Chi viện cho miền Nam

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

Chi viện cho miền Nam

Sau Hiệp định Pa-ri được ký kết (27-1-1973), cách mạng Việt Nam chuyển sang giai
đoạn mới: Miền Bắc tiến hành hàn gắn vết thương do chiến tranh phá hoại lần thứ hai của
đế quốc Mỹ để lại và thực hiện khôi phục, phát triển kinh tế trong 3 năm 1973-1975;
miền Nam tiếp tục đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định. Từ tình hình thực tiễn cách
mạng miền Nam, Đảng ta khẳng định: Nếu địch không thi hành Hiệp định Pa-ri, tiếp tục
chính sách thực dân mới thì ta không có con đường nào khác là phải tiến hành chiến tranh
cách mạng, dùng bạo lực vũ trang để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Yêu cầu
cấp thiết đặt ra cho miền Nam lúc này là phải tăng cường sức mạnh mọi mặt, mà trước
hết là nhanh chóng bổ sung và tăng cường lực lượng của cả ba thứ quân. Thực tế đó đòi
hỏi miền Bắc phải dốc sức chi viện cho miền Nam.

Nhờ sự nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân
nên kinh tế miền Bắc nhanh chóng khôi phục và phát triển, đời sống nhân dân miền Bắc
được cải thiện và có điều kiện bảo đảm yêu cầu chi viện cho miền Nam để kết thúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Trong những năm 1973-1975, gần 50 vạn thanh niên miền Bắc
nhập ngũ lên đường ra mặt trận. Sự tăng viện này có ý nghĩa rất lớn cho việc củng cố,
phát triển khối quân chủ lực ở miền Nam. Đến cuối năm 1974, trên chiến trường miền
Nam chúng ta đã có 113 trung đoàn bộ binh, 5 trung đoàn tăng - thiết giáp với 700 xe các
loại, 1.300 khẩu pháo cao xạ... Thực hiện chủ trương của Đảng, để tăng cường sức mạnh
chiến đấu cho quân đội đáp ứng yêu cầu kết thúc chiến tranh, từ tháng 10-1973 đến đầu
năm 1975, ta đã thành lập 4 quân đoàn chủ lực. Đồng thời Đảng và Nhà nước cũng chú
trọng xây dựng các sư đoàn, trung đoàn chủ lực cơ động trực thuộc các quân khu mà cán
bộ, chiến sĩ của những đơn vị này chủ yếu là đưa từ miền Bắc vào.

Nhằm tăng cường sức cơ động của quân đội và khả năng chi viện vật chất kịp thời cho
miền Nam, Hội đồng Chính phủ đã phê chuẩn kế hoạch xây dựng hệ thống đường Đông
Trường Sơn và nâng cấp đường Tây Trường Sơn. Hơn 3 vạn cán bộ, chiến sĩ, công nhân,
thanh niên xung phong từ miền Bắc đã được điều động vào Trường Sơn cùng tham gia
nâng cấp và mở đường với cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559. Vượt qua khó khăn ác liệt đến đầu
năm 1975, ta đã mở được 1.200km đường từ Đông Trường Sơn vào tới Lộc Ninh và
1.240km đường được nâng cấp ở Tây Trường Sơn. Hệ thống đường ống xăng dầu mới
được xây dựng dài 1.311 km nối liền với hệ thống của cả nước, bao gồm 113 trạm bơm,
46 kho dự trữ với hệ thống bể chứa khoảng 327.800m3. Ngày 17-1-1975, xăng dầu vận
hành bằng đường ống đã vào tới Đông Nam Bộ. Nhờ hệ thống đường được mở rộng và
khả năng cung cấp xăng dầu nên việc vận chuyển, cơ động chiến lược của ta từ miền Bắc
vào miền Nam nhanh và nhiều hơn so với những năm trước.
Trước tình hình phát triển thuận lợi của cách mạng miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị
tháng 10-1974 và tháng 1-1975 đã chỉ rõ thời cơ lịch sử đang đến gần và hạ quyết tâm
chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết
định trong năm 1975, miền Bắc cung cấp cho miền Nam 560.000 tấn vật chất, trong đó
tăng cường chi viện cho Nam Bộ gấp 4 lần, Khu V gấp 2 lần và tăng cường dự trữ gấp 4
lần so với năm trước. Bằng sự cố gắng lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta nên chỉ
trong tháng 1 và tháng 2 năm 1975, miền Bắc đã huy động được 57.000 chiến sĩ; 260.000
tấn vật chất, trong đó có 46.000 tấn vũ khí, đạn dược; 124.000 tấn gạo; 32.000 tấn xăng
dầu. Đến tháng 4 năm 1975, miền Bắc đã chuyển giao khối lượng vật chất cho các chiến
trường đạt 119% kế hoạch.

Để huy động sức người, sức của cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Bộ
Chính trị thành lập Hội đồng Chi viện chiến trường. Thực hiện phương châm “thần tốc,
quyết thắng”, hậu phương miền Bắc đã chuyển nhanh một khối lượng vật chất hết sức to
lớn, đưa tổng số vật chất kỹ thuật đã dự trữ ở chiến trường lên gần 255.000 tấn, trong đó
có 93.540 tấn xăng dầu, 103.455 tấn vũ khí. Để phục vụ cho Chiến dịch Tây Nguyên vào
đầu tháng 3-1975, ta đã dự trữ ở đây gần 54.000 tấn vật chất, trong đó có 7.286 tấn gạo
đủ bảo đảm cho lực lượng vũ trang hoạt động dài ngày. Đặc biệt trong chiến dịch Hồ Chí
Minh, ta đã sử dụng lực lượng 5 quân đoàn binh chủng hợp thành gồm nhiều đơn vị được
cơ động thần tốc từ miền Bắc vào cùng với lực lượng vũ trang Nam Bộ, cực Nam Trung
Bộ và thành phố Sài Gòn với 270.000 người, lực lượng phục vụ hậu cần chiến dịch lên
tới 180.000 người. Nhờ sức mạnh áp đảo, ta đã nhanh chóng đè bẹp bộ máy ngụy quyền,
ngụyquân của địch từ trung ương đến cơ sở, giải phóng hoàn toàn miền Nam kết thúc sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trong thắng lợi chung đó, hậu phương lớn miền Bắc đóng
vai trò hết sức quan trọng.

Ngày ấy cách đây đã 35 năm nhưng nhìn lại những sự kiện đã qua để suy nghĩ về việc
huy động sức người, sức của cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cả hiện tại và tương lai là
việc rất hệ trọng. Trong con mắt của Mỹ - ngụy, vai trò của hậu phương miền Bắc có thể
chỉ đơn giản là nơi cung cấp cơ sở vật chất, vũ khí đạn dược cho chiến trường. Nhưng với
Đảng, nhân dân và quân đội Việt Nam thì ngoài vai trò nguồn cung cấp sức người, sức
của cho tiền tuyến, căn cứ hậu phương miền Bắc còn là chỗ dựa tinh thần, còn là nơi tạo
ra thế và lực để phát huy sức mạnh tổng hợp giành chiến thắng. Một câu hỏi đặt ra là
trong điều kiện miền Bắc kinh tế còn nghèo, lại vừa phải đương đầu với 2 cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của giặc Mỹ làm sao có thể khôi phục nhanh
và huy động được một khối lượng vật chất khổng lồ đến thế? Không gì khác chính sức
mạnh yếu tố chính trị, tinh thần là động lực thôi thúc chúng ta làm nên những điều kỳ
diệu ấy. Thời đại ngày nay đã khác xa cách đây 35 năm nhưng những bài học về phát huy
nhân tố chính trị, tinh thần để dốc sức chi viện cho tiền tuyến trong giai đoạn cuối của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn nguyên tính thời sự.

Tập trung chỉ đạo xây dựng những quân đoàn chủ lực
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam
được ký kết, buộc Mỹ phải rút hết quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh về
nước, tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, mở ra
bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, Mỹ tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự, chỉ đạo
chính quyền, quân đội Sài Gòn phá hoại Hiệp định Paris, liên tiếp mở những cuộc hành
quân “bình định, lấn chiếm” trên phạm vi toàn miền Nam hòng tiêu diệt lực lượng cách
mạng, mở rộng vùng chiếm đóng.
Trước âm mưu và hành động của địch, tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 21, khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam là con
đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ
vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam
tiến lên” (trích Nghị quyết Hội nghị).
Thực hiện đường lối của Đảng, từ nửa sau năm 1973 đến cuối năm 1974, quân dân ta trên
chiến trường miền Nam kiên quyết đẩy mạnh các hoạt động phản công và tiến công,
giáng trả lại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, bảo vệ nhân dân, củng cố, mở rộng
vùng giải phóng.
Chính quyền, quân đội Sài Gòn chịu nhiều tổn thất, từng bước lâm vào tình thế bị động,
ngày càng khó khăn. Trong khi đó, Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ cho chế độ Sài Gòn
xuống còn 700 triệu USD (tài khóa 1974-1975), thấp hơn nhiều so với yêu cầu (1.600
triệu USD).
Tuy nhiên, do quân ngụy còn đông (60 vạn quân chính quy và hơn 1 triệu phòng vệ dân
sự), nhiều loại trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, nên chính quyền Mỹ vẫn
chủ trương tiếp tục kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược.
Với tư duy quân sự sắc sảo và tầm nhìn chiến lược, ngay sau khi Hiệp định Paris được ký
kết, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị thành lập các
quân đoàn chủ lực, bởi những lý do cơ bản:
Một là, đáp ứng đúng quy luật phát triển khách quan về xây dựng lực lượng vũ trang và
yêu cầu thực tiễn của chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng. Vấn đề đặt ra lúc
này là ta phải có đủ sức mạnh đánh tiêu diệt lớn quân địch, việc chỉ sử dụng các sư đoàn
độc lập hoặc phối hợp nhiều sư đoàn như trước đây không còn thích hợp nữa, mà cần
phải có những quân đoàn chủ lực được tổ chức chặt chẽ làm “quả đấm quyết định.”

Hai là, sau khi quân Mỹ, quân đồng minh rút ra, tương quan so sánh lực lượng nghiêng
hẳn về phía ta, thế và lực cách mạng miền Nam có những chỗ mạnh rất cơ bản, đang trên
đà phát triển vững chắc.

Riêng bộ đội chủ lực tại miền Nam đã lên tới hơn 31 vạn, gồm 10 sư đoàn, 24 trung đoàn
và 100 tiểu đoàn. Các sư đoàn chủ lực đều được biên chế đầy đủ số quân và trang bị;
trong khi đó, miền Bắc tiếp tục tăng cường chi viện.

Ba là, trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng quy lớn của cán bộ ta đã
được tích lũy đáng kể, nhất là đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn
những chiến dịch lớn gần nhất như Đường 9-Nam Lào (1971), Đông Bắc Campuchia
(1970), cuộc tiến công chiến lược (1972).

Sau khi được Bộ Chính trị nhất trí thông qua, tháng 6/1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu: “Khẩn trương lập các quân đoàn, những “quả đấm chủ
lực” sẵn sàng sử dụng ở thời điểm quyết định, nghiên cứu phương thức tác chiến theo
hướng tiêu diệt chi khu, quận lỵ, chiến đoàn, lữ đoàn địch đi ứng cứu, tiêu diệt sư đoàn
địch.”

Nhận thấy trước khả năng tác chiến quy mô lớn trong tương lai gần, Quân ủy Trung ương
quyết định lựa chọn cử một đoàn cán bộ quân sự sang học một lớp bổ túc về tác chiến
binh chủng hợp thành tại Học viện Voroshilov (Moscow, Liên Xô).

Sau một thời gian chuẩn bị, các quân đoàn chủ lực của quân đội ta lần lượt được thành
lập: Quân đoàn 1 mang tên Binh đoàn Quyết Thắng (24-10-1973) đứng chân ở miền Bắc.
Quân đoàn 2 mang tên Binh đoàn Hương Giang ở Trị-Thiên (17-5-1974). Quân đoàn 4
mang tên Binh đoàn Cửu Long ở Đông Nam Bộ (20-7-1974). Quân đoàn 3 mang tên
Binh đoàn Tây Nguyên ở Tây Nguyên (26-3-1975).
Sự ra đời của các quân đoàn ở cả hậu phương và ngay tại chiến trường miền Nam đánh
dấu bước trưởng thành, sự lớn mạnh của Quân đội ta sau gần 30 năm xây dựng và chiến
đấu, tạo tiền đề thực hiện những trận quyết chiến chiến lược, tiến lên giải phóng hoàn
toàn miền Nam.

Câu 1: Sau Hiệp định Pa-ri được ký kết, miền Bắc tập trung thực hiện nhiệm vụ nào sau
đây?

A. Tiếp tục tăng cường chi viện cho miền Nam.


B. Ưu tiên khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
C. Cả A và B.
D. Khác.

Câu 2: Nhờ sự nỗ lực nào mà miền Bắc có thể nhanh chóng khôi phục kinh tế và chi viện
cho miền Nam trong những năm 1973-1975?

A. Sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.


B. Sự đóng góp của nhân dân miền Nam.
C. Nhờ sự nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế - xã hội của
nhân dân.
D. Nhờ chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Câu 3: Hệ thống đường Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn được xây dựng nhằm mục
đích gì?

A. Tăng cường sức cơ động của quân đội.


B. Nâng cao khả năng chi viện vật chất kịp thời cho miền Nam.
C. Cả A và B.
D. Khác.
Câu 4: Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ đã thực hiện hành động gì ở miền Nam
Việt Nam?

A. Rút hết quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh về nước.
B. Tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự cho chính quyền Sài Gòn.
C. Cả A và B.
D. Khác.

Câu 5: Mục đích chính của việc thành lập các quân đoàn chủ lực trong giai đoạn này là
gì?

A. Đáp ứng yêu cầu thực tiễn của chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng.
B. Nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn của cán
bộ.
C. Cả A và B.
D. Khác.

Câu 6: Sự ra đời của các quân đoàn chủ lực đánh dấu bước phát triển gì của Quân đội ta?

A. Tăng cường sức mạnh chiến đấu cho quân đội.


B. Nâng cao ý thức chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ.
C. Cả A và B.
D. Là bước trưởng thành, sự lớn mạnh của Quân đội ta sau gần 30 năm xây dựng
và chiến đấu.

You might also like