Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 9

㕵 uống

#F2: khẩu 口⿰汪 → 王 uông


◎Tiếp nhận chất lỏng (nước, rượu) qua miệng.
咹㕵庄律朋㝵瘖婁
Ăn uống chẳng lọt, bằng [như] người ốm lâu.
Phật thuyết, 17b

〇 谷城南𦫼蔑閒 奴渃㕵 少𩚵咹


Góc thành Nam, lều một căn (gian). No [đủ] nước uống, thiếu cơm ăn.
Ức Trai, 4a

〇 㝵些共每類物 乙庄固 准㕵
Người ta cùng mọi loài vật, ắt chẳng có chốn uống.
Cổ Châu, 3b

〇 遣淬𨢇𡃹屋 紫螺朱㕵𦷾
Khiến rót rượu chén ốc tử loa cho uống đấy.
Truyền kỳ, I, Khoái Châu, 27b
〄 Uống máu, uống hờn: tỏ lòng căm hờn, thề trả thù rửa hận.
歇𢚸㕵𧖱為茄主 𢢽𢢽工念沒點丹
Hết lòng uống máu vì nhà chúa. Khắn khắn trong niềm một điểm đan.
Hồng Đức, 51b

〇 計自流落扵塘 越王 𦣰檜漢光㕵𪬡
Kể từ lưu lạc ở đàng. Việt Vương nằm cũi, Hán Quang uống hờn.
Thiên Nam, 84b
Nguyễn Quang Hồng - Tự Điển Chữ Nôm Dẫn Giải

<><><>

Ho ̣ và tên: Nhiế p Tân


Chức danh khoa ho ̣c: Phó Giáo sư
Hoc vi:̣ Tiế n si ̃
Chức vu ̣ hành chiń h: Chủ nhiêm
̣ khoa

III.QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO


Tháng 7 năm 1994 tố t nghiêp̣ Đa ̣i ho ̣c Kinh tế Mâ ̣u dich ̣ đố i ngoa ̣i Bắ c Kinh, nhâ ̣n bằ ng cử nhân
Kinh tế ho ̣c; tháng 1 năm 2002 tố t nghiêp̣ Đa ̣i ho ̣c Bắ c Kinh, nhâ ̣n bằ ng tha ̣c si ̃ Văn ho ̣c; tháng 7 năm
2012 tố t nghiêp̣ Đa ̣i ho ̣c Quốc gia Hà Nội, nhâ ̣n bằ ng tiế n si ̃ Ngôn ngữ ho ̣c.

GÓP PHẦ N PHÂN Đ ỊNH


CHỮ NÔM TỰ TẠ O VÀ CHỮ NÔM MƯỢ N HÁN

ThS. NHIẾP TÂN


Học giả Trung Quốc

(Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (106) 2011, Tr.45 - 53)

Cách chia chữ Nôm làm hai loại lớn là chữ Nôm mượ n Hán và chữ Nôm tự tạo đượ c Cố GS.
Nguyễn Tài Cẩ n và N.V. Xtankevich nêu ra đầu tiên vào năm 1976 trong bài Điể m qua vài nét về
tình hình cấ u tạo chữ Nôm (Xin xem: [Nguyễn Tài Cẩ n 1985:48-85]), rồ i quan điể m này đượ c các
học giả nghiên cứu chữ Nôm chấ p nhận rộng rãi. Nhưng khi bắt tay phân định những chữ cụ thể
trong văn bản Nôm, thì không phải lúc nào cũng dễ dàng khẳng định đâu là chữ Nôm mượn Hán và
đâu là chữ Nôm tự tạo. Nhiều khi người ta dự a theo hình thể của chữ để xác đinh, ̣ cho rằ ng những
chữ vuông xuấ t hiện trong văn bản Hán, cũng có xuấ t hiện trong văn bản Nôm, thì là chữ Nôm
mượ n Hán, còn những chữ vuông chỉ xuấ t hiện trong văn bản Nôm mà những người thông thạo
chữ Hán không thể đọc đượ c thì là chữ Nôm tự tạo. Hình thể của chữ cố nhiên là một tiêu chí quan
trọng để nhận diện hai loại chữ Nôm này, nhưng chỉ dự a theo hin ̀ h chữ để phân đinh ̣ thì chưa đủ,
bởi vì “một cách nhìn nhận ‘từ bên ngoài’, thuầ n túy theo mặt chữ như vậy đố i với các chữ vuông
trong văn bản tác phẩ m Nôm chỉ mới bảo đảm có thể nhận ra đâu là những chữ vuông trùng hình
với chữ Hán, đâu là những chữ đặc hữu chỉ có mặt ở văn bản tác phẩ m Nôm. Còn nế u như ta xem
xét các chữ ấ y trong mố i quan hệ với tiế ng Việt và tiế ng Hán, thì ta thấ y tin
̀ h hình có vẻ phức tạp
hơn nhiề u.” [Nguyễn Quang Hồ ng 2008:188-189].
Thật vậy, “trùng hình” với chữ Hán, chưa chắc đã là chữ Nôm mượn Hán, như trường hợp
chữ 坦 âm Hán Việt là “thản” (nghĩa là “bằng phẳng”), còn âm Nôm là đất (như trong “đất sét”), cả
âm và nghĩa trong Hán văn và trong văn Nôm đều không liên quan gì với nhau, khó có thể nói rằng
chữ Nôm đất là mượn từ chữ Hán “thản”. Lại có chữ thoạt nhìn ngỡ rằng là “đặc hữu” trong văn
Nôm mà không thấy trong Hán văn, nhưng nếu đi sâu tìm kiếm, sẽ có thể phát hiện ra trong thư tịch
Hán văn đôi khi cũng có, chẳng qua là ngày nay ít dùng đến mà thôi, như 唭cười,㕵uống, 𤴪 ghẻ, 䖡
chấu, 𣑻 nen, 唁ngôn, 疸đớn, 糸曳giấ y, 湄mưa, 瘖ố m, 沚chảy, v.v… Cũng may là những chữ này
trong Hán văn thực ra không liên can gì với âm và nghĩa của những chữ Nôm tương ứng và chúng
đúng là chữ Nôm tự tạo [Văn Hựu 1933 201-242; Vương Lự c 1948:84-85]. Hiện tượng chữ Nôm tự
tạo ngẫu nhiên trùng hình với chữ Hán như thế sở dĩ có thể xảy ra, “hẳn là do khi viết chữ Nôm, các
cụ nhà ta chỉ cần dựa trên một vốn liếng nào đó những chữ Hán quen thuộc để làm “vật liệu”, chứ
không nhất thiết phải kiểm soát thật nhiều chữ Hán, và cũng không cần biết chữ Nôm mình tạo ra
liệu có trùng hình với một chữ Hán nào đó” hay không [Nguyễn Quang Hồng 2008:190].
Như vậy, việc phân định chữ Nôm tự tạo và chữ Nôm mượn Hán không thể chỉ dựa vào khả
năng nhận diện hình thể của chữ là “trùng hình” với chữ Hán và “đặc hữu” trong văn bản Nôm, mà
còn cần phải tìm kiếm thêm căn cứ đáng tin cậy hơn. Theo hướng này, khi phân biệt hai loại chữ
Nôm đang xét, Nguyễn Tài Cẩ n cho rằ ng chữ Nôm mượ n Hán “là loại chữ đơn, không có cấ u trúc
nội tại”, còn chữ Nôm tự tạo “là loại chữ có thể chia thành thành tố , có thể xét mặt quan hệ nội bộ
giữa các thành tố đó” [Nguyễn Tài Cẩ n 1985:49]. Xin lấy chữ 怛 và chữ 坦 làm thí dụ. Cả hai chữ
này đều ghi ngữ tố thuần Việt đất, có thể bắt gặp trong văn bản giải âm Phật thuyết [16b, 7a,…] và
cả trong Tân biên TKML [III, Đông, 41b; QI, Hạng, 2b,…]. Trong Hán văn chữ 怛 có âm Hán Việt là
“đát” với nghĩa “đau thương” (như trong “bi đát”), có cấu trúc là {bộ “tâm” 忄(biểu ý) ⿰旦“đán” (biểu
âm)}, cấu trúc này không phù hợp với âm và nhất là nghĩa của ngữ tố đất trong tiếng Việt. Bởi vậy,
chữ đang xét chỉ là chữ Nôm mượn nguyên hình chữ Hán “đát” theo quan hệ gần âm mà thôi. Còn
với chữ 坦trong văn Nôm thì ta có thể phân tích cấu trúc nội bộ gồm {bộ “thổ” 土 (biểu ý) ⿰“đát” viết
tắt 怛>旦 (biểu âm)}, là hoàn toàn phù hợp với âm và nghĩa của ngữ tố Việt đất. Vậy 坦đất là chữ
Nôm tự tạo, chỉ ngẫu nhiên trùng hình với chữ Hán 坦 “thản” mà thôi.
Chúng tôi tán đồ ng với cách nhìn nhận vấn đề của hai chuyên gia Nguyễn Tài Cẩn và Nguyễn
Quang Hồng như đã trình bày, và xin nêu một giới thuyết khái quát về sự phân định chữ Hán mượn
dùng và chữ Nôm tự tạo như sau: Chữ Nôm mượ n Hán là những chữ Nôm vay mượ n từ chữ Hán
để ghi tiế ng Việt (có thể là mượ n cả ba mặt hình, âm, nghia,̃ cũng có thể chỉ mượ n hai mặt là hình
với âm hoặc hình với nghia), ̃ có xuấ t hiện trong văn bản Hán và văn bản Nôm, không có cấ u trúc nội
tại (về âm và nghĩa) tương ứng với ngữ tố Việt mà nó đại diện. Chữ Nôm tự tạo là những chữ Nôm
do người Việt tự tạo ra, thường chỉ xuấ t hiện trong các văn bản Nôm, thường có cấ u trúc nội tại
tương ứng với âm và nghĩa của ngữ tố Việt mà nó đại diện. Trong phát ngôn này của chúng tôi có
vài chữ “thường”, cốt là để mở đường cho việc lý giải những trường hợp đặc biệt.
Theo đó, để góp phần xác định một chữ vuông nào đó trong văn Nôm là chữ Nôm tự tạo hay
là chữ Nôm mượn Hán, chúng tôi nghĩ có thể áp dụng một vài thao tác và bước đi cần thiết như
sau:
(1) Để có thể biết được một chữ đang xét là “đặc hữu” trong văn Nôm hay “trùng hình” với một
chữ nào đó trong Hán văn hay không, đương nhiên là cần đối chiếu qua lại giữa văn Nôm và Hán
văn. Với những chữ Hán quen thuộc được sử dụng rộng rãi, thì việc xác định trùng hình là không
khó khăn gì. Nhưng với những chữ hiếm gặp trong Hán văn, thì tốt nhất là phải tra cứu qua các tự
điển chữ Hán, càng là tự điển cỡ lớn và càng có niên đại cổ càng tốt.
(2) Nếu qua đối chiếu và tra cứu phát hiện trong tự điển quả có chữ Hán tương ứng, thì cần
phân biệt ít nhất là hai khả năng: (a) Chữ đang xét là chữ mới xuất hiện trong Hán văn và tự điển
chữ Hán ở thời sau, muộn hơn nhiều so với niên đại văn bản Nôm có chữ Nôm trùng hình tương
ứng. Trong tường hợp này, có thể khẳng định sự trùng hình là ngẫu nhiên, không phải vay mượn
(nếu là vay mượn, thì mượn từ Nôm sang Hán chăng, mặc dầu ít xảy ra). (b) Với những trường hợp
trùng hình khác cần tiếp tục xem xét theo (3),(4).
(3) Đối chiếu các mặt âm và nghĩa của chữ đang xét trong văn bản Hán và văn bản Nôm xem
có liên quan nhau không, nếu có liên quan về âm và | hoặc nghĩa thì chữ Nôm đang xét là một chữ
Nôm mượn Hán. Nếu không liên quan gì cả, thì đây là sự trùng hình ngẫu nhiên và chữ đang xét có
thể coi là chữ Nôm tự tạo.
(4) Tiến hành phân tích cấu trúc nội tại của chữ đang xét, nếu phân tích ra được các thành tố,
mà các thành tố này phù hợp với âm và nghĩa của ngữ tố tiếng Việt mà chữ ấy đại diện, có thể coi
đó là chữ Nôm tự tạo; ngược lại, nếu không phù hợp thì đó là chữ Nôm mượn Hán. Thao tác phân
tích cấu trúc nội bộ này cố nhiên là cũng áp dụng cho những chữ Nôm không trùng hình với chữ
Hán.
(5) Với những chữ có hình thể đơn giản, là đặc hữu trong văn bản Nôm, mà hầu như không
thể phân tích cấu trúc biểu âm và biểu nghĩa (như chữ 𧘇ấy, chữ 爫làm, v.v.), thường liên quan với
hiện tượng viết tắt, thì cần có sự biện luận riêng để xếp chúng vào loại chữ mượn Hán hay tự tạo
cho thỏa đáng.
Dưới đây chúng tôi sẽ đi vào xem xét một số chữ Nôm cụ thể xuất hiện trong bản giải âm
sách Tân biên Truyền kỳ mạn lục [Nguyễn Quang Hồng phiên chú, 2001]. Những trường hợp được
xem xét có thể gom thành 3 cụm như sau:
1. Hoặc là mượn Hán, hoặc là tự tạo. Xin lần lượt phân tích 4 chữ để làm thí dụ.
Chữ 咚Gióng: Chỉ xuất hiện 1 lần trong Tân biên TKML(Gióng lưỡi mà luận đấng quân thân,
giỏng môi mà rao lời gièm chê [QI, Hạng, 9b]. Chữ này không trùng hình với chữ nào trong Hán văn
trung đại, nhưng có trùng hình và gần âm với một chữ Hán hiện đại咚 (âm Hán Việt “đông”). Thế
nhưng vào thời kỳ Tân biên TKML ra đời trong kho tự điển chữ Hán chưa có chữ này, vì vậy chữ
này hiể n nhiên là một chữ Nôm hình thanh tự tạo theo cấ u tạo {口(bộ khẩ u biể u ý)⿰冬(âm Hán
Việt “đông” biể u âm)}.
Chữ 垃Lấ p: Chữ này xuấ t hiện 8 lầ n trong Tân biên TKML (ví dụ: Hầu đem hoa vàng tốt bỏ
xuống đất, phấn đỏ lấp nơi bùn [QI, Tây, 75a]). Nhưng trong các thư tich ̣ cổ Trung Quố c như Thuyế t
văn giải tự《說文解字》của Hứa Thận(hoàn thành vào năm 100-121), Khang Hy tự điể n《康熙字
典》(hoàn thành vào năm 1716) đề u không có chữ này, chứng tỏ chữ này rấ t có thể chưa xuấ t hiện
trong văn bản Hán đương thời. Trong tiế ng Hán hiện đại, chữ này có âm Hán Việt là “lạp”, có nghiã
là “đấ t bẩ n hoặc những thứ rách nát bi ̣ vứt bỏ”[Từ điể n Hán ngữ hiện đại, 1983: 666]; trong Tân biên
TKML, chữ này được đọc là lấ p với nghiã “làm cho đầ y, cho kin ́ chỗ trũng, chỗ trố ng” hoặc “làm cho
khuấ t đi không còn nhìn thấ y đượ c nữa”. Xét vềâm đọc có thể nói hai bên có quan hệ nhấ t đinh, ̣ còn
về mặt nghiã thì chẳ ng có liên quan gì cả. Phân tić h cấ u trúc nội tại chúng tôi phát hiện: 垃 có thề̉
chia làm thành tố biể u ý 土(bộ thổ , chỉ đấ t hoặc những thứ, những động tác có liên quan đế n đấ t) và
thành tố biể u âm 立(âm Hán Việt “lập”, là chữ đượ c sử dụng nhiề u và đượ c người Việt quen thuộc),
hai thành tố biể u ý biể u âm này đã thự c sự phản ánh âm và nghiã của chữNôm 垃lấ p. Tổ ng hợ p
những điề u kể trên, chúng tôi khẳ ng đinh ̣ chữ 垃lấ p là chữ Nôm hình thanh tự tạo.
Chữ 咍hay. Chữ này xuấ t hiện rấ t nhiề u lầ n trong bản giải âm Tân biên TKML,(ví dụ: Ngươi
chỉn hay nói, chẳng bằng cha thuở nọ lặng vậy, bằn bặt vậy [Q IV, Nam, 5a] ), đồ ng thời cun ̃ g đượ c
sử dụng rộng rãi trong các văn bản Nôm khác, ví dụ trong bản giải âm Phật thuyế t, chữ này đượ c
sử dụng 56 lầ n để ghi âm thuầ n Việt “hay”, và 10 lầ n để ghi âm thuầ n Việt “hai” [Hoàng Thị
Ngọ, 1999]. Về chữ này, nhiề u học giả đã có nói tới và nêu ra ý kiế n khác nhau. Có người cho rằ ng
chữ này là chữ giả tá chữ Hán [Văn Hự u 1933:222; Vương Lự c 1948:79], cun ̃ g có người cho rằ ng
đây là chữ Nôm tự tạo [Hoàng Thi ̣ Ngọ 1999: 76-77]. Chữ này có xuấ t hiện trong các thư tich ̣ cổ của
Trung Quố c, ví dụ trong Thuyế t văn giải tự, Đường vận, Tập vận, Vận hội, Chính vận…, mà Khang
Hy tự điể n có dẫn dụng lại. Chữ 咍 vố n là một động từ, có nghiã cổ là chê cười, đế n đời Nguyên
(năm 1271-1368) và đời Minh (năm 1368-1683), nó lại trở thành một trợ từ, dùng trong ca kich, ̣ có
tác dụng tăng cường tiế t tấ u nhạc khúc. Vì vậy có thể thấ y rằ ng chữ này đượ c sử dụng rộng raĩ
trong thời trung đại Trung Quố c, và chắ c cũng được người Việt sử dụng chữ Hán đương thời quen
biế t, cho nên rấ t có thể đượ c vay mượ n để ghi âm thuầ n Việt. Về mặt âm, nó có âm tiế ng Hán bạch
thoại là “hāi”, âm Hán Việt là “khái”, cho nên dùng để ghi âm thuầ n Việt hay, hai là chuyện rấ t tự
nhiên và rấ t có thể (Văn Hự u cho rằ ng trước là giả tá chữ Hán 咍để ghi âm hay, rồ i lại giả tá chữ
Nôm mượ n Hán 咍hay để ghi âm hai. Nhưng ông chưa nêu ra chứng cứ [Văn Hự u
1933:222].Chúng tôi cho rằ ng điề u này vẫn cầ n bàn bạc thêm, vì với những tư liệu trong tay, ví dụ
như Phật thuyế t, ta thường thấ y dùng chữ 咍 để ghi âm hay và hai cùng một lúc, vả lại trong chữ
Nôm, vố n có hiện tượ ng dùng một chữ Hán để ghi mấ y âm Việt, cho nên thiế t nghi ̃ cùng một lúc vay
mượ n chữ 咍 để ghi âm Nôm hay và hai là điều rất tự nhiên và dễ hiể u). Còn về mặt nghiã thì chữ
Nôm咍hay có nghiã là “giỏi, biế t” trong văn bản Nôm, chẳ ng có liên quan gì với nghiã của chữ
Hán 咍“khái” trong văn bản Hán. Về mặt cấ u trúc nội tại, nế u nói chữ Nôm 咍 là chữ hình thành với
thành tố biể u ý 口(bộ khẩ u, dùng để chỉ mồ m, môi hoặc những gì có liên quan đế n mồ m, môi) và
thành tố biể u âm 台(âm Hán Việt “thai”), thì thành tố biể u âm có lý mà thành tố biể u ý khá miễn
cưỡng, (tuy Hoàng Thi ̣ Ngọ có lý giải rằ ng: “Ở giai đoạn giải âm Phật thuyế t, bộ thủ tuy đã đượ c
dùng làm thành tố phụ nhưng còn mang nhiề u tin ́ h chấ t chỉ báo hơn là có tác dụng biể u ý.” [Hoàng
Thi ̣ Ngọ 1999: 77], nhưng chúng tôi thấ y vẫn thiế u sức thuyế t phục). Tổ ng hợ p những phân tić h
trên, chúng tôi cho rằ ng chữ 咍hay là chữ Nôm mượn Hán.
Chữ (񣡢) bông. Chữ này xuấ t hiện 7 lầ n trong văn bản, ví dụ trong câu: Dứt kẻ bàng nhân
chưng trêu sự bông hoa cành liễu [QI, Khoái, 19b]. Về chữ này các học giả cũng nói tới nhiề u và có
ý kiế n bấ t đồ ng. Nhiề u người cho rằ ng chữ này là dạng viế t tắ t của chữ 葻bông, tuy có trùng hình
ngẫu nhiên với chữ Hán, nhưng là một chữ Nôm hình thanh tự tạo [Văn Hự u 1933:209; Vương Lự c
1948:87; Nguyễn Quang Hồ ng 2006:63], song cũng có người cho rằ ng nhữ này vốn là chữ 芃, là
chữ Nôm mượ n Hán [Nguyễn Tá Nhí 1997:63]. Chúng ta hãy thử phân tích xem: Chữ 葻và
chữ 芃 đề u có xuấ t hiện trong thư ticḥ cổ của Trung Quố c như Đường vận, Tập vận, Thuyế t văn giải
tự, Khang Hy tự điể n..., nhưng đề u không phải là chữ thường dùng, it́ có khả năng đượ c người Việt
quen thuộc và vay mượ n để ghi âm thuầ n Việt. Xét về hình thể , nế u là chữ 芃, thì nên viế t đúng như
thế, chứ không nên thêm một nét bút nữa thành (񣡢), vì ta thường gặp trường hợ p viế t giản nét đố i
với chữ Nôm mượ n Hán hoặc những thành tố mượ n Hán trong chữ Nôm tự tạo, nhưng lại hầ u như
chưa gặp trường hợp viế t thêm nét theo kiể u này. Nếu có viế t thêm nét thì thường là thêm một ký
hiệu phụ như dấ u “nháy < ” để chỉnh âm. Vả lại, trong văn bản Nôm, có nhiề u trường hợ p thành tố
mượ n Hán 風đượ c viế t giản nét là 񣡢. Ví dụ trong Phật thuyế t, âm thuầ n Việt gió đượ c ghi là {񣡢⿱愈}
(xuấ t hiện 3 lầ n, ở trang 12a, 14a và 20a). Cho nên chúng tôi cho rằ ng chữ bông không phải là
dạng viế t tắ t của chữ 葻. Về mặt âm đọc, chữ Hán葻 có âm Hán Việt là “lam”, và có nghiã là “hình
dáng cỏ nằ m xuố ng khi bi ̣ gió thổ i”, chẳ ng có liên quan gì với âm và nghiã của chữ Nôm bông. Về
cấ u trúc nội tại, chữ bông có thể chia ra thành tố biể u ý 艸 (bộ thảo, chỉ những thứ có liên quan
đế n “cỏ”) và thành tố biể u âm 񣡢 (viết tắt từ 風 “phong”), hai thành tố biể u ý biể u âm này đã thự c sự
phản ánh âm và nghiã của chữ bông. Tổ ng hợ p những điề u kể trên, chúng tôi nhận đinh
̣ chữ
(񣡢) bông là chữ Nôm hiǹ h thanh tự tạo.
2. “Lưỡng khả” hay mượn Hán Có một số chữ xuất hiện nhiều trong các văn bản Nôm, và
cun ̃ g thươ ̀ ng gặp trong thư ticḥ cổ Trung Quố c, là những chữ Hán đượ c người Việt quen thuộc, rấ t
có khả năng đượ c người Việt vay mượ n để ghi âm thuầ n Việt. Về mặt âm hoặc nghiã (chủ yế u là
âm) chữ Hán đó cũng có liên quan mật thiế t với chữ Nôm ghi âm thuầ n Việt. Nhưng về mặt cấ u
trúc, chữ Nôm đó cũng có cấ u trúc nội tại, có thể chia làm những thành tố biể u âm và biể u ý (hầ u
hế t đề u là một thành tố biể u âm và một thành tố biể u ý, và thành tố biể u ý toàn là bộ thủ), như vậy
lại có thể xếp chúng vào loại chữ Nôm tự tạo. Ví dụ chữ 茹nhà, 塘đường, 嘲chào,沚chảy... đề u là
những chữ như thế. Có học giả cho rằ ng loại chữ này là trường hợ p “lưỡng khả”, có thể coi chúng
là chữ Nôm mượ n Hán, cũng có thể coi chúng là chữ Nôm tự tạo [Nguyễn Tài Cẩ n 1985:49]. Việc
phân định chữ Nôm mượ n Hán và chữ Nôm tự tạo trong những trường hợp như thế quả là phức
tạp, vì xét về bên nào cũng có ít nhiều lý do khả thủ, và bởi vậy khó lòng loại trừ hẳn những cách xử
lý “lưỡng khả”.
Tuy nhiên, theo chúng tôi nghĩ, nếu xem xét kỹ hơn các trường hợp “lưỡng khả” như thế,
chúng ta cũng có thể nghiêng về khả năng nào nhiều hơn khi buộc phải lựa chọn “dứt khoát” một
bên. Chúng tôi thấy, những cặp chữ Hán đồng âm Hán Việt vừa nêu “như” 如và 茹, “đường” 唐và 塘
, “trào” 朝và 嘲đề u là những chữ khá quen với người Việt biết ít nhiều Hán văn, bởi vậy chúng hoàn
toàn có thể bình đẳng với nhau khi người Việt muốn chọn một chữ để ghi ngữ tố thuầ n Việt đồng
âm. Khi đó rấ t có thể người ta sẽ nghiêng về lự a chọn chữ Hán nào có cấu trúc nội tại phù hợp với
ngữ tố thuần Việt. Chẳng hạn, sẽ mượ n chữ Hán 茹 (có bộ 艸 “thảo” biể u ý) để ghi âm thuầ n
Việt nhà, mượ n chữ Hán塘 (có bộ 土“thổ ” biể u ý và có nghiã là “con đường lớn xây bằ ng đấ t” trong
tiế ng Hán cổ xưa) để ghi âm thuầ n Việt đường, vay mượ n chữ Hán 嘲(có bộ 口 “khẩ u” biể u ý) để ghi
âm thuầ n Việt chào... như thế sẽ tiện lợ i hơn nhiề u, chứ không cầ n mượ n một chữ Hán như 如, 唐
, 朝để làm thành tố biể u âm, rồ i lại gia thêm thành tố biể u ý như bộ 艸, bộ 土, bộ 口để tạo ra chữ
Nôm hình thanh. Vì lẽ đó, chúng tôi nghiêng về coi những chữ này là chữ Nôm mượ n Hán, hơn là
chữ Nôm tự tạo, nhằm giảm bớt tình trạng “lưỡng khả” không cần thiết. Riêng với chữ 沚
chảy chúng tôi thấy rằ ng chữ Hán 沚 “chỉ” không phải là chữ Hán thường dùng trong thư tich ̣ Trung
Quố c, không quen thuộc với mọi người như chữ 止 “chỉ”, nên ít có khả năng người Việt đã mượn
chữ 沚 “chỉ” mà có phần chắc hơn là mượn chữ止 “chỉ” và gia thêm bộ “氵thủy” để ghi âm chảy. Vì
vậy chúng tôi nghiêng về xế p chữ này vào loại chữ Nôm tự tạo với cấ u trúc {氵⿰止}.
3. Hiện tượng chữ Nôm dạng tắt. Viế t tắ t (giảm nét, rút gọn) là một hiện tượ ng thường gặp
trong chữ Nôm, đã đượ c các học giả quan tâm chú ý và triể n khai nghiên cứu. Có thể nói, viế t tắ t là
một nhu cầ u thự c tế đố i với chữ Nôm, vì không ít chữ có cấ u trúc phức tạp, khó viế t khó nhớ, cho
nên cầ n phải giản bớt một số nét bút để cho nó dễ viế t dễ nhớ hơn, đặc biệt là đố i với những chữ
thường dùng. Chữ Nôm viế t tắ t có thể chia làm hai loại: loại thứ nhấ t là những chữ Nôm vay mượ n
từ chữ Hán đượ c viế t giảm nét; loại thứ hai là những chữ Nôm tự tạo (chữ hình thanh, hội âm hoặc
hội ý) có thành tố biể u âm hoặc thành tố biể u ý đượ c viế t giản nét. Đố i với loại thứ hai, chỉ cầ n chú ý
phân đinh ̣ một số chữ ngẫu nhiên trùng hình với chữ Hán, đừng xế p những chữ này vào chữ Nôm
mượ n Hán, điề u này đã đượ c trình bày tỉ mỉ ở phầ n trên. Ở đây, chúng tôi xin tập trung vào phân
đinḥ loại thứ nhấ t, tức là những chữ Nôm vay mượ n từ chữ Hán đượ c viế t giản nét. Về loại chữ
này, tuy vố n là vay mượ n từ chữ Hán, nhưng có phải đề u nên xế p vào chữ Nôm mượ n Hán hay
không? Về vấ n đề này, giới học thuật có những ý kiế n khác nhau: nhiề u người cho rằ ng loại chữ
này là chữ Nôm mượ n Hán, cũng có người cho rằ ng trong loại chữ này có chữ Nôm mượ n Hán,
cuñ g có chữ Nôm tự tạo. Trong công trin ̀ h Nghiên cứu tiế ng Hán Việt, Vương Lự c cun ̃ g nói tới chữ
Nôm viế t giản nét, và chỉ ra trong chữ Nôm viế t giản nét có một loại khá đặc biệt, có thể gọi là “chữ
đặc chế ”. Loại chữ này khác với những chữ viế t giản nét thông thường, vì chữ đủ nét của loại chữ
này không thể đượ c coi như là dạng thông dụng của chúng. Tác giả nêu ra 11 chữ làm ví dụ, trong
đó có 爫làm, 𧘇ấ y, 㐌đã, 񣡢 nào, là, 払chàng,... [Vương Lự c 1948:90-91]. Trong chuyên khảo Khái
luận văn tự học chữ Nôm, Nguyễn Quang Hồ ng cũng xế p những chữ như 爫làm, 𧘇ấ y, 񣡢 nào, 𠬠
một, 񣡢 hay... vào bộ phận chữ Nôm tự tạo. Về lý do, tác giả cho rằ ng: “Sở di ̃ các chữ này đượ c coi
là thuộc về một loại cấ u trúc tạo chữ, chứ không hẳ n chỉ là dạng rút gọn của chữ gố c, là vì hai
le:̃ Một là, người đọc chữ Nôm bình thường có thể nhận biế t đượ c chúng mà không cầ n liên hệ với
chữ gố c vố n có. Hai là, lai nguyên của những chữ này không phải bao giờ cun ̃ g rõ ràng, mà đôi khi
vẫn còn là vấ n đề cầ n phải biện minh.”[Nguyễn Quang Hồ ng 2008:228]. Chúng tôi đồ ng ý với cách
nhìn của Vương Lự c và Nguyễn Quang Hồ ng, cho rằ ng trong những chữ Nôm vay mượ n từ chữ
Hán đượ c viế t giản nét, có một số nên đượ c xế p vào loại chữ Nôm tự tạo. Về lý do phân đinh, ̣
chúng tôi thấ y ý kiế n của Nguyễn Quang Hồ ng rấ t có lý, và dự a theo đó, xin nêu thêm căn cứ phân
đinḥ từ ba mặt hình, âm và nghia. ̃ Trước hế t, phải xem dạng viế t tắ t của chữ Nôm này có xuấ t hiện
trong văn bản Hán đương thời không, vì viế t tắ t cũng là hiện tượ ng thường gặp trong chữ Hán. Nế u
trong văn bản Hán cũng có xuấ t hiện thì có thể khẳ ng đinh ̣ đây là một chữ Nôm mượ n Hán. Nế u
không có xuấ t hiện, thì phải khảo sát kỹ hơn: Nế u trong cùng một văn bản Nôm hoặc trong những
văn bản Nôm khác cùng thời cũng thường gặp dạng nguyên thể của chữ Nôm viế t tắ t này, có lai
nguyên rõ ràng, làm người ta nhìn thấ y dạng viế t tắ t này thì liên hệ với chữ gố c vố n có, và có mượ n
một mặt âm hoặc nghiã của chữ Hán, thậm chí mượ n cả hai mặt âm và nghiã thì có thể xế p chữ
Nôm này vào loại chữ Nôm mượ n Hán. Nế u dạng viế t tắ t này đượ c sử dụng thuầ n nhấ t, hầu như
không xuấ t hiện dạng nguyên thể trong cùng một văn bản Nôm hoặc trong những văn bản Nôm
khác cùng thời, thì điều đó chứng tỏ chữ này đã đượ c Nôm hóa rồ i, tuy xuất phát điểm có thể là
mượ n âm hoặc nghiã của một chữ Hán nào đó, nhưng vẫn có thể xế p chữ Nôm này vào chữ Nôm
tự tạo.
Theo nguyên tắ c phân đinh
̣ kể trên, chúng tôi hãy thử phân đinh
̣ một số chữ Nôm với dạng
viế t tắ t trong Tân biên TKML. Trong văn bản, những chữ Nôm vay mượ n từ chữ Hán đượ c viế t giản
nét chủ yế u có mấ y chữ như sau: 爫làm, 񣡢 nào, 񣡢 mấ y, 񣡢mình, là, ngờ, 𢪀nghỉ, 払
chàng, 񣡢năng, 񣡢 đức.

Trong những chữ này, ba chữ 爫làm, 񣡢 nào và 񣡢 mấ y xuấ t hiện nhiề u lầ n, đượ c sử dụng
thuầ n nhấ t từ đầ u đế n cuố i, chỉ thấ y dạng viế t tắ t mà không thấ y dạng nguyên thể , và cũng đượ c sử
dụng nhiề u trong các văn bản Nôm khác, chứ chưa hề xuấ t hiện trong văn bản Hán, lai nguyên của
ba chữ này không đượ c rõ lắ m, thường gây tranh luận trong giới học thuật, cho nên chúng tôi cho
rằ ng ba chữ này là những chữ thường dùng đã đượ c Nôm hóa, nên xế p vào chữ Nôm tự tạo. Trong
đó, chữ 爫làm thuộc loại chữ Nôm tự tạo biể u ý đơn (có thể là chữ đơn biểu ý rút gọn từ chữ 為“vi”,
nhưng cũng có thể là chữ đơn biểu âm, rút gọn từ chữ 滥 “lạm”, ở đây chúng tôi tạm xế p vào loại
chữ đơn biể u ý), chữ 񣡢 nào (có thể là rút gọn từ chữ 閙 “náo”) và chữ 񣡢 mấ y (có thể là rút gọn từ
chữ 爾 “nhĩ” đọc theo nghĩa mày, rồi chuyển sang mượn theo âm mấy [Xin xem: Nguyễn Quang
Hồng 2008:310-316]), được xếp vào chữ Nôm tự tạo biểu âm đơn.
Chữ 񣡢mìnhtrong Tân biên TKML cun
̃ g đượ c sử dụng thuầ n nhấ t, nhưng trong các văn bản
Nôm khác thì có xuấ t hiện dạng nguyên thể là chữ 命(âm Hán Việt mệnh), và dạng viế t tắ t 񣡢 cũng
có xuấ t hiện trong văn bản Hán (là một chữ “tục tự” có từ đời Tống trở đi, dùng như chữ 命), chứng
tỏ người Việt đã dùng chữ Hán命 nguyên dạng và cả dạng tắ t trong chữ Hán là 񣡢để ghi âm thuầ n
Việt mình, vì vậy chữ này nên xế p vào loại chữ Nôm mượ n Hán. Chữ làthì trong văn bản có khi
viế t dạng nguyên thể 羅(âm Hán Việt la), có khi viế t dạng tắ t , và dạng tắ t cũng có xuấ t hiện trong
văn bản Hán, vố n là dạng viế t tắ t của chữ Hán羅, cho nên chữ làcũng là chữ Nôm mượ n Hán.
Ba chữ ngờ, 𢪀nghỉ, 払chàng trong văn bản giải âm Tân biên TKML cũng có khi viế t dạng
nguyên thể 疑(âm Hán Việt nghi), 擬(âm Hán Việt nghi),̃ 撞(âm Hán Việt chàng), có khi viế t dạng tắ t.
Tuy những dạng tắ t này không xuấ t hiện trong Hán văn, nhưng chúng có lai nguyên rõ ràng, khiến
người ta có thể liên hệ ngay đế n chữ gố c khi nhìn thấ y chúng, vì vậy cũng nên xế p vào loại chữ
Nôm mượ n Hán. Cũng vậy, hai chữ 񣡢năng, 񣡢 đứctrong văn bản Nôm cũng có khi viế t dạng nguyên
thể 能(âm Hán Việt “năng”), 德(âm Hán Việt “đức”), có khi viế t dạng tắ t, cho thấy có lai nguyên rõ
ràng, khiến người ta có thể liên hệ ngay đế n chữ gố c khi nhin
̀ thấ y chúng, và hai chữ viế t tắ t này
không những mượ n âm mà còn mượ n cả nghiã của chữ Hán, rõ ràng cũng nên coi là chữ Nôm
mượ n Hán.
Cuối cùng, xin nói thêm về chữ 㐌đã và chữ 扲cầ m. Hai chữ này xuấ t hiện nhiề u lầ n trong Tân
biên TKML. Chữ 㐌đã đượ c Vương Lự c xế p vào loại “chữ đặc chế ”, cho rằ ng chữ này là dạng viế t
tắ t của chữ 拖, 鴕hoặc 陀(ba chữ này đề u có âm Hán Việt là đà) [Vương Lự c 1948:90], nhưng
chữ 㐌vố n có trong chữ Hán, là dị thể của chữ Hán 它(âm Hán Việt đà), cho nên chúng tôi cho rằ ng
chữ Nôm 㐌đã là mượ n dùng chữ Hán 㐌 để ghi âm thuầ n Việt “đa”̃ , chứ không phải là dạng viế t tắ t
của chữ mượ n Hán nào đó. Còn chữ 扲cầ m thường đượ c coi như là dạng viế t tắ t từ chữ 擒 “cầm”,
nhưng chữ 扲vố n có trong chữ Hán, là di ̣ thể của chữ Hán 擒, vì vậy chúng tôi cho rằ ng chữ Nôm 扲
cầ m là mượ n dùng chữ Hán 扲“cầm” để ghi âm thuầ n Việt cầ m, chứ không phải là dạng viế t tắ t từ
chữ Nôm mượ n Hán 擒.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.Đàm Chí Từ: Bàn về ảnh hưởng của chữ Hán đố i với chữ Nôm.谭志词,《论汉字对字喃的影
响》, 载《中国东南亚研究会通讯》2000年第2期,第11-17页。
2.Đường Lan: Văn tự học Trung Quố c. 唐兰,《中国文字学》(1949),上海古籍出版社,上海,
2005,155页。
3.Hoàng Thi ̣ Ngọ: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng
kinh, Nxb. KHXH, H. 2001, 1999.
4.Hứa Thận许慎: Thuyế t văn giải tự.<说文解字> ,
http://tool.httpcn.com/shuowen/
5.Khang Hy tự điể n《康熙字典》,http://tool.httpcn.com/kangxi/
6.Lâm Minh Hoa.Giới thuyết về chữ Nôm. 林明华,《喃字界说》,载《现代外语》1989年第2
期,第63-66页。
7.Mã Khắ c Thừa: Chữ Nôm của Việt Nam. 马克承,《越南的喃字》,载张殿英等编《东方研究百
年校庆论文集一九九八》,蓝天出版社,1998,第540-551页。
8.Nguyễn Quang Hồng: Khái luận văn tự học chữ Nôm. Nxb. Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh, 2008.
9.Nguyễn Tá Nhi:́ Các phương thức biểu âm trong cấu trúc chữ Nôm Việt. Nxb. KHXH, H.
2001,1997.
10.Nguyễn Tài Cẩ n: Một số vấn đề về chữ Nôm. Nxb. Đại học và THCN, H. 1985.
11.Tân biên truyền kỳ mạn lục: 新編傳奇漫錄. Xem: Truyền kỳ mạn lục giải âm. Nguyễn Quang
Hồng phiên chú, Nxb. KHXH, H. 2001.
12.Từ điể n Hán ngữ hiện đại《现代汉语词典》,中国社会科学院语言研究所词典编辑室编,商务
印书馆,北京,1983。
13.Từ hải《辞海》, 上海辞书出版社, 上海, 2010。
14.Văn Hự u: Khảo về kế t cấ u chữ Nôm và mố i quan hệ của nó với chữ Hán.聞宥, 《論字喃 (Chữ
Nôm) 之組織及其與漢字之闗涉》,载《燕京學報》第十四期,1933,第201-242页。
15.Vương Lự c: Nghiên cứu tiế ng Hán Việt. 王力,《漢越語研究》, 载《嶺南學報》第九卷第一期,
1948,第1-96页 ./.

You might also like