp theo, chúng ta khám phá mối liên hệ giữa việc
Những thay đổi trong nội bộ công ty về TFP do tăng Vốn CNTT hoặc Dữ liệu và
áp dụng công nghệ và cải thiện năng suất, để làm sáng tỏ mối liên hệ khó
Vốn phần mềm trên mỗi công nhân
hiểu giữa tiến bộ công nghệ nhanh chóng và sự suy giảm năng suất.
1,5
1.0
0,0
Sự suy giảm năng suất diễn ra trên toàn cầu – nhưng ở các nền kinh tế
Chế tạo Dịch vụ
tiên tiến, các công ty tiên phong tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng, phần
Tổng vốn CNTT trên mỗi công nhân
còn lại đang phải vật lộn để bắt kịp. Phần này xem xét kỹ hơn thành phần
Vốn dữ liệu và phần mềm trên mỗi công nhân
bên trong công ty, đối chiếu sự tăng trưởng của các công ty tiên phong
và công ty tụt hậu ở EAP. Các công ty tiên phong đề cập đến những công
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng dữ liệu vi mô của ASPBI và Văn phòng Thống kê CPBI Philippine.
Lưu ý: Đo lường mức tăng một độ lệch chuẩn về Vốn CNTT hoặc Vốn dữ liệu và phần mềm trên mỗi lao động.
ty có năng suất cao nhất trong một quốc gia và trong ngành, xem hộp A.1.
Ước tính nội bộ công ty từ hồi quy kiểm soát các tác động cố định của công ty và năm.
Các công ty tiên phong có ý nghĩa quan trọng đối với năng suất tổng hợp vì vai trò năng động của họ trong việc phổ biến năng suất. Các công nghệ và mô
hình kinh doanh mới thường được áp dụng đầu tiên bởi các công ty có năng suất cao nhất. Những công nghệ này sau đó có xu hướng lan tỏa dần dần qua chuỗi
cung ứng và mạng lưới khách hàng, đồng thời tạo động lực cho các đối thủ cạnh tranh bắt chước (Hộp II.B3).
Các công ty tiên phong ở EAP cũng có ý nghĩa quan trọng đối với năng suất tổng hợp do quy mô của họ. Các công ty biên giới chiếm tỷ trọng lớn trong việc
tạo việc làm mới, đầu tư, sản xuất và xuất khẩu. Các công ty có năng suất cao hơn sẽ lớn hơn trong lĩnh vực sản xuất EAP và ở mức độ thấp hơn trong lĩnh
vực dịch vụ, do đó, hiệu quả hoạt động của các công ty biên giới có ý nghĩa không tương xứng đối với kết quả tổng hợp.
10% doanh nghiệp có năng suất cao nhất trong mỗi ngành chiếm hơn 1/4 việc làm hoặc tạo việc làm mới ở mỗi quốc gia EAP mà chúng tôi có dữ liệu cấp doanh
nghiệp. Biên giới cũng tạo ra chất lượng cao một cách không cân xứng
52 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hộp II.B3. Các doanh nghiệp biên giới và phổ biến công nghệ ở Việt Nam
Halimex, một nhà máy bia quốc doanh của Việt Nam, được thành lập vào năm 1966 nhưng vẫn tiếp tục sản xuất hầu hết các sản phẩm của mình
cho đến những năm 2000 bằng các quy trình sử dụng nhiều lao động và được coi là thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế. Năm 2003,
Carlsberg (một công ty đa quốc gia của Đan Mạch) đã mua lại 25% cổ phần và cung cấp thiết bị, máy móc hiện đại để thành lập một nhà
máy mới cũng như chuyển giao bí quyết quan trọng trong bí quyết sản xuất và tiếp thị. Trình độ công nghệ của nhà máy Danbrew mới cao
hơn nhiều so với công nghệ được sử dụng ở các nhà máy bia cũ vào thời điểm đó. Halimex và bia lon Halida nhanh chóng thành công. Với
bí quyết, công nghệ và kinh nghiệm mới có được thông qua khoản đầu tư của Carlsberg, Halimex đã thành lập một nhà máy bia nhánh (Việt
Hà), áp dụng nhiều công nghệ và phương pháp thực hành tại công ty mẹ.
Sự gia nhập của Honda vào ngành công nghiệp xe máy Việt Nam vào năm 1996 đã có tác động mạnh mẽ đến bản thân ngành công nghiệp xe máy
cũng như mạng lưới các nhà cung cấp. Honda xây dựng các nhà máy tiên tiến bao gồm robot chính xác, máy điều khiển bằng máy tính, dây
chuyền lắp ráp tự động hóa cao, xưởng sơn hiện đại và xưởng kiểm soát chất lượng.
Các công nghệ sản xuất phức tạp được kết hợp với đào tạo kỹ năng, không chỉ làm việc với máy móc mà còn cả các kỹ năng quản lý và tiếp
thị rộng hơn. Honda cũng phát triển mạng lưới các nhà cung cấp tại Việt Nam – không chỉ các công ty nước ngoài khác mà còn cả các nhà
cung cấp trong nước. Các tiêu chuẩn chất lượng của Honda được truyền đạt tới các nhà cung cấp, cùng với việc hỗ trợ kỹ thuật và đào
tạo kỹ năng quản lý – tạo ra cả động lực và năng lực để nâng cấp chuỗi cung ứng trong nước.
Các công ty có năng suất cao nhất trên toàn cầu đều đến từ nhiều nước OECD. OECD định nghĩa các công ty biên giới là 5% công ty có năng
suất cao nhất trong mỗi ngành trên toàn cầu, mặc dù những phát hiện tương tự cũng được tìm thấy khi sử dụng 100 công ty hàng đầu
(Andrew và cộng sự, 2016, Criscuolo, 2023). Ví dụ, theo dữ liệu của Orbis đối với các nền kinh tế OECD, Phần Lan và Hàn Quốc có các
công ty dẫn đầu toàn cầu trong hầu hết các lĩnh vực CNTT-TT và Ý có đại diện tốt ở vị trí dẫn đầu toàn cầu trong ngành dệt may (Andrew
và cộng sự, 2016). Mười một quốc gia OECD có ít nhất một công ty tiên phong toàn cầu trong ba phần tư ngành công nghiệp có tỷ lệ 2 chữ
số trở lên, nhưng các nước giàu hơn có xu hướng có nhiều công ty tiên phong toàn cầu hơn. Các công ty tiên phong toàn cầu lớn hơn, thâm
dụng vốn hơn, có tỷ trọng lao động thấp hơn (tiền lương tính theo phần giá trị gia tăng), có nhiều khả năng thuộc sở hữu nước ngoài và
có nhiều khả năng được cấp bằng sáng chế hơn các công ty vừa hoặc lớn khác ở các nền kinh tế tiên tiến (Andrew et cộng sự, 2016).
Các công ty tiên phong quốc gia EAP nhỏ hơn so với các đối tác toàn cầu của họ. Biên giới quốc gia ở khu vực Đông Á đang phát triển,
được xác định là 10% doanh nghiệp có năng suất cao nhất trong mỗi ngành và quốc gia, cũng có những đặc điểm riêng biệt so với phần còn
lại của các doanh nghiệp trong nền kinh tế của họ. Các công ty tiên phong trong nước lớn hơn, thâm dụng vốn hơn, thâm dụng vốn CNTT
hơn, có vốn dữ liệu trên mỗi lao động cao hơn, có tỷ lệ lao động thấp hơn, có nhiều khả năng thuộc sở hữu nước ngoài hơn và cũng có
nhiều khả năng xuất khẩu hơn. Tuy nhiên, ngay cả ở biên giới quốc gia trong lĩnh vực sản xuất, chưa đến một phần ba số doanh nghiệp
thuộc sở hữu nước ngoài và khoảng một nửa số doanh nghiệp không xuất khẩu. Hơn nữa, công ty tiên phong quốc gia ở EAP có nhiều đơn đặt
hàng nhỏ hơn so với các công ty tiên phong toàn cầu – nhỏ hơn khoảng 10 lần về mặt việc làm hoặc doanh số bán hàng. Tổng quát hơn, bằng
chứng cho thấy có quá ít doanh nghiệp lớn ở các nền kinh tế đang phát triển so với các nước tiên tiến (Ciani et al, 2020).
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 53
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
việc làm, vì các công ty biên giới trả lương cao hơn – trung bình cao hơn gần 50% so với mức lương ở các doanh nghiệp vừa hoặc lớn ngoài
biên giới. Mặc dù quan trọng đối với việc làm nhưng các doanh nghiệp biên giới cũng chiếm gần 40% vốn đầu tư, gần một nửa tổng kim ngạch
xuất khẩu và hơn một nửa giá trị gia tăng của ngành.
Ì a) Năng suất của khu vực tiên phong toàn cầu đang tăng trưởng nhanh chóng, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số
Vào những năm 1990, các công nghệ mới đã sớm được các công ty tiên phong ở các nước EAP áp dụng nhưng lan tỏa đến các công ty khác chậm hơn
so với trường hợp trước đây (Cirera và cộng sự, 2021). Độ trễ giữa thời điểm một công nghệ được phát minh lần đầu tiên và thời điểm nó xuất
hiện lần đầu ở các quốc gia đã giảm dần, cho thấy ít nhất một số công ty đã được tiếp cận nhanh hơn với các công nghệ mới. Những xu hướng
này ít nhất được thể hiện rõ ràng khi sử dụng dữ liệu về các công nghệ được phát minh cho đến những năm 1990 - sau này chúng ta sẽ thảo luận
về làn sóng công nghệ phân tích dữ liệu hiện nay. Đối với các nước đang phát triển ở Đông Á, độ trễ áp dụng này cũng hội tụ ở mức độ các
quốc gia OECD, cho thấy công nghệ đã nhanh chóng đến tay các công ty tốt nhất ở Đông Á.
Mô hình các công ty tiên phong nhanh chóng áp dụng công nghệ phù hợp với kinh nghiệm của các nền kinh tế tiên tiến ngày nay. Ở các nền kinh
tế tiên tiến, trong khi tốc độ tăng năng suất bị trì trệ ở phần lớn các doanh nghiệp, thì những doanh nghiệp có năng suất cao nhất (tuyến
đầu toàn cầu) tiếp tục có mức tăng năng suất nhanh chóng kể từ những năm 2000 (hình II.7A). Ngày càng có nhiều tài liệu cho rằng sự khác
biệt về năng suất giữa các công ty ở các nước tiên tiến là do các công nghệ chi phí chìm mới, chẳng hạn như công nghệ dữ liệu hoặc kỹ năng
quản lý, có lợi cho các công ty siêu sao (Autor và cộng sự, 2020; Corrado và cộng sự, 2021). Theo đó, sự tăng trưởng của biên giới toàn cầu
đặc biệt nhanh chóng trong các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số (hình II.7B), với việc phân loại cường độ kỹ thuật số được giải thích
trong Hộp II.B5. Hiệu ứng này có khả năng bị khuếch đại bởi toàn cầu hóa (Andrew và cộng sự, 2016). Thách thức ở các nền kinh tế tiên tiến
là tại sao những công nghệ hiện đại quan trọng cho tăng trưởng này lại không được phổ biến nhanh hơn ra ngoài các công ty tốt nhất.
Ì b) Các công ty tiên phong ở EAP đang tụt hậu về năng suất, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số
Kể từ những năm 2000, các công ty tiên phong quốc gia ở EAP không còn đẩy mạnh tiên phong về phía trước và đang tụt hậu so với các công ty
tốt nhất trên toàn cầu. Hình II.8A và II.8B cho thấy sự thay đổi trong phân bổ năng suất theo thời gian, khi các mặt cắt ngang lặp đi lặp lại,
Hình II.7. Ở các nền kinh tế tiên tiến, các công ty tiên phong đang phát triển với tốc độ nhanh hơn các công ty khác, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số
Các doanh nghiệp tăng trưởng TFP ở các nền kinh tế tiên tiến, tất cả các lĩnh vực
1 1
0,8 0,8
0,6 0,6
(2003
(2003
Chỉ
Chỉ
0)
số
0)
số
=
0,4 0,4
0,2 0,2
0 0
2003 2007 2011 2015 2019 2003 2007 2011 2015 2019
Các công ty biên giới toàn cầu Các doanh nghiệp thuộc nền kinh tế tiên tiến khác
Lưu ý: Biên giới toàn cầu phản ánh 5% công ty có năng suất cao nhất toàn cầu trong mỗi lĩnh vực sản xuất và dịch vụ ở mức 2 chữ số, các công ty khác phản ánh phần còn lại. Bình quân không trọng số của các ngành. Dựa trên dữ liệu
Orbis của 24 nền kinh tế OECD. Cường độ kỹ thuật số ngành được xác định theo Eurostat.
54 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Chúng tôi phân loại các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số theo chỉ số cường độ công nghệ của Eurostat, trong đó phân loại các lĩnh vực sản
xuất thành các nhóm 'công nghệ cao', 'công nghệ cao trung bình', 'công nghệ thấp trung bình' và 'công nghệ thấp', với các dịch vụ được phân
loại thành 'dịch vụ thâm dụng tri thức' và 'dịch vụ ít thâm dụng tri thức'.
Trong chương này, chúng tôi đề cập đến các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số, tương ứng với 'sản xuất công nghệ cao' và 'dịch vụ thâm dụng
tri thức' theo Eurostat. Các lĩnh vực chuyên sâu về kỹ thuật số này là sản xuất dược phẩm, sản xuất máy tính và điện tử, xuất bản và phát
sóng, viễn thông, lập trình máy tính, dịch vụ CNTT và nghiên cứu và phát triển khoa học (tương ứng các phân khu 21, 26, 59–63 và 72 của ISIC
rev.4).
Việc đo lường cường độ kỹ thuật số không phải là việc dễ dàng và có thể phụ thuộc vào việc người ta đo lường các kỹ năng kỹ thuật số, việc sử
dụng vốn kỹ thuật số như CNTT hay robot hay sử dụng các dịch vụ kỹ thuật số như điện toán đám mây. Tuy nhiên, chúng tôi tìm thấy kết quả tương
tự khi sử dụng phân loại OECD của Calvino và cộng sự, (2018), phản ánh sự tổng hợp của các thành phần khác nhau này của kỹ thuật số.
Các biện pháp đo lường của khu vực Eurostat này dựa trên các nền kinh tế châu Âu mà chúng tôi coi là một tiêu chuẩn tương đối không bị bóp méo.
Xếp hạng ngành dường như cũng là một yếu tố dự báo có ý nghĩa về cường độ kỹ thuật số của các ngành trong việc phát triển EAP. Đối với
Philippines, nơi có dữ liệu ngành chi tiết về sử dụng công nghệ, chúng tôi nhận thấy rằng các ngành công nghiệp 2 chữ số có số lượng máy tính
trên mỗi công nhân cao hơn (một đại diện chung của vốn CNTT tổng hợp) cũng có xu hướng xếp hạng cường độ công nghệ cao hơn theo Eurostat (với
cho phép thay đổi thành phần của các công ty theo thời gian. Ngược lại với những gì đang xảy ra ở các nền kinh tế tiên tiến, năng suất của các doanh
nghiệp có năng suất cao nhất (tức là doanh nghiệp biên giới quốc gia) ở Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam lại tăng ít hơn so với
các doanh nghiệp còn lại ở quốc gia tương ứng.24 Có một số khác biệt về thời điểm hội tụ giữa các quốc gia (ví dụ nổi bật hơn trong những năm gần đây
Những phát hiện này đúng trong cả lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Kết quả tương tự cũng đạt được khi sử dụng năng suất lao động thay vì TFP hoặc chỉ tập
trung vào các doanh nghiệp vừa và lớn thay vì toàn bộ hệ thống phân phối của doanh nghiệp. Bằng chứng dự kiến về năng suất lao động sử dụng Khảo sát
Doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới cũng cho thấy sự trì trệ của biên giới quốc gia có thể xảy ra ở các nước đang phát triển ngoài EAP, mặc dù ở mức độ
thấp hơn.
Biên giới quốc gia đang tụt xa hơn so với biên giới toàn cầu trong các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số (hình II.9). Tốc độ tăng trưởng chậm lại ở
khu vực biên giới quốc gia rõ ràng hơn trong các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số – cũng là những lĩnh vực mà ở các nước giàu, các công ty tốt nhất
đang rút lui (hình II.9A). Ví dụ, trong các lĩnh vực sản xuất kỹ thuật số, từ năm 2005 đến năm 2015, năng suất của các công ty tiên phong toàn cầu đã
tăng 76%, trong khi các công ty tiên phong quốc gia ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam chỉ tăng năng suất trung bình 31%. Đối với các lĩnh
vực ít kỹ thuật số hơn, chúng tôi không thấy có sự thay đổi đáng kể nào trong sự tăng trưởng của ranh giới quốc gia so với các quốc gia tụt hậu hoặc
biên giới toàn cầu (hình II.9B). Bằng chứng tổng thể về các xu hướng ở biên giới quốc gia (so với biên giới toàn cầu) ngoài EAP còn hạn chế. Bằng chứng
cho Colombia và Mexico không tìm thấy bất kỳ sự thay đổi rõ ràng nào giữa biên giới quốc gia và toàn cầu trong sản xuất từ năm 2003 đến năm 2011 (Araujo
Sự chậm chạp của các công ty tiên phong quốc gia làm tăng mối lo ngại về sự tăng trưởng trong tương lai của tất cả các công ty. Nhìn bề ngoài, sự hội
tụ trong các nền kinh tế quốc gia là một tin tốt – khi một công ty trung bình bắt kịp biên giới quốc gia. Bất chấp sự bắt kịp này, khoảng cách hội tụ
giữa các công ty có năng suất cao nhất và kém nhất vẫn còn lớn ngay cả trong giai đoạn cuối cùng mà chúng tôi có dữ liệu. Các công ty tiên phong (10%
năng suất cao nhất) trung bình có năng suất cao hơn khoảng 10 lần so với những công ty tụt hậu trong cùng ngành (10% dưới cùng).
24 Điều quan trọng là phải đối chiếu các số liệu thống kê được trình bày trên các mặt cắt ngang của phân bổ năng suất với cái gọi là hồi quy hội tụ ở cấp độ doanh nghiệp, xem hộp 2.
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 55
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.8A. …nhưng ở khu vực EAP, tăng trưởng năng suất của các doanh nghiệp sản xuất biên giới chậm hơn so với các doanh nghiệp khác…
1.2 1.2
1.0 1.0
0,8 0,8
(2000
Chỉ
0)
số
=
0,6 0,6
(1998
Chỉ
0)
số
=
0,4 0,4
0,2 0,2
0,0 0,0
1998 2001 2004 2007 2000 2005 2010 2015
Malaysia Philippin
0,6 0,6
0,4 0,4
(2006
Chỉ
(2000
0)
số
=
Chỉ
0)
số
=
0,2 0,2
0,0 0,0
–0,2 –0,2
Việt Nam
1.0
0,8
0,6 Các công ty tiên phong trong nước (10% năng suất cao nhất)
(2001
Chỉ
0)
số
=
0,4 Các công ty tụt hậu (kém hiệu quả nhất 10%)
0,2
0,0
2001 2003 2005 2007 2009 2011 2013 2015
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng vi dữ liệu của Cục Thống kê.
Lưu ý: Phản ánh phân vị chéo của phân bổ năng suất của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp quốc gia theo thời gian, P90 phản ánh phân vị thứ 90 của phân bổ năng suất của doanh nghiệp (đường biên quốc gia) và P10 là doanh
nghiệp có năng suất 10% thấp nhất.
56 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hình II.8B. …và tương tự đối với các công ty tiên phong trong lĩnh vực dịch vụ
0,4 0,4
0,2 0,2
(2011
Chỉ
0)
số
=
(2010
Chỉ
0)
số
=
0,0 0,0
–0,2 –0,2
2010 2013 2016 2019 2011 2012 2013 2014 2015
Các công ty tiên phong trong nước (10% năng suất cao nhất) Doanh nghiệp trung bình (Trung bình) Các công ty tụt hậu (kém hiệu quả nhất 10%)
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng vi dữ liệu của Cục Thống kê.
Lưu ý: Phản ánh phân vị chéo của phân bổ năng suất của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp quốc gia theo thời gian, P90 phản ánh phân vị thứ 90 của phân bổ năng suất của doanh nghiệp (đường biên quốc gia) và P10 là doanh nghiệp có năng suất 10%
thấp nhất.
Hình II.9. Biên giới quốc gia ở các nước EAP đang tụt hậu so với biên giới toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số
A. Các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số B. Các lĩnh vực ít sử dụng kỹ thuật số hơn
0,4 0,4
0,2 0,2
0 0
–0,2 –0,2
–0,4 –0,4
–0,6 –0,6
tiên
(Năm
tiên
(Năm
đầu
Chỉ
đầu
Chỉ
0)
số
0)
số
=
–0,8 –0,8
–1 –1
–1.2 –1.2
–1.4 –1.4
2003 2006 2009 2012 2015 2018 2003 2006 2009 2012 2015 2018
VNM - Sản xuất MYS - Sản xuất VNM - Sản xuất MYS - Sản xuất
CHN - Sản xuất IDN - Sản xuất CHN - Sản xuất IDN - Sản xuất
PHL - Sản xuất PHL -Dịch vụ PHL - Sản xuất PHL -Dịch vụ
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng dữ liệu vi mô của Văn phòng Thống kê và Criscuolo (2023) cho biên giới toàn cầu.
Lưu ý: Biên giới quốc gia được xác định như trong hình trước (năng suất doanh nghiệp ở phân vị thứ 90 cho mỗi quốc gia và ngành). Cường độ kỹ thuật số của các ngành được xác định theo Eurostat.
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 57
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Vì kiến thức và công nghệ mới thường đến trước tiên ở các doanh nghiệp tiên phong, sau đó lan tỏa đến các doanh nghiệp còn lại, việc khôi phục các doanh nghiệp
tiên phong quốc gia có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng trong tương lai của tất cả các doanh nghiệp. Tại thời điểm chuyển đổi kỹ thuật số, điều này có
thể có tầm quan trọng cao hơn. Chúng tôi kiểm tra xem liệu các công nghệ mới có được phổ biến rộng rãi trong phần tiếp theo hay không.
Ì c) Biên giới quốc gia đang tụt hậu trong việc sử dụng công nghệ tiên tiến
Ngay cả những công ty có trình độ công nghệ phức tạp nhất trên toàn quốc ở EAP cũng kém phức tạp hơn so với các đối tác của họ ở các nước tiên tiến hơn, như Hàn
Quốc, cho thấy sự phổ biến công nghệ chậm. Không có gì đáng ngạc nhiên, các doanh nghiệp ở Đông Á đang phát triển kém phức tạp hơn các doanh nghiệp ở quốc gia
tiên tiến nhất mà chúng tôi có các thước đo công nghệ từ Khảo sát FAT của Ngân hàng Thế giới (Hàn Quốc). Tuy nhiên, so sánh sự phân bổ công nghệ cho thấy những
khoảng cách công nghệ này còn rộng hơn ở những doanh nghiệp có trình độ phức tạp hơn (Hình II.10). Khoảng cách giữa các doanh nghiệp kém tinh vi nhất ở Campuchia,
Indonesia và Việt Nam với doanh nghiệp kém tinh vi nhất ở Hàn Quốc là tương đối nhỏ (những doanh nghiệp có điểm phân vị thấp). Nhưng khoảng cách ngày càng mở rộng
khi người ta so sánh những quốc gia phức tạp nhất ở những quốc gia này – được biểu thị bằng đường dốc xuống.
Ở Campuchia và Việt Nam, khoảng cách với các công ty Hàn Quốc lớn gấp khoảng hai lần đối với 5% doanh nghiệp có trình độ cao nhất, so với 5% ở nhóm cuối cùng,
với sự khác biệt nhỏ hơn đối với Indonesia. Sự thiếu phức tạp tương đối của biên giới quốc gia cũng đúng ở ngoài Đông Á, ở Bangladesh, Georgia và Ghana, mặc dù
dường như không hiện diện ở Ấn Độ (Hình II.11). Điều này cho thấy các công nghệ tiên tiến đang được lan tỏa chậm đến các nước dẫn đầu quốc gia ở EAP và một số
nước đang phát triển khác so với các nước dẫn đầu ở các nước tiên tiến.
Đối với các nhà lãnh đạo quốc gia, có sự khác biệt đáng kể giữa việc sở hữu công nghệ và sử dụng nó. Sự phổ biến công nghệ hạn chế đặc biệt rõ ràng khi đo lường
các công nghệ được sử dụng phổ biến nhất của một công ty (như trong Hình II.10 và II.11).
Tuy nhiên, các công ty sử dụng một loạt công nghệ, chẳng hạn như kết hợp các ghi chú bằng văn bản với cơ sở dữ liệu điện tử hoặc các nhiệm vụ sản xuất thủ công
với máy móc tự động (Cirera và cộng sự, 2022). Thay vào đó, nếu người ta đo lường công nghệ tiên tiến nhất mà một công ty có, cho dù công ty đó có sử dụng nó
thường xuyên hay không, thì sự khác biệt giữa các công ty dẫn đầu quốc gia ở EAP và các công ty dẫn đầu quốc gia ở các nước tiên tiến sẽ nhỏ hơn nhiều. Điều này
cho thấy rào cản đối với các công ty phức tạp nhất ở EAP không phải là về việc tiếp cận các công nghệ tiên tiến mà nhiều hơn là về việc sử dụng hiệu quả. Thách
thức của việc đưa công nghệ vào quy trình kinh doanh là nó thường đòi hỏi sự đầu tư đáng kể vào kỹ năng và vốn tổ chức (Brynjolfsson và cộng sự, 2008, Bloom và
Các công nghệ kỹ thuật số tiên tiến, chẳng hạn như phân tích dữ liệu, cũng đang được các nhà lãnh đạo quốc gia ở EAP phổ biến chậm hơn so với các nhà lãnh đạo
quốc gia ở các nước đang phát triển khác. Hình II.10 trước đó đã so sánh các doanh nghiệp ở EAP với tiêu chuẩn của các nước tiên tiến, ở đây chúng tôi so sánh
việc sử dụng công nghệ của các doanh nghiệp ở EAP với các nước đang phát triển có thu nhập tương tự (hình II.12). Một doanh nghiệp trung bình ở Campuchia,
Indonesia và Việt Nam cũng có trình độ công nghệ phức tạp như một doanh nghiệp trung bình ở các quốc gia có thu nhập tương tự.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp tiên tiến nhất ở Campuchia và Việt Nam lại có trình độ công nghệ kém hơn các doanh nghiệp tiên tiến nhất ở các quốc gia có thu nhập
tương tự.
Những khoảng trống trong việc sử dụng công nghệ đặc biệt rõ ràng trong trường hợp các công nghệ mới liên quan đến phân tích dữ liệu (Hình II.13) – những công nghệ
có mối liên hệ chặt chẽ với hiệu suất ngày càng tăng của các công ty tốt nhất trên toàn cầu. Một câu hỏi tự nhiên là điều gì đã thay đổi khiến biên giới quốc gia
tụt hậu so với biên giới toàn cầu. Mô hình kinh doanh dựa trên dữ liệu là một ứng cử viên.
Ở các nền kinh tế tiên tiến, mô hình kinh doanh của những công ty tốt nhất đã chuyển từ đầu tư vào tài sản hữu hình như nhà máy hoặc máy móc sang đầu tư chủ yếu
bao gồm các tài sản vô hình như dữ liệu hoặc quy trình kinh doanh (Corrado et al. 2016).
Riêng phần mềm hiện chiếm 18% tổng đầu tư của công ty Hoa Kỳ, từ mức 3% vào năm 1980 (De Ridder, 2024).
Những công nghệ dữ liệu này đòi hỏi chi phí chìm lớn, thông qua chi phí thu thập và xử lý khối lượng lớn dữ liệu cũng như chi phí tổ chức và đào tạo lại để đưa
phân tích dữ liệu vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, dữ liệu vô hình có thể được sao chép và sử dụng trong toàn tổ chức với chi phí cận biên gần bằng 0, điều này có
thể dẫn đến tăng năng suất đáng kể (De Ridder, 2024).
58 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hình II.10. Khoảng cách trong việc sử dụng công nghệ giữa các nước Đông Á đang phát triển và các nước tiên tiến ngày càng rộng hơn đối với các doanh nghiệp phức tạp hơn
Khoảng cách trong việc sử dụng công nghệ giữa EAP và các nước tiên tiến đối với các mức độ phức tạp công nghệ khác nhau (Các mức độ cao hơn = Tinh vi hơn)
Campuchia Indonesia
0 0
–.5 –.5
–1 –1
Khoảng
Khoảng
giới
biên
cách
giới
biên
cách
đến
đến
–1,5 –1,5
–2 –2
5 20 35 50 65 80 95 5 20 35 50 65 80 95
lượng tử lượng tử
Việt Nam
–.5
–1
Khoảng
giới
biên
cách
đến
–1,5
–2
5 20 35 50 65 80 95
lượng tử
Nguồn: Áp dụng công nghệ cấp doanh nghiệp (FAT) của Ngân hàng Thế giới. Cirera và cộng sự. (sắp ra mắt).
Lưu ý: Phản ánh sự phức tạp của công nghệ chức năng kinh doanh tổng quát phổ biến nhất (ký quỹ chuyên sâu) cho cả lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Sự phân bổ của Campuchia, Indonesia và Việt Nam được so sánh với các phân vị tương tự trong phân bổ của quốc
gia tiên tiến nhất (Hàn Quốc, Cộng hòa)) trong dữ liệu FAT. Ví dụ, phân vị 95 so sánh 5% công ty có trình độ phức tạp nhất ở mỗi quốc gia và 5% công ty hàng đầu ở Hàn Quốc.
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 59
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.11. Khoảng cách lớn về trình độ công nghệ giữa các công ty quốc gia tốt nhất và các công ty tốt nhất trên toàn cầu hiện rõ
ở một số quốc gia ở các khu vực khác.
Bangladesh Gruzia
0 0
–.5 –.5
–1 –1
Khoảng
Khoảng
giới
biên
cách
giới
biên
cách
đến
đến
–1,5 –1,5
–2 –2
5 20 35 50 65 80 95 5 20 35 50 65 80 95
lượng tử lượng tử
Ghana Ấn Độ
0 0
–.5 –.5
–1 –1
Khoảng
Khoảng
giới
biên
cách
giới
biên
cách
đến
đến
–1,5 –1,5
–2 –2
5 20 35 50 65 80 95 5 20 35 50 65 80 95
lượng tử lượng tử
Nguồn: Áp dụng công nghệ cấp doanh nghiệp (FAT) của Ngân hàng Thế giới. Cirera và cộng sự. (sắp ra mắt).
Lưu ý: Phản ánh sự phức tạp của công nghệ chức năng kinh doanh tổng quát phổ biến nhất (ký quỹ chuyên sâu) cho cả lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Sự phân bổ của mỗi quốc gia được so sánh với cùng một phân vị trong phân bổ của quốc gia tiên tiến nhất (Hàn
Quốc, Cộng hòa)) trong dữ liệu FAT. Ví dụ, lượng vị 95 so sánh 5% công ty có trình độ phức tạp nhất ở mỗi quốc gia và 5% công ty hàng đầu ở Hàn Quốc.
Chi phí chìm cao có nghĩa là mức tăng năng suất tiềm năng tập trung ở một số ít công ty có thể triển khai chúng một cách hiệu quả –
những công ty có khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế lớn để dàn trải chi phí chìm, dữ liệu lớn từ khách hàng và nhà cung cấp cũng
Quán tính tương đối của EAP trong tăng trưởng năng suất có thể là do các công ty tiên phong không có đủ động lực và do tất cả các công
ty đều thiếu năng lực phù hợp. Ở đây chúng tôi xem xét bằng chứng.
60 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hình II.12. Mức độ tinh vi về công nghệ của các công ty trung bình ở EAP tương đương với các quốc gia có thu nhập tương tự, nhưng các công ty
tiên tiến nhất ở EAP lại đứng sau các công ty tiên tiến nhất ở nơi khác.
3,5 ID 3,5
ID
3 3
VNM
(ABF)
Trình
(ABF)
Trình
nghệ
công
nghệ
công
KOR KOR
độ
độ
2,5 2,5 VNM
KHM
KHM
2 VNM 2 VNM
ID ID
KHM KHM
1,5 1,5
1 1
7,5 số 8 8,5 9 9,5 10 10,5 11 7,5 số 8 8,5 9 9,5 10 10,5 11
GDP bình quân đầu người (Nhật ký, PPP$ 2017) GDP bình quân đầu người (Nhật ký, PPP$ 2017)
Công ty trung bình 20 hạng đầu% Công ty trung bình 20 hạng đầu%
Lưu ý: Các biểu đồ phản ánh mức độ phức tạp về công nghệ (Trung bình của các Chức năng Kinh doanh Chung) đối với công ty trung bình và 20% công ty hàng đầu trong một quốc gia và ngành.
Hình II.13. Việc sử dụng phần mềm phân tích dữ liệu nâng cao bị hạn chế trong việc phát triển EAP
60%
50%
KOR
40%
30%
liệu
phần
dụng
ERP
mềm
dữ
sở
cơ
Sử
20%
ID
10%
KHM VNM
0%
7,5 số 8 8,5 9 9,5 10 10,5 11
Nguồn: Khảo sát FAT của Ngân hàng Thế giới và OECD.
Lưu ý: Biểu đồ phản ánh tỷ lệ doanh nghiệp báo cáo việc sử dụng phần mềm Lập kế hoạch nguồn lực doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ.
Cạnh tranh lớn hơn (hoặc mối đe dọa cạnh tranh) làm tăng động lực cho các công ty tiên phong đổi mới và phát triển (hình II.14).
Sự mở cửa thương mại và đầu tư có thể tạo ra áp lực cạnh tranh. Tuy nhiên, những áp lực này có thể có tác động không đồng nhất.
Các doanh nghiệp ở gần giới hạn công nghệ đổi mới để thoát khỏi sự cạnh tranh, trong khi các doanh nghiệp tụt hậu lại nản lòng và
ít đổi mới hơn (Aghion và cộng sự, 2005, 2009, 2017). Ví dụ, người ta thấy rằng sự cạnh tranh của Trung Quốc làm tăng khả năng đổi
mới của các công ty hàng đầu nhưng lại làm giảm khả năng đổi mới của các công ty không dẫn đầu ở các nơi khác trên thế giới
(Cusolito và cộng sự, 2023; Iacovone, 2012).
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
61
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.14. Về nguyên tắc, cạnh tranh cao hơn sẽ làm tăng năng suất của các doanh nghiệp biên giới
Mối quan hệ không đồng nhất giữa cạnh tranh và tăng trưởng của các công ty biên giới và phi biên giới
18
16
14
12
trưởng
công
tăng
các
của
ty
Sự
10
số 8
6
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45
Cuộc thi
Sự năng động của các công ty tiên phong phụ thuộc vào mối đe dọa cạnh Hình II.15. Sự hiện diện của SOE cao hơn có liên quan đến mức độ gia
nhập thấp hơn và mức độ tập trung cao hơn
tranh từ cả những công ty cũ và những công ty mới gia nhập.
Sự tồn tại của các Doanh nghiệp Nhà nước (SOE) lớn hơn có thể ngăn cản
Tác động của sự tham gia của DNNN tới sự gia nhập và tập trung
sự gia nhập của các doanh nghiệp mới và tăng mức độ tập trung thị trường
trong cùng các lĩnh vực đó (Hình II.15). Vì vốn và lao động bị mắc kẹt 40
trong các SOE kém hiệu quả hơn nên các công ty khởi nghiệp khó thu hút
được các nguồn lực cần thiết để gia nhập và các doanh nghiệp hoạt động 20
hiệu quả cũng khó mở rộng quy mô và phát triển hơn.25 Ví dụ, ở các tỉnh
trăm
Phần
của Trung Quốc, tác động bất lợi của SOE đối với việc gia nhập thị 0
trường giảm năng suất thông qua việc phân bổ vốn sai lầm nhiều hơn –
vốn bị mắc kẹt trong tay những doanh nghiệp đương nhiệm kém năng suất
–20
hơn (Brandt và cộng sự, 2020b). Ngược lại, sự gián đoạn của các công ty
trở nên khó khăn hơn và lao động chảy chậm hơn đến các doanh nghiệp có
Nguồn: Kinh doanh Nhà nước.
Các công ty tiên phong ở EAP chịu nhiều cạnh tranh quốc tế hơn cho thấy năng suất tăng trưởng nhanh hơn (hình II.16).
Các công ty ở biên giới quốc gia có nhiều khả năng là các nhà xuất khẩu hoặc sở hữu nước ngoài hơn, nhưng các công ty và nhà xuất khẩu nước ngoài
vẫn chiếm thiểu số, ngay cả trong biên giới (như đã lưu ý trước đó). Khu vực biên giới quốc gia bao gồm sự kết hợp của nhiều loại hình công ty, vì
vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi không phải tất cả các công ty biên giới quốc gia đều trì trệ. Các công ty tiên phong thuộc sở hữu nước ngoài cho
thấy tốc độ tăng năng suất hàng năm nhanh hơn 5% so với các công ty tiên phong khác, trong khi các công ty nhà nước có tốc độ tăng năng suất chậm hơn 3%.
Hơn nữa, sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài hoặc doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực của họ có thể có tác động lan tỏa quan trọng tới sự
phát triển của các doanh nghiệp trong nước hoặc tư nhân. Tỷ lệ sở hữu nước ngoài tăng 10% có liên quan
25 Phi chính thức có thể là một thách thức đối với tăng trưởng năng suất, nhưng điều này ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng ở phần dưới cùng của phân bổ năng suất. Rào cản gia nhập khu vực chính thức hoặc những biến dạng phụ thuộc vào quy mô (chẳng
hạn như thuế hoặc các quy định về việc làm), có thể dẫn đến thiếu trung gian, quá nhiều doanh nghiệp vẫn còn nhỏ và phi chính thức. Cạnh tranh từ các doanh nghiệp phi chính thức cũng có thể làm giảm khả năng phát triển của các doanh nghiệp
thuộc khu vực chính thức (ví dụ Amin, 2021). Ở EAP, các doanh nghiệp nhỏ hơn có nhiều khả năng cho rằng cạnh tranh từ các doanh nghiệp phi chính thức là một vấn đề (Khảo sát Doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới).
62 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hình II.16. Sự hiện diện của SOE cao hơn ở EAP có liên quan đến sự hiện diện của doanh nghiệp nước ngoài ngày càng thấp và mức tăng trưởng năng suất cao hơn
5 3
4 2
3 2
1
2
1
trăm
Phần
trăm
Phần
1
0
0
–1
–1
–1
–2
–2
–3 –2
-4 –3
doanh nghiệp nhà nước
Nước ngoài doanh nghiệp nhà nước
Nước ngoài
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng dữ liệu vi mô của Văn phòng Thống kê cho Trung Quốc, Indonesia và Philippines.
Lưu ý: Tác động trực tiếp của sở hữu nước ngoài phản ánh sự khác biệt trong tăng trưởng TFP hàng năm giữa các công ty biên giới thuộc sở hữu nước ngoài và trong nước. Các doanh nghiệp tiên phong phản ánh 10% doanh nghiệp có năng suất cao nhất trong một quốc gia
và ngành. Hiệu ứng gián tiếp thể hiện sự tăng trưởng TFP hàng năm khác biệt đối với các doanh nghiệp tiên phong thuộc sở hữu trong nước trong các ngành có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao hơn 10% (được đo bằng tỷ trọng doanh thu của ngành do các doanh nghiệp sở hữu
nước ngoài). Sở hữu nhà nước (SOE) được định nghĩa tương tự.
với mức tăng năng suất cao hơn 2% của các doanh nghiệp tiên phong thuộc sở hữu trong nước. Ngược lại, tỷ lệ sở hữu nhà nước cao
hơn 10% có tương quan với mức tăng năng suất thấp hơn 2% của các công ty tư nhân biên giới.
Mức độ cạnh tranh trong EAP có thể hạn chế sự tăng trưởng biên giới. Trong khi thuế nhập khẩu hàng hóa ở các nước EAP tương đối
thấp thì thuế quan trong nông nghiệp và các biện pháp phi thuế quan trong sản xuất vẫn hạn chế cạnh tranh. Hơn nữa, các quy định
về thị trường sản phẩm hạn chế cạnh tranh, chẳng hạn như hạn chế về sở hữu nước ngoài, ở Trung Quốc và Indonesia nghiêm ngặt
hơn 50% so với ở Mỹ (OECD). Một số thị trường EAP, chẳng hạn như ở Việt Nam, do các doanh nghiệp nhà nước chi phối (Hình II.17).
Hơn nữa, trên thị trường lao động, chỉ số bảo vệ việc làm của OECD cũng bị hạn chế hơn khoảng 40% ở Malaysia và Thái Lan, và ở
Indonesia cao hơn khoảng hai lần so với các nền kinh tế OECD (OECD).
Hình II.17. SOE chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động ở EAP
60
50
40
30
20
2019)
Doanh
GDP,
BOS
của
thu
(%
10
Seychelles Việt Nam Liên bang Nga Slovenia Bhutan Serbia Mauritius
RomaniaÝ Moldova Nepal Cameroon Montenegro Bolivia Bờ Biển Ngà Estonia Madagascar Bắc Macedonia Malawi Bangladesh Litva Cộng hòa Dominica AngolaChad Albania KosovoPeru Afghanistan Guatemala Honduras
Sao Tome và Principe Croatia Hungary Ba Lan Mauritania Bosnia và Herzegovina Pakistan Cabo Verde Colombia Comoros Samoa Uruguay Latvia
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 63
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Sự cạnh tranh từ các công ty khởi nghiệp đã giảm đáng kể trong những thập kỷ qua, đặc biệt là trong các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ thuật số. Một cách
để đo lường tầm quan trọng của các công ty khởi nghiệp trong nền kinh tế là dựa trên tỷ lệ việc làm của họ. Tỷ lệ việc làm của doanh nghiệp trẻ đã
giảm đáng kể ở tất cả các nền kinh tế EAP mà chúng tôi có dữ liệu cấp doanh nghiệp và điều này đặc biệt xảy ra trong các lĩnh vực sử dụng nhiều kỹ
thuật số (hình II.18). Khu vực này ngày càng có nhiều người đương nhiệm già nua. Bằng chứng tương tự về tỷ lệ gia nhập thị trường giảm cũng được tìm
thấy ở phạm vi rộng hơn ở các quốc gia EAP khi sử dụng Khảo sát doanh nghiệp của WB. Ngoài ra, chất lượng của những người mới gia nhập dường như
không tăng ở Indonesia và Trung Quốc – với những người mới gia nhập có năng suất thấp hơn những người hiện tại trong những năm gần đây.
Hình II.18. Sự gia nhập của công ty đã chậm lại ở EAP, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số
Những thay đổi trong sự gia nhập của công ty theo thời gian
0,35
0,25
0,30
0,20
0,25
0,15 0,20
0,15
0,10
0,10
0,05
0,05
0,00 0,00
2003 2005 2007 2009 2011 2013 1995 2000 2005 2010 2015
0,20 0,25
0,20
0,15
0,15
0,10
0,10
0,05
0,05
0,00 0,00
2000 2005 2010 2015 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Philippines - Dịch vụ
0,25
0,20
0,15
Các lĩnh vực chuyên sâu về kỹ thuật số
0,05
0,00
2010 2012 2014 2016
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng vi dữ liệu của Cục Thống kê.
Ghi chú: Trục tung biểu thị tỷ trọng việc làm của doanh nghiệp trẻ (0-1). Phản ánh tỷ lệ việc làm của doanh nghiệp trẻ (dưới 5 tuổi) trong mỗi ngành. Cường độ kỹ thuật số được xác định theo Eurostat.
64 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Khả năng tiếp cận thị trường quốc tế tốt hơn cũng có thể tăng động lực cho các công ty tiên phong áp dụng công nghệ hiện đại để thúc
đẩy tăng trưởng (Hình II.19). Việc tiếp cận các thị trường lớn làm tăng lợi nhuận của việc áp dụng công nghệ và có thể thúc đẩy việc
áp dụng. Công nghệ dữ liệu hiện đại có chi phí cố định cao, nhưng những công nghệ này có khả năng mở rộng và do đó có thể dẫn đến
tăng năng suất trong toàn tổ chức. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các công nghệ có chi phí cố định cao này phụ thuộc vào khả
năng tiếp cận các thị trường quốc tế lớn (về hàng hóa và dịch vụ), điều này giúp có thể dàn trải chi phí áp dụng cho sản lượng lớn hơn.
Tuy nhiên, những hạn chế đối với sự gia nhập của nước ngoài vào thị trường EAP, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ, có tác động phân
chia thị trường khu vực và tước đi các khuyến khích đổi mới bắt nguồn từ sản xuất quy mô lớn của các doanh nghiệp.
Hình II.19. Hầu hết các nước EAP hạn chế thương mại dịch vụ nhiều hơn các nền kinh tế khác ở mức độ phát triển tương đương
A. Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ (2022) B. STRI và GDP bình quân đầu người (2022)
100 100
PHL
80 80
ID THA
60
CHN
60 của tôi
PNG
(2022)
VNM
40
40
MMR
thương
20
dịch
mại
chế
hạn
Chỉ
20
vụ
số
0
0
6 7 số 8 9 10 11 12
PHL
SGP
THA
KOR
PNG
CHN
ID
VNM
MMR
Nhật
Bản
tôi
của
C. Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ (2022) D. STRI và GDP bình quân đầu người (2022)
80 100
80
60
THA
PNG ID
60 CHN
VNM
(2022)
40 của tôi
40
MMR PHL
thương
20
dịch
20
mại
chế
hạn
Chỉ
vụ
số
0
0
6 7 số 8 9 10 11 12
PHL
SGP
THA
KOR
PNG
CHN
ID
VNM
MMR
Nhật
Bản
tôi
của
(tiếp theo)
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 65
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.19. Hầu hết các nước EAP hạn chế thương mại dịch vụ nhiều hơn các nền kinh tế khác ở mức độ phát triển tương đương
(Tiếp theo)
E. Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ (2022) F. STRI và GDP bình quân đầu người (2022)
80 100
80 ID
60 THA
CHN
60 VNM
PHL
(2022)
của tôi
40 MMR
PNG
40
thương
20
20
dịch
mại
chế
hạn
Chỉ
vụ
số 0
0
6 7 số 8 9 10 11 12
PHL
SGP
THA
KOR
PNG
CHN
ID
VNM
MMR
Nhật
Bản
tôi
của
G. Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ (2022) H. STRI và GDP bình quân đầu người (2022)
100 100
THA
80 80
của tôi
ID
60 60
VNM CHN
(2022)
40
40
PNG
PHL
thương
20 MMR
dịch
20
mại
chế
hạn
Chỉ
vụ
số
0
0
6 7 số 8 9 10 11 12
PHL
SGP
THA
KOR
PNG
CHN
ID
VNM
MMR
Nhật
Bản
tôi
của
66 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Trong Bản cập nhật kinh tế EAP gần đây nhất, chúng tôi tập trung vào các dịch vụ và đã công bố bằng chứng mới từ Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ
(STRI) do Ngân hàng Thế giới và WTO đưa ra. STRI là thước đo mức độ hạn chế của khung pháp lý và chính sách của một nền kinh tế đối với thương mại
dịch vụ, được tính toán từ Cơ sở dữ liệu chính sách thương mại dịch vụ, bao gồm một loạt các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ theo cả ngành
và phương thức cung cấp. Các chỉ số này thuộc bốn lĩnh vực biện pháp chính sách riêng biệt: i) Điều kiện gia nhập thị trường, ii) Điều kiện hoạt động,
iii) Các biện pháp ảnh hưởng đến cạnh tranh, iv) thủ tục hành chính.
Dữ liệu mới cho năm 2022 cho thấy tự do hóa dịch vụ vẫn là một công việc chưa hoàn thành. Hình II.19 báo cáo giá trị STRI được ghi nhận trong một số
lĩnh vực dịch vụ—ngân hàng thương mại, viễn thông, bảo hiểm nhân thọ và vận tải hàng hải—theo EAP lớn hơn cũng như ba nền kinh tế tiên tiến châu Á:
Nhật Bản; Hàn Quốc, Cộng hòa; và Singapore. Đối với mỗi ngành, các biểu đồ rải rác kèm theo cũng được trình bày, trong đó có chỉ số STRI của các ngành
so với mức độ phát triển (được đo bằng logarit của GDP bình quân đầu người). Tính đến năm 2022, các nước EAP vẫn có đặc điểm là có các chế độ tương
đối hạn chế đối với thương mại dịch vụ trong hầu hết các lĩnh vực. Hơn nữa, so với các nền kinh tế khác, mức độ hạn chế này cao hơn mức dự kiến dựa
Chuyển sang thương mại hàng hóa, trong khi thuế suất áp dụng đã giảm mạnh trong vài năm qua (với ngoại lệ đáng chú ý là việc tăng thuế do căng thẳng
thương mại Mỹ-Trung), các biện pháp phi thuế quan (NTM) lại tăng lên đáng kể. trong khu vực EAP. Các biện pháp này có thể được phân loại thành các
biện pháp kỹ thuật (chẳng hạn như các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, TBT hoặc các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch, SPS) và các biện pháp phi kỹ
thuật (như kiểm soát số lượng và yêu cầu cấp phép). Theo một cuộc khảo sát gần đây, 55% các nhà xuất khẩu ở khu vực EAP đề cập đến chúng như một gánh
nặng và rào cản hạn chế khả năng mở rộng sang các thị trường mới của họ (ITS, 2023).
Hình II.20 báo cáo sự khác biệt trung bình giữa số lượng NTM biên giới được áp dụng bởi một nền kinh tế nhất định đối với mỗi sản phẩm và số biện pháp
trung bình áp dụng cho sản phẩm đó trên thế giới vào năm 2021. Một số nền kinh tế EAP có tỷ lệ NTM biên giới cao hơn các nền kinh tế khác vùng.
Tăng trưởng năng suất và áp dụng các công nghệ phức tạp đòi hỏi nhiều kỹ năng và cơ sở hạ tầng kỹ thuật số chất lượng cao. Chỉ với băng thông rộng di
động cơ bản và nhân viên có kỹ năng nền tảng vững vàng, một số công nghệ (chẳng hạn như thương mại điện tử) tương đối dễ áp dụng với các trang web
thương mại điện tử sẵn có, có thể được áp dụng vào các quy trình kinh doanh hiện có. Ngược lại, các công nghệ dữ liệu hiện đại (như phân tích dữ liệu
hoặc điện toán đám mây) yêu cầu băng thông rộng cáp quang tốc độ cao để gửi và nhận dữ liệu với khách hàng/nhà cung cấp/trong nội bộ công ty và sự kết
hợp phù hợp giữa kỹ năng quản lý và kỹ thuật số để đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu. trong các mô hình kinh doanh.
Các công ty tiên phong phải đối mặt với những hạn chế khác nhau đối với những công ty kém năng suất hơn – đặc biệt liên quan đến việc tiếp cận thị
trường, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số hoặc kỹ năng (hình II.21). Các rào cản chính sách có thể ngăn cản doanh nghiệp tham gia thị trường hoặc mở rộng quy
mô nếu họ làm vậy, chẳng hạn như chi phí chính thức hóa hoặc quy định cấp phép kinh doanh, thực thi chính sách thị trường lao động, tiếp cận tài chính
hoặc thực thi thuế tùy thuộc vào quy mô (Fattal-Jaef, 2022; Bachas et al ., 2019; Didier và Cusolito, sắp xuất bản). Tuy nhiên, những chính sách này
thường ảnh hưởng đến các doanh nghiệp mới hoặc nhỏ. Ví dụ, ở Đông Á và Thái Bình Dương, cấp phép kinh doanh, tham nhũng hoặc hiệu quả của tòa án, cơ
sở hạ tầng điện hoặc thuế suất không đầy đủ là những hạn chế chính đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có năng suất thấp hơn nhưng lại
ít gây trở ngại hơn cho những doanh nghiệp có năng suất cao nhất (hình II.22) . Ngược lại, người ta biết rất ít về các rào cản áp dụng khác nhau cho
những người có năng suất cao nhất. Các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhất ở Đông Á và Thái Bình Dương có nhiều khả năng gặp phải các rào cản liên
quan đến việc tiếp cận thị trường (các quy định về vận tải hoặc thương mại) hoặc cơ sở hạ tầng hoặc kỹ năng viễn thông.
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
67
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.20. Trung Quốc, Lào, Philippines và Việt Nam thể hiện các biện pháp phi thuế quan ở biên giới cao hơn mức trung bình thế giới
2-Tối đa
1–2
0–1
Tối thiểu 0
Không có dữ liệu
Lưu ý: Bản đồ hiển thị chênh lệch trung bình giữa số lượng NTM biên giới được một nền kinh tế áp dụng trong mỗi sản phẩm và số biện pháp trung bình áp dụng cho sản phẩm đó dựa trên dữ liệu TRAINS NTM vào năm 2021.
Giá trị trung bình được tính bằng cách cân nhắc từng sản phẩm theo tầm quan trọng của nó trong thương mại thế giới. Theo Ederington và Ruta (2016), NTM biên giới bao gồm: tất cả các biện pháp kiểm soát giá và số lượng (ví dụ: hạn ngạch, lệnh cấm,
lệnh cấm, giấy phép không tự động), kiểm tra trước khi giao hàng, yêu cầu tại cảng nhập cảnh hoặc lô hàng trực tiếp cũng như các yêu cầu hải quan khác các yêu cầu giám sát và giám sát, kiểm tra hải quan, phí xử lý và dịch vụ, các khoản thuế và phí
bổ sung được áp dụng liên quan đến các dịch vụ do chính phủ cung cấp (ví dụ: thuế trước bạ, thuế thống kê). NTM biên giới cũng bao gồm: các yêu cầu đăng ký, kiểm tra, chứng nhận, kiểm tra, truy xuất nguồn gốc và kiểm dịch SPS cũng như đánh giá sự
phù hợp cũng như các yêu cầu đăng ký, thử nghiệm, chứng nhận, kiểm tra và truy xuất nguồn gốc TBT và đánh giá sự phù hợp.
Hộp II.B6. Cạnh tranh và tính kinh tế theo quy mô – Ngành dừa Kiribati
Tính kinh tế nhờ quy mô có nghĩa là chế biến dừa khô tập trung ở một số nhà sản xuất dừa lớn. Với đặc tính có khả năng giao
dịch cao, ổn định trong thời gian bảo quản của dầu dừa và dừa khô, thị trường cuối cùng đã trở thành thị trường toàn cầu.
Sản xuất toàn cầu đã trở nên tập trung ở một số trung tâm hiệu quả cao ở EAP. Indonesia và Philippines đều trồng nhiều dừa
hơn và sản xuất nhiều dầu dừa hơn phần còn lại của thế giới cộng lại. Nhưng điều này có ý nghĩa gì đối với các nền kinh tế
đảo nhỏ xa xôi, chẳng hạn như Kiribati, vốn có lịch sử dựa vào việc trồng và chế biến dừa?
Dịch vụ hậu cần hiệu quả có thể tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đổi mới trong các loại sản phẩm mới – nơi quy mô
doanh nghiệp ít gặp rào cản hơn – chẳng hạn như dừa tươi. Quy mô doanh nghiệp ít là rào cản khi tham gia ngành dừa tươi. Tuy
nhiên, độ ẩm trong dừa tươi khiến dừa dễ hư hỏng hơn và do đó việc tiếp cận các dịch vụ hậu cần chuỗi lạnh tiên tiến là chìa
khóa để đưa các sản phẩm này đến thị trường xuất khẩu. Sau sáng kiến của chính phủ năm 2010, dịch vụ hậu cần đã trở thành lợi
thế cạnh tranh chính cho nông dân và doanh nghiệp tỉnh Ratchaburi của Thái Lan – trở thành một cụm toàn cầu để xuất khẩu loại
Việc chuyển sang các sản phẩm dừa tươi ở Kiribati phải đối mặt với những hạn chế bổ sung do trợ cấp và quy mô công nghiệp nhỏ.
Kiribati duy trì trợ cấp cho cùi dừa khô, gấp ít nhất bốn lần giá trị thị trường thực sự và ngăn chặn việc tái phân bổ nguồn
lực cho các công ty, phân khúc và ngành có năng suất cao hơn.
Ở Thái Lan, các nhà sản xuất dừa tươi quy mô nhỏ có thể phát triển mạnh vì ngành này đủ lớn để hỗ trợ các dịch vụ hậu cần
chuyên biệt. Tuy nhiên, các nền kinh tế đảo nhỏ, như Kiribati, có thể không có đủ quy mô ngành để hỗ trợ các công ty dịch vụ
hậu cần này. Do đó, Kiribati có thể cần phải xem xét các giải pháp công nghệ, như Xử lý áp suất cao và Đông lạnh nhanh, giúp
giao dịch nước dừa dễ dàng hơn bằng cách sử dụng các container vận chuyển đông lạnh sâu.
68 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hình II.21. Các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn cho biết Hình II.22. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhất cho
các quy định thương mại, kỹ năng của lực lượng lao động biết có ít hạn chế hơn liên quan đến cấp phép
và cơ sở hạ tầng giao thông hoặc viễn thông là những hạn kinh doanh, tham nhũng và tòa án, cơ sở hạ tầng điện hoặc
chế quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. thuế.
Mức độ hạn chế theo tứ phân vị năng suất lao động (so với tứ Mức độ hạn chế theo tứ phân vị năng suất lao động (so với tứ
phân vị dưới cùng) phân vị dưới cùng)
0,20 0,15
0,10
0,15
0,05
0,10
0,00
0,05
–0,05
0,00
Kỹ năng –0.10
Quy định thương mại Vận tải Viễn thông
ánh mức độ nghiêm trọng của hạn chế được báo cáo bởi các doanh nghiệp (theo thang điểm từ 0 đến 4) trong mỗi nhóm, so với các doanh nghiệp
có năng suất kém nhất ở nhóm cuối cùng. Trình bày kết quả hồi quy ở cấp độ doanh nghiệp về những hạn chế được báo cáo đối với các phần tư
Tứ phân vị thứ 2 Tứ phân vị thứ 3 Tứ phân vị năng suất cao nhất
năng suất lao động, kiểm soát quy mô doanh nghiệp và các tác động cố định theo năm và quốc gia. Phản ánh dữ liệu của 13 quốc gia EAP có
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới.
Lưu ý: Các tứ phân vị năng suất lao động sản xuất được tính toán trong từng quốc gia và từng năm (áp dụng quyền số lấy mẫu). Điểm số phản
ánh mức độ nghiêm trọng của hạn chế được báo cáo bởi các doanh nghiệp (theo thang điểm từ 0 đến 4) trong mỗi nhóm, so với các doanh nghiệp
có năng suất kém nhất ở nhóm cuối cùng. Trình bày kết quả hồi quy ở cấp độ doanh nghiệp về những hạn chế được báo cáo đối với các phần tư
năng suất lao động, kiểm soát quy mô doanh nghiệp và các tác động cố định theo năm và quốc gia. Phản ánh dữ liệu của 13 quốc gia EAP có
Việc tiếp cận cơ sở hạ tầng dữ liệu hiện đại không đồng đều ở EAP và cần vượt ra ngoài khả năng tiếp cận duy nhất, để tập trung vào cơ sở hạ
tầng công cộng kỹ thuật số chất lượng cao được tích hợp. Trong khi khả năng truy cập băng thông rộng di động phổ biến ở EAP, cáp quang tốc độ cao
không đồng đều giữa các quốc gia và trong các quốc gia (hình II.23). Có rất nhiều sự khác biệt về tính sẵn có của các trung tâm dữ liệu trong EAP
cần thiết để lưu trữ, chia sẻ và xử lý dữ liệu qua đám mây. Bản địa hóa dữ liệu và các biến thể trong luật bảo mật dữ liệu hạn chế quyền truy cập
Các chính phủ cần phải vượt xa khả năng tiếp cận từng phần để tập trung vào việc tích hợp các hệ thống kỹ thuật số trong toàn chính phủ. Cái gọi
là ngăn xếp kỹ thuật số đề cập đến sự tích hợp và khả năng tương tác của các hệ thống, bao gồm nhận dạng kỹ thuật số, hệ thống thanh toán kỹ
thuật số, hệ thống trao đổi dữ liệu và thông tin (chẳng hạn như liên quan đến y tế hoặc giáo dục) (Ngân hàng Thế giới, 2022). Khả năng tương tác
của các hệ thống kỹ thuật số này tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch vụ kỹ thuật số và có thể dẫn đến sự đổi mới trong cả khu vực công và tư
nhân, ví dụ như ở Thái Lan cho phép liên kết ID kỹ thuật số với tài khoản tài chính để hỗ trợ thanh toán trực tuyến. Tuy nhiên, nhiều quốc gia
trong EAP đã phải vật lộn với thách thức chuyển sang hồ sơ sức khỏe điện tử và hệ thống y tế kỹ thuật số tích hợp (Raghavan, 2023).
Các kỹ năng phù hợp để tận dụng công nghệ một cách hiệu quả không được phổ biến rộng rãi ở EAP. Đảm bảo các kỹ năng nền tảng phổ cập thông qua
giáo dục cơ bản trong khu vực là điều cần thiết. Tại 14 trong số 22 quốc gia có thu nhập trung bình trong khu vực, hơn một nửa số trẻ 10 tuổi
không thể đọc và hiểu văn bản phù hợp với lứa tuổi (Afkar et al. 2023). Các quốc gia cần đầu tư song song vào các kỹ năng phức tạp hơn cần thiết
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
69
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.23. Băng thông rộng tốc độ cao có sẵn không đồng đều trong và trên khắp các quốc gia EAP
Nguồn: Dữ liệu kiểm tra tốc độ băng thông rộng cố định của Ookla vào quý 2 năm 2023.
cũng đòi hỏi những kỹ năng khác nhau từ các công việc phi kỹ thuật số (Cunningham và cộng sự, 2022). Nhưng ngay cả những kỹ năng số cơ bản
cũng không được phổ biến rộng rãi ở EAP, với chưa đến một phần tư số người lao động ở Campuchia, Mông Cổ, Philippines, Thái Lan và Việt
Nam có thể sử dụng chức năng “sao chép và dán” trong một tài liệu (hình II.24) .
Một khía cạnh thường bị bỏ qua của khoảng cách kỹ năng là việc thiếu năng lực quản lý cần thiết để tận dụng lợi thế của công nghệ và đạt
được mức tăng năng suất. Kỹ năng quản lý và vốn tổ chức đã được chứng minh là có mối tương quan chặt chẽ
Hình II.24. Các kỹ năng có sẵn không đồng đều trong EAP
1.2 Sử dụng sao chép/dán trong tài liệu 2.3 Viết chương trình máy tính
100 50
80 40
60 30
40 20
20 10
0 0
Campuchia
Campuchia
Indonesia
Indonesia
Singapore
Singapore
Nhật
Nhật
Bản
Bản
Philippin
Philippin
Mông
Mông
Việt
Việt
Malaysia
Malaysia
Thái
nước
Thái
nước
Nam
Nam
Lan
Lan
Cổ
Cổ
Quốc,
Quốc,
Cộng
Cộng
hòa
Hàn
hòa
Hàn
Nguồn: ITU.
70 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
với việc áp dụng công nghệ và năng suất (Bloom et al., 2012). Các doanh nghiệp Hình II.25. Các công ty được quản lý tốt nhất trong việc phát triển EAP có kỹ năng kém
hơn nhiều so với những công ty tốt nhất ở các nền kinh tế tiên tiến
ở cả các quốc gia EAP đã phát triển và đang phát triển nhìn chung được quản lý
lại tụt hậu xa hơn so với các công ty được quản lý tốt nhất ở EAP tiên tiến và
0,0
kém xa các công ty được quản lý tốt nhất ở Hoa Kỳ. Việc đảm bảo có được những
nhà quản lý giỏi nhất dường như là một thách thức đối với các công ty giỏi
–1.0
Cải cách chính sách và hỗ trợ có thể giúp tạo ra cả động cơ khuyến khích đầu
Trung Quốc Việt Nam Singapore
tư vào công nghệ nhằm nâng cao năng suất và khả năng thực hiện điều đó. Mặc dù
Châu Úc New Zealand
các chính sách liên quan đến cạnh tranh, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và kỹ năng
đã được biết đến như một số trong nhiều động lực tăng trưởng nói chung, nhưng Nguồn: Maloney và Sarrias (2017), sử dụng Khảo sát Quản lý Thế giới.
Lưu ý: Các biểu đồ phản ánh khoảng cách về điểm quản lý giữa 10% công ty được quản lý tốt nhất ở
chúng tôi nhấn mạnh tập hợp con này là những ưu tiên chính sách nhằm khôi phục EAP so với 10% công ty được quản lý tốt nhất ở Hoa Kỳ. 10% dưới cùng và trung vị được định nghĩa
tương tự.
năng suất của các công ty tiên phong. Mặc dù có thể cho rằng vấn đề năng lực
chỉ là vấn đề đối với các công ty tụt hậu, nhưng bằng chứng của chúng tôi trong
phần trước cho thấy các công ty tiên phong cũng không có đủ năng lực ở một số khía cạnh, chẳng hạn như kỹ năng quản lý.
Cải cách thị trường hàng hóa và dịch vụ có thể thúc đẩy cạnh tranh và đẩy nhanh tăng trưởng năng suất. Cải cách cả các biện pháp thuế quan và phi thuế quan có thể
làm tăng khả năng thị trường hàng hóa bị cạnh tranh nước ngoài. Trong khi thuế quan hàng hóa ở mức thấp thì nhiều rào cản phi thuế quan phía sau biên giới vẫn tồn
tại. Việc loại bỏ các hạn chế đối với việc gia nhập và hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ có thể có tác động thúc đẩy cạnh tranh. Những cải cách trong lĩnh vực dịch
vụ, đặc biệt khi vai trò của dịch vụ ngày càng tăng trong sản xuất, có thể có tác động tích cực đến năng suất vượt xa tác động trực tiếp đến dịch vụ đối với các
doanh nghiệp sản xuất sử dụng dịch vụ (Arnold và cộng sự, 2016).
Bằng chứng cho EAP và các quốc gia khác xác nhận rằng việc giảm bớt rào cản cạnh tranh trong dịch vụ sẽ thúc đẩy tăng trưởng năng suất cao hơn trong các lĩnh vực
dịch vụ cũng như trong các lĩnh vực sản xuất sử dụng các dịch vụ này (Hình II.26). Cải cách dịch vụ ở Việt Nam đã nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp
trong cùng lĩnh vực này cũng như các doanh nghiệp sản xuất hạ nguồn (hình II.27).
Sau khi gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam đã đạt được tiến bộ rõ rệt trong việc tự do hóa thương mại dịch vụ. Từ năm 2008 đến năm 2016, chỉ số hạn chế thương mại
dịch vụ (STRI) giảm mạnh ở các ngành như Tài chính, Vận tải và Dịch vụ chuyên nghiệp. Quá trình tự do hóa đã dẫn đến năng suất lao động tăng 2,9% hàng năm trong
các lĩnh vực dịch vụ này (hình A) và tăng 3,1% năng suất lao động trong ngành sản xuất hạ nguồn sử dụng các đầu vào dịch vụ này (hình B). Tuy nhiên, Cơ sở dữ liệu
về hạn chế thương mại dịch vụ của Ngân hàng Thế giới- WTO tiết lộ rằng tự do hóa thương mại dịch vụ vẫn chưa hoàn thành ở khu vực EAP.
Việc phổ biến các công nghệ mới có thể mở ra những con đường mới cho tăng trưởng do cạnh tranh. Sự phổ biến của các nền tảng ở Philippines gây ra một cú sốc cạnh
tranh, chẳng hạn như các nền tảng thương mại điện tử ảnh hưởng đến các nhà bán buôn và bán lẻ truyền thống bằng cách cung cấp cho khách hàng những cách kết nối mới
với nhà cung cấp, ví dụ: thông qua hệ thống đối sánh, đánh giá và xếp hạng trực tuyến (Rivares et al. 2019) . Chúng tôi theo dõi Rivares et al. (2019) và ủy quyền
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
71
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Hình II.26. Độ mở đối với đầu tư nước ngoài có liên quan tích cực đến phổ biến công nghệ và năng suất
A. Mối tương quan giữa xu hướng sử dụng công nghệ và doanh nghiệp nước ngoài
quyền sở hữu B. Mối tương quan giữa TFP và sở hữu nước ngoài của doanh nghiệp
30% 1.2
TFP
0,9
20% 0,6
0,3
liệu
phần
dụng
ERP
mềm
dữ
sở
cơ
Sử
10% 0,0
VNM - Dịch vụ
CHN - Sản xuất IDN - Sản xuất MYS - Sản xuất VNM - Sản xuất
0%
ID KHM VNM KOR
Nguồn: A. Khảo sát FAT của Ngân hàng Thế giới. B. Tính toán của tác giả dựa trên vi dữ liệu của Cục Thống kê.
Hình II.27. Mở cửa dịch vụ cho cạnh tranh có thể tăng năng suất trong các lĩnh vực dịch vụ này và sản xuất hạ nguồn
các ngành sử dụng đầu vào dịch vụ
B. Hiệu ứng năng suất của cải cách dịch vụ đối với các doanh nghiệp sản xuất (hiệu
A. Hiệu quả năng suất của cải cách dịch vụ đối với các doanh nghiệp dịch vụ (hiệu ứng riêng) ứng hạ nguồn)
0,2 0,25
0,2
0,15
0,15
0,1
0,1
trăm)
(phần
trăm)
(phần
biên
Hiệu
biên
Hiệu
cận
ứng
cận
ứng
0,05
0,05
0 0
–0,05 –0,05
(bé nhỏ) (trung bình) (lớn) (bé nhỏ) (trung bình) (lớn)
Nguồn: Ước tính của nhân viên Ngân hàng Thế giới dựa trên dữ liệu từ khảo sát doanh nghiệp Việt Nam năm 2008 và 2016.
Lưu ý: Kết quả hồi quy OLS. Biến phụ thuộc là sự thay đổi trong log giá trị gia tăng trên mỗi lao động từ năm 2016 đến năm 2008. Biến giải thích chính là sự thay đổi giá trị STRI trong các lĩnh vực Thương mại, Vận tải, Tài chính, Chuyên môn và Viễn
thông giữa năm 2016 và 2008 trong Bảng A, và thay đổi trong STRI “hạ nguồn” đối với các lĩnh vực sản xuất trong Bảng B. STRI hạ nguồn là thước đo cụ thể theo ngành cho từng lĩnh vực sản xuất 2 chữ số, được tính bằng STRI trung bình của năm lĩnh vực
dịch vụ trên được tính theo giá trị mua tương ứng từ mỗi lĩnh vực dịch vụ. các lĩnh vực sản xuất. Mẫu hồi quy trong Bảng A bao gồm tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực Thương mại, Vận tải, Tài chính, Chuyên môn và Viễn thông, cũng như
tất cả các doanh nghiệp sản xuất trong Bảng B, trong năm 2008 và 2016. Tất cả các hồi quy đều kiểm soát doanh thu cơ bản và việc làm của các công ty. Các lỗi tiêu chuẩn được nhóm lại ở cấp độ ngành.
xu hướng tìm kiếm cho các nền tảng chính (hình II.28 bảng A). Có sự bùng nổ đặc biệt nhanh chóng trong lĩnh vực bán buôn và bán
lẻ, với các nền tảng thương mại điện tử lớn như Grab, Lazada và Shopper xuất hiện trong giai đoạn 2012–2015, và ở mức độ thấp
hơn là vận tải, chỗ ở và khách sạn (trước Covid). Ở Philippines, chúng tôi thấy rằng việc phổ biến nền tảng làm tăng tiền lương
và năng suất của những người hoạt động trong cùng lĩnh vực, cũng như mức tăng tiền lương và năng suất lớn hơn nhiều đối với các
doanh nghiệp ở hạ nguồn sử dụng các dịch vụ này (Hình II.28 bảng B).
72 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hình II.28. Việc phổ biến các nền tảng trong PHL có thể được coi là một cú sốc cạnh tranh giúp tăng năng suất của doanh nghiệp
B. Ảnh hưởng của việc phổ biến nền tảng đến năng suất đối với các doanh nghiệp trong cùng ngành
A. Phổ biến nền tảng và gián tiếp vào các lĩnh vực hạ nguồn
1 1,5%
0,8
0,6 1,0%
tảng
dụng
nền
mục
Chỉ
sử
0,4
lương
tiền
hoặc
động
TFP
đến
Tác
0,2
0,5%
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020
0,0%
Bán sỉ và bán lẻ Chuyên chở
Tổng năng suất nhân tố Tiền lương
Dịch vụ ăn uống Tài chính và bảo hiểm
Chỗ ở và du lịch Hiệu ứng trực tiếp của khu vực riêng Hiệu ứng xuôi dòng gián tiếp
Nguồn: Tính toán của tác giả sử dụng Dữ liệu Google Xu hướng (bảng bên trái), Cơ quan Thống kê Philippines – Cơ sở dữ liệu ASPI và CPBI (bảng bên phải), theo cách tiếp cận của Rivares et al. (2019).
Lưu ý: Việc sử dụng nền tảng được ủy quyền bằng tần suất tìm kiếm trên Google - theo Rivares et al. (2019).
Biểu đồ phản ánh 42 nền tảng (9 nền tảng bán lẻ, 11 vận tải, 8 dịch vụ thực phẩm, 7 nền tảng tài chính và 7 nền tảng du lịch và chỗ ở). Chỉ số sử dụng nền tảng được chuẩn hóa so với việc sử dụng nền tảng bán lẻ vào năm 2020. Biểu đồ bên
phải hiển thị kết quả từ hồi quy của các chỉ số hiệu suất của công ty đối với các thước đo về mức độ phổ biến của nền tảng, bao gồm cả tác động cố định của công ty và năm. Để hỗ trợ so sánh giữa các hồi quy, hình này trình bày phần trăm
thay đổi ước tính trong hiệu quả hoạt động của công ty từ một thay đổi độ lệch chuẩn trong mức độ phổ biến của nền tảng, gần tương đương với việc đi từ thay đổi trung vị đến thay đổi phần trăm thứ chín mươi. Kết quả trực tiếp của khu
vực riêng phản ánh mối tương quan giữa hiệu quả hoạt động của công ty và sự phổ biến của nền tảng trong lĩnh vực lưu trú và du lịch, dịch vụ ăn uống, vận tải và bán buôn và bán lẻ. Biện pháp khuếch tán nền tảng hạ nguồn là tổng có trọng
số của khuếch tán nền tảng ngược dòng, với các trọng số phản ánh tỷ trọng đầu vào trung gian được lấy từ bảng IO của Philippine. Tác động gián tiếp ở hạ nguồn là đại diện cho các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ (ISIC rev 4 phân mục 10-33
và 45-82) trong giai đoạn 2010 đến 2019. Tương quan tiền lương không có ý nghĩa thống kê đối với tác động trực tiếp của khu vực riêng, tất cả các hệ số khác đều có ý nghĩa ở mức 90 mức % trở lên.
Ì b) Các cải cách bổ sung nhằm vừa mở rộng Hình II.29. Việc sử dụng TFP hoặc phân tích dữ liệu của công ty có liên
quan chặt chẽ đến việc có cả quyền truy cập vào băng
khả năng tiếp cận năng lực vừa
thông rộng cáp quang và quyền sở hữu nước ngoài
tăng cường tác động cạnh tranh.
Mối tương quan giữa năng suất hoặc Phân tích dữ liệu và nước ngoài
để thúc đẩy cạnh tranh có tác động tổng hợp lớn hơn. Bằng chứng ban 0,8
đầu từ việc triển khai đường trục cáp quang của Philippines tới 12
tỉnh cho thấy điều này dẫn đến việc sử dụng thương mại điện tử ngày 0,6
càng tăng, nhưng chủ yếu dành cho các doanh nghiệp có kết nối chất
lượng cao hơn và cả các doanh nghiệp trong các lĩnh vực cạnh tranh 0,4
hơn (được đo bằng chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ hạ nguồn). hoặc
cách sử dụng nền tảng). Ở Philippines, sự cởi mở đối với cạnh tranh 0,2
nước ngoài và khả năng tiếp cận băng thông rộng cáp quang đều làm
tăng việc áp dụng công nghệ riêng lẻ, nhưng tác động tổng hợp của –
nâng cao hơn (Afkar và cộng sự, 2023). Kiến thức của giáo viên về
nội dung và thực tiễn giảng dạy được xác định là những vấn đề then chốt. Đảm bảo tuyển dụng giáo viên dựa trên năng lực và đầu tư vào đào
tạo, động viên và hỗ trợ giáo viên là bắt buộc và được ước tính sẽ tạo ra lợi ích về mặt thu nhập trọn đời được chiết khấu lớn hơn mười lần
Thứ hai, các cá nhân phải được trang bị kỹ năng làm việc với công nghệ mới và khả năng đổi mới. Điều đó đòi hỏi phải đầu tư vào giáo dục đại
học để phát triển các kỹ năng nhận thức, kỹ thuật và cảm xúc xã hội nâng cao của người lao động.
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
73
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Một tỷ lệ đáng kể các công ty đổi mới ở Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan và Việt Nam cho rằng sự khan hiếm về kỹ
năng giao tiếp và giao tiếp, ngoại ngữ, máy tính và công nghệ thông tin (CNTT) hoặc các kỹ năng kỹ thuật (phi CNTT) cũng như những
thách thức quan trọng khi tuyển dụng (Cirera và cộng sự, 2021). Ở Trung Quốc và Việt Nam, các công ty có cường độ đổi mới cao có nhu
cầu cao hơn về kỹ năng phân tích và kỹ năng giao tiếp cá nhân (hình II.30). Mối liên kết giữa việc học trên lớp và việc tiếp xúc với
các nhiệm vụ từ nhà máy đến trung tâm R&D có thể hữu ích. Ngày nay, mối liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp, bao gồm
cả các biện pháp khuyến khích hợp tác giữa tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp, còn yếu trong khu vực và cần được tăng cường. Công
nghệ chỉ đơn giản là một công cụ và đòi hỏi phải đào tạo các kỹ năng bổ sung để đạt được năng suất. Ví dụ, trong các ví dụ lịch sử về
chuyển giao công nghệ sang Trung Quốc và Ý, máy móc tiên tiến có tác động nhỏ và tạm thời đến năng suất, nhưng khi đi kèm với đào tạo
kỹ năng thì năng suất của doanh nghiệp sẽ tăng vĩnh viễn (Giorcelli, 2019; Giorcelli và Li, 2023).
Hình II.30. Các công ty đổi mới hơn có nhu cầu cao hơn về kỹ năng phân tích hoặc giao tiếp cá nhân
A. Cường độ nhiệm vụ ở Trung Quốc, theo loại hình, 2018a B. Cường độ nhiệm vụ ở Việt Nam, theo loại hình, 2019b
0,3 0,3
0,2 0,2
0,1 0,1
lục
Mục
0 0
số
hệ
–0,1 –0,1
–0,2 –0,2
–0,3 –0,3
Không thường xuyên Không thường xuyên Nhiệm vụ thường xuyên Không thường xuyên Không thường xuyên Không thường xuyên Lịch trình
nhận thức nhận thức cường độ nhận thức nhận thức thủ công thủ công
phân tích giữa các cá nhân phân tích giữa các cá nhân
Các công ty có mức độ đổi mới thấp Các doanh nghiệp đổi mới vừa Các công ty có tính đổi mới cao
Lưu ý: Các công ty được phân loại theo “cường độ đổi mới”, được đo bằng số lượng hoạt động đổi mới được thực hiện, như được ghi lại trong các cuộc khảo sát tương ứng. Được chia theo thang điểm từ 0–5, đổi mới ở cấp độ thấp, trung bình và cao được định
nghĩa tương ứng là những người thực hiện các hoạt động đổi mới ở cấp độ 0–1, 2–3 và 4–5. Phân tích của Việt Nam không bao gồm thước đo tổng hợp về “cường độ công việc thường xuyên”; do đó, bảng b thay vào đó hiển thị thước đo riêng cho các nhiệm vụ “thủ
công thông thường”. Không có thông tin nào được đưa vào cả hai bảng về các nhiệm vụ nhận thức thông thường vì không có hệ số hồi quy liên quan nào có ý nghĩa thống kê.
Tiến bộ song song nhằm đảm bảo nền tảng vững chắc cho toàn dân và các kỹ năng nâng cao hơn là một hành động cân bằng. Mức độ ưu tiên
thay đổi tùy theo bối cảnh nhân khẩu học và thể chế cũng như trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Một thách thức chính là xác định
các vai trò khác nhau của khu vực công và tư nhân trong việc tài trợ, cung cấp và quản lý các dịch vụ giáo dục. Các chính phủ cần đảm
bảo khả năng tiếp cận công bằng thông qua cung cấp trực tiếp, tài chính và các chính sách có mục tiêu khác để khắc phục những thất
bại của thị trường và điều chỉnh việc cung cấp kỹ năng cho phù hợp với nhu cầu.
Thứ ba, là nâng cao năng lực của các nhà quản lý, cả những người mới tốt nghiệp và những người đã đi làm. Sự khác biệt về chất lượng
quản lý là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt về năng suất giữa các quốc gia. Nghiên cứu gần đây cho thấy chất lượng quản lý có
thể được cải thiện thông qua các biện pháp can thiệp. Ví dụ: các công ty được cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý ở Colombia đã cải thiện
phương pháp quản lý của họ và tăng việc làm (Iacovone và cộng sự 2022). Một ví dụ khác là đào tạo kinh doanh ở Kenya, giúp các công
ty tìm ra sản phẩm mới để bán và ít có tác động tiêu cực đến đối thủ của họ, do đó tổng doanh số (thị trường) đã tăng lên (McKenzie
và Puerto, 2021). Hỗ trợ có mục tiêu như vậy có thể đặc biệt hiệu quả khi kết hợp với việc thúc đẩy cạnh tranh, thúc đẩy nâng cao kỹ
74 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Hỗ trợ có mục tiêu cho các doanh nghiệp – cái gọi là Chính sách Công nghiệp – đang ngày càng được sử dụng nhiều hơn, với việc các chính phủ
chọn cách vượt ra ngoài việc có được các điều kiện quản lý cơ bản phù hợp (Juhasz và cộng sự, 2023). Các chính sách này thường có mục tiêu
tạo việc làm, thúc đẩy đổi mới, tăng năng suất hoặc thúc đẩy phát triển công nghệ. Rõ ràng là rất khó để khái quát hóa bằng chứng trong các
bối cảnh, nhưng một bài báo gần đây của McKenzie (2023) xem xét cách các chính sách có thể đạt được những mục tiêu này, như được tóm tắt
dưới đây.
Một thách thức đối với các chính phủ là lựa chọn các công ty mục tiêu, đặc biệt khi có thông tin hạn chế. Chính phủ không cần phải chọn ra
người chiến thắng nhưng có thể thiết kế các chương trình mà các công ty có tiềm năng tốt nhất sẽ lựa chọn. Ví dụ, trong một cuộc thi lập kế
hoạch kinh doanh, trong khi các chuyên gia không thể chọn ra những công ty tăng trưởng nhanh nhất, thì bản thân cuộc thi đã dẫn đến việc
Rủi ro bị giới tinh hoa chính trị nắm bắt hoặc vận động hành lang từ các công ty hùng mạnh phụ thuộc vào việc thiết kế chính sách. Ví dụ,
Ủy ban Châu Âu giảm thiểu những rủi ro này bằng cách đặt ra các quy định về sử dụng viện trợ nhà nước nhằm ngăn chặn các quốc gia và chính
Hỗ trợ doanh nghiệp cần kết hợp với thúc đẩy cạnh tranh. Việc cấp vốn cho một số công ty để thực hiện nhiều hơn những gì họ đã làm chỉ có
thể dẫn đến việc họ đánh cắp hoạt động kinh doanh từ các công ty không được hỗ trợ - như trường hợp chương trình cho vay trợ cấp ở Trung
Quốc. Tuy nhiên, việc hỗ trợ tất cả các trường tư ở các làng quê ở Pakistan dẫn đến việc các công ty phải cạnh tranh để nâng cao chất
lượng, nâng cao điểm kiểm tra của trẻ em. Ở Colombia, việc cung cấp tư vấn cho các nhóm nhỏ công ty không cạnh tranh trực tiếp với nhau đã
mang lại những cải thiện lâu dài về quản lý với chi phí chỉ bằng 1/3 chi phí cung cấp tư vấn cá nhân (Iacovone và cộng sự, 2022). Mối đe
dọa từ cạnh tranh nhập khẩu từ Trung Quốc đã thúc đẩy các công ty Colombia cải thiện phương thức quản lý của họ.
Cải thiện khả năng tiếp cận năng lực có thể đặc biệt quan trọng đối với các công ty tụt hậu vì sự cạnh tranh ngày càng gia tăng sẽ làm tăng thêm
năng lực hạn chế của họ. Các công ty tụt hậu không đồng nhất – một số chỉ đơn giản là trẻ và bắt đầu từ quy mô nhỏ, một số khác là những công ty
hoạt động kém hiệu quả và nên rời khỏi thị trường (Berlingieri et al., 2020). Do đó, hỗ trợ cần phải hướng đến các doanh nghiệp có đủ tiềm năng tăng
trưởng và có khả năng mở rộng hiệu quả về mặt chi phí (Hộp II.B7). Ở Colombia, việc tư vấn và tư vấn trực tiếp chuyên sâu và tốn kém trong các nhóm
nhỏ doanh nghiệp đã dẫn đến những cải tiến trong thực tiễn quản lý ở mức độ tương tự (8–10 điểm phần trăm) và doanh thu, lợi nhuận và năng suất lao
động của doanh nghiệp (Iacovone et al. 2022). Nhưng lợi ích của việc học tập theo nhóm cao hơn và mạnh mẽ hơn, cho thấy tiềm năng của các phương
pháp tiếp cận dựa trên nhóm như một con đường để mở rộng quy mô cải tiến quản lý. Việc đào tạo các doanh nhân vi mô ở Chile cũng mang lại lợi ích
tương tự cho việc đào tạo cá nhân và nhóm (Lafortune và cộng sự, 2018). Điều này bất chấp việc tư vấn theo nhóm thường ít tốn kém hơn và do đó có
khả năng mở rộng hơn so với tư vấn trực tiếp (McKenzie và Woodruff, 2023).
Dường như cũng có sự phối hợp quan trọng giữa kỹ năng của người lao động nói chung và kỹ năng quản lý nói riêng. Các khu vực ở 19 quốc gia (bao gồm
cả Trung Quốc) có nguồn nhân lực dồi dào hơn và gần các trường đại học hơn sẽ có các công ty có phương pháp quản lý tốt hơn (Feng và Valero, 2020).
Việc luân chuyển các nhà quản lý trong một công ty đa quốc gia lớn trên 100 quốc gia cho thấy rằng việc được phân bổ một người quản lý giỏi sẽ mang
lại lợi ích lâu dài cho những người lao động khác trong nhóm của họ về tiền lương, thăng tiến và năng suất (Minni, 2023).
Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc 75
Machine Translated by Google
CẬP NHẬT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024
Phụ lục II
Năng suất đề cập đến Năng suất các yếu tố tổng hợp, được ước tính bằng cách sử dụng hàm sản xuất giá trị gia tăng theo công cụ
ước tính hai bước do Wooldridge (2009) đề xuất. Hàm sản xuất được ước tính riêng cho từng quốc gia và ngành 2 chữ số, cho phép
có sự khác biệt về công nghệ sản xuất giữa các ngành và quốc gia.
Để cho phép so sánh, tất cả các biến số tiền tệ được thể hiện bằng đô la PPP thực tế năm 2005, sử dụng các chỉ số giảm phát giá
ngành quốc gia (điều chỉnh lại đến năm 2005) và tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ với đô la PPP năm 2005. TFP của các công ty tiên
phong toàn cầu đã được tính toán tương tự bởi công thức OECD và được biểu thị bằng đô la PPP (Andrew và cộng sự, 2016, Criscuolo,
2023).
Biên giới quốc gia ở khu vực Đông Á đang phát triển được xác định là 10% doanh nghiệp có năng suất cao nhất trong một quốc gia,
ngành 2 chữ số và năm. OECD định nghĩa các công ty tiên phong là 5% doanh nghiệp có năng suất cao nhất trong mỗi ngành 2 chữ số
trên toàn cầu. Những so sánh của chúng tôi về biên giới quốc gia và toàn cầu là dành cho các công ty trong cùng một ngành có 2
chữ số, điều này loại trừ sự khác biệt giữa các ngành, chẳng hạn như khả năng giao dịch của chúng.
Việc thiếu dữ liệu giá sẵn có là một thách thức chung trong việc ước tính năng suất, vì vậy chúng tôi sử dụng giá trị tiền tệ
thay vì số lượng đơn vị trong hàm sản xuất của mình. Do đó, chúng tôi đo lường năng suất doanh thu (còn gọi là TFPR), bao gồm cả
năng suất số lượng cao hơn (TFPQ) và mức chênh lệch cao hơn (và do đó giá cao hơn).
Cách đo lường biên giới của chúng tôi phản ánh cả các công ty có TFPQ cao và các công ty có mức chênh lệch cao. Mức tăng giá cao
có thể là do sức mạnh thị trường lớn hơn (ví dụ như của các doanh nghiệp nhà nước), nhưng cũng có thể phản ánh việc sản xuất các
loại sản phẩm có chất lượng cao hơn hoặc việc sử dụng công nghệ chi phí chìm – điều này sẽ xảy ra nếu đường biên thu hút các công
ty phức tạp hơn. Tuy nhiên, ở những nơi có sẵn dữ liệu về giá, các nghiên cứu thường tìm thấy mối tương quan chặt chẽ giữa TFPR
và TFPQ (Eslava, 2013; Haltiwanger và cộng sự, 2018). Ngoài ra, các khảo sát doanh nghiệp cho thấy TFPR có thể là thước đo tốt
hơn về năng lực của doanh nghiệp so với TFPQ (Atkin et al., 2019).
Chúng tôi xác định ranh giới theo mức năng suất của họ ở một quốc gia, ngành và năm nhất định, đồng thời xem xét những thay đổi
về năng suất của họ trong các phần sau của báo cáo này. Để làm như vậy, chúng tôi báo cáo các mặt cắt ngang của phân phối năng
suất theo thời gian - điều này cho phép thay đổi thành phần của đường giới hạn theo thời gian. Điều quan trọng là phải đối chiếu
điều này với cái gọi là hồi quy hội tụ ở cấp độ công ty. Các phép hồi quy hội tụ thông thường thường cho thấy tốc độ tăng năng
suất nội bộ doanh nghiệp nhanh hơn đối với các doanh nghiệp ban đầu có năng suất kém hơn, tùy thuộc vào khả năng tồn tại. Tuy
nhiên, vì các công ty mới gia nhập có thể có năng suất thấp hơn các công ty hiện tại, nên các phép hồi quy hội tụ thông thường
này có thể đi đôi với sự phân bổ năng suất ổn định theo thời gian.
76 Trọng tâm đặc biệt: Nền tảng tăng trưởng vững chắc
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Arteta, C., Kamin, S., & Ruch, FU (2022). Lãi suất tăng của Mỹ ảnh hưởng thế nào đến các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển?
Nó phụ thuộc. Tài liệu nghiên cứu chính sách; số WPS 10258 Washington, DC: Nhóm Ngân hàng Thế giới.
Baker, SR, Bloom, N., & Davis, SJ (2016). Đo lường sự không chắc chắn của chính sách kinh tế. Tạp chí Kinh tế Hàng quý, 131(4), 1593–1636.
Baumeister, C., & G. Peersman. (2013). Tác động thay đổi theo thời gian của các cú sốc cung dầu đối với nền kinh tế Mỹ. Kinh tế Mỹ
Baxi, P., Naidoo, D., & Tandon, S. (2024). Bao nhiêu tăng trưởng kinh tế tác động đến người dân ở các quốc gia giàu tài nguyên? Bằng chứng từ
Papua New Guinea. Tài liệu nghiên cứu, Ngân hàng Thế giới, Washington, DC
Chất kết dính, CC (2017). Đo lường độ không chắc chắn dựa trên làm tròn: Phương pháp mới và ứng dụng vào kỳ vọng lạm phát.
Blanchard, O. (2021). “Suy nghĩ về chính sách tài khóa”. Tháng 2 năm 2021.
Bloom, N. (2009). Tác động của những cú sốc không chắc chắn. Kinh tế lượng, 77(3), 623–685.
Boer, L., Pescatori, A., & Stuermer, M. (2023). Không phải tất cả các quá trình chuyển đổi năng lượng đều giống nhau: Giải quyết các tác động của nhu cầu
và các chính sách từ phía cung về giá dầu trong tương lai. Tài liệu làm việc của IMF 23/160,
Caldara, D., Cavallo, M., & Iacoviello, M. (2019). Độ co giãn của giá dầu và biến động giá dầu. Tạp chí Kinh tế tiền tệ, 103, 1–20.
Caldara, D., & Iacoviello, M. (2022). Đo lường rủi ro địa chính trị Tạp chí Kinh tế Mỹ, 112(4), 1194–1225.
Esquivel, C., & Samano, A. (2023). Hợp nhất tài chính mở rộng dưới rủi ro chủ quyền. Mimeo.
Evenett, S., Jakubik, A., Martin, F., & Ruta, M. (2024). Sự trở lại của chính sách công nghiệp trong dữ liệu. Tài liệu làm việc của IMF.
Hà, J., & So, I. (2023). Niềm tin toàn cầu, sự không chắc chắn và chu kỳ kinh doanh. Tạp chí Quốc tế Ngân hàng Trung ương, 19(1),
451–495.
Islamaj, E., & Samano, A. (2022). Nguyên nhân gây ra nợ công ở các nền kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương. Tóm tắt chính sách và nghiên cứu
của Ngân hàng Thế giới, 60. Ngân hàng Thế giới, Washington, DC. © Ngân hàng Thế giới. https://openknows.worldbank.org/handle/
10986/38422 Giấy phép: CC BY 3.0 IGO.
Islamaj, E., & Samano, A., & Sommers, S. (2024). Hiệu ứng nén lan rộng có chủ quyền của các quy tắc tài chính trong thời kỳ toàn cầu
những cuộc khủng hoảng. Mimeo.
Jarociński, M., & Karadi, P. (2020). Giải mã những bất ngờ về chính sách tiền tệ – vai trò của các cú sốc thông tin. Tạp chí Kinh tế Hoa Kỳ:
Jurado, K., Ludvigson, SC, & Ng, S. (2015). Đo lường độ không đảm bảo. Tạp chí Kinh tế Mỹ, 105(3), 1177–1216.
Leduc, S., & Liu, Z. (2016). Những cú sốc không chắc chắn là những cú sốc tổng cầu. Tạp chí Kinh tế tiền tệ, 82,
20–35.
Londono, JM, Sai, M., & Wilson, BA (2021). Sự lan truyền toàn cầu của sự bất ổn kinh tế thực sự. Tài liệu Thảo luận Tài chính Quốc tế 1317.
Washington: Hội đồng Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang.
Ly, S., Hayati, F., De Vaan, TL, Muco, S., Edwards, KA, Hill, SC, & Tong, K. (2023). Cập nhật kinh tế Campuchia – Từ phục hồi đến cải cách:
Trọng tâm đặc biệt – Đẩy mạnh cải cách cơ cấu để nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh.
Ma, H., Mei, X., & Tian Y. (2020). Tác động và cơ chế hỗ trợ tín dụng tiềm năng liên quan đến dư thừa công suất: Dựa trên phân tích lý thuyết
và thực nghiệm của các doanh nghiệp thép. Chính sách Tài nguyên, 68, Điều 101704.
Mauro, Paolo; Zilinsky, tháng 1 năm 2016. “Giảm tỷ lệ nợ chính phủ trong kỷ nguyên tăng trưởng thấp”. Tóm tắt chính sách PB16-10,
Viện Kinh tế Quốc tế Peterson.
Pandey, M. K, & Howes, S. (2022). Mức sống ở PNG có được cải thiện trong hai thập kỷ qua không? Bằng chứng từ
Khảo sát nhân khẩu học và sức khỏe. Chính phủ, Kinh tế và Xã hội, 163.
Văn phòng Thống kê Quốc gia Papua New Guinea và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc. (2023). Báo cáo các chỉ số chính của cuộc khảo sát kinh tế xã hội và nhân
Rodrik, D. (1991). Sự không chắc chắn về chính sách và đầu tư tư nhân ở các nước đang phát triển. Tạp chí Kinh tế phát triển,
36(2), 229–242.
Stock, JH, & Watson, MW (2012). Gỡ rối các kênh của cuộc suy thoái 2007–2009 (Số w18094). Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia.
Ngân hàng thế giới. (2018). Nhà nước độc lập Papua New Guinea – Chẩn đoán quốc gia có hệ thống.
Ngân hàng thế giới. (2021). Cập nhật kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới, tháng 4 năm 2021: Phục hồi không đồng đều. © Washington, DC:
Ngân hàng thế giới. (2023a). Cập nhật kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới, tháng 4 năm 2023: Dịch vụ cho phát triển.” Washington,
Ngân hàng thế giới. (2023b). Cập nhật kinh tế Thái Bình Dương, tháng 8 năm 2023: Phục hồi trong bối cảnh bất ổn – Trọng tâm đặc biệt:
Khai thác lợi ích của việc di cư Thái Bình Dương. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.
Ngân hàng thế giới. (2024a, tháng 1). Triển vọng kinh tế toàn cầu: Tăng trưởng chậm, nhiều thách thức Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.
Ngân hàng thế giới. (2024b). Cập nhật kinh tế Thái Bình Dương, tháng 3 năm 2024: Trở lại đúng hướng? Sự cần thiết phải đầu tư cho giáo dục
Yang, Y., Z., Liu, HB, Saydaliev, HB, & Iqbal, S. (2022). Tác động kinh tế của sự gián đoạn nguồn cung dầu thô đối với phúc lợi xã hội
tổn thất và trữ lượng xăng dầu chiến lược. Chính sách Tài nguyên, 77, Điều 102689.
Afkar, R., Beteille, T., Breeding, ME, Linen, T., Mason, AD, Mattoo, A., Pfutze, T., Sondergaard, LM, Yarrow, N. (2023).
Sửa chữa nền tảng: Giáo viên và giáo dục cơ bản ở Đông Á và Thái Bình Dương. Washington, DC: Nhóm Ngân hàng Thế giới.
Aghion, P., Bloom, N., Blundell, R., Griffith, R., & Howitt, P. (2005). Cạnh tranh và đổi mới: Hình chữ U ngược
mối quan hệ. Tạp chí Kinh tế Hàng quý, 120(2), 701–728.
Aghion, P., Blundell, R., Griffith, R, Howitt, P., & Prantl, S. (2009). Tác động của việc gia nhập đối với sự đổi mới hiện tại và
Aghion, P. (2017). Tinh thần kinh doanh và tăng trưởng: Bài học từ hành trình trí tuệ. Kinh tế doanh nghiệp nhỏ, 48,
9–24.
Andrews, D., Criscuolo, C., & Gal, PN (2016). Điều tốt nhất so với phần còn lại: Sự suy giảm năng suất toàn cầu, sự khác biệt giữa các công ty và vai
trò của chính sách công. Tài liệu làm việc về năng suất của OECD, số 5.
Angrist, N., Djankov, S., Goldberg, PK, & Patrinos, HA (2021). Đo lường vốn con người bằng cách sử dụng dữ liệu học tập toàn cầu.
Araujo, JT, Vostroknutova, E., Wacker, KM, & Clavijo, M. (2016). Hiểu khoảng cách thu nhập và hiệu quả bằng tiếng Latin
Arnold, JM, Javorcik, B., Lipscomb, M., & Mattoo, A. (2016). Cải cách dịch vụ và hiệu quả sản xuất: Bằng chứng
Atkin, D., Khandelwal, AK, & Osman, A. (2019). Đo lường năng suất: Bài học từ các cuộc khảo sát phù hợp và năng suất
điểm chuẩn. Giấy tờ và Thủ tục tố tụng của AEA, 109, 444-49.
Tác giả, D., Dorn, D., Katz, LF, Patterson, C., & Van Reenen, J. (2020). Tỷ trọng lao động giảm và sự trỗi dậy của siêu sao
các công ty. Tạp chí Kinh tế Hàng quý, 135(2), 645–709.
Bachas, P., Fattal Jaef, RN, & Jensen, A. (2019). Thực thi và tuân thủ thuế phụ thuộc vào quy mô: Bằng chứng toàn cầu và
ý nghĩa tổng hợp. Tạp chí Kinh tế Phát triển, 140, 203–22.
Bartelsman, E., Haltiwanger, J., & Scarpetta, S. (2004). Bằng chứng kinh tế vi mô về sự phá hủy sáng tạo trong công nghiệp và
các quốc gia phát triển. Tài liệu Nghiên cứu Chính sách của Ngân hàng Thế giới 3464.
Bazzi, S., Muendler, MA., & Rickey, L. (2014). Nguồn gốc của sự thay đổi năng suất lao động ở Brazil. Mimeo.
Berlingieri, G., Calligaris, S., Criscuolo, C., & Verlhac, R. (2020). “Các công ty tụt hậu, sự phổ biến công nghệ và các yếu tố quyết định
cơ cấu và chính sách của nó. Tài liệu Chính sách Khoa học, Công nghệ và Công nghiệp của OECD, số 86.
Bloom, N., Sadun, R., & Van Reenen, J. (2012). Người Mỹ làm CNTT tốt hơn: Các công ty đa quốc gia của Mỹ và điều kỳ diệu về năng suất.
Bollard, A., Klenow, P., & Sharma, G. (2013). Phép màu sản xuất bí ẩn của Ấn Độ Đánh giá động lực kinh tế,
16(1), 59-85.
Brandt, L., Litwack, J., Mileva, E., Wang, L., Zhang, Y., & Zhao, L. (2020a). Sự suy giảm năng suất của Trung Quốc và tiềm năng tăng trưởng
trong tương lai. Tài liệu Nghiên cứu Chính sách của Ngân hàng Thế giới 9298.
Brandt, L., Kambourov, G. và Storesletten, K. (2020b). Rào cản gia nhập và tăng trưởng kinh tế khu vực ở Trung Quốc.
Mimeo.
Brown, JD, Crespi, GA, Iacovone, L., & Marcolin, L. (2018). Phân tích tăng trưởng năng suất cấp doanh nghiệp và đánh giá
yếu tố quyết định của nó: Bằng chứng từ Châu Mỹ. Tạp chí Chuyển giao Công nghệ, 43, 1571–1606.
Brynjolfsson, E., McAfee, A., Sorell, M., & Zhu, F. (2008). Quy mô không có số lượng lớn: Nhân rộng quy trình kinh doanh và động lực của
ngành. Bài nghiên cứu của Đơn vị Quản lý Hoạt động và Công nghệ Trường Kinh doanh Harvard Số 07-016.
Calvino, F., Criscuolo, C., Marcolin, L., & Squiccaririni, M. (2018). Phân loại các lĩnh vực chuyên sâu về kỹ thuật số. Khoa học OECD,
Ciani, A., Hyland, MC, Karalashvili, N., Keller, JL, Ragoussis, A., & Tran, T. (2020). Làm cho nó lớn lên: Tại sao phải phát triển
các nước cần nhiều công ty lớn hơn. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới.
Cirera, X., Mason, AD, de Nicola, F., Kuriakose, S., Mare, DS, & Tran, T. (2021). Sự đổi mới cấp thiết để phát triển Đông Á. Washington,
Cirera, X., Comin, D., & Cruz, M. (2022). Thu hẹp khoảng cách công nghệ: Việc áp dụng công nghệ của các doanh nghiệp ở các nước đang phát
Cirera, X., Comin, D., Cruz, M., Lee, KM, & Soares Martins Neto, A. Sắp ra mắt. Khoảng cách và sự hội tụ đến biên giới công nghệ. Mimeo.
Corrado, C., Haskel, J., Jona-Lasinio, C., & Massimiliano, I. (2016). Đầu tư vô hình ở EU và Mỹ trước và kể từ cuộc Đại suy thoái và đóng
góp của nó vào tăng trưởng năng suất. Tài liệu làm việc của EIB 2016/08.
Corrado, C., Criscuolo, C., Haskel, J., Himbert, A., & Jona-Lasinio, C. (2021). Bằng chứng mới về tài sản vô hình, sự phổ biến và năng
suất. Tài liệu làm việc về Khoa học, Công nghệ và Công nghiệp của OECD, Số 2021/10.
Criscuolo, C. (2023). Tăng trưởng năng suất và thay đổi cơ cấu trong kỷ nguyên các cú sốc toàn cầu. Hội thảo chung KDI-Brookings:
Cunningham, W., Moroz, HE, Muller, N., & Solatorio, AV (2022). Nhu cầu về kỹ năng số và kỹ năng bổ sung ở Đông Nam Á. Tài liệu Nghiên cứu
Cusolito, AP, Garcia-Marin, A. & Maloney, WF (2023). Sự gần gũi với biên giới, mức tăng giá và phản ứng của đổi mới đối với cạnh tranh nước
ngoài: Bằng chứng từ các cuộc khảo sát đối sánh về đổi mới sản xuất ở Chile. Tạp chí Kinh tế Hoa Kỳ: Những hiểu biết sâu sắc,
5(1), 35-54.
Decker, RA, Haltiwanger, J., Jarmin, RS, & Miranda, J. (2020). Thay đổi tính năng động và năng suất của doanh nghiệp: Những cú sốc so với
khả năng ứng phó. Tạp chí Kinh tế Mỹ, 110(12), 3952-90.
De Ridder, M. (2024). Sức mạnh thị trường và sự đổi mới trong nền kinh tế vô hình. Tạp chí Kinh tế Mỹ, 114(1),
199-251.
Didier, T., & Cusolito, AP sắp ra mắt. Giải phóng năng suất thông qua tài chính của công ty. Ngân hàng thế giới.
Ederington, J., & Ruta, M. (2016). Các biện pháp phi thuế quan và hệ thống thương mại thế giới. Tài liệu nghiên cứu chính sách của Ngân
Eslava, M., & Haltiwanger, J. (2013). Cải cách thương mại và lựa chọn thị trường: Bằng chứng từ các nhà máy sản xuất ở
Estrin, S., & Meyer, KE (2004). Chiến lược đầu tư tại các thị trường mới nổi: Những chân trời mới trong kinh doanh quốc tế.
Fattal-Jaef, RN (2022). Rào cản gia nhập, sự biến dạng đặc trưng và sự phân bổ quy mô doanh nghiệp. Tạp chí Kinh tế Mỹ: Kinh tế vĩ mô,
14(2), 416-68.
Feng, A., & Valero A. (2020). Quản lý thiên về kỹ năng: Bằng chứng từ các công ty sản xuất. Tạp chí Kinh tế, 130(628), 1057–1080.
Foster, L., Haltiwanger, JC, & Krizan, CJ (2001). Tăng trưởng năng suất tổng hợp: Bài học từ bằng chứng kinh tế vi mô.
Trong CR Hulten, ER Dean và MJ Harper (Eds.), Những phát triển mới trong phân tích năng suất. Nhà xuất bản Đại học Chicago.
Giorcelli, M. (2019). Những tác động lâu dài của quản lý và chuyển giao công nghệ. Tạp chí kinh tế Mỹ,
109(1), 121-52.
Giorcelli, M., & Li, B. (2023). Chuyển giao công nghệ và phát triển công nghiệp sơ khai: Bằng chứng từ quan hệ Trung-Xô
liên minh. Mimeo.
Hallward-Driemeier, M., Kochanova, A. & Rijkers, B. (2021). Liệu dân chủ hóa có thúc đẩy cạnh tranh? Bằng chứng từ
Haltiwanger, J., Kulick, R., & Syverson, C. (2018). Biện pháp phân bổ sai: Sự biến dạng mà ăn phần dư. Tài liệu làm việc của NBER 24199.
Harrison, A., Martin, LA, & Shanthi, N. (2011). Học tập và ăn cắp: Việc tái phân bổ thị phần quan trọng như thế nào
đến tăng trưởng năng suất của Ấn Độ. Tài liệu làm việc của NBER 16733.
Iacovone, L. (2012). Bạn càng giỏi thì bạn càng mạnh mẽ hơn: Bằng chứng về tác động bất cân xứng của tự do hóa.
Iacovone, L., Maloney, W. và McKenzie, D. (2022). Cải thiện quản lý bằng tư vấn cá nhân và theo nhóm:
Kết quả từ một thí nghiệm ngẫu nhiên ở Colombia. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 89(1), 346–371.
CỦA NÓ. (2003). Đưa ra quan điểm của công ty về hội nhập khu vực về các biện pháp phi thuế quan ở Châu Á Thái Bình Dương.
Juhasz, R., Lane, NJ, & Rodrik, D. (2023). Kinh tế học mới của chính sách công nghiệp. Tài liệu làm việc của NBER 31538.
Lafortune, J., Riutort, J., & Tessada, J. (2018). Mô hình vai trò hoặc tư vấn cá nhân: Tác động của việc cá nhân hóa đào tạo doanh nhân
vi mô. Tạp chí Kinh tế Hoa Kỳ: Kinh tế Ứng dụng, 10(4), 222-45.
Maloney, WF, & Sarrias, M. (2017). Sự hội tụ đến biên giới quản lý. Tạp chí Hành vi Kinh tế &
McKenzie, D., & Puerto, S. (2021). Phát triển thị trường thông qua đào tạo kinh doanh cho doanh nhân nữ: Một thử nghiệm ngẫu nhiên ở cấp độ
thị trường ở Kenya. Tạp chí Kinh tế Hoa Kỳ: Kinh tế Ứng dụng, 13(2), 297-332.
McKenzie, D. (2023). Liệu việc hỗ trợ trực tiếp của chính phủ cho các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có còn vai trò hay không? Nghiên cứu chính sách
Giấy tờ làm việc; 10628. © Ngân hàng Thế giới, Washington, DC.
McKenzie, D., & Woodruff, C. (2023). Đào tạo doanh nhân. VoxDevLit, 1(3).
Melitz, MJ, & Polanec S. (2015). Phân tích năng suất Olley-Pakes động bằng cách vào và ra. Tạp chí Kinh tế RAND, 46(2), 362-375.
Minni, V. (2023). Làm cho bàn tay vô hình trở nên hữu hình: Người quản lý và sự phân bổ công việc cho người lao động. Tài liệu làm việc của CEP
Số 1948.
Pancost, NA, & Yeh, C. (2022). Phân hủy năng suất tổng hợp. Số giấy tờ làm việc CES-22-25, Trung tâm
Nghiên cứu Kinh tế, Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ.
Paweenawat, A., Chucherd, T., & Amarase, N. (2017). Khám phá các vấn đề về năng suất ở Thái Lan: Bài học từ dữ liệu vi mô. Tài liệu thảo
Raghavan, A. (2023). Những đổi mới về y tế kỹ thuật số của châu Á: Vai trò của việc chia sẻ dữ liệu y tế xuyên biên giới. Nghiên cứu Ngôi nhà Châu Á.
Rivares, AB, Gal, P., Millot, V., & Sorbe, S. (2019). Thích hay không? Tác động của nền tảng trực tuyến đến năng suất của các nhà cung cấp
dịch vụ hiện tại. Tài liệu làm việc của Phòng Kinh tế OECD, số 1548.
Machine Translated by Google
NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA TĂNG TRƯỞNG
Sivadasan, J. (2009). Rào cản đối với cạnh tranh và năng suất: Bằng chứng từ Ấn Độ. Tạp chí Phân tích & Chính sách Kinh tế BE, 9(1), 1-66.
UNCTAD. (2023). Số liệu thống kê và xu hướng chính trong năm 2022 – thương mại hàng hóa xanh và chính sách thương mại.
WB- WTO. Cơ sở dữ liệu hạn chế thương mại dịch vụ 2023. Có tại: https://itip-services-worldbank.wto.org/default.aspx
Wooldridge, JM (2009). Về việc ước tính các hàm sản xuất ở cấp độ doanh nghiệp bằng cách sử dụng các biến đại diện để kiểm soát các yếu tố không thể quan sát được.
Ngân hàng thế giới. (2020). Báo cáo năng suất của các công ty sản xuất Thái Lan. Washington, DC: Nhóm Ngân hàng Thế giới.
Ngân hàng thế giới. (2022). Một ngăn xếp kỹ thuật số để chuyển đổi thanh toán ID cung cấp dịch vụ và chia sẻ dữ liệu. Washington DC :
Ngân hàng thế giới. (2023). Việc kinh doanh của nhà nước. Washington, DC: Nhóm Ngân hàng Thế giới.
Ngân hàng thế giới. Sắp tới. Từ tiềm năng đến thịnh vượng: Tăng trưởng tới thu nhập cao ở Châu Âu và Trung Á”. Washington,
NGÂN HÀNG THẾ GIỚI ĐÔNG Á VÀ CẬP NHẬT KINH TẾ THÁI BÌNH DƯƠNG THÁNG 4 NĂM 2024