Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 99

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

VŨ TIẾN VINH

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ


THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2006

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT

1
VŨ TIẾN VINH

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ


THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ


MÃ SỐ: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHÙNG TRUNG TẬP

HÀ NỘI - NĂM 2006

2
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo

quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam : Luận văn

ThS / Vũ Tiến Vinh ; Nghd. : TS. Phùng Trung Tập . -

H. : Khoa Luật, 2006 . - 84 tr. + Đĩa mềm + Tóm tắt

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt 1
Mở đầu ……………………………………………….…… 2
1. Tính cấp thiết của đề tài …………………………… 2
2. Tình hình nghiên cứu ……………………………… 4
3. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, phương pháp nghiên
cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn …………… 4
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn ………………… 5
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn 6
……
6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ……… 7
7. Kết cấu của luận văn ……………………………… 7
Chương 1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự và Trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự 9
1.1. Trách nhiệm dân sự 9

4
1.2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự 11
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự …………………………… 11
1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi
phạm Hợp đồng dân sự ……………………… 14
1.3. Khái quát các quy định về trách nhiệm dân sự do
vi phạm Hợp đồng dân sự ……………………… 20
1.4. So sánh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng dân sự và trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng … 24
Chương 2. Các điều kiện phát sinh và nội dung của trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự …… 27
2.1. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng …………………………… 28
2.1.1. Có hành vi vi phạm hợp đồng ……………… 28
2.1.2. Có thiệt hại xảy ra …………………… 35
2.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
hợp đồng và thiệt hại xảy ra ………………… 38
2.1.4. Người vi phạm hợp đồng có lỗi ………… 42
2.2. Nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự
……………………………………… 45
2.2.1. Trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp
đồng 47
2.2.2. Trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại … 56
2.2.3. Bị phạt vi phạm nếu có thỏa thuận ………… 60

5
Chương 3. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp
luật dân sự về trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự ………………………………….. 63
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện những quy định của
pháp luật dân sự về trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự …………………………… 63
3.1.1. Những quan điểm chỉ đạo nhằm hoàn thiện
pháp luật dân sự …………………………… 64
3.1.2. Thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân các
cấp đối với các tranh chấp liên quan đến
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự ……………... 66
3.2. Đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định
liên quan và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án
các cấp đối với các tranh chấp liên quan đến
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự 77
Kết luận ……………………… 82
Tài liệu tham khảo ……………………………………… 88

6
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

BLDS : Bộ luật Dân sự


Nxb : Nhà xuất bản
TAND : Toà án nhân dân
TTLT : Thông tư liên tịch
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Cùng với sự ra đời của Nhà nước và Pháp luật, bên cạnh chế định quyền nhân
thân, quyền sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng dân sự, trách nhiệm dân sự được
xem là một trong những chế định pháp luật quan trọng. Xã hội loài người đã
trải qua nhiều kiểu nhà nước khác nhau, và ở mỗi kiểu Nhà nước lại có một
hình thái kinh tế - xã hội tương ứng nhưng bất kỳ kiểu nhà nước nào cũng đều
thông qua pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với thực tiễn
phát triển của kiểu nhà nước và pháp luật đó.
Hợp đồng dân sự là một hình thức thỏa thuận phổ biến trong xã hội có tư hữu.
Nghiên cứu về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một vấn đề
rất thiết thực, được nhiều người quan tâm tìm hiểu.
Dựa trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự (“BLDS”) năm
2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 là một bước phát triển mới trong
quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự của Việt Nam. Trách nhiệm
dân sự và Hợp đồng dân sự đã được pháp điển hóa trong Bộ luật Dân sự, bảo
vệ trực tiếp quyền lợi của các cá nhân, tổ chức khi tham gia các giao dịch dân
sự.
Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ
quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa (“XHCN”) Việt Nam. Ngày 2 tháng 1 năm 2002, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ/BCT “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới” và ngày 2 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị ban
hành Nghị quyết số 49/NQ-TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng

8
sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động
xét xử được tiến hành có hiệu lực và hiệu quả cao”. Ngày 22 tháng 2 năm
2006, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã đề ra “Chương trình trọng
tâm công tác tư pháp năm 2006” với nội dung: “Nghiên cứu đề xuất các vấn
đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới theo tinh thần và nội dung Chiến
lược cải cách tư pháp vào Bộ luật dân sự. Đẩy nhanh tiến độ và khẩn trương
xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự”.
Có một điều khó tránh khỏi là với xu thế phát triển ngày càng phổ biến và đa
dạng của Hợp đồng, nhiều quan hệ dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng nói
riêng lại chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa triệt để đã gây
ra không ít khó khăn cho cơ quan xét xử. Hàng năm, có hàng chục nghìn vụ
án tranh chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự được tòa án
nhân dân các cấp thụ lý và giải quyết nhưng lại gặp phải sự thiếu đồng bộ và
chưa thống nhất trong các quy định pháp luật dân sự hiện hành khiến nhiều vụ
án phải xét xử nhiều lần hoặc tính thuyết phục của bản án chưa cao.
Tranh chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một loại
tranh chấp mang tính đặc thù, đặc biệt là số lượng các giao dịch dân sự ngày
một tăng. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết các tranh
chấp về trách nhiệm trong hợp đồng dân sự cũng đã gặp nhiều vướng mắc,
đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
Bộ luật Dân sự năm 2005 đang đặt ra một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách là
trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự hiện hành, phải phân
tích để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận về trách nhiệm dân
sự và hợp đồng dân sự, từ đó đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về những tranh chấp hợp đồng. Trước đòi
hỏi của công dân và xã hội, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ

9
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đáp ứng những
đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu


Từ năm 1991 trở lại đây, pháp luật về hợp đồng dân sự của Việt Nam được
xây dựng và hoàn thiện phù hợp với các quan hệ xã hội theo định hướng
XHCN, theo đó quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức trong
quan hệ hợp đồng được pháp luật bảo.
Đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu của các nhà luật học trong nước
viết về hợp đồng dân sự và trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng dân sự chỉ được đề cập đến như là một phần của một công
trình nghiên cứu nào đó, hoặc chỉ là những nghiên cứu nhỏ lẻ, riêng rẽ. Tác
giả Ngô Văn Thâu có tác phẩm “Một số điều cần biết trong các quyền dân sự
của công dân” (Nxb. Pháp lý, 1987); Tác giả Đỗ Văn Đại với bài viết “Về
điều chỉnh nguy cơ không thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam” (Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, 1-2005).
Có thể thấy những nghiên cứu về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dân sự là
những nghiên cứu có ý nghĩa nhưng đều được thực hiện trước khi có Bộ luật
Dân sự năm 2005. Trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự là một
vấn đề phức tạp và chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách
toàn diện, có hệ thống về chế định này. Tính đến thời điểm hiện nay thì chưa
có công trình nào phân tích sâu về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng để rút
ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự nhằm nâng cao hiệu quả xét

10
xử của tòa án các cấp đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự.

3. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, phƣơng pháp nghiên cứu, phạm vi


nghiên cứu của luận văn
 Cơ sở lý luận của luận văn:
Là cơ sở lý luận về nhà nước và pháp luật, bộ luật dân sự hiện hành của Việt
Nam, pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới, các cơ sở khoa học về
lịch sử pháp luật, xã hội học pháp luật, triết học. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng
các văn bản pháp luật có liên quan, các công trình nghiên cứu, các sách
chuyên khảo và các bài viết đăng trên các báo và tạp chí.
 Cơ sở thực tiễn của luận văn:
Dựa trên tình hình thực tế của các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự; tính khả thi trong việc áp dụng các quy định
điều chỉnh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự trong pháp luật
dân sự hiện hành.
 Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Trong khi thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgic để phân tích, tổng
hợp các tri thức khoa học luật dân sự về trách nhiệm dân sự và hợp đồng dân
sự.
 Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.

4. Mục đích nghiên cứu của luận văn


 Mục đích của luận văn

11
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét
xử các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống để hoàn thiện quy định của
pháp luật về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, nâng cao hiệu quả xét xử của
tòa án, góp phần ổn định các quan hệ xã hội về trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng.
 Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Phân tích khái niệm trách nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự;
- Phân tích điều kiện phát sinh và nội dung của trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng dân sự để thấy được những tồn tại trong việc
áp dụng pháp luật dân sự trong giải quyết trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự, tìm ra sự cần thiết và từ đó có những đề
xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm dân
sự trong hợp đồng;
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp liên quan
đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn


Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý
Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện,

12
có hệ thống về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Có thể xem
những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Thông qua việc phân tích những vấn đề lý luận chung về trách
nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự,
đưa ra vấn đề tổng quan và toàn diện về trách nhiệm dân sự và
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự trong pháp luật
dân sự hiện hành của Việt Nam.
- Giúp người đọc nắm rõ và đầy đủ về các điều kiện phát sinh và nội
dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự; nhận
định đúng về tầm quan trọng của việc ký kết và thực hiện hợp
đồng dân sự, từ đó tránh được các vi phạm hợp đồng dân sự.
- Đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện những
quy định của pháp luật về phân định trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự.

6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn


Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng
đối với việc hoàn thiện những quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng dân sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp có
liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự tại các cấp tòa
án ở Việt Nam. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong
muốn góp phần nghiên cứu khiêm tốn của mình vào hệ thống lý luận luật dân
sự, cũng như ổn định các quan hệ xã hội về trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự có tính thiết thực và phức tạp này.

13
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật dân sự, trách
nhiệm dân sự và hợp đồng dân sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang
công tác tại cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan pháp luật có liên
quan.

7. Kết cấu của luận văn


Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn này gồm có
ba chương:

Chương 1: Khái niệm về trách nhiệm dân sự, trách nhiệm dân sự do vi
phạm Hợp đồng dân sự.
Chương 2: Các điều kiện phát sinh và nội dung của trách nhiệm dân
sự do vi phạm Hợp đồng dân sự.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật dân
sự về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự.

14
Chƣơng 1
KHÁI NIỆM VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ VÀ
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

1.1. Trách nhiệm dân sự


Trách nhiệm dân sự là một phạm trù rộng bao hàm những công việc phải làm
(phần trách nhiệm) của một cá nhân, một tổ chức đối với các công việc trong
lĩnh vực dân sự. Nội hàm của trách nhiệm dân sự cho ta thấy mọi cá nhân, tổ
chức là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự đều phải tự mình chịu trách
nhiệm đối với những công việc mà họ đã cam kết thực hiện. Đặc trưng cơ bản
của quan hệ pháp luật nói chung là nội dung của quan hệ pháp luật được cấu
thành bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo
bằng sự cưỡng chế nhà nước. Cũng như vậy, ở quan hệ pháp luật dân sự nói
riêng, tổng hợp các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự tạo thành nội dung của quan hệ đó, các bên vừa có quyền
đồng thời vừa có nghĩa vụ với nhau. Nghĩa vụ dân sự trong quan hệ pháp luật
dân sự là một bộ phân không thể tách rời của nội dung quan hệ đó. Khái niệm
nghĩa vụ dân sự được quy định tại Điều 258 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
2005 như sau: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định của pháp luật thì
một hoặc nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc
hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác (gọi là người có quyền)” [2].
Trách nhiệm dân sự ràng buộc các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các giao
dịch dân sự phải thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết. Nếu họ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm
dân sự bằng việc bồi thường thiệt hại do có hành vi vi phạm hợp đồng. Việc
giải quyết các vi phạm liên quan đến trách nhiệm dân sự bằng phương thức

15
bồi thường chính là việc các chủ thể đã tự nguyện hoặc bị bắt buộc phải gánh
chịu hậu quả của những vi phạm dân sự đó để thực hiện trách nhiệm dân sự
giữa người có nghĩa vụ và người có quyền trong một giao dịch hoặc quan hệ
dân sự. Việc thực hiện trách nhiệm dân sự theo nguyên tắc bên có hành vi vi
phạm phải bồi thường đối với cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm.
Theo nghĩa thông thường thì trách nhiệm dân sự được hiểu là: “Việc bắt buộc
phải sửa chữa một thiệt hại do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ dân sự” [24]. Trách nhiệm dân sự, quyền và nghĩa vụ dân sự có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Quyền của một bên làm phát sinh nghĩa vụ của
bên kia trong một quan hệ dân sự. Nghĩa vụ dân sự này có thể được các bên
thỏa thuận thông qua quan hệ dân sự hoặc là nghĩa vụ dân sự do pháp luật dân
sự quy định (ví dụ: nghĩa vụ dân sự đối với bất động sản của cá nhân, pháp
nhân). Trên cơ sở đó, trách nhiệm dân sự phát sinh để ràng buộc các bên tham
gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ dân sự là hành vi vi phạm pháp luật. Nhà nước quy
định các chế tài dân sự như là sự phản ứng của Nhà nước đối với những chủ
thể vi phạm pháp luật dân sự và một trong những quy định chế tài đó là trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự của một chủ thể. Các chủ thể trong
một quan hệ pháp luật dân sự tự nguyện cam kết thực hiện các nghĩa vụ dân
sự. Do vậy, các chủ thể tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình hoặc thực
hiện công việc theo thỏa thuận của các bên.
Không giống với trách nhiệm hình sự là chủ thể vi phạm pháp luật thường
không thấy trước trách nhiệm của mình khi thực hiện hành vi vì mục đích và
hậu quả của hành động theo phán quyết của toà án mới quyết định đến trách
nhiệm hình sự của chủ thể phạm tội, các chủ thể tham gia vào các quan hệ
pháp luật dân sự luôn có thể xác định trước được trách nhiệm dân sự khi tham

16
gia các quan hệ pháp luật dân sự vì bản chất của trách nhiệm dân sự là tồn tại
không phụ thuộc vào hậu quả của sự việc.
Có thể đưa ra định nghĩa về trách nhiệm dân sự như sau: “Trách nhiệm dân sự
được hiểu là một loại trách nhiệm về tài sản của chủ thể trong một quan hệ
pháp luật dân sự nhất định, buộc phải thực hiện một việc, kiềm chế không
được thực hiện một việc, phải bồi thường một thiệt hại hoặc phải gánh chịu
các chế tài dân sự khác, do đã có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác”.
Như vậy, có thể nói trách nhiệm dân sự là việc chủ thể của quan hệ pháp luật
phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng vật chất trong trường hợp gây ra thiệt
hại cho một chủ thể khác. Quan hệ trách nhiệm dân sự có hai chủ thể: một chủ
thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và một chủ thể có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại. Ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại mong muốn
bồi thường cho người bị thiệt hại, thì sự mong muốn đó cũng không phải là
nguồn của nghĩa vụ bồi thường. Nghĩa vụ bồi thường do luật quy định, còn
người có nghĩa vụ chỉ thực hiện một nghĩa vụ mà ý chí của mình không tạo
ra.
Pháp luật dân sự không xác định hoặc xác định không đầy đủ trách nhiệm dân
sự trong các quan hệ dân sự sẽ dẫn tới tình trạng các chủ thể không có ý thức
tự nguyện thực hiện các cam kết dân sự hoặc thực hiện nửa vời. Từ đó, tính
nghiêm minh và hiệu lực thực thi của pháp luật sẽ bị giảm sút. Xác định rõ và
chi tiết hoá trách nhiệm dân sự sẽ góp phần tăng cường tính thực thi của pháp
luật dân sự, giúp pháp luật dân sự ngày một hoàn thiện và dễ áp dụng hơn.

1.2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự


1.2.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân
sự

17
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một loại trách nhiệm dân
sự và là một hình thức chế tài do Nhà nước quy định để áp dụng đối với các
hành vi vi phạm các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong một
hợp đồng dân sự. Giống như trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự cũng xuất phát trên cơ sở có hành vi vi phạm
các cam kết, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự lại bao hàm nội dung riêng không giống
với các trách nhiệm dân sự khác. Đó là việc khi các cá nhân, pháp nhân buộc
phải thực hiện trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự thì hoặc (1)
các chủ thể này buộc phải tiếp tục thực hiện hợp đồng; và (2) các chủ thể này
buộc phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản cho các chủ thể bị vi phạm. Đặc
thù riêng này là của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, và thấy
rằng đây là một loại chế tài dân sự có liên quan mật thiết đến hợp đồng dân
sự. Nghĩa vụ dân sự được phát sinh từ hợp đồng và được bảo đảm thực hiện
bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Các nghĩa vụ dân sự này mang tính chất tài
sản và được xác định giá trị bằng tiền.
Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không
thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Chủ thể không thực hiện hoặc
không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết mà gây thiệt hại cho chủ thể mang
quyền, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Trong BLDS hiện hành, trách nhiệm dân sự trong hợp đồng được chi phối bởi
các nguyên tắc được thiết lập trong khuôn khổ xây dựng chế độ pháp lý về
hợp đồng. Tuy nhiên, có thể ghi nhận đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng là trách nhiệm phát sinh từ sự vi phạm một quy tắc xử sự. Đó là sự
vi phạm nghĩa vụ dân sự (trách nhiệm dân sự trong hợp đồng). Đồng thời,
theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, trách nhiệm dân sự

18
trong hợp đồng chịu sự chi phối, trên nguyên tắc, của các quy định chung về
điều kiện trình tự thực hiện nghĩa vụ được các bên xác lập theo thỏa thuận.

Hợp đồng dân sự được coi là căn cứ để xem xét trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự. Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa
các cá nhân và pháp nhân với nhau liên quan đến tài sản trong một xã hội có
tổ chức. Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự theo một cơ chế chung là
các bên giao kết thống nhất về ý chí và bị ràng buộc trong một mối quan hệ
nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của bên kia. Theo nguyên tắc chung của
pháp luật dân sự thì mọi hợp đồng dân sự đều được thực hiện dưới hình thức
thoả thuận dù là hợp đồng miệng hoặc bằng văn bản. Thông qua hợp đồng
dân sự, các bên thỏa thuận các quyền và nghĩa vụ phải thực hiện. Trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự chính là việc một hoặc hai bên phải chịu
trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm các cam kết. Việc vi phạm hợp
đồng dân sự làm phát sinh trách nhiệm dân sự của một trong hai bên tham gia
vào hợp đồng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đẩy đủ các nghĩa vụ
mà hai bên đã cam kết trong hợp đồng.
Căn cứ xác định trách nhiệm dân sự là việc vi phạm nghĩa vụ phát sinh theo
hợp đồng. Nghĩa vụ bị vi phạm có thể là nghĩa vụ chính (nghĩa vụ đặc thù)
tương ứng với chủ thể của hợp đồng, hoặc là một nghĩa vụ phụ phát sinh từ
hợp đồng. Hợp đồng là một sự kiện pháp lý, và nghĩa vụ là hệ quả của sự kiện
đó. Ví dụ, nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho hành khách trong hợp đồng vận
chuyển hành khách.
Qua những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa về trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự như sau: “Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự được hiểu là trách nhiệm của chủ thể hợp đồng đã không thực hiện,
thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng

19
do các bên xác lập, mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải tiếp tục thực hiện
hợp đồng, phải bồi thường thiệt hại và chịu khoản tiền phạt do vi phạm hợp
đồng theo thoả thuận hoặc phải chịu những hậu quả bất lợi khác, do bên có
quyền theo hợp đồng bị vi phạm, theo đó bên có quyền có quyền đơn phương
đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng và được bồi thường thiệt
hại”.

Có thể nói, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một trong
những chế tài quan trọng của pháp luật dân sự để điều chỉnh một đối tượng
thông dụng và thiết thực trong đời sống xã hội là hợp đồng dân sự. Dưới đây
sẽ là những phân tích về đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo hợp đồng để
làm rõ hơn về loại trách nhiệm này.

1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự
Bên cạnh những đặc điểm chung như các trách nhiệm dân sự khác, trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự có những đặc điểm riêng. Các đặc
điểm riêng này để phân biệt trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
với các loại trách nhiệm dân sự khác. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng có thể được phân tích như sau:

Đặc điểm 1: Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là


chế tài dân sự.
Trách nhiệm dân sự luôn thể hiện hình thức cưỡng chế của Nhà nước. Nhà
nước quy định trách nhiệm nhằm buộc các bên tham gia giao dịch dân sự nếu
vi phạm các cam kết sẽ phải gánh chịu các chế tài theo quy định của pháp
luật. Tính cưỡng chế trong pháp luật dân sự được thể hiện thông qua việc cơ
quan có thẩm quyền dựa trên cam kết và thoả thuận của hai bên trong hợp

20
đồng, sẽ xem bên nào phải chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
Quyết định mang tính chế tài của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ buộc
bên vi phạm chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại cho bên bị vi phạm.

Không giống với các chế tài pháp lý khác như chế tài hình sự, hành chính, đặc
điểm của chế tài dân sự hoàn toàn mang tính chất tài sản thông qua việc bồi
thường thiệt hại (vật chất, tinh thần…) cho chủ thể bị vi phạm. Nhà nước quy
định tính chế tài cho trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng nhằm đảm bảo
sự ổn định và lành mạnh trong các quan hệ hợp đồng dân sự, một trong những
quy định quan trọng của pháp luật dân sự và ở trong bất kỳ giai đoạn nào.
Việc đưa ra các biện pháp chế tài nhằm ổn định các quan hệ hợp đồng dân sự
sẽ giúp nền kinh tế vận động một cách có hiệu quả hơn, an toàn hơn với mọi
chủ thể. Từ đó tạo được động lực để các chủ thể tham gia nhiều hơn, tích cực
và yên tâm hơn vào các quan hệ hợp đồng dân sự.

Đặc điểm 2: áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý là áp dụng với các chủ thể vi phạm pháp luật thì một đặc
điểm khác của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là áp dụng đối
với các chủ thể vi phạm các cam kết liên quan đến hợp đồng dân sự hay nói
cách khác là vi phạm các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến hợp
đồng dân sự. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, các cam kết trong
hợp đồng dân sự có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia vào hợp đồng dân sự và cá nhân hoặc pháp nhân chịu trách nhiệm
dân sự là những chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các
quy định này. Chủ thể không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết trong hợp
đồng dân sự bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật dân sự và phải chịu
trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật dân sự.

21
Nếu một chủ thể không bị coi là vi phạm pháp luật dân sự nói chung và hợp
đồng dân sự nói riêng thì đương nhiên họ sẽ không phải chịu trách nhiệm dân
sự. Trách nhiệm dân sự chỉ phát sinh khi có sự vi phạm hợp đồng dân sự.
Việc xác định một hợp đồng dân sự có bị vi phạm hay không là một việc làm
quan trọng và cần thiết để xác định một chủ thể có vi phạm pháp luật dân sự
hay không và có bị áp dụng chế tài dân sự hay không. Trách nhiệm dân sự là
trách nhiệm của chủ thể vi phạm pháp luật, bị áp dụng các chế tài do pháp luật
quy định.
Đặc điểm 3: Đƣợc thực hiện bởi cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền
trong phạm vi pháp luật cho phép.
Đây là một đặc điểm mang tính hướng dẫn của pháp luật dân sự đối với các
chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật dân sự. Sẽ chỉ có các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thụ lý và giải quyết các tranh
chấp dân sự cũng như đưa ra phán quyết về việc chủ thể nào sẽ phải chịu
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Đặc điểm này có thể được
hiểu là việc bắt buộc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
các cam kết trong hợp đồng dân sự phải chịu trách nhiệm dân sự và việc phán
quyết sẽ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đảm trách.
Trong một vụ án dân sự, việc thụ lý quy kết trách nhiệm dân sự cho các bên
tham gia vào giao dịch dân sự sẽ do Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền
quyết định (Tòa án nhân dân cấp quận, huyện; Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương). Sau khi có quyết định cuối cùng của tòa
án, việc yêu cầu các bên đương sự thực hiện đúng trách nhiệm dân sự của
mình sẽ do cơ quan thi hành án cấp tương đương thực hiện theo quy định.
Khác với các quyết định hình sự do cơ quan công an thực hiện hình phạt, các
quyết định dân sự thường phụ thuộc nhiều vào các cơ quan thi hành án và
thường không mang tính cưỡng chế cao. Việc quy định chỉ có cơ quan Nhà

22
nước có thẩm quyền mới có thẩm quyền phán quyết và đưa ra các biện pháp
áp dụng có liên quan đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
cho thấy tính chất tối cao và nghiêm khắc của các quy định pháp luật dân sự
về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự.

Đặc điểm 4: Sử dụng một số biện pháp chế tài nhất định do luật
định để buộc ngƣời vi phạm phải chịu hậu quả bất lợi.
Bản chất của pháp luật là mọi chủ thể khi thực hiện các hành vi mà pháp luật
nghiêm cấm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật và
sẽ bị pháp luật áp dụng một số chế tài nhất định buộc chủ thể có hành vi vi
phạm phải chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Nguyên tắc của pháp luật là chỉ có những người chịu trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự mới bị pháp luật áp dụng các biện pháp chế tài theo
quy định của pháp luật. Tùy theo đối tượng và giá trị của từng hợp đồng dân
sự mà các hình thức chế tài áp dụng sẽ khác nhau. Chế tài theo quy định của
pháp luật dân sự có thể là việc buộc chủ thể vi phạm hợp đồng dân sự phải
thực hiện các nghĩa vụ dân sự đã cam kết trong hợp đồng; hoặc là việc chủ thể
vi phạm phải bồi thường một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng cho chủ thể
bị vi phạm; hoặc là việc chủ thể vi phạm phải thực hiện một nghĩa vụ dân sự
bắt buộc nào đó với bên thứ ba có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến hợp đồng.
áp dụng các biện pháp chế tài dân sự là một đặc điểm cần thiết và quan trọng
trong pháp luật dân sự. Nếu không có các biện pháp chế tài đủ mạnh đối với
các hành vi vi phạm pháp luật dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng
thì trách nhiệm dân sự của một chủ thể chỉ mang tính hình thức mà không có
tác dụng răn đe. Đồng thời, các quy định của pháp luật dân sự cũng thiếu tính
cưỡng chế cần thiết để đảm bảo trật tự của các quan hệ pháp luật dân sự. Việc

23
đưa ra các chế tài phù hợp và có tính cưỡng chế đủ mạnh đối với từng hành vi
vi phạm pháp luật dân sự sẽ giúp cho pháp luật dân sự được thực thi một cách
nghiêm minh hơn do mọi cá nhân, pháp nhân đều có trách nhiệm phải tuân
thủ các biện pháp chế tài đủ mạnh.
Các biện pháp chế tài không minh bạch hoặc thiếu tính răn đe dễ làm cho các
chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự không tuân thủ pháp luật, từ đó làm
cho pháp luật thiếu tính cưỡng chế, lỏng lẻo, giảm đi vai trò là công cụ của
Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội tương ứng, từ đó làm cho các cá
nhân, tổ chức thiếu lòng tin vào pháp luật. Ngược lại, nếu các biện pháp chế
tài quá cứng nhắc hoặc quá nghiêm khắc so với các hành vi vi phạm pháp luật
tương ứng sẽ lại gây ra các hậu quả tiêu cực đối với đối với đời sống kinh tế,
xã hội. Từ việc cố gắng tránh thực hiện các hành vi được coi là vi phạm pháp
luật dân sự, phải chịu trách nhiệm dân sự, các chủ thể pháp luật dân sự sẽ ít
tham gia hơn hoặc tham gia hạn chế hơn các hợp đồng dân sự. Hậu quả là các
giao dịch dân sự sẽ bị giảm đi về quy mô, thiếu tính tự do và đa dạng dẫn đến
việc kìm hãm các quan hệ dân sự, thương mại trong xã hội. Đảm bảo được
tính nghiêm khắc của các biện pháp chế tài nhưng cũng phải đảm bảo được
mức độ cưỡng chế đủ mạnh phù hợp để kích thích số lượng và tính đa dạng
của các giao dịch dân sự là yêu cầu cần thiết trong quá trình thiết lập và áp
dụng chế tài của pháp luật dân sự.

Đặc điểm 5: Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự


mang tính chất tài sản.
Về bản chất, các quan hệ pháp luật dân sự chủ yếu là các quan hệ mang tính
tài sản và quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản. Ví dụ, quan hệ hợp
đồng mua bán, cho tặng, v.v. Tính chất tài sản trong trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự thể hiện ở việc khi chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu

24
quả xấu cho người khác thì Tòa án buộc bên vi phạm phải bồi thường bằng
chính tài sản của mình cho bên bị vi phạm. Nguyên tắc của trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự là nguyên tắc chịu trách nhiệm bằng tài sản
mà không có hình thức thay thế.
Tính chất tài sản trong trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự thể
hiện qua việc các chủ thể, bằng tài sản của mình, bồi thường tương ứng về giá
trị thiệt hại do hành vi của chủ thể đó gây ra. Trách nhiệm bồi thường bằng tài
sản (tiền, động sản, bất động sản) hoặc giá trị vật chất là bắt buộc và là một
đặc điểm của pháp luật dân sự. Đặc điểm này bảo đảm trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự luôn luôn được giải quyết bằng tài sản và giúp phân
biệt với các trách nhiệm pháp lý khác mà đặc điểm thực hiện hoặc áp dụng
chế tài không mang tính chất tài sản.

Đặc điểm 6: Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong Hợp đồng
dân sự tƣơng ứng với nhau.
Trong quan hệ pháp luật dân sự, giữa các chủ thể tồn tại mối liên hệ quyền
của chủ thể này tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia. Khi xác định trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, hành vi vi phạm gây thiệt hại phải
tương xứng với tính chất của sự vi phạm. Nếu không sự có sự tương xứng
giữa hành vi vi phạm với tính chất vi phạm của một chủ thể thì pháp luật sẽ
không thể xác định trách nhiệm dân sự của chủ thể có liên quan. Qua đó, trách
nhiệm dân sự quy định đặc điểm mang tính chất đền bù tương đương buộc
bên vi phạm hợp đồng dân sự phải đền bù cho bên bị vi phạm nhằm khôi phục
tình trạng tài sản và xác lập lại các quyền, lợi ích bị xâm phạm của người bị
thiệt hại. Quyền của chủ thể này luôn tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia.
Trong hợp đồng dân sự, một chủ thể không chỉ có riêng quyền hoặc riêng
nghĩa vụ. Đặc điểm qua lại giữa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia

25
một quan hệ pháp luật dân sự quy định sự tồn tại của một hợp đồng dân sự. Vì
thế, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự của một chủ thể chính là
việc chủ thể đó không thực hiện các nghĩa vụ dân sự đã cam kết của mình để
đổi lại các quyền mà chủ thể đó được hưởng từ hợp đồng dân sự. Trách nhiệm
dân sự buộc chủ thể vi phạm phải bồi thường giá trị tương ứng với lợi ích mà
họ được hưởng từ quyền dân sự trong hợp đồng dân sự. Qua đặc điểm này, có
thể thấy trách nhiệm dân sự đồng nhất với việc thực hiện nghĩa vụ dân sự
trong trật tự cưỡng chế. Do đó, có thể kết luận: “Trách nhiệm dân sự do vi
phạm nghĩa vụ dân sự là sự cưỡng chế của nhà nước buộc bên vi phạm phải
tiếp tục thực hiện đúng những nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại do
hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình gây ra cho phía bên kia” [24]. Trách
nhiệm dân sự không những chỉ nhằm đền bù tổn thất đã gây ra mà còn bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự
không bị xâm phạm bởi các hành vi trái pháp luật.
Các quyền dân sự của công dân Việt Nam cũng như nhiều quyền quan trọng
khác có cơ sở kinh tế là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là cơ sở và chỗ dựa vững chắc để bảo đảm các quyền dân sự được
thực hiện và phát triển. Do vậy, Nhà nước Việt Nam đã không ngừng hoàn
thiện pháp luật dân sự nói riêng và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung để
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị trong khu vực và trên thế
giới, và điều không kém phần quan trọng là dùng các biện pháp có hiệu lực
pháp luật cao để bảo hộ và bảo vệ quyền dân sự của các tổ chức và các cá
nhân khi những quyền ấy bị vi phạm. Một nguyên tắc để bảo vệ quyền dân sự
của các tổ chức và các cá nhân là trách nhiệm phải thi hành đầy đủ, đúng đắn
những điều đã thỏa thuận và cam kết trong hợp đồng dân sự, và phải bồi
thường nếu vi phạm các điều khoản và điều kiện của hợp đồng dân sự mà gây
thiệt hại cho bên kia.

26
1.3. Khái quát các quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng dân sự
Chế định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một chế định
pháp luật quan trọng trong Bộ luật Dân sự của hầu hết các nước. Do có sự
khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, chính trị, kinh tế – xã hội và thể
chế nhà nước... của mỗi quốc gia mà quy định pháp luật về trách nhiệm dân
sự theo hợp đồng dân sự cũng được pháp luật mỗi quốc gia quy định khác
nhau.

Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 Tòa án tối cao ra Chỉ thị
số 772/TATC để “đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ của phong kiến, đế
quốc”. Từ thời điểm đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu hẳn bộ luật dân sự
thực thụ. Một số lĩnh vực của pháp luật dân sự được tách ra và quy định trong
nhiều văn bản luật và các văn bản pháp quy dưới luật như thông tư, chỉ thị,
nghị định, pháp lệnh. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực dân sự như thừa kế, quyền sở
hữu trí tuệ v.v không được điều chỉnh trực tiếp. Các quy định được điều chỉnh
về nghĩa vụ dân sự chủ yếu là các vấn đề về nhà ở, vàng bạc, kim loại quý, đá
quý v.v và nói chung mang nặng tính chất hành chính. Có thể liệt kê một số
văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự liên quan đến hợp đồng như Pháp
lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991) v.v. Vấn đề gặp
phải trong việc áp dụng pháp luật thời kỳ này là tuy có nhiều văn bản pháp
quy nhưng đôi khi các văn bản này chồng chéo và mâu thuẫn với nhau, gây ra
nhiều khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự do Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam (“CHXHCNVN”) thông qua ngày 29/3/1991, được Chủ
tịch nước ký Lệnh công bố số 52-LCT/HĐNN8 ngày 7/5/1991 và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 1/7/1991 là văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao đầu

27
tiên quy định khá đầy đủ về hợp đồng dân sự, một trong những chế định quan
trọng và cơ bản của pháp luật dân sự. Việc ra đời Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự
phần nào bổ sung sự thiếu hụt các quy định về pháp luật dân sự trong hệ
thống pháp luật Việt Nam trong khoảng thời gian này. Đồng thời, đáp ứng
được phần nào xu thế phát triển của các quan hệ pháp luật dân sự.
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự là văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam điều
chỉnh riêng về lĩnh vực hợp đồng dân sự bao gồm cả trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng. Pháp lệnh Hợp đồng dân sự đã giành toàn bộ Chương IV, từ
Điều 43 đến Điều 55 để quy định về trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng dân
sự. Điều 43 Pháp lệnh đã quy định rõ “Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng”
như sau: “Bên có lỗi trong việc không thực hiện hoặc thực hiện hợp đồng
không đúng thỏa thuận, thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, nếu
pháp luật không có quy định khác”. Đồng thời, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự
cũng đề cập đến một loạt các trách nhiệm có liên quan đến Hợp đồng dân sự
như: Điều 44 - Trách nhiệm do không thực hiện hợp đồng; Điều 45 - Trách
nhiệm do chậm thực hiện hợp đồng; Điều 46 - Trách nhiệm do thực hiện hợp
đồng không đủ số lượng; Điều 47 - Trách nhiệm do thực hiện hợp đồng
không đúng chất lượng; Điều 48 - Trách nhiệm do thực hiện hợp đồng không
đồng bộ; Điều 49 - Trách nhiệm do giao một vật không đúng chủng loại; Điều
50 - Trách nhiệm do chậm thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
trả tiền; Điều 51 - Phạt vi phạm hợp đồng…
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự đã xác định một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy
đủ và chi tiết trong việc giải quyết trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự, một chế định quan trọng nhưng đã thiếu những quy định pháp luật chi
tiết để điều chỉnh trong một thời gian dài kể từ năm 1991 đến năm 1995.
Mốc thời gian năm 1991 có thể coi là giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ nhất
của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.

28
Cùng với kinh tế là những biến đổi lớn về chế độ xã hội và pháp luật nhằm
đáp ứng tốt hơn yêu cầu pháp luật hóa các mối quan hệ xã hội ngày càng đa
dạng trong xu thế toàn cầu hóa. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với Nhà nước
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới thời kỳ này là phải tạo ra một môi trường
xã hội và pháp lý thuận lợi, ổn định, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế
phát triển để tận dụng tối đa nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tư nhân trong sự
nghiệp hiện đại hóa đất nước.
Trong xu thế đó, Bộ luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam đã được Quốc hội
khóa IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ
8 ngày 28/10/1995 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/1996. Chế định
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự trong BLDS năm 1995 đã kế
thừa hầu hết các quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
của Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự. Đồng thời, có những bổ sung và tham khảo
các quy định về pháp luật dân sự của nhiều quốc gia có nền pháp luật dân sự
phát triển trên thế giới như Cộng hoà Pháp, Nhật Bản để tạo ra một khung
pháp lý về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự đầy đủ và phù hợp
với thực tiễn kinh tế - xã hội và pháp luật của Việt Nam tại thời điểm ra đời.
BLDS năm 1995 ra đời đã đáp ứng được kỳ vọng của đại bộ phận quần chúng
về sự ổn định và luật hóa của một lĩnh vực lớn của xã hội là lĩnh vực dân sự.
Nó cũng tạo ra một sự ổn định về mặt xã hội và tạo được lòng tin từ phía các
nhà đầu tư trong và ngoài nước về một môi trường đầu tư an toàn và thuận
lợi.
Trong giai đoạn này, BLDS có thể được xem là thành tựu lớn nhất của năm
mươi năm xây dựng hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại. Những
nguyên tắc và khái niệm cơ bản về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
dân sự theo hợp đồng dân sự đã được quy định trong BLDS năm 1995 nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức tham gia vào quan

29
hệ hợp đồng dân sự hợp pháp. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự được quy định trong BLDS năm 1995 là bước tiến quan trọng trong quá
trình lập pháp của Việt Nam nhằm khắc phục kịp thời sự thiếu tập trung,
không đầy đủ của pháp luật về trách nhiệm dân sự theo hợp đồng dân sự được
quy định trước đó.
Sự ra đời và đồng hành của BLDS năm 1995 trong hơn 10 năm Việt Nam
thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã cho thấy tính đúng
đắn và phù hợp của các quy định pháp luật dân sự nói chung và những quy
định về trách nhiệm dân sự theo hợp đồng dân sự nói riêng với tương quan
của các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp trong nền kinh tế đa
chiều. Những chế định pháp lý liên quan đến nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm
dân sự được quy định trong nhiều loại hợp đồng dân sự khác nhau như Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Hợp đồng mua bán doanh nghiệp và
nhiều những quan hệ khác có liên quan đến trách nhiệm dân sự. Bên cạnh đó,
BLDS năm 1995 còn có nhiều quy định không rõ ràng, không đầy đủ hoặc
còn mang tính hành chính.

Vì vậy, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua và ban hành BLDS
năm 2005 cho phù hợp và mang tính khả thi hơn trong giai đoạn phát triển
mới của nền kinh tế – xã hội. BLDS năm 2005 quy định sửa đổi, bổ sung về
Nghĩa vụ Dân sự tại Điều 280 và Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
dân sự tại Điều 302 với sự điều chỉnh về câu từ và thuật ngữ luật pháp cho
phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo tính chính xác, trong sáng của ngôn từ
luật nhằm tạo ra căn cứ thực thi pháp luật hiệu quả và ổn định hơn.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự tuy chỉ là một quy định
trong chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự của BLDS năm 2005
nhưng do có rất nhiều thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, cùng với sự

30
hội nhập và phát triển mạnh mẽ của pháp luật Việt Nam nên chế định này vẫn
còn rất nhiều điều cần nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn, nhất là trong thời
điểm BLDS năm 2005 vừa bắt đầu có hiệu lực thi hành.

1.4. So sánh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự và trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Để hiểu rõ thêm về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự (trách
nhiệm dân sự theo hợp đồng), từ đó áp dụng pháp luật dân sự một cách đúng
đắn hơn, làm cho các quy định của pháp luật dân sự trở thành một công cụ
pháp lý thực sự có hiệu quả để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các
cá nhân, pháp nhân, tổ chức xã hội, của Nhà nước thì việc so sánh, làm rõ và
nhận thức đúng sự giống và khác nhau giữa trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
việc làm cần thiết và mang tính logic.
Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng là loại trách nhiệm phát sinh do một bên
không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà các bên đã
cam kết trong hợp đồng dân sự. Trong trường hợp này, giữa hai bên chủ thể
phải có quan hệ hợp đồng dân sự phát sinh hiệu lực và có thiệt hại xảy ra do
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ theo hợp
đồng. Trước thời điểm vi phạm và áp dụng trách nhiệm đã tồn tại một quan hệ
pháp luật hợp pháp theo ý chí của hai bên. Cả hai loại trách nhiệm này đều là
hình thức của trách nhiệm dân sự nên đều có đặc điểm là người gây thiệt hại
phải gánh chịu hậu quả đã xảy ra bằng chính tài sản của mình. Bên cạnh đó,
hai hình thức trách nhiệm này cũng có những điểm khác biệt như sau:
- Trong trách nhiệm dân sự theo hợp đồng, việc bồi thường thiệt hại
không giải phóng người có nghĩa vụ khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ một cách thực tế (giao vật, thực hiện công việc) (Điều 303, 304

31
BLDS năm 2005) [2], còn đối với trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng thì việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường sẽ làm chấm
dứt trách nhiệm bồi thường.
- Người gây thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự chỉ phải bồi thường
những thiệt hại trực tiếp và những thiệt hại có thể tiên liệu được khi ký
kết hợp đồng còn đối với người gây thiệt hại khi thực hiện trách nhiệm
ngoài hợp đồng thì người này phải bồi thường toàn bộ thiệt hại (cả trực
tiếp lẫn gián tiếp).
- Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự theo hợp đồng dân sự có thể bị phạt vi
phạm còn trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng chỉ phát sinh trách
nhiệm bồi thường mà không có phạt vi phạm hợp đồng.
- Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng dân sự có thể phát sinh cả khi do lỗi
của người khác (Điều 293) [2], còn đối với trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng thì chủ thể có thể phải chịu trách nhiệm cả khi
họ không có lỗi nếu pháp luật có quy định (Điều 623) [2], nhưng họ
không chịu thiệt hại về lỗi của người khác.
- Trong trách nhiệm dân sự theo hợp đồng thì trách nhiệm liên đới chỉ
phát sinh nếu có thỏa thuận trước còn những người gây thiệt hại trong
trách nhiệm ngoài hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm liên đới nếu có
đủ các điều kiện luật định.
- Về thời điểm phát sinh nghĩa vụ và trách nhiệm, trong trường hợp của
trách nhiệm dân sự theo hợp đồng, khi giữa các chủ thể tham gia ký kết
hợp đồng đã thỏa thuận với nhau về một nghĩa vụ phải bồi thường. Nếu
bên nào vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia thì mới phát sinh
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Nhưng đối với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, do thời điểm phát sinh

32
nghĩa vụ và trách nhiệm bồi thường xuất hiện cùng lúc nên thiệt hại
được coi là điều kiện phát sinh cả nghĩa vụ và trách nhiệm.

33
Chƣơng 2
CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH VÀ NỘI DUNG CỦA
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

Trách nhiệm dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005,
Phần thứ ba, Chương XVII, Mục 3 từ Điều 302 đến Điều 308. Như đã phân
tích tại Chương I, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một chế
định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Chế định này điều
chỉnh một lĩnh vực rất phổ biến và nhạy cảm là trong đời sống kinh tế, xã hội
hiện nay, đó là hợp đồng dân sự. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự gắn liền với hợp đồng dân sự. Chế định trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự nhằm khắc phục những hậu quả xẩy ra do vi phạm hợp đồng
dân sự, ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm hợp đồng dân sự và giáo dục các
cá nhân, pháp nhân trang bị tốt hơn những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết
trong việc nghiên cứu, ký kết và thực hiện các hợp đồng dân sự. Từ đó, giữ
gìn sự ổn định và lành mạnh của các quan hệ hợp đồng nói chung và quan hệ
hợp đồng dân sự nói riêng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
pháp nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.
Trong thực tế, việc vi phạm hợp đồng dân sự xảy ra rất đa dạng. Bộ luật Dân
sự không thể quy định bao quát hết mọi trường hợp vi phạm hợp đồng. Để
khắc phục tình trạng này, các nhà làm luật đã sử dụng phương pháp Pandeten.
Trước hết quy định các điều khoản chung mang tính chất nguyên tắc, khái
quát cho mọi trường hợp vi phạm hợp đồng dân sự và trách nhiệm nhân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự. Sau đó, Bộ luật Dân sự đưa ra quy định cụ thể về
các qui phạm này trong phần các hợp đồng dân sự thông dụng.
Khi nghiên cứu về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, là xem
xét tính pháp lý của chế định trách nhiệm dân sự này. Tìm hiểu tính pháp lý

34
của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự giúp cho việc vận dụng
các quy định pháp luật dân sự có liên quan một cách chính xác hơn, linh hoạt
hơn. Từ đó, có thể biết được những điểm chưa phù hợp trong các quy định
liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự nhằm đưa ra
những kiến nghị và ý kiến xây dựng pháp luật dân sự hoàn thiện hơn.
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 được xây dựng và sửa đổi trên cơ sở
tham khảo pháp luật dân sự của một số quốc gia có cấu trúc pháp luật tương
tự của Việt Nam. Qua đó, các quy định của BLDS 2005 đã khá tương đồng và
phù hợp với xu thế phát triển chung của pháp luật dân sự trên thế giới. Trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự cũng không nằm ngoài xu thế này
và được quy định khá đầy đủ, rõ ràng trong BLDS 2005. Trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng dân sự sẽ được nghiên cứu và phân tích qua các vấn đề
chính sau đây.

2.1. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự
2.1.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng
Hành vi vi phạm hợp đồng là một trong các hành vi dân sự của các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Theo giải thích của Từ điển thuật ngữ luật
học thì “Hành vi dân sự là hành vi của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự nhằm
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [23]. Hành vi
vi phạm hợp đồng là một trong bốn điều kiện cấu thành trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự. Đây là điều kiện cơ bản và là tiền đề trong việc xác
định trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Có thể định nghĩa hành
vi vi phạm hợp đồng là hành vi vi phạm những thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng.

35
Hợp đồng là một quan hệ pháp luật dân sự được xác lập trên cơ sở tự nguyện
của các bên chủ thể và theo đó quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên phát
sinh. Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa người với người
liên quan đến tài sản trong một xã hội. Các quan hệ hợp đồng hình thành
trong rất nhiều lĩnh vực như thương mại, lao động, và dân sự. Mỗi loại hợp
đồng, trong mỗi lĩnh vực, có những đặc điểm rất riêng, được chi phối bởi
những quy định pháp luật đặc thù. Trong đó, hợp đồng dân sự có thể được
xem là có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống, xã hội. Khi bên có
nghĩa vụ phải thực hiện hợp đồng vi phạm những điều đã cam kết thì được coi
là có hành vi vi phạm hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không
thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và hành vi vi phạm cũng chính
là việc không thực hiện các nghĩa vụ. Người không thực hiện hoặc không
thực hiện đúng nghĩa vụ đã được giao kết mà gây thiệt hại cho người cùng
giao kết, được coi là có hành vi vi phạm hợp đồng, và phải bồi thường thiệt
hại cho người bị vi phạm. Trong BLDS hiện hành của Việt Nam, trách nhiệm
dân sự trong hợp đồng được chi phối bởi các quy tắc được thiết lập trong
khuôn khổ chế độ pháp lý về hợp đồng. Dù là trách nhiệm dân sự trong hay
ngoài hợp đồng thì đều phát sinh từ sự vi phạm một quy tắc xử sự; đó có thể
là quy tắc xử sự do pháp luật quy định và đó là ý chí của các bên liên quan tạo
ra (trách nhiệm dân sự trong hợp đồng). Nguyên tắc của trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng, là chịu sự chi phối của các quy định chung về điều kiện xác
lập và về hiệu lực thực hiện.
Hành vi vi phạm hợp đồng liên quan đến nhiều yếu tố và có thể là việc làm
sai các cam kết, vi phạm đối tượng hợp đồng, thực hiện công việc không đúng
thời hạn của hợp đồng, vi phạm về giá cả trong hợp đồng, thực hiện không

36
đúng nghĩa vụ thanh toán, không tiếp nhận lợi ích hợp đồng từ bên có nghĩa
vụ đúng hạn, v.v…
Trong một hợp đồng nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng, đối tượng của
hợp đồng là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng. Đối tượng của
hợp đồng thường phải được xác định cụ thể và có thể là tài sản, công việc
phải thực hiện hoặc không được thực hiện một việc. Hành vi vi phạm hợp
đồng liên quan đến đối tượng hợp đồng của một chủ thể là việc chủ thể đó
không thực hiện đúng việc chuyển giao các đối tượng đã cam kết trong hợp
đồng. Khi đối tượng hợp đồng là một vật, chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện
đúng nghĩa vụ giao vật như quy định tại Điều 289 BLDS năm 2005 “Khi vật
phải giao là vật đặc định thì bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó và đúng
tình trạng như đã cam kết; nếu là vật cùng loại thì phải giao đúng số lượng và
chất lượng như đã thỏa thuận và nếu không có thỏa thuận về chất lượng thì
phải giao vật đó với chất lượng trung bình; nếu là vật đồng bộ thì phải giao
đồng bộ”, [2].
Dù cố ý hay vô ý, khi chủ thể có nghĩa vụ trong hợp đồng chuyển giao vật
hoặc tài sản không đúng tính chất đã cam kết trong hợp đồng thì bị coi là có
hành vi vi phạm hợp đồng. Trên thực tế, đây là một loại vi phạm rất thường
gặp do tính chất của vật hoặc tài sản liên quan mật thiết đến giá trị hợp đồng
và quyền lợi của các bên. Nếu tính chất của vật bị thay đổi do việc bên có
nghĩa vụ chuyển giao không đúng chất lượng của vật, tài sản như đã cam kết
trong hợp đồng mà bên có quyền nhận vật hoặc tài sản không phát hiện ra
hành vi vi phạm của bên có nghĩa vụ giao vật hoặc tài sản thì đương nhiên
bên có nghĩa vụ sẽ được hưởng lợi một cách không chính đáng từ hành vi
gian dối của mình và gây ra thiệt hại cho bên có quyền. Hành vi vi phạm về
chất lượng đối tượng của hợp đồng thường xảy ra trong trường hợp giao vật
cùng loại nhưng khác nhau về chất lượng.

37
Liên quan đến đối tượng hợp đồng, hành vi vi phạm hợp đồng cũng có thể là
việc bên có nghĩa vụ chuyển giao không đầy đủ số lượng của vật hoặc tài sản
phải chuyển giao. Hành vi vi phạm này thường xảy ra với vật phải chuyển
giao là vật đồng bộ, vật chính có vật phụ đi kèm.
Hợp đồng dân sự là một loại hợp đồng phổ biến và quan trọng điều chỉnh một
phạm vi rộng các quan hệ xã hội hiện nay. Đối tượng hợp đồng không đơn
thuần là tài sản mà còn là những công việc phải thực hiện (thường gặp trong
các hợp đồng dịch vụ) hoặc không được thực hiện một công việc. BLDS năm
2005 quy định tại điều 291 “…phải thực hiện một công việc là nghĩa vụ mà
theo đó bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng công việc đó”. Công việc phải
thực hiện là một việc mà bên có nghĩa vụ cam kết với bên có quyền phải làm
trong thời hạn hợp đồng. Nếu bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng hoặc
không đầy đủ công việc đã cam kết thì được coi là có hành vi vi phạm hợp
đồng. Ví dụ: một công ty du lịch cam kết cung cấp cho khách hàng dịch vụ du
lịch trọn gói đến Thái Lan bao gồm phương tiện đi lại, ăn, ở, vé tham quan và
hướng dẫn viên du lịch. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, công
ty du lịch đã không cung cấp đầy đủ dịch vụ đã cam kết như không đảm bảo
chất lượng nơi ăn, ở… thì trong trường hợp này, công ty du lịch được xem là
đã không hoàn thành công việc đã cam kết với khách hàng và có hành vi vi
phạm hợp đồng.
Yếu tố không thực hiện một công việc cũng được xem là đối tượng của hợp
đồng dân sự và cũng có hành vi vi phạm như nhiều loại đối tượng khác của
hợp đồng. Cũng theo Điều 291 BLDS năm 2005 “…không được thực hiện
một công việc là nghĩa vụ mà theo đó bên có nghĩa vụ không được thực hiện
công việc đó”, [2]. Chủ thể có nghĩa vụ trong hợp đồng có tình thực hiện công
việc mà mình đã cam kết trong một hợp đồng là sẽ không thực hiện được xem
là có hành vi vi phạm và phải chịu trách nhiệm dân sự. Ví dụ: hai nhà sống

38
liền kề có khoảng không gian chung ở giữa và có cam kết không trổ lỗ thông
gió, cửa thông hơi, cửa sổ ra khoảng không gian chung đó để không làm ảnh
hưởng đến cuộc sống riêng của mỗi nhà. Việc một trong hai nhà thực hiện bất
kỳ công việc nào vi phạm các cam kết nêu trên được coi là có hành vi vi
phạm hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Một nội dung khác trong hợp đồng cũng thường bị vi phạm dẫn đến tranh
chấp hợp đồng là yếu tố thời hạn thực hiện hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp
đồng là việc chủ thể có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn đã
cam kết, bao gồm việc thực hiện nghĩa vụ sớm hơn hoặc muộn hơn thời hạn
đã cam kết. Việc một bên thực hiện nghĩa vụ muộn hơn thời hạn cam kết
đương nhiên sẽ gây thiệt hại cho bên có quyền và bị coi là hành vi vi phạm
hợp đồng. Tuy nhiên Điều 285 BLDS năm 2005 cũng quy định việc thực hiện
hợp đồng sớm hơn thời hạn đã cam kết là hành vi vi phạm hợp đồng vì không
tuân thủ đúng cam kết hợp đồng và có thể gây thiệt hại cho chủ thể còn lại
của hợp đồng.
Hành vi vi phạm hợp đồng cũng có thể là việc khi thời hạn của hợp đồng đã
kết thúc mà bên có nghĩa vụ vẫn chưa hoàn thành nghĩa vụ đã cam kết trong
hợp đồng. Bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự từ việc không hoàn
thành nghĩa vụ hợp đồng đúng thời hạn. Trong trường hợp này, các biện pháp
bảo đảm thực hiện sẽ được áp dụng. Ví dụ: xử lý tài sản cầm cố, tài sản thế
chấp, tài sản đặt cọc… hoặc nghĩa vụ của bên bảo lãnh phải được thực hiện.
Trong hợp đồng dân sự, trách nhiệm dân sự do có hành vi vi phạm hợp đồng
không những áp dụng cho các chủ thể có nghĩa vụ mà còn áp dụng cho cả các
chủ thể có quyền. Các chủ thể có quyền cũng phải thực hiện những nghĩa vụ
dân sự để đổi lại lợi ích mà họ nhận được từ quyền dân sự của mình. Các
nghĩa vụ đó bao gồm hành động tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của
bên có nghĩa vụ giao vật hoặc thực hiện công việc.

39
Khi bên có nghĩa vụ theo cam kết trong hợp đồng đã hoàn thành công việc
cam kết đúng thời hạn và tiến hành việc chuyển giao đối tượng hợp đồng cho
bên có quyền thì lúc đó bên có quyền phát sinh nghĩa vụ phải tiếp nhận đối
tượng hợp đồng đúng thời hạn đã cam kết. Hành vi chậm tiếp nhận việc thực
hiện nghĩa vụ dân sự của bên có quyền được xem là hành vi vi phạm hợp
đồng vì đã không đảm bảo được quyền lợi của bên có nghĩa vụ là thực hiện
một công việc hoặc giao vật đúng hạn. Bên chậm tiếp nhận việc thực hiện
nghĩa vụ dân sự phải chịu trách nhiệm dân sự đối với hành vi vi phạm hợp
đồng của mình do bên có nghĩa vụ đã bị thiệt hại từ việc phải áp dụng các
biện pháp cần thiết (như chi phí thuê kho bãi, chi phí trông giữ, vận chuyển
vật, tài sản) để bảo quản tài sản.
Hành vi vi phạm hợp đồng của bên có quyền trong hợp đồng cũng xuất phát
từ nghĩa vụ thanh toán. Khi bên có nghĩa vụ đã tiến hành chuyển giao đối
tượng hợp đồng đúng chủng loại, số lượng, chất lượng, địa điểm, thời hạn như
đã cam kết trong hợp đồng, nhưng bên có quyền lại không thực hiện đúng
nghĩa vụ trả tiền như trả tiền không đủ về số lượng, trả tiền không đúng thời
hạn, trả tiền không đúng địa điểm hoặc không đúng thời hạn đã cam kết thì bị
coi là có hành vi vi phạm hợp đồng. Việc xác định hành vi vi phạm loại này
rất quan trọng và cần thiết vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bên
có nghĩa vụ trong hợp đồng. Ngoài ra, hành vi vi phạm đối với nghĩa vụ thanh
toán cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra các tranh chấp hợp
đồng.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật và giải quyết tranh chấp, có nhiều hành vi
được xác định là vi phạm hợp đồng không bị áp dụng trách nhiệm dân sự. Đó
là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ
nghĩa vụ theo hợp đồng liên quan đến các trường hợp bất khả kháng. Trong
trường hợp này, mặc dù có hành vi vi phạm hợp đồng nhưng trách nhiệm dân

40
sự lại không xuất hiện do pháp luật dân sự đã quy định các trường hợp bất khả
kháng là nguyên nhân không tạo nên lỗi của bên có hành vi không thực hiện
hợp đồng.
Tham khảo pháp luật dân sự của các quốc gia khác như Cộng hoà Pháp, Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, chúng ta thấy ở đây có một loạt
câu hỏi cần phải giải quyết như ai là người gây nên vi phạm hợp đồng, ai là
người chịu trách nhiệm dân sự về các hành vi vi phạm đó, nếu có nhiều tác
nhân gây nên một vi phạm hợp đồng thì mức độ chịu trách nhiệm của từng tác
nhân đến đâu...

Bộ luật Dân sự Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quy định về hành vi vi phạm
hợp đồng liên quan đến trách nhiệm dân sự như sau:
- Điều 106 (trích): “Công dân hoặc pháp nhân vi phạm hợp đồng hay
không thực hiện các nghĩa vụ khác đều phải chịu trách nhiệm dân
sự. Trong trường hợp do pháp luật quy định công dân có thể phải
chịu trách nhiệm dân sự cả khi không có lỗi”.
- Điều 107: “Công dân hoặc pháp nhân không phải chịu trách nhiệm
dân sự khi không thực hiện hợp đồng hoặc không phải chịu trách
nhiệm đối với những mất mát xảy ra do có sự kiện bất khả kháng trừ
truờng hợp pháp luật có quy định khác”.
- Điều 113: “Khi cả hai bên đều vi phạm hợp đồng thì mỗi bên phải
chịu trách nhiệm về phần vi phạm của mình”.
Nghiên cứu các quy định này nói riêng cũng như pháp luật về trách nhiệm dân
sự và hợp đồng dân sự nói chung, có thể rút ra nhận xét: trách nhiệm mà các
bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải chịu là trách nhiệm dân sự.
Trách nhiệm dân sự gồm nhiều hình thức khác nhau. Tùy theo quy định của
pháp luật dân sự của từng quốc gia mà các hình thức trách nhiêm dân sự có

41
thể được xác định cho từng loại vi phạm. Có thể lấy ví dụ: trong trường hợp
một bên trong hợp đồng vi phạm các tiêu chuẩn về chất lượng (đã thỏa thuận
hoặc do pháp luật quy định) thì bên bị vi phạm có quyền không nhận hoặc nếu
nhận thì có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giảm giá, hoặc sửa chữa sai sót.
Từ phân tích trên, có thể thấy nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ hợp đồng cụ
thể còn được xác định trong thời hạn bảo hành sản phẩm là đối tượng của hợp
đồng. Trong thời hạn này, nếu chất lượng của vật được chuyển giao không
được bảo đảm (theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháo luật) thì bên có
vật (ở đây là có vật được bảo hành) có quyền yêu cầu sửa chữa không phải trả
tiền, được giảm giá, đổi vật khác hoặc trả lại và đòi lại tiền, nếu có thiệt hại
xảy ra thì được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Tóm lại, hành vi vi phạm hợp đồng là một điều kiện quan trọng và cần thiết
để xác định trách nhiệm dân sự của một cá nhân, pháp nhân. Cho dù cá nhân,
pháp nhân vi phạm một hoặc nhiều yếu tố của hợp đồng thì vẫn làm cấu thành
hành vi vi phạm và phải chịu trách nhiệm dân sự. Việc quy định hành vi vi
phạm như là một trong những điều kiện cần và đủ để xác định trách nhiệm
dân sự trong hợp đồng cho thấy pháp luật dân sự nói chung và BLDS năm
2005 nói riêng cần phải được ngày càng hoàn thiện hơn nữa để giúp xác định
chính xác và kịp thời các hành vi vi phạm hợp đồng trong bối cảnh các giao
dịch dân sự diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp.

2.1.2 Có thiệt hại xảy ra


Theo từ điển tiếng Việt thì thiệt hại được định nghĩa là “Sự mất mát về người,
của cải vật chất hoặc tinh thần”, [15]. Theo giải thích của từ điển thuật ngữ
luật học thì thiệt hại là “tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ”, [23]. Trên thực tế,
thiệt hại được hiểu là sự mất mát mà một chủ thể của quan hệ pháp luật phải

42
gánh chịu, là sự thay đổi một tình trạng có trước theo chiều hướng xấu như:
một người có tài sản bị mất tài sản đó. Thiệt hại cũng có thể được hiểu là sự
giảm bớt những lợi ích vật chất và tinh thần của một chủ thể xác định được
trên thực tế. Trong khoa học pháp lý người ta phân thiệt hại thành thiệt hại
thực tế và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp (thiệt hại thực tế) là thiệt hại
xác định được trên cơ sở khách quan và tính được bằng một khoản tiền cụ thể
nào đó. Thiệt hại gián tiếp là thiệt hại được suy đoán là sẽ xảy ra và được xác
định là chắc chắn sẽ xảy ra.
Có thiệt hại xảy ra là một trong những điều kiện cơ bản để xác lập trách
nhiệm dân sự trong hợp đồng. Trong quan hệ hợp đồng, thiệt hại xảy ra là
những thiệt hại vật chất mà bên có hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên
có lợi ích từ hợp đồng. Về nguyên tắc, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng chỉ bồi thường cho những thiệt hại trực tiếp. Những thiệt hại được bồi
thường phải là thiệt hại gây ra cho người trực tiếp gánh chịu hậu quả của sự
kiện làm phát sinh thiệt hại. Khi một bên trong hợp đồng có hành vi vi phạm
hợp đồng và gây ra thiệt hại thì thiệt hại đó sẽ là thiệt hại hiện hữu tức là có
thể nhìn thấy được. Không thể bắt một cá nhân, pháp nhân trong hợp đồng
chịu trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại giả định hoặc những thiệt hại
dự kiến trong những hoàn cảnh không chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai
theo hướng đề cập đến thiệt hại gián tiếp.
Một trong những nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là
chế định bồi thường thiệt hại và chế định này có mối liên hệ mật thiết với
thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng. Nếu không có thiệt hại xảy ra
thì trách nhiệm dân sự trong hợp đồng cũng không thể xác định được và chế
định bồi thường thiệt hại theo hợp đồng cũng sẽ không được áp dụng. Việc
xác định thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp khi có hành vi vi phạm hợp
đồng là một việc làm cần thiết nhưng không đơn giản.

43
Khi một chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng như đã phân tích ở trên tất yếu
sẽ dẫn đến thiệt hại cho chủ thể còn lại trong hợp đồng. Thiệt hại này bao
gồm việc không được sử dụng vật như mong muốn ban đầu, thiệt hại về tiền
khi đã phải bỏ ra một khoản tiền giá trị lớn để mua một vật không tương xứng
về giá trị hay cũng có thể là sự không tương xứng về số lượng vật mua được.
Nếu hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra đối với yếu tố là phương thức thanh
toán thì thiệt hại xảy ra sẽ là thiệt hại được tính từ khoản tiền mà chủ thể có
quyền đã không thể nhận được đúng hạn. Như phân tích ở trên, có thể dễ dàng
thấy được đây là một thiệt hại hiện hữu xuất phát từ hành vi vi phạm hợp
đồng và nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bên có lợi ích từ hợp
đồng.
Theo quy định của BLDS năm 2005, việc bồi thường thiệt hại có thể thực
hiện bằng hiện vật hoặc bằng tiền. Chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng có
trách nhiệm phải làm cho thiệt hại vật chất của chủ thể bị vi phạm được bù
đắp càng gần đến với giá trị của tổn thất càng tốt. Trên thực tế, khi thực hiện
việc bồi thường thiệt hại bằng tiền thì các bên thường thỏa thuận về mức bồi
thường. Một khi thỏa thuận đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy
định về giao kết hợp đồng, thì sẽ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên. Nếu
các bên không thể thỏa thuận thì tòa án sẽ quyết định mức bồi thường mà bên
có hành vi vi phạm phải thực hiện.
Hành vi vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện một công việc hoặc không được
thực hiện một công việc nhất định không đề cập đến đối tượng vật chất cụ thể
nhưng nếu những nghĩa vụ đã cam kết này không được tuân thủ thì thiệt hại
xảy ra sẽ là thiệt hại vật chất có liên quan trực tiếp đến hợp đồng. Ngoài ra,
thiệt hại xảy ra đối với đối tượng hợp đồng là một công việc phải thực hiện
hoặc không được thực hiện cũng có thể là những thiệt hại gián tiếp.

44
Trên thực tế, ngay cả khi hợp đồng đã được thực hiện xong theo cam kết của
các bên hoặc theo quy định của pháp luật và đã chuyển sang giai đoạn bảo
hành sản phẩm theo quy định của pháp luật thì vẫn có thể xảy ra thiệt hại từ
hợp đồng. Đó là việc sản phẩm được chuyển giao không thể thực hiện việc
bảo hành, sửa chữa, thay thế để khôi phục lại giá trị ban đầu. Trong trường
hợp này, chủ thể gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự và phải bồi
thường thiệt hại cho chủ thể bị vi phạm.
Trong một hợp đồng dân sự, nếu có nhiều chủ thể cùng tham gia thì một thiệt
hại có thể xảy ra đối với nhiều chủ thể. Ngược lại, một chủ thể trong hợp
đồng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều thiệt hại. Đối với chủ thể có hành vi
vi phạm, một chủ thể có thể phải chịu trách nhiệm dân sự đối với nhiều thiệt
hại hoặc một thiệt hại sẽ do nhiều chủ thể trong hợp đồng chịu trách nhiệm.
Dù trong bất cứ trường hợp nào thì thiệt hại vẫn là một yếu tố cần phải được
xác định khi xác định trách nhiệm dân sự đối với một chủ thể có hành vi vi
phạm hợp đồng. Trên thực tế, ngay cả trong trường hợp đã xác định được
người trực tiếp chịu thiệt hại, thì vẫn còn lại hai vấn đề chính: những thiệt hại
nào của người này phải được bồi thường? Ai là người phải chịu trách nhiệm
bồi thường? Vấn đề này sẽ được phân tích khi nói về mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra.

2.1.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và
thiệt hại xảy ra
Theo từ điển tiếng Việt thì quan hệ nhân quả được định nghĩa là “sự gắn bó
chặt chẽ, có tác động qua lại lẫn nhau của các sự vật, sự việc”, [15]. Quan hệ
nhân quả là quan hệ phổ biến giữa các sự kiện, sự vật, sự việc với hậu quả xảy
ra. Hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng, thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ theo hợp đồng phải được xác định là nguyên nhân của thiệt hại.

45
Khoa học pháp lý xác định một nguyên nhân có thể dẫn tới một kết quả
nhưng cũng có thể dẫn tới nhiều kết quả và một kết quả cũng có thể do một
hoặc nhiều nguyên nhân gây ra.
Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân gây ra thiệt hại và giữa hành vi vi
phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra có mối quan hệ nhân quả với nhau. Chừng
nào chưa xác định được hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân của thiệt
hại, thì không thể buộc người vi phạm hợp đồng phải bồi thường. Nhận định
này có ý nghĩa về mặt pháp lý, và được áp dụng trong những trường hợp cụ
thể là một người không thực hiện hợp đồng do có những nguyên nhân bất khả
kháng thì người đó được miễn trách nhiệm dân sự.
Xét về hình thức của nguyên nhân thì có nhiều loại nguyên nhân gồm nguyên
nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân
bên ngoài, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân sâu xa,
nhưng xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên
nhân của thiệt hại thì việc phân biệt loại nguyên nhân không gây ảnh hưởng
đến trách nhiệm dân sự của bên vi phạm hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng đã
không thực hiện những cam kết trong hợp đồng được coi là hành vi trái pháp
luật vì hành vi đó xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên có quyền
trong hợp đồng bị vi phạm.
Hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra đối với các bên tham gia hợp
đồng là các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự. Hành vi vi phạm hợp đồng
thường gây ra thiệt hại cho các bên trong hợp đồng, và ngược lại thiệt hại
trong hợp đồng phải xuất phát từ hành vi vi phạm. Hai yếu tố này luôn có mối
liên hệ nhân quả với nhau. Nếu một hành vi được coi là vi phạm hợp đồng
nhưng lại không có thiệt hại xảy ra thì trách nhiệm dân sự cũng không phát
sinh. Và nếu có thiệt hại xảy ra nhưng thiệt hại lại không có mối liên hệ với
hành vi của một trong các bên chủ thể tham gia hợp đồng thì các bên chủ thể

46
trong hợp đồng cũng không phải chịu trách nhiệm dân sự (trừ trường hợp các
bên tham gia quan hệ hợp đồng có thỏa thuận về các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ, bên vi phạm hợp đồng cho dù chưa gây ra thiệt hại, nhưng
những tài sản là đối tượng của các biện pháp bảo đảm vẫn được xử lý để bảo
đảm quyền của bên bị vi phạm trong hợp đồng).
Người có hành vi vi phạm hợp đồng không nhất thiết phải có trách nhiệm bồi
thường tất cả các thiệt hại phát sinh sau khi xảy ra hành vi gây thiệt hại của
mình. Chỉ những thiệt hại nào là hệ quả tất yếu của hành vi vi phạm mới
thuộc phạm vi trách nhiệm của chủ thể có hành vi vi phạm. Nói cách khác,
người có hành vi vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại
mà mình là người trực tiếp gây ra. Đây là một nguyên tắc khá đơn giản nhưng
không dễ áp dụng. Việc xác định thiệt hại nào là hậu quả của hành vi vi phạm
và hành vi vi phạm nào dẫn đến thiệt hại là một công việc cần thiết nhưng
cũng không dễ thực hiện.
Mọi trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng đều có giới hạn riêng của nó.
Một khi đã xác định được người có hành vi vi phạm, thì phạm vi thiệt hại
thuộc trách nhiệm của người có hành vi vi phạm được luật giới hạn tùy trường
hợp. Nguyên tắc được thừa nhận trong pháp luật dân sự hiện hành là nếu như
từ một hành vi vi phạm mà có nhiều thiệt hại phát sinh cùng một lúc hoặc liên
tục xảy ra trong cùng một thời gian, thì người có hành vi vi phạm vẫn chỉ phải
chịu trách nhiệm dân sự theo hợp đồng đến một giới hạn nào đó.
Việc xác định mối liên hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra
đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng. Thông thường, việc kết luận về hành vi vi phạm dẫn đến
thiệt hại được tòa án thực hiện tùy theo từng vụ việc mà pháp luật dân sự
không đề ra nguyên tắc áp dụng. Tuy nhiên, những sai lầm không tất yếu dẫn
đến thiệt hại đương nhiên không thể được coi là hành vi vi phạm có quan hệ

47
nhân quả với thiệt hại liên quan đến hợp đồng. Trên thực tế, thiệt hại thường
gắn với nhiều nguyên nhân khác nhau và do đó việc xác định mối quan hệ
nhân quả giữa nguyên nhân là hành vi vi phạm với thiệt hại là hậu quả gây ra
để gắn trách nhiệm dân sự theo hợp đồng đối với một chủ thể là một việc làm
quan trọng.
Trong học thuyết pháp lý phương Tây, vấn đề được giải quyết tuỳ theo việc
người ta lựa chọn giữa học thuyết về sự tương đương của các điều kiện
(équivalence des conditions) và học thuyết về mối liên hệ nhân quả thích ứng
(causalité adéquate), [9].
 Theo học thuyết về sự tương đương giữa các điều kiện, thì tất cả những
tình huống dẫn đến hậu quả thiệt hại đều được coi là nguyên nhân trực
tiếp của thiệt hại và là sự kiện pháp lý có tác dụng xác lập trách nhiệm
dân sự.
 Theo học thuyết về mối liên hệ nhân quả thích ứng, thì chỉ những tình
huống nào trực tiếp tạo rủi ro dẫn đến thiệt hại mới được coi là nguyên
nhân trực tiếp của thiệt hại.
Theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, chỉ có thiệt hại trực tiếp mới
có thể được bồi thường. Tuy nhiên, việc đưa ra các tiêu chí xác định tính chất
trực tiếp hoặc gián tiếp của một thiệt hại để quy kết trách nhiệm dân sự của
một chủ thể lại là một việc làm không đơn giản.
Trong luật dân sự của Cộng hòa Pháp, học thuyết pháp lý và án lệ nói rằng
nếu sự kiện pháp lý ban đầu đóng một vai trò của một điều kiện cần và chủ
yếu đối với việc phát sinh một thiệt hại, thì người tạo ra sự kiện phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó, [8].
Theo quy định của pháp luật dân sự, không có quy định về trách nhiệm chứng
minh mối liên hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Song,
một cách hợp lý, có thể thừa nhận rằng chính người bị thiệt hại phải chứng

48
minh rằng thiệt hại có nguồn gốc từ hành vi trái pháp luật của người gây thiệt
hại. Nếu thực tế áp dụng pháp luật không yêu cầu phải chứng minh hoặc
người bị thiệt hại không chứng minh được mối liên hệ nhân quả giữa lỗi của
người vi phạm và thiệt hại xảy ra với mình có thể gây ra tình trạng khởi kiện
yêu cầu bồi thường thiệt hại tràn lan và suy yếu tính chế tài đối với trách
nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
nói riêng của pháp luật dân sự.
Bộ luật Dân sự Nhật bản có một số quy định về sự ràng buộc trong trách
nhiệm dân sự theo hợp đồng như sau:
- Điều 534: “... Khi việc xác lập hoặc chuyển giao vật quyền đối với
một vật cụ thể là đối tượng của hợp đồng đa phương và vật này đã
bị mất hay đã bị tổn thất bởi bất cứ lý do nào nhưng người thụ trái
không phải chịu trách nhiệm thì trái chủ phải chịu những mất mát
hoặc tổn thất đó”.
- Điều 535 trích: “Nếu vật bị tổn thất bởi bất kỳ lý do nào mà người
thụ trái không phải chịu trách nhiệm thì trái chủ phải chịu tổn thất
này”.
- Điều 536 trích: “Nếu trái vụ không thể thực hiện được mà không
bên nào phải chịu trách nhiệm thì người thụ trái không có quyền yêu
cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Nếu trái vụ không thể
thực hiện được bởi lý do mà trái chủ phải chịu trách nhiệm, thì
người thụ trái không bị mất quyền yêu cầu thực hiện, nếu người thụ
trái đã nhận bất kỳ lợi ích nào thông qua việc được giải phóng khỏi
nghĩa vụ thì phải trả lại nguồn lợi này cho trái chủ”.
Tóm lại, việc xác định mối liên hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
xảy ra là một việc làm không thể thiếu trong việc xác định trách nhiệm dân sự
của một người do vi phạm hợp đồng dân sự. Nếu một chủ thể không thể

49
chứng minh mối liên hệ nhân quả này thì sẽ rất khó để áp dụng trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng cho chủ thể còn lại là người được cho là phải
chịu trách nhiệm dân sự theo hợp đồng. Việc không chứng minh được mối
liên hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra còn dẫn
đến hệ quả là không thể xác định được lỗi của người gây thiệt hại. Lỗi do vi
phạm hợp đồng dân sự là một yếu tố quan trọng và điển hình liên quan đến
trách nhiệm dân sự sẽ được phân tích ở phần tiếp theo.

2.1.4 Ngƣời vi phạm hợp đồng có lỗi


Theo từ điển tiếng Việt thì lỗi được định nghĩa là: “Sự sai lầm, sự thiếu sót
trong thái độ xử sự”, [15]. Theo giải thích của Từ điển thuật ngữ luật học thì
lỗi trong trách nhiệm dân sự là điều kiện đối với người gây thiệt hại để phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại [23]. Việc chứng minh không có lỗi
thuộc nghĩa vụ của người vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Lỗi được quy định trong Điều 308 – Lỗi trong trách nhiệm dân sự, BLDS
năm 2005 như sau: “1. Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý,
trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; 2. Cố ý
gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không
mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra; Vô ý gây thiệt hại là trường
hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước
hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không
xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”, [2].
Cơ sở của lỗi được xác định theo một trong hai cách. Hoặc, người ta nói rằng
lỗi được ghi nhận trong trường hợp có sự vi phạm đối với một nghĩa vụ đã

50
được xác lập từ trước trong trường hợp quy trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng. Hoặc, người ta thừa nhận rằng lỗi được quy về một hành vi trái pháp
luật, tính trái pháp luật và tính có lỗi đồng nhất với nhau. Cần lưu ý rằng khi
nói “hành vi trái pháp luật” theo nghĩa của luật dân sự, ta không nhất thiết chỉ
liên tưởng đến hành vi phạm pháp, tức là hành vi vi phạm điều cấm của pháp
luật, như trong luật hình sự hoặc luật hành chính.
Người vi phạm hợp đồng cho dù có lỗi cố ý hay vô ý đều phải gánh chịu trách
nhiệm pháp lý, bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Tuy
nhiên, nếu một người không thể thực hiện hợp đồng do các trở ngại khách
quan không thể khắc phục được thì người đó không bị coi là có lỗi, và do vậy
không phải chịu trách nhiệm dân sự. Người có quyền vi phạm nghĩa vụ của
mình mà không thực hiện được các quyền thì cũng không bị coi là có lỗi. Đối
với các pháp nhân, người đại diện cho pháp nhân khi xác lập, thực hiện hợp
đồng dân sự mà không thực hiện đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
theo hợp đồng đã được xác lập thì lỗi thuộc về pháp nhân và pháp nhân phải
chịu trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại.
Lỗi được coi là điều kiện cơ bản để xác định trách nhiệm dân sự sẽ thuộc về
ai trong quan hệ hợp đồng (BLDS năm 2005 Điều 302, khoản 3). Về nguyên
tắc, người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự đã
cam kết trong hợp đồng, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc
vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (Các
Điều 302, 303, 304, 305, 306 BLDS năm 2005). Với quy định đó, có một thực
tế rằng có thể có trách nhiệm dân sự ngay cả khi không có lỗi, nếu có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Thực ra, hầu như pháp luật hiện
hành chưa có quy định nào liên quan đến việc xác định trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng mà không có yếu tố lỗi. Còn việc thỏa thuận quy trách nhiệm
dân sự mà không cần lỗi rất dễ rơi vào trường hợp thỏa thuận vi phạm điều

51
cấm của pháp luật hoặc cấm thoả thuận về quy trách nhiệm dân sự trên cơ sở
xác định sự tồn tại của yếu tố khách quan (hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự)
mà không cần xét đến sự tồn tại của yếu tố chủ quan (lỗi). Trái lại, những thỏa
thuận về miễn, giảm trách nhiệm dân sự, về thực hiện trách nhiệm dân sự
thông qua vai trò của người khác (đặc biệt là người bảo hiểm) rất thường gặp
trong thực tiễn. Pháp luật dân sự của Cộng hoà Nhân dân Trung hoa và Nhật
bản đã phân tích và nhận định về yếu tỗ lỗi trong trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự như sau:
- Cơ sở quy trách nhiệm về vi phạm đã xảy ra là mức độ lỗi của các bên
trong việc vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng. Như vậy khi vấn đề đầu
tiên trong việc giải quyết vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng là cần phải
xác định xem ai (bên nào) có lỗi vi phạm hợp đồng và bên bị vi phạm
sẽ có quyền yêu cầu bên vi phạm (bên có lỗi) thực hiện các trách nhiệm
dân sự. Vì vậy, nếu một khi có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng xảy ra song
không bên nào có lỗi đối với vi phạm đó thì cũng không bên nào có
quyền yêu cầu thực hiện các trách nhiệm dân sự bởi bên kia. (Điều 536
BLDS Nhật bản; Điều 107 BLDS Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa).
- Khi có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà trong đó một hoặc các bên có lỗi
thì các bên sẽ chịu trách nhiệm theo mức độ lỗi của mình. Do đó
nguyên tắc phân chia trách nhiệm sẽ là phân chia trách nhiệm theo thực
tế thiệt hại và chịu trách nhiệm theo phần. Cho dù lỗi của các bên là lỗi
tích cực hay lỗ tiêu cực (nói cách khác là lỗi do tác vi hay bất tác vi gây
nên) thì mỗi bên sẽ phải chịu trách nhiệm về phần vi phạm của mình
(Điều 113 BLDS Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa).
Tóm lại, lỗi là một yếu tố chủ yếu và quan trọng theo quy định của pháp luật
dân sự hiện hành để xác định trách nhiệm dân sự của một chủ thể có hành vi
vi phạm hợp đồng. Lỗi được quy định trong BLDS năm 2005, lỗi trong vi

52
phạm hợp đồng dân sự là một trong những hình thức lỗi phổ biến và có liên
quan nhiều nhất đến các giao dịch dân sự. Có nhiều ý kiến cho rằng đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự thì không cần quy
định yếu tố lỗi, mà bên nào gây thiệt hại sẽ phải bồi thường. Như vậy, trong
mọi trường hợp bên bị thiệt hại đều được đền bù, kể cả trong trường hợp thiệt
hại xảy ra do gặp sự kiện bất khả kháng. Tuy nhiên, qua phân tích ở trên, có
thể thấy rằng việc quy định lỗi là một trong những điều kiện của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, nhằm tạo ra sự công bằng và phù hợp với
nguyên tắc chung về trách nhiệm dân sự. Nếu yếu tố lỗi bị bỏ qua sẽ rất khó
cho các cơ quan xét xử phân định trách nhiệm dân sự khi có nhiều hành vi vi
phạm hợp đồng và nhiều thiệt hại xảy ra cùng một thời điểm.

2.2 Nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
Nếu điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là
căn cứ để xác định sự phát sinh và tồn tại trách nhiệm dân sự của một chủ thể,
thì nội dung của trách nhiệm dân sự lại là các hình thức cưỡng chế của Nhà
nước được luật hoá bằng các quy định của pháp luật dân sự để buộc chủ thể
được xác định phải chịu trách nhiệm dân sự hoàn thành nghĩa vụ dân sự đã
cam kết của mình trong hợp đồng, là (1) Phải tiếp tục thực hiện hợp đồng; (2)
Phải bồi thường thiệt hại; (3) Bị phạt vi phạm hợp đồng nếu có thỏa thuận. Cả
ba hình thức chế tài này đều phản ánh đầy đủ trách nhiệm tài sản theo quy
định của pháp luật dân sự và sự nghiêm minh của BLDS 2005 của Việt Nam.
Các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng và nội
dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng có mối liên hệ mật thiết
với nhau. Nếu chỉ xác định trách nhiệm dân sự thông qua các điều kiện phát
sinh, mà không áp dụng các biện pháp chế tài (nội dung của trách nhiệm dân
sự) thì việc xác định trách nhiệm dân sự trở nên không có giá trị, vì khi đó,

53
chủ thể bị vi phạm vẫn không được bồi thường thiệt hại, quyền lợi về tài sản
vẫn bị xâm hại mà không được pháp luật dân sự bảo đảm. Còn chủ thể vi
phạm nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng cũng không phải bồi thường các thiệt
hại do hành vi vi phạm của mình gây ra mà các hành vi này đã được coi là có
lỗi theo quy định của pháp luật dân sự.
Các hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thường phát sinh tranh chấp. Cơ
sở pháp lý chủ yếu để giải quyết các tranh chấp này trước hết theo thỏa thuận
của các bên (được ghi nhận trước trong hợp đồng hoặc được xác lập trong nỗ
lực cả các bên nhằm giải quyết hậu quả của vi phạm). Nếu như các bên không
thỏa thuận được trách nhiệm dân sự đối với vi phạm, việc phân định trách
nhiệm này sẽ do Tòa án dân sự (hoặc các cơ quan tài phán khác được luật
định) quyết định theo quy định của pháp luật.
Bộ luật Dân sự Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quy định về nội dung của
trách nhiệm dân sự như sau:
- Điều 110: “Công dân hay pháp nhân mặc dù đã chịu trách nhiệm
dân sự vẫn có thể bị xử lý về hành chính, nếu việc đó là cần thiết.
Khi các hành vi của công dân hay pháp nhân có chứa đựng dấu hiệu
tội phạm thì họ và cá nhân đại diện theo pháp luật cả pháp nhân có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo thủ tục pháp luật quy định”.
- Điều 134 (trích): “Trách nhiệm dân sự được thi hành bằng những
biện pháp sau đây: 1. Chấm dứt xâm phạm; 2. Giải tỏa sự tắc nghẽn;
3. Loại trừ nguy hiểm; 4. Trả lại tài sản; 5. Khôi phục lại trang thái
ban đầu; 6. Sửa chữa, cải tạo, thay thế; 7. Bồi thường thiệt hại; 8.
Trả khoản tiền đền bù thỏa thuận trước; 9. Loại trừ hậu quả và khôi
phục lại danh dự; 10. Xin lỗi”.
Các biện pháp nói trên có thể được áp dụng đơn lẻ hoặc được áp dụng cùng
với nhau. Có thể thấy, dù là quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hay bất

54
kỳ quốc gia nào và được áp dụng dưới hình thức nào thì việc quy định trách
nhiệm dân sự đối với các hành vi vi phạm hợp đồng đều được coi trọng. Bởi
vậy, phân tích để thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của nội dung trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là một trong những bước cơ bản để hiểu
và nắm rõ được bản chất của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. Nội
dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng có thể được tìm hiểu như
sau.

2.2.1. Trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng
Phải tiếp tục thực hiện hợp đồng là một trong các hình thức cưỡng chế cơ bản
mà BLDS năm 2005 của Việt Nam áp dụng đối với các chủ thể đã được xác
định phải chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. Để hiểu rõ hơn về
bản chất của chế tài phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, chúng ta sẽ xem xét đến
đối tượng của hợp đồng là yếu tố chính để các chủ thể có hành vi vi phạm hợp
đồng phải chịu chế tài này. Phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ dân sự đã cam
kết trong hợp đồng như giao vật, trả tiền, phải làm hay không được phép làm
một công việc nào đó tùy theo quy định tại từng hợp đồng cụ thể. Do vậy để
hiểu về chế tài này, cần hiểu về đối tượng của hợp đồng cũng chính là đối
tượng mà các chủ thể chịu trách nhiệm dân sự phải tiếp tục thực hiện do vi
phạm hợp đồng. Sự đáp ứng này, thuộc một trong hai dạng: chuyển giao một
quyền hoặc làm hay không làm một việc.
Đối tượng của hợp đồng có thể là một vật hữu hình (nhà, xe,...) hoặc một vật
vô hình (quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,...) hoặc một số tiền. Dù
hữu hình hay vô hình, vật phải tồn tại, định giá được bằng tiền, lưu thông
được, xác định được (BLDS năm 2005, Điều 282). Vật trong quan hệ hợp
đồng dân sự phải tồn tại nghĩa là không thể là vật tưởng tượng. Vật không
nhất thiết phải tồn tại ở thời điểm giao kết hợp đồng: việc giao kết hợp đồng

55
có thể được thực hiện đối với những vật sẽ được hình thành trong tương lai,
miễn là có hành vi có ý thức của con người, được xác nhận ở thời điểm giao
kết hợp đồng. Ví dụ: hợp đồng chế biến sản phẩm theo đơn đặt hàng, hợp
đồng mua bán hoa lợi chưa thu hoạch...
Có những vật bị cấm lưu thông trong quan hệ pháp luật dân sự như: ma tuý…,
con người; có những vật chỉ được lưu thông trong những trường hợp được
luật dự liệu: mua bán chất ma túy như dược liệu giữa các cơ sở có thẩm quyền
về y dược… Có những vật định giá được bằng tiền nhưng lại gắn liền với
nhân thân của một người và do đó, không thể được chuyển nhượng cho người
khác: quyền được cấp dưỡng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm bị xâm hại.
Không thể nói “mua bán một tài sản nào đó” hay “mua bán một quyền tài sản
nào đó”. Nếu là vật đặc định hoặc quyền tài sản, vật hoặc quyền phải được
mô tả như thế nào để phân biệt được với vật hoặc quyền khác. Nếu là vật
cùng loại, thì vật phải được xác định về chủng loại và về số lượng. Ví dụ: bán
2000 tấn gạo Nàng Hương loại I. Tuy nhiên, vật không nhất thiết được xác
định rõ ở thời điểm giao kết hợp đồng, ví dụ, bán tất cả trái chín vào ngày X
tại vườn Y.
Trên thực tế, vật cũng có thể không thuộc về người chuyển giao ở thời điểm
giao kết hợp đồng, ví dụ: A cam kết bán cho B 20 tấn gạo loại I; ở thời điểm
giao kết hợp đồng, A không có một hạt gạo nào nhưng A có thể mua số gạo
đó và bán lại cho B trong thời hạn thực hiện hợp đồng. Nhưng, chắc chắn một
người không thể chuyển giao một quyền đối với một tài sản đặc định trong
khi quyền đó đang thuộc về một người khác và người có quyền không hề có ý
định chuyển giao quyền này cho người cam kết chuyển giao mà không có
quyền. Ví dụ: A cam kết bán cho B căn nhà của C; ở thời điểm giao kết hợp
đồng nhà thuộc quyền sở hữu của C và C không có ý định bán.

56
Nói rõ hơn, những lời hứa chuyển giao quyền đối với một vật đặc định chỉ có
giá trị ràng buộc khi đó là những lời hứa có cơ sở để thực hiện. Các tiêu chí
của việc xác định thế nào là “có cơ sở để thực hiện” vẫn đang được định hình
trong thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam. Một người có thể hứa bán một
căn nhà chưa thuộc quyền sở hữu của mình trong điều kiện chính mình đã
giao kết xong hợp đồng mua bán căn nhà đó tại cơ quan công chứng và đang
xúc tiến thủ tục chuyển quyền sở hữu; nhưng khó có thể nói rằng một người
có thể bị ràng buộc vào nghĩa vụ hứa bán một căn nhà trong khi chính người
này chỉ đang trong quá trình thương lượng với chủ sở hữu để đi tới việc giao
kết hợp đồng mua bán.
Đối tượng của hợp đồng cũng có thể là một số tiền nào đó mà một trong hai
bên chủ thể trong hợp đồng cam kết thanh toán cho nhau khi một trong hai
bên được hưởng quyền nhận vật từ bên kia. Số tiền, được ấn định như là đối
tượng của nghĩa vụ trả tiền, còn được gọi, trong ngôn ngữ thông dụng, là giá
trị của hợp đồng. Tuỳ theo tính chất của hợp đồng, số tiền ấy còn được đặt tên
riêng: giá bán trong hợp đồng mua bán; giá thuê trong hợp đồng thuê tài sản;
nợ vay trong hợp đồng cho vay; tiền công trong hợp đồng dịch vụ; tiền lương
trong hợp đồng lao động…
Giá trị của hợp đồng phải được xác định hoặc xác định được. Giá trị đó có thể
được thể hiện bằng một con số được ghi nhận vào thời điểm giao kết hợp
đồng, nhưng cũng có thể chỉ bằng các tham số ở thời điểm giao kết hợp đồng
và chỉ được xác định rõ ràng bằng các con số ở thời điểm thực hiện nghĩa vụ.
Trong trường hợp giá trị của hợp đồng chỉ được thể hiện bằng các tham số,
thì: (1) các tham số này phải rõ ràng, đầy đủ, áp dụng được để tính ra giá trị
của hợp đồng mà không cần có thêm thoả thuận nào khác giữa các bên; (2)
các tham số phải khách quan, nghĩa là không chịu sự tác động của bên này

57
hay bên kia trong quá trình hình thành. Không có đủ hai điều kiện đó, tham số
không được coi là hợp lệ.
Một cách ngoại lệ, các hợp đồng dịch vụ có thể được giao kết một cách hữu
hiệu dù tiền công dịch vụ không được ấn định ở thời điểm giao kết hợp đồng:
theo BLDS năm 2005 Điều 524 khoản 2, nếu không thoả thuận về mức tiền
công, thì mức tiền công là mức trung bình đối với công việc cùng loại tại thời
điểm và địa điểm hoàn thành công việc.
Đối tượng của hợp đồng cũng bao gồm việc làm hay không phải làm một việc
theo cam kết của hai bên. Công việc phải làm hay việc không phải làm một
việc phải là những việc mà pháp luật không cấm và không trái với đạo đức xã
hội. Việc thực hiện nghĩa vụ loại này trên nguyên tắc không thể đạt được bằng
cách cưỡng chế.
Điều 304 BLDS năm 2005 quy định về trách nhiệm dân sự do không thực
hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc như
sau:
“1. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà
mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục
thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện công
việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường
thiệt hại; 2. Khi bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại
thực hiện công việc đó thì bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ
phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường
thiệt hại”.
Theo quy định này, chế tài phải tiếp tục thực hiện hợp đồng đã được BLDS
2005 quy định theo hướng hoán chuyển việc tiếp tục thực hiện hợp đồng cho
bên có quyền và bên có nghĩa vụ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên
có quyền. Trong quy định này, pháp luật dân sự đã có sự linh hoạt theo hướng

58
quyền lợi của chủ thể có quyền trong hợp đồng được đảm bảo tối đa về lợi
ích. Người cam kết sẽ phải trả chi phí và bồi thường thiệt hại, theo yêu cầu
của người có quyền, một khi người này tự mình thực hiện hoặc nhờ người
khác thực hiện công việc đó.
Có thể thấy, tính chế tài của quy định phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã
cam kết trong hợp đồng là một chế tài khá phức tạp. Điều này sẽ trở nên phức
tạp hơn khi đối tượng của hợp đồng là việc phải làm hoặc không làm một việc
vì nó có mối liên hệ mật thiết với nhân thân của người phải chịu trách nhiệm
dân sự. Để nghĩa vụ trong hợp đồng được tiếp tục thực hiện khi đã xác định
được lỗi của người vi phạm hợp đồng thì nghĩa vụ do hai bên cam kết đó phải
đảm bảo được tính hợp pháp.
Trên thực tế, có một khó khăn trong việc áp dụng chế tài buộc phải tiếp tục
thực hiện hợp đồng này là việc không hợp pháp đối với đối tượng của hợp
đồng trong điều kiện hai bên tham gia hợp đồng không thể xác định được việc
này trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Khái niệm đối tượng
không hợp pháp chỉ được xây dựng cho các trường hợp đối tượng của nghĩa
vụ là một vật hoặc làm hay không làm một việc. Trong trường hợp này, quyền
lợi của chủ thể bị vi phạm sẽ không được đảm bảo do không thể yêu cầu chủ
thể có hành vi vi phạm có trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Cũng có trường hợp trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng không thể
thực hiện do hợp đồng không có đối tượng. Hợp đồng gọi là không có đối
tượng một khi đối tượng không hề tồn tại. Cũng được đồng hoá với hợp đồng
mà đối tượng không hề tồn tại là các hợp đồng có đối tượng không được xác
định hoặc không thể xác định được. Ví dụ, bán một căn nhà theo giá thỏa
thuận sau; cho thuê một căn nhà nào đó sẽ mua trong tương lai… Hợp đồng
không có đối tượng là hợp đồng không tồn tại và do vậy không thể tiếp tục
thực hiện khi có trách nhiệm dân sự phát sinh. Đơn giản, không ai có trách

59
nhiệm thực hiện hợp đồng đó; trong trường hợp một bên thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng đó, thì bên thụ hưởng việc thực hiện nghĩa vụ đó ở trong tình
trạng được lợi không có căn cứ pháp luật.
Không thực hiện hợp đồng là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
của mình, mặc dù hoàn toàn có khả năng thực hiện. Trong trường hợp này,
bên có quyền có thể yêu cầu bên kia phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trong
một thời gian nhất định. Nếu quá thời gian đã được gia hạn mà bên có nghĩa
vụ mới chỉ thực hiện một phần nghĩa vụ, thì bên kia có quyền từ chối tiếp
nhận. Bên có quyền được yêu cầu bồi thường những thiệt hại xẩy ra;
Trong một hợp đồng dân sự, việc ràng buộc phải thực hiện các điều kiện và
điều khoản mà các bên đã cam kết trong hợp đồng được xem là trách nhiệm
dân sự cơ bản và quan trọng của các bên. Có nhiều loại hợp đồng dân sự
tương ứng với nhiều loại chủ thể của hợp đồng như quyền sử dụng đất, tài
sản, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ và theo đó trách nhiệm dân sự của các
bên trong việc không thực hiện hợp đồng cũng phát sinh và chấm dứt khác
nhau.
Việc không thực hiện hợp đồng dân sự thông thường là do ý chí chủ quan của
bên có nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng dân sự. Trách nhiệm dân sự của một
bên trong hợp đồng dân sự sẽ bao gồm nhiều nghĩa vụ mà các bên đã cam kết
qua lại với nhau trong hợp đồng, trách nhiệm dân sự của một bên là quyền
của bên kia. Nghĩa vụ dân sự có thể sẽ bao gồm: nghĩa vụ dân sự phát sinh từ
mục đích của Hợp đồng dân sự, ví dụ: việc chuyển giao quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở, việc cam kết phải giao một loại hàng hóa nào đó như
máy móc, xe ôtô, xe máy v.v... hoặc kể cả các tài sản vô hình như bí quyết kỹ
thuật, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.
Trong hợp đồng dân sự, trách nhiệm dân sự là một quy định tổng quan để
ràng buộc các bên vừa là bên có quyền nhưng đồng thời cũng lại là bên có

60
nghĩa vụ. Khi một hợp đồng dân sự được giao kết, nếu một tổ chức hoặc một
cá nhân là bên có quyền được nhận tài sản (vô hình hoặc hữu hình), quyền lợi
thì đồng thời họ cũng lại là bên có nghĩa vụ trả tiền hoặc thực hiện một công
việc nào đó để đổi lại việc họ được nhận quyền lợi từ bên kia. Như vậy, việc
không thực hiện hợp đồng là việc một trong hai bên không thực hiện các
nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng.
Bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ của mình, mặc dù mong
muốn thực hiện. BLDS năm 2005 phân biệt hai trường hợp:
- Không có khả năng thực hiện ngay từ khi các bên tham gia ký kết
hợp đồng dân sự do có lý do khách quan hoặc chủ quan. Ví dụ:
không được phép chuyển quyền sử dụng đất, không đủ tiền để thanh
toán hợp đồng. Trong trường hợp này, một trong các bên biết rõ
không thể thực hiện được mà không nói cho bên kia biết, thì phải
bồi thường những thiệt hại xảy ra. Nếu bên kia cũng biết lý do
không thực hiện được hợp đồng thì không có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
- Không có khả năng thực hiện trong quá trình thực hiện hợp đồng. Ví
dụ: sau khi hai bên đã ký kết hợp đồng, một bên đã giao vật nhưng
bên còn lại do bị mất cắp hết tiền nên không còn khả năng thực hiện
nghĩa vụ thanh toán theo quy định của hợp đồng.
Chậm thực hiện hợp đồng cũng được coi là hành vi có lỗi của bên có nghĩa vụ
trong hợp đồng dân sự và cũng bị áp dụng chế tài phải tiếp tục thực hiện hợp
đồng. BLDS năm 2005 phân biệt hai trường hợp chậm thực hiện hợp đồng:
- Chậm thực hiện hợp đồng do bên có nghĩa vụ
Đó là những trường hợp bên có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ của mình,
khi đã đến hạn mà chưa thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ do lỗi của mình.

61
Phía bên kia có thể yêu cầu phải tiếp tục thực hiện hợp đồng và đòi bồi
thường thiệt hại.
- Chậm thực hiện hợp đồng dân sự do bên có quyền
Đó là những trường hợp bên có quyền chậm tiếp nhận đối tượng của hợp
đồng, mặc dù bên kia đã sẵn sàng hoàn thành nghĩa vụ của mình như đã cam
kết. Khi đó, người giao có thể giữ lại, gửi giữ đồ vật tại nơi chuyên làm dịch
vụ gửi giữ hoặc ký hợp đồng gửi giữ với người thứ ba. Mọi phí tổn cần thiết
do bên chậm tiếp nhận đối tượng hợp đồng phải chịu. Việc tiếp tục phải thực
hiện hợp đồng ở đây là bên có quyền chậm tiếp nhận phải tiếp tục tiếp nhận
đồ vật do bên có nghĩa vụ đã hoàn thành.
Đối với loại vi phạm này, BLDS 2005 quy định về trách nhiệm dân sự tại
Điều 305 như sau: “1. Khi nghĩa vụ dân sự chậm được thực hiện thì bên có
quyền có thể gia hạn để bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ; nếu quá thời
hạn này mà nghĩa vụ vẫn chưa được hoàn thành thì theo yêu cầu của bên có
quyền, bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nếu
việc thực hiện nghĩa vụ không còn cần thiết đối với bên có quyền thì bên này
có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và yêu cầu bồi thường
thiệt hại; 2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải
trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường
hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”, [2].
Như vậy, chủ thể mang quyền trong hợp đồng có quyền đơn phương đình chỉ
hợp đồng và khước từ việc tiếp tục thực hiện hợp đồng của chủ thể có nghĩa
vụ. Đồng thời, chủ thể có hành vi vi phạm còn phải bồi thường thiệt hại cho
chủ thể bị vi phạm do lỗi phát sinh từ hành vi chậm thực hiện hợp đồng của
mình gây ra. Điều này đặc biệt rõ khi đối tượng của việc chậm thực hiện hợp

62
đồng là tiền. Trường hợp này, chủ thể có hành vi vi phạm phải chịu trách
nhiệm trả lãi theo quy định như là một chế tài bắt buộc của pháp luật dân sự.
Thực hiện hợp đồng không đúng chất lượng hàng hoá hoặc sản phẩm do các
bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu hàng hoá, sản phẩm
không đảm bảo chất lượng, thì cách giải quyết cũng khác nhau tuỳ theo từng
loại hợp đồng. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán mà hàng hoá có khuyết tật thì
người mua có quyền đổi, giảm giá, yêu cầu sửa chữa hoặc trả lại và yêu cầu
bồi thường thiệt hại.
Bộ luật Dân sự Nhật Bản cũng có quy định về chế tài này như sau: Điều 545
“Nếu một trong các bên đã thực hiện quyền hủy bỏ hợp đồng, thì bên kia phải
phục hồi hiện trạng ban đầu cho bên hủy bỏ. Các quyền của người thứ ba
không bị ảnh hưởng. Lãi suất của khoản tiền cần thanh toán trong trường hợp
nói trên phát sinh kể từ thời điểm được nhận lần đầu tiên. Việc thực hiện
quyền hủy bỏ hợp đồng không ảnh hưởng đến yêu cầu bồi thuờng thiệt hại”,
[5].
Chất lượng hàng hoá, sản phẩm không được đảm bảo khi hàng hoá, sản phẩm
có khuyết tật. Khuyết tật này làm giảm hoặc mất giá trị của hàng hoá, sản
phẩm hoặc làm mất công dụng thông thường hoặc theo thoả thuận. Nếu bên
nhận hàng hoá, sản phẩm biết hoặc phải biết tình trạng không đảm bảo chất
lượng của hàng hóa, mà vẫn giao kết hợp đồng thì không có các quyền nêu
trên và không có quyền yêu cầu bên kia phải chịu trách nhiệm dân sự.
BLDS năm 2005 không có quy định cụ thể về trách nhiệm phải tiếp tục thực
hiện hợp đồng vì trong thực tiễn áp dụng pháp luật, đây là một trách nhiệm
mặc nhiên phát sinh, được coi như là một nghĩa vụ dân sự mà người có nghĩa
vụ phải thực hiện khi hợp đồng dân sự bị vi phạm. Nếu trách nhiệm này
không được chủ thể có nghĩa vụ thực hiện thì chủ thể có quyền được phép yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Ví

63
dụ: trách nhiệm đương nhiên của một người thuê tài sản, thuê nhà là phải trả
lại người cho thuê tài sản, nhà sau khi hợp đồng thuê đã đến hạn thực hiện
nghĩa vụ. Đây là trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng đặc thù trong
các hợp đồng cho thuê tài sản, cho thuê nhà vì nếu người thuê không trả lại tài
sản thuê, nhà thuê sau khi hợp đồng đã hết hạn tức là họ đã có hành vi vi
phạm hợp đồng và trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng ở đây là việc
họ phải trả lại tài sản thuê, nhà thuê cho người cho thuê theo quy định của hợp
đồng.
Riêng đối với hợp đồng dịch vụ, BLDS năm 2005 đưa ra quy định tại Điều
526. Theo quy định này, tiếp tục hợp đồng dịch vụ như là một sự thỏa thuận
mặc nhiên về trách nhiệm dân sự giữa bên cung ứng dịch vụ và bên thuê dịch
vụ mà không đề cập dưới hình thức chế tài. Đây cũng có thể được xem như
một quy định mở và mang tính chất định hướng của BLDS năm 2005 với mục
đích tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng trên cơ sở
thoả thuận của các bên không vi phạm quy định của pháp luật.
Trên thực tế, trách nhiệm buộc phải tiếp tục thực hiện hợp đồng phụ thuộc
nhiều vào quyền quyết định của chủ thể có quyền trong hợp đồng. Điều 425
BLDS năm 2005 cho phép chủ thể có quyền trong hợp đồng được phép hủy
bỏ hợp đồng dân sự. Việc hủy bỏ này đương nhiên được hiểu là là bên có
quyền không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa và mong muốn được hủy
bỏ hợp đồng và nhận bồi thường thiệt hại từ bên có hành vi vi phạm hợp
đồng.
Có thể nói, trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng là một biện pháp chế
tài của pháp luật dân sự được dựa trên sự tự do thỏa thuận và quyền tự do
quyết định của các bên tham gia hợp đồng dân sự. Nếu xảy ra hành vi vi
phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu trực tiếp bên vi phạm hoặc
yêu cầu cơ quan xét xử là tòa án buộc bên vi phạm phải tiếp tục thực hiện hợp

64
đồng. Hoặc, bên bị vi phạm cũng có thể chỉ yêu cầu bên vi phạm bồi thường
thiệt hại mà không phải tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa; hoặc, bên vi phạm
không còn khả năng để tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa mà chỉ có thể bồi
thường thiệt hại cho bên bị vi phạm. Nói tóm lại, trách nhiệm phải tiếp tục
thực hiện hợp đồng dân sự hoàn toàn dựa vào ý chí và yêu cầu của chủ thể bị
vi phạm quyền lợi trong hợp đồng dân sự.

2.2.2. Trách nhiệm phải bồi thƣờng thiệt hại


Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một nội dung bắt buộc được quy định tại
Điều 402 BLDS năm 2005, trong đó trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại là
một trong những biện pháp chế tài nghiêm khắc của nhà nước áp dụng đối với
các chủ thể khi có hành vi vi phạm quyền và lợi ích của chủ thể khác trong
các hợp đồng dân sự. Mọi hành vi gây thiệt hại trái pháp luật đều bị xử lý,
nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của các giao dịch dân sự. Trong hợp
đồng dân sự, bên nào gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bị thiệt hại
theo các quy định của pháp luật. Sở dĩ nói trách nhiệm phải bồi thường thiệt
hại là một chế tài bắt buộc mà nhà nước áp dụng đối với các chủ thể có hành
vi vi phạm hợp đồng dân sự vì không giống với trách nhiệm phải tiếp tục thực
hiện hợp đồng được xây dựng trên cơ sở thoả thuận giữa các chủ thể tham gia
hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xây dựng trên nguyên tắc khôi phục lại
giá trị tài sản, vật chất ban đầu mà chủ thể có quyền đáng lý ra sẽ được hưởng
lợi từ chủ thể có nghĩa vụ nếu như không có hành vi vi phạm hợp đồng và lỗi
của chủ thể có nghĩa vụ. Người bị thiệt hại có quyền kiện người phải chịu
trách nhiệm về thiệt hại đó, để yêu cầu bồi thường. Bộ luật Dân sự năm 2005
quy định về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại tại Điều 307 như sau: “1. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật

65
chất…; 2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp
tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm
tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chăn, hạn chế, khắc phục thiệt
hại…”, [2].
Trong các hợp đồng dân sự, thiệt hại khi có hành vi vi phạm luôn luôn là các
thiệt hại vật chất có liên quan trực tiếp đến vật chuyển giao là đối tượng của
hợp đồng, thiệt hại vật chất do hợp đồng không được thực hiện đúng thời hạn,
do việc không trả tiền đúng hạn, do việc không thực hiện một công việc hoặc
cố tính thực hiện một công việc mà đáng lý ra không được thực hiện và sau
đó gây ra thiệt hại vật chất đối với bên có quyền.
Có thể thấy, thiệt hại trong các hợp đồng dân sự luôn hiện hữu và có thể được
xác định một cách rất rõ ràng. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi vi phạm hợp đồng cũng là những chế tài rất cụ thể mà căn cứ chủ yếu
là thiệt hại trực tiếp phát sinh từ hợp đồng. Được BLDS năm 2005 đề cập đến
như là một chế tài chủ yếu trong hầu hết các giao dịch hợp đồng dân sự, có
thể nói trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự là một
yếu tố quan trọng trong hàng loạt các yếu tố có liên quan của hợp đồng dân
sự.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một biện pháp chế tài dân sự được Nhà
nước pháp điển hoá trong BLDS không những nhằm mục đích buộc bên có
hành vi vi phạm hợp đồng phải khắc phục những tổn hại về vật chất đã gây ra
cho bên bị vi phạm mà còn mang mục đích răn đe, làm lành mạnh hoá quan
hệ hợp đồng, cụ thể hoá quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, chủ thể tham gia
quan hệ hợp đồng và đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm của một trong các
bên khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Nếu pháp luật dân sự không đề cập đến
trách nhiệm bồi thường thiệt hại như một biện pháp chế tài bắt buộc đối với
chủ thể có hành vi vi phạm, chắc chắn các hành vi vi phạm hợp đồng sẽ gia

66
tăng do lợi ích vật chất không được pháp luật bảo vệ hữu hiệu. Từ đó, có thể
dẫn đến sự suy yếu pháp luật hợp đồng nói riêng và pháp luật dân sự nói
chung.
Trong một hợp đồng có nhiều chủ thể, nếu nhiều người cùng gây thiệt hại, thì
những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại với nghĩa vụ
phát sinh theo hợp đồng. Người bị thiệt hại có quyền kiện một người trong số
những người này để yêu cầu bồi thường toàn bộ. Cũng theo quy định của
BLDS năm 2005, trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại
được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người. Nếu không xác định
được mức độ lỗi, thì các chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng phải bồi
thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
Khác với những vi phạm pháp luật hình sự hoặc hành chính, các hành vi trái
pháp luật dẫn đến việc quy trách nhiệm dân sự có thể được xử lý bằng sự tự
nguyện dàn xếp giữa các bên liên quan. Tự nguyện dàn xếp cũng là một loại
hợp đồng, do đó, phải tuân theo các điều kiện do pháp luật quy định đối với
việc xác lập hợp đồng: năng lực, sự ưng thuận, đối tượng, tính trung thực
trong giao kết,… Theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, một khi sự
dàn xếp tự nguyện về việc bồi thường thiệt hại được giao kết phù hợp với các
quy định của luật chung về hợp đồng, thì sẽ có hiệu lực ràng buộc đối với các
bên, đặc biệt là có tác dụng thủ tiêu quyền kiện đòi bồi thường của người bị
thiệt hại. Trong trường hợp có nhiều người cùng chịu trách nhiệm, thì việc
dàn xếp tự nguyện chỉ có hiệu lực giữa những người tham gia dàn xếp. Người
gây thiệt hại mà không tham gia vào việc dàn xếp có quyền bảo lưu ý kiến
của mình.
Trong trường hợp thiệt hại phát sinh do có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp
đồng, quyền yêu cầu bồi thường có thể được các bên loại bỏ ngay từ lúc giao
kết hợp đồng bằng con đường thoả thuận. Các thoả thuận này thường được

67
ghi nhận dưới một trong hai hình thức: thoả thuận miễn trách nhiệm và thoả
thuận phạt vi phạm.
- Thoả thuận miễn trách nhiệm không phải là thoả thuận miễn thực hiện
nghĩa vụ, người có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ. Nhưng nếu
người này không thực hiện, thì cũng không phải chịu trách nhiệm. Giá
trị của thoả thuận loại này chưa được xác định rõ trong pháp luật dân sự
Việt Nam hiện hành. Tuy nhiên, có thể nói rằng, nếu các bên có quyền
đạt tới những thoả thuận như thế, thì việc miễn trách nhiệm cũng không
thể được chấp nhận trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ do lỗi
cố ý.
- Thoả thuận phạt vi phạm có thể coi như một “kiểu” bồi thường “khoán”
do không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. “Khoán” bởi vì, một mặt,
mức bồi thường được các bên ấn định sẵn vào thời điểm giao kết hợp
đồng, tức là trước khi xảy ra vi phạm; mặt khác, việc bồi thường được
thực hiện chỉ dựa vào sự vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, nghĩa là dựa
vào lỗi của người vi phạm, chứ không căn cứ vào mức độ thiệt hại phát
sinh từ sự vi phạm đó, thậm chí không căn cứ vào sự tồn tại (tính hiện
thực) của thiệt hại.
Thời điểm phát sinh quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại chính là thời điểm xác
lập trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. Bản án của Toà án không phải
là căn cứ xác lập quyền yêu cầu bồi thường vì đây là quyền đương nhiên mà
pháp luật dân sự dành cho các chủ thể bị vi phạm về lợi ích vật chất khi tham
gia quan hệ hợp đồng dân sự. Bản án chỉ xác nhận một quyền yêu cầu bồi
thường tồn tại ngay từ thời điểm xảy ra sự kiện dẫn đến việc xác lập trách
nhiệm.
Thực hiện nghĩa vụ bồi thường bằng hiện vật, người có nghĩa vụ phải làm cho
nghĩa vụ bị xâm hại trở lại tình trạng như trước khi có sự kiện làm phát sinh

68
nghĩa vụ. Trên nguyên tắc, nếu người có nghĩa vụ bồi thường đề nghị bồi
thường bằng hiện vật và việc bồi thường là có thể thực hiện được, thì người
có quyền không được phép từ chối và yêu cầu thay thế bằng việc trả tiền bồi
thường. Nhưng, nếu người có nghĩa vụ không có đề nghị gì đặc biệt về hình
thức bồi thường, thì người có quyền có thể chủ động yêu cầu bồi thường bằng
hiện vật, một khi việc bổi thường theo cách này có thể thực hiện được. Trên
thực tế, việc bồi thường, cho dù có bằng hiện vật, không bao giờ có thể bù
đắp thiệt hại một cách trọn vẹn. Bồi thường bằng hiện vật không bao giờ là
việc tái lập tình trạng ban đầu mà chỉ là sự cố gắng vươn tới tình trạng ban
đầu trong chừng mực cho phép.
Tất nhiên, các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường. Một khi thoả thuận
đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định về giao kết hợp đồng, thì
sẽ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, vấn đề mức bồi thường theo thoả
thuận có bù đắp tương xứng hay không đối với thiệt hại không được đặt ra.
Trong trường hợp các bên không đạt được sự thoả thuận cần thiết, thì thẩm
phán xác định mức bồi thường.
2.2.3. Bị phạt vi phạm hợp đồng nếu có thỏa thuận
Bên cạnh chế tài phải tiếp tụp thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại do
có hành vi vi phạm hợp đồng, nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng còn bao gồm cả chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Đây là một chế tài
chủ yếu được thực hiện theo thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng
nhưng lại được pháp luật dân sự thừa nhận và đảm bảo thực hiện như một
biện pháp chế tài có tính cưỡng chế. Trách nhiệm này đã được BLDS năm
2005 quy định tại Khoản 7 Điều 402 về Nội dung của Hợp đồng dân sự “Phạt
vi phạm hợp đồng”. Được xem là một nội dung cần phải có của hợp đồng dân
sự và không được quy định cụ thể trong một điều nào BLDS năm 2005 như
một chế tài bắt buộc nhưng phạt vi phạm hợp đồng lại luôn là một điều khoản

69
quan trọng trong các hợp đồng dân sự. BLDS năm 2005 cho phép các bên
tham gia hợp đồng dân sự được tự do thỏa thuận về hình thức, nội dung và
cách thức thực hiện của chế tài phạt vi phạm hợp đồng như một điều khoản cơ
bản của hợp đồng dân sự. Việc tồn tại hay không tồn tại quy định về phạt vi
phạm hợp đồng không hề ảnh hưởng đến nội dung và hiệu lực thực hiện của
hợp đồng cũng như việc xác định trách nhiệm dân sự của các bên khi có hành
vi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật lại luôn thừa nhận và bảo vệ các
bên có quyền lợi khi có quy định về phạt vi phạm hợp đồng. Được thành lập
trên cơ sở tự do thỏa thuận của các chủ thể tham gia hợp đồng, phạt vi phạm
hợp đồng được BLDS năm 2005 đề cập dưới khía cạnh như là một điều khoản
được chấp nhận trong từng loại hợp đồng cụ thể.
Điều 422 – Thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng của
BLDS năm 2005 hướng dẫn việc áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng như
sau: “1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó
bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm; 2. Mức
phạt vi phạm do các bên thỏa thuận”, [2].
Theo quy định này, việc phạt vi phạm luôn được thực hiện bằng tiền với giá
trị do hai bên thỏa thuận. Đây là một biện pháp chế tài đặc thù của hợp đồng
dân sự cho dù nó không được BLDS năm 2005 quy định như một biện pháp
chế tài bắt buộc mà cho phép các bên trong hợp đồng được tự do thỏa thuận
về mức phạt vi phạm, và Nhà nước chỉ làm chức năng trọng tài để đảm bảo
cho chế tài phạt vi phạm được thực hiện đầy đủ và đúng với cam kết trong
hợp đồng của các bên.
Phạt vi phạm hợp đồng có mối liên quan mật thiết đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng vì cả hai loại hình chế tài này đều nhằm bù đắp
những tổn thất về vật chất do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên trong
hợp đồng gây ra. Chế tài phạt vi phạm tuân theo thỏa thuận của các bên trong

70
hợp đồng còn chế tài bồi thường thiệt hại do BLDS quy định. Tuy nhiên,
BLDS năm 2005 thừa nhận sự tồn tại song song của cả hai chế tài này khi áp
dụng trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự.
Điều 422 – Thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng của
BLDS năm 2005 quy định về vấn đề này như sau: “3. Các bên có thể thỏa
thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không
phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi
thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại
thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thỏa
thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt
vi phạm”, [2].
Một điểm khác nhau dễ nhận thấy trong việc áp dụng hai hình thức chế tài
này là mức phạt vi phạm do các bên tham gia hợp đồng tự thỏa thuận còn
mức bồi thường thiệt hại do cơ quan xét xử ấn định trên cơ sở của pháp luật.
BLDS ưu tiên việc áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng như là sự tôn trọng
quyền tự do thỏa thuận của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng. Khi chế
tài phạt vi phạm không được các bên đề cập trong quan hệ hợp đồng thì chế
tài bồi thường thiệt hại mới được áp dụng như là một biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước buộc bên có hành vi vi phạm hợp đồng phải bồi thường những
thiệt hại vật chất mà họ gây ra.

71
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện những quy định của pháp luật dân sự
về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ luật Dân sự là văn bản pháp luật
không chỉ bao quát một phạm vi rộng lớn của sinh hoạt xã hội mà còn là cơ sở
pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự. Là một Bộ luật có vai trò
quan trọng chỉ sau Hiến pháp, có phạm vi điều chỉnh rộng, Bộ luật Dân sự là
một trong những cơ sở pháp lý để giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy
dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội, quyền con người về dân sự. Bộ luật Dân
sự góp phần bảo đảm cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn và
phát huy truyền thống đoàn kết, thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hoá dân
tộc. Bộ luật Dân sự góp phần xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Với sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế ở nhịp độ khá cao, nền kinh tế thị
trường được từng bước hình thành, chính trị xã hội được giữ vững và ổn định,
dân chủ xã hội ngày càng được mở rộng với việc vị thế của Việt Nam ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế, các giao dịch dân sự cũng theo đó
phát triển ngày càng mạnh và đa dạng làm cho việc phải có những quy định
cụ thể và chính xác về trách nhiệm dân sự của các bên khi tham gia vào các
giao dịch dân sự là một đòi hỏi cấp bách và cần thiết.

Thực tế cho thấy, xã hội càng phát triển, pháp luật càng hoàn thiện thì sự nhận
thức và hiểu biết về pháp luật của người dân lại tăng lên. Mặt khác, việc mở

72
cửa nền kinh tế với sự tham gia của rất nhiều các cá nhân, tổ chức nước ngoài
vào các giao dịch kinh tế và dân sự cũng làm cho các giao dịch dân sự ngày
càng chặt chẽ hơn, đầy đủ hơn nhưng cũng phức tạp hơn. Vì vậy, trách nhiệm
dân sự là một chế định quan trọng và phổ biến trong mọi giao dịch dân sự
phát sinh, đặc biệt là các trách nhiệm dân sự liên quan đến hợp đồng dân sự.
Khi tham gia ký kết Hợp đồng dân sự, các bên bị ràng buộc với nhau trong
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Nếu các quy định
của pháp luật dân sự không theo kịp yêu cầu và mong muốn của các bên,
trách nhiệm dân sự của các bên sẽ trở nên một sự ràng buộc lỏng lẻo, dẫn đến
việc các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự sẽ xảy ra ngày một nhiều và khó kiểm soát. Với tầm quan trọng đó, các
quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự của pháp luật
dân sự Việt Nam ngày càng được pháp luật quy định theo hướng không
ngừng hoàn thiện để đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.

3.1.1. Những quan điểm chỉ đạo nhằm hoàn thiện pháp luật dân
sự
Với nhiệm vụ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 08/NQ/BCT ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian
tới” và triển khai thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi là nghị
quyết số 49/NQ – TW), việc hoàn thiện pháp luật dân sự nói chung và pháp
luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự nói riêng được xem là
rất cần thiết và quan trọng.
Nghị quyết số 49/NQ – TW đã đề ra phương hướng “Hoàn thiện chính sách,
pháp luật dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”,
“hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công

73
khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”; nhiệm vụ cải cách tư
pháp là: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp
phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật”. “Hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển
lành mạnh...”. Và mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt
động xét xử được tiến hành có hiệu lực và hiệu quả cao”.
Ngày 22 tháng 02 năm 2006, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã đề
ra “Chương trình trọng tâm công tác tư pháp năm 2006”. Trong đó, có nội
dung “nghiên cứu đề xuất các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới
theo tinh thần và nội dung Chiến lược cải cách tư pháp vào Bộ luật Dân sự”.
“Đẩy nhanh tiến độ và khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn thi
hành Bộ luật Dân sự”.
Trên cơ sở đó, Tòa án Nhân dân (“TAND”) tối cao đã đề ra kế hoạch: “Viện
khoa học xét xử chủ trì, phối hợp với các Tòa án chuyên trách TAND tối cao
thực hiện, trước mắt tập trung hoàn thành dự thảo các thông tư liên tịch của
TAND tối cao với các cơ quan tư pháp trung ương và dự thảo các nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất các
quy định của Bộ luật Dân sự,...và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan đến công tác xét xử của tòa án để trình lãnh đạo liên nghành và Hội
đồng thẩm phán TAND tối cao thông qua” (Nguồn: Ban cán sự Đảng, TAND
tối cao - “Chương trình thực hiện cải cách tư pháp đến năm 2010 và kế hoạch
công tác cải cách tư pháp năm 2006 của nghành TAND”, ngày 26 tháng 12
năm 2005, tr. 67).

74
3.1.2. Thực tiễn xét xử của toà án nhân dân các cấp đối với các
tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự
Tuy chất lượng hoạt động tư pháp thời gian qua đã được nâng lên một bước,
nhưng những kết quả đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung vào những vấn
đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chế định pháp
luật dân sự,... còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Cùng với
những hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều
thách thức. Các tranh chấp dân sự có chiều hướng tăng về số lượng và phức
tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp
ngày càng cao. Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu
bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN. Có thể nghiên cứu hoạt động xét xử của
tòa án nhân dân thành phố Hà Nội làm ví dụ minh hoạ.
Hàng năm, tòa án các cấp thành phố Hà Nội xét xử một số lượng lớn án tranh
chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự (chiếm khoảng 40%
– 45% tổng số các vụ án dân sự). Số liệu thống kê xét xử các tranh chấp liên
quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự cho thấy, chất
lượng xét xử các vụ án tranh chấp trong lĩnh vực này chưa cao, tỷ lệ án bị
hủy, sửa còn nhiều. Trong Báo cáo rút kinh nghiệm giải quyết án dân sự,
HN&GĐ do TAND Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm và phúc thẩm năm
2005, có nhận xét: “Số lượng án bị huỷ, bị sửa vẫn còn nhiều, nguyên nhân
khách quan: do tính chất phức tạp của các tranh chấp dân sự ngày càng cao.
Trong khi đó vấn đề thu thập chứng cứ lại luôn gặp khó khăn”. “Một trong
những nguyên nhân bản án bị huỷ là điều tra thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.
Tuy nhiên, cũng không thể không nói đến nguyên nhân chủ quan thuộc về
Thẩm phán, đó là: Việc tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ không đầy đủ,

75
việc lập hồ sơ không chặt chẽ; chưa nắm vững các quy định của pháp luật
cũng như các hướng dẫn của Toà án nhân dân Tối cao, nghiên cứu hồ sơ
chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ còn phiến diện, chủ quan... nên việc áp dụng
pháp luật và ra quyết định bản án chưa đúng... Đây là những sai sót cần được
khắc phục” (Nguồn: TAND Thành phố Hà Nội - Báo cáo rút kinh nghiệm giải
quyết án dân sự, HN&GĐ do TAND Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm và
phúc thẩm năm 2005). Tỷ lệ án bị sửa, hủy của tòa án các cấp vẫn còn cao,
chủ yếu là các vi phạm: điều tra chưa đầy đủ, xác định sai tư cách người tham
gia tố tụng, xác định không đúng và chưa đầy đủ quan hệ pháp luật cũng như
những người tham gia tố tụng…, dẫn đến thụ lý và giải quyết vụ án sai quy
định của pháp luật. Sau đây là một số bản án được dẫn chứng làm ví dụ cho
hoạt động xét xử thực tiễn các vụ án liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự.

Ví dụ 1:
Bản án Dân sự sơ thẩm số 03/2006/DSST ngày 18/1/2006 của Toà án nhân
dân huyện Từ Liêm về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa:
Nguyên đơn:
Công ty kinh doanh phát triển nhà Hà Nội
Trụ sở: Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội
Người đại diện theo uỷ quyền: ông Nguyễn Văn Đính
Bị đơn:
Trường Đại học Mỏ Địa chất, Hà Nội
Trụ sở: Xóm 6 Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội
Người đại diện theo uỷ quyền: ông Trương Anh Kiệt, ông Nguyễn Trường
Xuân, ông Đỗ Văn Môn

76
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Huấn, sinh 1936
Nơi cư trú: 60 ngõ 82 Nguyễn Phúc Lai, phường Ô chợ dừa, quận Đống Đa,
Hà Nội
Nội dung vụ án
Tại đơn khởi kiện ngày 7/12/2004 và lời khai ngày 9/5/2005 đại diện của
Công ty kinh doanh và phát triển nhà Hà Nội (viết tắt là công ty KDPT nhà
Hà Nội) trình bày: Tháng 10/1997, Công ty KDPT nhà Hà Nội có ký hợp
đồng với Trường Đại học Mỏ Địa chất Hà Nội để xin hợp thức khu đất mà
Trường Đại học Mỏ Địa chất đã mượn của xã Minh Khai, Từ Liêm, Hà Nội
từ năm 1982. Ngày 16/10/1997, hai bên ký hợp đồng nhận thầu số 10 -
97/HĐNT với nọi dung: Trường Đại học Mỏ Địa chất gọi tắt là Bên A; Công
ty Kinh doanh Nhà gọi tắt là Bên B, theo hợp đồng thì Bên A giao cho Bên B
bẩy việc gồm:
1. Lập hồ sơ các bước xin giao đất xây dựng;
2. Đo đạc lập bản đồ khu đất xây dựng;
3. Thiết kế, quy hoạch mặt bằng;
4. Cắm mốc giới được thành phố giao sử dụng;
5. Lập trích lục bản đồ.
6. Liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền nhận giấy giao đất sử dụng cho
Trường Đại học Mỏ Địa chất.
7. Liên hệ với các cấp chính quyền và cơ quan chức năng để xin ý kiến thoả
thuận và đóng góp các loại thuế hiện hành.
Kinh phí cụ thể được tính theo số m2 đất thực tế đã được hợp thức quyền sử
dụng cho trường. Bên A khoán gọn cho Bên B tất cả các khâu trong Điều 1.
Cứ 1m2 đất thành phố giao cho Bên A quản lý sử dụng thì Bên A sẽ thanh
toán cho Bên B 110.000đ.

77
Thể thức thanh toán: Giá trị hợp đồng tạm tính là 13.115m2 x 110.000đ =
1.442.650.000đ. Trong đó chi phí cho tư vấn dịch vụ là 13.115m2 x 20.000đ
= 262.300.000đ. Bên A đồng ý để Bên B chi phí hộ các khoản trong Điều 1
thuế chuyển quyền sử dụng đất theo Quyết định số 3519 ngày 12/9/1997 của
UBND thành phố Hà Nội; chi phí cho các khâu chuyên môn và các mối quan
hệ trong Điều 1 là 13.115m2 x 90.000đ = 1.180.350.000đ. Sau khi ký hợp
đồng, Bên A chuyển cho Bên B 15% kinh phí theo quy định của các cơ quan
chức năng. Số còn lại, Bên A sẽ thanh toán cho Bên B sau khi hoàn tất mọi
thủ tục giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bên A.
Do nhiều lý do phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng nên thời gian kéo
dài đến tháng 2/2002 thì kết thúc. Theo hợp đồng thì trị giá hợp đồng là
1.842.610.000đ. Đến tháng 6/2001 thì Bên A đã ứng trước cho Bên B
871.562.000đ. Số tiền còn lại, nhiều lần công ty đến đòi nhưng Trường Đại
học Mỏ Địa chất không trả.
Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2006/DSST ngày 18/1/2006 của Toà án nhân
dân huyện Từ Liêm đã quyết định như sau:
Căn cứ Điều 518, 520, 525, Bộ luật Dân sự năm 2005.
Căn cứ Điều 131, 245 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 7 Nghị định 70/CP về chế độ án phí.

Xử:
- Chấp nhận yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của công ty KDPT
nhà Hà Nội đối với Trường Đại học Mỏ Địa chất. Buộc Trường Đại học
Mỏ Địa chất phải trả Công ty KDPT Nhà Hà Nội số tiền còn thiếu là:
902.848.000đ;
- Bác các yêu cầu khác của các đương sự;

78
- Về án phí: Trường Đại học Mỏ Địa chất phải chịu 36.061.000đ án phí
dân sự sơ thẩm. Trả lại Công ty KDPT nhà Hà Nội tiền dự phí đã nộp.
Bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu lãi suất khi thi hành án và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Các bên đương sự đều không đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm
và đã có đơn kháng cáo. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án được thẩm tra
công khai tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà,
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
- Theo thỏa thuận trong Hợp đồng thì đây là hợp đồng dịch vụ thực hiện
theo phương thức khoán gọn, Bên B phải tự mình hoàn tất tất cả các
khâu công việc tại Điều 1 của hợp đồng để được nhận số tiền do hai bên
thoả thuận.
- Trong quá trình thực hiện hợp đồng do có một số khó khăn trong công
việc nên Trường Đại học Mỏ Địa chất đã phải thực hiện việc cắm mốc
giới; lập trích lục bản đồ; Liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
để nhận giấy giao đất sử dụng và liên hệ với các cấp chính quyền và cơ
quan chức năng để xin ý kiến thoả thuận và đóng góp các loại thuế. Như
vậy, tính chất khoán gọn đã không được thực hiện, những khoản phía
công ty chi hộ cho Trường Đại học Mỏ Địa chất trong trường hợp công
ty hoàn thành việc khoán gọn không còn ý nghĩa.
- Tại cấp sơ thẩm, các bên đương sự đều thừa nhận, cho đến nay bên công
ty kinh doanh phát triển nhà Hà Nội vẫn chưa bản giao cho Trường Đại
học Mỏ Địa chất sản phẩm nào.
Bản án phúc thẩm số 162/2006/DSPT ngày 14/7/2006 của Toà án nhân dân
thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm đối với Bản án Dân sự sơ thẩm số
03/2006/DSST ngày 18/1/2006 của Toà án nhân dân huyện Từ Liêm đã quyết
định:

79
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với đề nghị kháng cáo của nguyên đơn;
- Chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ của Trường Đại học Mỏ Địa chất Hà
Nội;
- Về nội dung: sửa án sơ thẩm và quyết định như sau: Bác yêu cầu khởi
kiện của Công ty KDPT nhà Hà Nội đối với Trường Đại học Mỏ Địa
chất về thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng.
- Về án phí: Công ty KDPT nhà Hà Nội phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là
26.056.960đ được trừ vào số tiền dự phí đã nộp theo biên lai số 411
ngày 11/4/2005 và số 841 ngày 27/1/2006 của Thi hành án huyện Từ
Liêm, Hà Nội.
Trả lại Trường Đại học Mỏ Địa chất 50.000đ dự phí kháng cáo đã nộp
theo Biên lai số 840 ngày 26/1/2006 của Thi hành án huyện Từ Liêm, Hà
Nội.

Nhận xét:
Việc xác định bản chất hợp đồng dịch vụ khoán gọn theo quy định của Bộ
luật Dân sự để đưa ra nhận định đúng về nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân
sự của các bên tham gia ký kết hợp đồng đã chưa được toà án cấp sơ thẩm
thực hiện chính xác làm cho các bên đương sự không thoả mãn với quyết định
của bản án và tiếp tục khiếu kiện. Sự không đồng nhất về nhận định, cách giải
thích và áp dụng pháp luật dân sự ở hai cấp xét xử đã gây ra sự không nhất
quán về cách hiểu biết pháp luật của các bên đương sự, tạo ra tình trạng kháng
cáo không cần thiết, làm tốn kèm thời gian và tiền bạc của cả hai bên.
Toà án cần nhận định đúng bản chất hợp đồng dân sự để xác định chính xác
các bên có vi phạm nghĩa vụ hay không và trách nhiệm dân sự của các bên ra
sao để pháp luật được thực thi một cách hiệu quả hơn.

Ví dụ 2:

80
Quyết định số 03/2003/HĐTP-DS ngày 25/2/2003/HĐTP-DS ngày 25/2/2003
về vụ tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất tại phiên toà ngày 25/2/2003 xét
xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất giữa các
đương sự:
Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Phi Long, sinh năm 1956
2. Bà Ngô Thị Bé, sinh năm 1957
Cùng trú tại số 2/1A ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ
Chí Minh

Bị đơn:
Ông Nguyễn Tôn Văn, sinh năm 1951
Trú tại số 143A/6 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh, thành
phố Hồ Chí Minh, hiện đang bị tạm giam.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:


1. Ông Thái Văn Tuấn, sinh năm 1958, hiện đang bị tạm giam tại trại giam
T16.
2. Bà Nguyễn Thị Hiếu, sinh năm 1955; trú tại số 718F Hùng Vương, phướng
13, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

Nội dung vụ án
Ngày 7/4/1994, ông Nguyễn Phi Long và ông Nguyễn Tôn Văn ký hợp đồng
bán nhà, đất tại số 2/1A ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, thành phố
Hồ Chí Minh, có diện tích 9.500m2 (trong đó có 9.300m2 đất nông nghiệp và
200m2 đất thổ cư). Trên đất thổ cư có căn nhà cấp 3, diện tích 460m2 (gồm
một trệt, một lầu) và các công trình phụ, dẫy nhà kho và chuồng heo. Căn nhà
hợp thức hoà mang tên ông Long, giá 850 cây vàng.

81
Phía ông Văn đã giao vàng cho ông Long nhiều đợt, tính đến ngày 20/7/1995,
ông Long đã nhận tổng số là 356,6 lượng vàng SJC.
Do ông Văn không tiếp tục giao đủ số vàng 850 lượng như cam kết trong hợp
đồng ngày 9/7/1994, nên ông Long có đơn đề nghị huỷ hợp đồng và buộc ông
Văn phải bồi thường thiệt hại. Ngày 31/8/2005, Toà án nhân dân huyện Hóc
Môn lập biên bản hoà giải thành, giữa ông Long cùng vợ là bà Bé Ba và ông
Văn, hai bên cùng thống nhất một số nội dung sau:
Huỷ hợp đồng mua bán nhà đất ngày 7/9/1994; vợ chồng ông Long trả tiền
đặt cọc cho ông Văn 356 cây vàng SJC. Sau khi nhận tiền cọc hoàn tất, ông
Văn có trách nhiệm giao trả toàn bộ hồ sơ nhà cho ông Long. Hạn chót giao
nhận là ngày 30/11/1995, không lý do gì để gia hạn thêm. Trong quá trình chờ
thực hiện trả tiền cọc, nếu bên ông Long có thoả thuận thuê mướn, mua bán
nhà đối với các đương sự khác, phải báo cho ông Văn biết và có sự chấp
thuận.
Ngày 15/9/1995, Toà án nhân dân huyện Hóc Môn ra Quyết định số 102/QĐ-
HGT, công nhận sự thoả thuận nêu trên.
Sau khi có đơn khiếu nại của bà Bé Ba là vợ ông Long và kháng nghị của
Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tại Bản án dân sự sơ thẩm
số 44/DSST ngày 8/1/2001, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết
định:
1. Huỷ hợp đồng mua bán nhà, đất tại số 2/1A ấp 3, xã Tân Thới Hiệp,
huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh (nay là ấp 3, phường Thới
An, quận 12).
2. Bác yêu cầu của ông Nguyễn Tôn Văn đòi tiếp tục thực hiện hợp đồng
mua bán nhà ngày 7/9/1994, đồng thời bác yêu cầu của ông Văn đòi
phía vợ chồng ông Long phải trả lại 356 lượng vàng SFC về việc mua
bán căn nhà trên.

82
3. Huỷ hợp đồng mua bán nhà ngày 26/10/1996 giữa vợ chồng ông
Nguyễn Phi Long và vợ Ngô Thị Bé Ba với ông Thái Văn Tuấn và bà
Nguyễn Thị Hiếu tại số 2/1A ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn,
thành phố Hồ Chí Minh (nay là ấp 3, phường Thới An, quận 12).
4. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Phi Long và vợ Ngô Thị Bé Ba hoàn trả
cho ông Thái Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Hiếu 2.900.000.000đ đã
nhận trong việc mua bán căn nhà trên.
Kể từ ngày ông Tuấn, bà Hiếu có đơn xin thi hành án, nếu bà Bé Ba và
ông Long chưa thanh toán số tiền trên thì hàng tháng, ông, bà còn phải
trả thêm lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy
định tương ứng với thời gian thi hành án.
5. Buộc ông Thái Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Hiếu cùng gia đình có
trách nhiệm giao trả lại toàn bộ căn nhà và đất tại số 2/1A ấp 3, xã Tân
Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh (nay là ấp 3,
phường Thới An, quận 12) cho ông Nguyễn Phi Long và vợ Ngô Thị
Bé Ba.
6. Buộc ông Thái Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Hiếu có trách nhiệm giao
trả toàn bộ giấy tờ nhà tại tại số 2/1A ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện
Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh (nay là ấp 3, phường Thới An, quận
12) cho ông Nguyễn Phi Long và vợ Ngô Thị Bé Ba.
7. Tiếp tục duy trì cho thi hành Quyết định số 41/QĐ-KBTA ngày
4/10/1999 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Việc giao nhận giấy tờ nhà, đất và tiền được tiến hành cùng một lúc, trong
thời hạn 3 tháng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngày 12/1/2001, ông Thái Văn Tuấn có đơn kháng cáo.
Ngày 13/1/2001, ông Nguyễn Tôn Văn có đơn kháng cáo.

83
Căn cứ theo Quyết định số 75/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 19/9/2002, Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm số
116/PTDS ngày 21/5/2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại
thành phố Hồ Chí Minh nêu trên, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao đã nhận định: tuy hoàn thành về thủ tục trong hợp đồng có chậm nhưng
không phải do lỗi của ông Long và do vậy ông Long không vi phạm các cam
kết trong hợp đồng. Toà án cấp sơ thẩm và toà án cấp phúc thẩm huỷ hợp
đồng và cam kết nói trên, đồng thời buộc vợ chống ông Long trả cho vợ
chồng ông Tuấn 2.900.000.000đ là đúng.
Toà án cấp sơ thẩm và toà án cấp phúc thẩm chưa xác minh hết các tình tiết
và chưa đề cập đến số tiền 2.170.000.000đ là chưa xem xét vụ án một cách
toàn diện.

Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã quyết định:
1. Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 44/DSST ngày 8/1/2001 của Toà án
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự phúc thẩm số
116/PTDS ngày 21/5/2001 của Toà án nhân dân tối cao tại thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Giao hồ sơ vụ án trên cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
điều tra, xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung.

Nhận xét:
Trong vụ án cụ thể này, việc chấp nhận yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán nhà,
đất giữa vợ, chồng ông Nguyễn Phi Long với ông Nguyễn Tôn Văn là có căn
cứ. Tuy nhiên Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã không xác
định rõ số tiền đặt cọc là bao nhiêu để Quyết định số tiền đặt cọc mà bên vi
phạm hợp đồng phải chịu.

84
Các toà án cũng chưa xác minh và chưa giải quyết số tiền 2.170.000.000đ mà
ông Thái Văn Tuấn nêu đã chuyển cho ông Nguyễn Tôn Văn trong việc ông
cam kết mua nhà của vợ chồng ông Nguyễn Phi Long là chưa giải quyết vụ án
một cách toàn diện theo yêu cầu của các đương sự trong vụ án.
Qua các ví dụ trên, có thể thấy giải quyết các tranh chấp liên quan đến trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một công việc phức tạp và quan
trọng. Trách nhiệm dân sự là một chế tài của pháp luật dân sự phụ thuộc rất
nhiều vào sự đầy đủ và hoàn thiện của các quy định pháp luật về dân sự. Các
quy định của Bộ luật Dân sự càng đầy đủ, càng rõ ràng và hoàn thiện bao
nhiêu thì trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng dân sự nói riêng lại càng có tính thực thi cao bấy nhiêu. Pháp luật Việt
Nam cũng như Bộ luật Dân sự Việt Nam là các quy định pháp luật trẻ và đang
dần hoàn thiện. Ra đời vào thời điểm năm 1995 khi Việt Nam đang trong
những thập niên đầu tiên của tiến trình đổi mới, được sửa đổi năm 2005 và
chính thức có hiệu lực từ năm 2006, khi mà chỉ sau đó không lâu, Việt Nam
trở thành thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại Thế giới (“WTO”), các
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam đang dần hoàn thiện và
đáp ứng ngày một tốt hơn sự phát triển nhanh và đa dạng của các mối quan hệ
xã hội và quan hệ dân sự.
Trong mọi giao dịch dân sự, quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên là những
yếu tố quyết định tạo thành trách nhiệm dân sự. Có thể khẳng định rằng, bước
đầu tiên và cũng là điểm mấu chốt để giải quyết một vụ án tranh chấp hợp
đồng dân sự chính là việc xác định trách nhiệm dân sự theo hợp đồng. Khi
xem xét các quy định về trách nhiệm dân sự, cần chú ý đến các vấn đề như:

- Cần xem xét một cách thấu đáo và toàn diện bản chất của các giao dịch
dân sự để xác định đúng nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự của các
bên chủ thể tham gia giao dịch, nhất là trong những vụ án có nhiều tình

85
tiết, chứng cứ cần xem xét, xác minh, điều tra; giá trị tài sản tham gia
giao dịch lớn.

- Chú ý và không bỏ sót bất kỳ một tình tiết nào của các hợp đồng dân sự
vì trên thực tế có những tình tiết nhỏ nhưng lại tác động và ảnh hưởng
lớn đến kết quả xem xét hợp đồng dân sự khi xảy ra tranh chấp.

- Bảo đảm lợi ích của các đương sự tham gia quá trình tố tụng không bị bỏ
sót để vụ án được xét xử nhanh gọn, tránh xảy ra kháng cáo, kháng nghị
nhiều cấp, kéo dài vụ án làm lãng phí thời gian và tiền bạc của cả các
đương sự cũng như toà án.

3.2. Đề xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện các quy định liên quan và nâng
cao hiệu quả xét xử của tòa án các cấp đối với các tranh chấp liên
quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
Việc xét xử các vụ án liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự luôn là một thách thức đối với các thẩm phán vì đây là loại việc khó,
phức tạp và dễ mắc sai sót. Muốn hạn chế sai sót, trước tiên cần có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, và bên cạnh đó là nỗ lực của cơ quan xét xử.
Trong bối cảnh, BLDS năm 2005 vừa có hiệu lực thi hành, các văn bản hướng
dẫn áp dụng pháp luật đối với những quy định mới của BLDS nói chung và về
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự nói riêng chưa kịp ban hành
thì hoạt động xét xử của tòa án nhân dân các cấp chắc chắn sẽ gặp nhiều khó
khăn cho. Nhiều quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
trong BLDS năm 1995 tiếp tục được kế thừa trong BLDS năm 2005, nhưng
thực tiễn áp dụng pháp luật đã gặp nhiều vướng mắc do chưa có hướng dẫn
đầy đủ, đến nay vẫn chưa được khắc phục dẫn đến việc áp dụng pháp luật
thiếu thống nhất giữa các cấp tòa án. Mặt khác, cũng có trường hợp do nhận

86
thức của thẩm phán chưa thật đúng đắn hoặc do sơ sót của thẩm phán khi giải
quyết vụ án như chưa xác định đúng bản chất các giao dịch dân sự, xác định
chưa đầy đủ nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết hợp đồng hoặc các tình tiết
có liên quan... dẫn đến không ít vụ án bị sửa, hủy, phải xử đi xử lại nhiều lần.
Luận văn đặt ra việc nghiên cứu về lý luận và một số vấn đề trong thực tiễn
xét xử các vụ án tranh chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự để tìm ra những quy định chưa hợp lý, những vướng mắc trong thực tiễn
xét xử nhằm góp phần nêu ra các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung để nâng cao
hiệu quả việc thực thi pháp luật dân sự liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự trong cuộc sống và hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Sau đây là một số ý kiến đóng góp
về những điều luật cần sửa đổi hoặc cần có hướng dẫn cụ thể nhằm loại trừ
những khó khăn, vướng mắc khi tòa án xét xử những vụ án tranh chấp về
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự và để việc áp dụng pháp luật
được thống nhất.

 Về lý luận
Trách nhiệm dân sự được quy định tại Mục 3, Chương XVII Những quy định
chung, Phần thứ ba - Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự. Việc quy định
trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự trong một mục của Bộ luật
Dân sự cho thấy các nhà làm luật nói chung và những người soạn thảo Bộ luật
Dân sự nói riêng chưa thực sự quan tâm đến trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ dân sự theo hợp đồng vì các quy định về trách nhiệm dân sự do vi
phạm các nghĩa vụ dân sự trong các hợp đồng dân sự (trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng dân sự) trong Bộ luật Dân sự năm 2005 hiện hành mới chỉ
dừng lại ở mức là các quy định chung với 7 điều từ Điều 302 đến Điều 308
trong khi Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Trách nhiệm dân

87
sự ngoài hợp đồng dân sự) được quy định trong toàn bộ Chương XXI với 3
mục và 23 điều, từ Điều 604 đến Điều 630. Điều này gây ra một sự mất cân
bằng giữa hai loại trách nhiệm dân sự được xem là phổ biến nhất trong pháp
luật dân sự có cùng xuất phát điểm là hợp đồng dân sự.
- Bởi vậy, các nhà làm luật có thể xem xét, nghiên cứu để đưa ra quy định
chi tiết và cụ thể hơn về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
bằng việc quy định đầy đủ các điều kiện, căn cứ phát sinh, chấm dứt của
trách nhiệm dân sự theo hợp đồng dân sự. Có như thế, pháp luật dân sự
mới được giải thích, làm rõ và dễ dàng vận dụng trong cuộc sống cũng
như công tác xét xử.
- Cần có các văn bản dưới luật để giải thích và hướng dẫn chi tiết hơn về
việc áp dụng trách nhiệm dân sự, đặc biệt là trách nhiệm dân sự trong
hợp đồng. Vì trên thực tế, các quan hệ dân sự phát sinh ngày càng nhiều
và đa dạng, bao gồm nhiều tình huống mà chỉ riêng Bộ luật Dân sự sẽ
không thể điều chỉnh đầy đủ và kịp thời các giao dịch này. Từ đó, làm
phát sinh nhiều tranh chấp dân sự do việc thiếu nghiêm minh trong việc
áp dụng chế tài trách nhiệm dân sự. Bởi vậy, việc hoàn thiện và chi tiết
hơn nữa Bộ luật Dân sự là một xu hướng cần được xem xét khi pháp luật
Việt Nam còn được xem là yếu và thiếu.
- Xem xét việc gộp chung hành vi vi phạm hợp đồng với yếu tố lỗi của
hợp đồng. Trên thực tế, hầu như không xảy ra việc một chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm hợp đồng mà lại không bị áp dụng chế tài bồi thường
hoặc buộc phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. ở đây, yếu tố lỗi đóng vai trò
quyết định cho việc chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng
phải thực hiện trách nhiệm dân sự. Bởi vậy, việc quy định về hành vi vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng, trong nhiều trường hợp là không cần thiết và sẽ

88
gây khó khăn cho các cơ quan xét xử trong việc xác định mức độ lỗi, làm
thời gian xem xét vụ việc có thể bị kéo dài.

 Về thực tiễn xét xử


Những sai sót của tòa án thường mắc phải khi xét xử các vụ án tranh chấp về
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự cần được khắc phục nhằm
nâng cao chất lượng giải quyết án, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của xã hội và tính
chất phức tạp của các tranh chấp dân sự, đáp ứng được yêu cầu phát triển của
xã hội trong giai đoạn mới. Trên cơ sở những nghị quyết, chương trình, kế
hoạch của Bộ chính trị, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương và TAND tối
cao, để giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp về trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự nói riêng, cơ quan xét xử cần nêu
cao tinh thần trách nhiệm, cố gắng học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ, tập
trung nghiên cứu các văn bản pháp luật nhất là BLDS năm 2005, Bộ luật Tố
tụng dân sự, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối
cao và các văn bản pháp luật khác có liên quan để vận dụng đúng và linh hoạt
pháp luật. Khi giải quyết các vụ án, Thẩm phán phải tập trung nghiên cứu kỹ
hồ sơ, quá trình xây dựng hồ sơ phải đảm bảo tính khách quan, thực hiện
đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, thực hiện đúng tinh thần
Nghị quyết 08/NQ/BCT ngày 3/1/2002 của Bộ Chính trị, trong đó cần đặc
biệt chú trọng chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Quyết định của bản án phải
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, áp dụng đúng quy định của pháp
luật, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần khẩn trương tập trung
ban hành những văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng BLDS năm 2005 để
tòa án các cấp thuận lợi trong hoạt động xét xử theo hướng:

89
- Khi thụ lý vụ án tranh chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự, mà trong vụ án có nhiều vấn đề mâu thuẫn, trước hết cần điều tra
đầy đủ, tiến hành đối chất với các nhân chứng và giám định tài liệu để
làm sáng tỏ các chứng cứ, từ đó, xác định chính xác loại giao dịch dân sự
thì mới có đường lối để giải quyết đúng đắn vụ án. Bên cạnh đó, cần xác
định đúng tư cách người tham gia tố tụng.
- Cần xác định đúng loại giao dịch bị tranh chấp để từ đó đưa ra các nghĩa
vụ dân sự và trách nhiệm dân sự chính xác và phù hợp, giúp việc vận
dụng pháp luật phù hợp, tránh hiểu lầm, khiếu nại và kháng cáo sai của
các bên đương sự tham gia vào vụ án.
- Tòa án nhân dân tối cao và các tòa án cần tổ chức các hội nghị chuyên đề
rút kinh nghiệm xét xử án dân sự nhằm nâng cao chất lượng xét xử, áp
dụng pháp luật thống nhất trong toàn nghành. Cụ thể, cần nhanh chóng
ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật trong những trường hợp
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự như đã nêu trên để việc
áp dụng pháp luật được thống nhất, giảm tỷ lệ án bị sửa, hủy và giảm chi
phí, thời gian, công sức xét xử.
- Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững
mạnh. Cần đảm bảo tuyển chọn đủ cán bộ cho tòa án nhân dân các cấp về
số lượng, có chất lượng chuyên môn đạt yêu cầu đặt ra, thực hiện đổi
mới việc tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp.

90
kết luận

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự (trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng) là một chế định pháp luật cơ bản và quan trọng đã được pháp luật
Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự Việt Nam nói riêng ghi nhận và pháp
điển hoá. Cùng với việc được BLDS thừa nhận và bảo hộ, các quy định về
trách nhiệm dân sự trong hợp đồng bao gồm nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân
sự ngày càng được bổ sung, củng cố và hoàn thiện hơn.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự lần đầu tiên đã được đề cập
và quy định cụ thể tại một văn bản pháp quy của Nhà nước là Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự ngày 29/4/1991, tiếp theo là BLDS năm 1995 và hiện nay là
BLDS năm 2005. Trong BLDS năm 2005, trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự được định nghĩa và quy định tuân theo các quy định về nghĩa
vụ dân sự và hợp đồng dân sự tại Phần III, Chương XVII, từ Điều 302 đến
Điều 308.
Mục đích của việc đưa ra các quy định liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự là để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia
giao kết hợp đồng theo các tình huống và giao dịch liên quan đến trách nhiệm
dân sự theo hợp đồng dân sự do pháp luật dân sự quy định. Bên cạnh đó, việc
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng
còn để tăng hiệu lực pháp luật và điều chỉnh có hiệu quả hơn về giao dịch hợp
đồng dân sự, một trong những đối tượng chủ yếu và quan trọng của pháp luật
dân sự.
1. Với đề tài: “Trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng Dân sự theo quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam”, kết quả nghiên cứu của luận
văn đã làm sáng tỏ khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật về
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, sự hình thành và phát
triển của các quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân

91
sự. Luận văn cũng nghiên cứu về các đặc điểm, điều kiện phát sinh và
các nguyên tắc giải quyết khi phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự, các quy định hiện hành và thực trạng giải quyết
những tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành, có so sánh với quy
định của pháp luật các nước có sự tương đồng về cầu trúc hệ thống
pháp luật trong khu vực và trên thế giới là những vấn đề lần đầu tiên
được đề cập trong một luận văn thạc sỹ để có những nhận xét, đánh giá,
từ đó đề ra giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, nâng cao hiệu quả xét xử của tòa
án nhân dân các cấp về tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự. Ngoài ra, luận văn cũng đưa ra nghiên cứu
so sánh giữa trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự và trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng để có cơ sở đánh giá tính thực tiễn và
hiệu quả của các quy định pháp luật dân sự có liên quan, từ đó đưa ra
vấn đề liệu có cần phân biệt rõ hai khái niệm trách nhiệm dân sự này
hay không.
2. Qua nghiên cứu hoạt động xét xử của tòa án giải quyết tranh chấp liên
quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, tác giả đã
đưa ra nhận định về những vướng mắc, hạn chế của TAND các cấp
trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết những tranh chấp thuộc loại
này trong thời gian qua và hiện nay. Từ đó, tác giả nhận thấy sự cần
thiết phải hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật về trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, được tập trung vào những
quy định chưa thật sự phù hợp và khó áp dụng khi giải quyết. Đặc biệt
những vấn đề như xác định bản chất của các giao dịch dân sự, nghĩa vụ
của các bên có liên quan trong từng loại hợp đồng dân sự, các tình tiết

92
mà được xác định là sẽ ảnh hưởng đến nghĩa vụ dân sự của các bên
tham giao giao kết hợp đồng, lỗi của các bên tham gia... Mặt khác, luận
văn cũng nhận định về những vấn đề cần rút kinh nghiệm khi tòa án xét
xử các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng dân sự, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án
về việc giải quyết những tranh chấp này.
Những kiến nghị hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự của Việt Nam và nâng cao hiệu quả xét xử của
tòa án về các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự được đặt ra để thấy rằng: pháp luật hợp đồng nói riêng
và pháp luật dân sự nói chung phải không ngừng tiến triển và hoàn
thiện để phù hợp với sự phát triển của xã hội và phù hợp với yêu cầu
hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước trong thời kỳ xây dựng nhà
nước pháp quyền hiện nay.
3. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một hình thức trách
nhiệm pháp lý cơ bản phát sinh từ việc một bên chủ thể có các hành vi
vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Hành vi vi phạm này
gây thiệt hại cho bên chủ thể còn lại trong quan hệ hợp đồng dẫn đến
việc bên chủ thể vi phạm phải bồi thường. Đặc trưng của trách nhiệm
dân sự theo hợp đồng là chủ thể có hành vi vi phạm phải bồi thường
bằng chính tài sản của mình. Nhà nước sử dụng trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự như một biện pháp chế tài để trừng phạt
người có hành vi vi phạm, bảo đảm việc đền bù những tổn thất mà họ
đã gây ra, đồng thời qua đó giáo dục mọi người có ý thức tuân thủ pháp
luật, tôn trọng các quyền, lợi ích vật chất và tài sản hợp pháp của các cá
nhân, pháp nhân. Đặc biệt, là quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, pháp nhân khi tham gia vào các quan hệ hợp đồng.

93
4. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự được xác định dựa
trên bốn yếu tố: (1) Có hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ mà các bên
đã cam kết trong hợp đồng; (2) Có thiệt hại xảy ra; (3) Có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra; (4) Người vi phạm
có lỗi. Khoa học pháp lý hiện đại đã đưa ra khả năng nghiên cứu và
nhận thức đúng các vấn đề cơ bản liên quan đến việc xác định trách
nhiệm dân sự theo hợp đồng. Tuy nhiên, cũng có một số vấn đề chưa
được làm rõ như: nghĩa vụ không thể thực hiện được. Đây là một khái
niệm khó được xác định vì nó liên quan mật thiết đến việc xác định lỗi
và hành vi không thực hiện nghĩa vụ này có bị xem là hành vi vi phạm
hợp đồng dân sự hay không? Việc xác định yếu tố lỗi để ấn định trách
nhiệm dân sự trong hợp đồng cũng là một việc không đơn giản khi mức
độ lỗi lại là một căn cứ có ảnh hưởng nhiều đến thực tiễn xét xử và áp
dụng pháp luật. Mức độ nhẹ, nặng, nghiêm trọng của lỗi sẽ là căn cứ
quyết định mức độ bồi thường của mỗi trường hợp vi phạm dù luật
không có quy định trực tiếp về vấn đề này. Vì thế, việc nhận định vấn
đề khi có tranh chấp phụ thuộc hoàn toàn vào các cơ quan xét xử, đặc
biệt là các thẩm phán.
5. Xác định trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một công
việc phức tạp, và vì vậy đòi hỏi đội ngũ làm công tác xét xử phải không
ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để có những đánh giá
đúng đắn, khách quan và toàn diện các vấn đề khi xác định trách nhiệm
dân sự trong hợp đồng. Mặt khác, cũng cần làm tốt công tác giáo dục,
tuyên truyền pháp luật để mỗi người nhận thức được giới hạn quyền tự
do hành động của mình (quyền và nghĩa vụ dân sự) mà pháp luật quy
định để tránh xâm phạm quyền và lợi ích của người khác, giúp cho mỗi
người có thể tự nhận biết đầy đủ các giao dịch dân sự. Từ đó, có thể tự

94
mình hoặc yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình và cũng góp phần bảo vệ công bằng xã hội.
Đây cũng chính là mục đích cơ bản cuối cùng mà trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng cũng như các quy định pháp luật chung khác hướng tới.

6. Tuy BLDS năm 2005 vừa có hiệu lực thi hành nhưng vẫn cần phải
được tiếp tục sửa đổi, bổ sung để từng bước hoàn thiện hơn cho phù
hợp với tốc độ phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam trong giai đoạn
hiện tại cũng như trong tương lai.
Qua nghiên cứu quá trình áp dụng các quy định của BLDS vào việc giải quyết
các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
tại tòa án nhân dân, tác giả nhận thấy: Tuy chế định trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự trong BLDS hiện hành đã có những quy định cụ thể,
chi tiết và có nhiều điểm tiến bộ nhưng chế định này không phải là đã hoàn
thiện và đầy đủ. Bởi vậy, pháp luật hợp đồng nói chung và những quy định về
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự trong BLDS nói riêng cần
được tiếp tục sửa đổi, bổ sung kịp thời để đáp ứng nhu cầu cuộc sống.
Để thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới, hoàn thiện pháp luật dân sự, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong các quan hệ dân sự, bên cạnh
việc sửa đổi, bổ sung những quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng dân sự cần rút kinh nghiệm những thiếu sót mà tòa án nhân dân các cấp
thường mắc phải khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự để nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án.
Những tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự là tranh chấp dân sự tương đối phổ biến hiện nay và ngày càng có chiều
hướng gia tăng do sự bùng nổ và gia tăng mạnh mẽ của các giao dịch dân sự

95
và kinh tế. Đặc biệt, những tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự về mua bán tài sản, thuê tài sản, thuê nhà đất, đặt cọc,
vay mượn, dịch vụ thường xuyên xảy ra và ngày càng phức tạp. Những tranh
chấp này đòi hỏi tòa án các cấp cần phải giải quyết chính xác, công bằng, triệt
để, đúng pháp luật để ổn định các quan hệ xã hội giữa các cá nhân, tổ chức và
trật tự chung của xã hội.

96
Tài liệu tham khảo

Các văn bản luật:

1. Bộ luật Dân sự, (1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ luật Dân sự, (2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ luật Hình sự, (2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hiến pháp Việt Nam, (1992), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Sách, Luận án:


5. Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1995), Bình luận khoa
học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 Hướng dẫn áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
7. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1997), Bình luận Bộ luật Dân sự, Hà
Nội.
8. Nhà pháp luật Việt – Pháp (1998), Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa
Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Nhà pháp luật Việt – Pháp (2004), Hội thảo Bộ luật dân sự sửa đổi, Tài
liệu tham khảo, Hà Nội.
10. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1994), Những quy định pháp luật về
tài sản và quyền sở hữu tài sản, Hà Nội.
11. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995), Bộ luật Dân sự Cộng hòa Dân
chủ nhân dân Trung Hoa, Hà Nội.
12. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995), Bộ luật Dân sự và Thương mại
Thái Lan, Hà Nội.

97
13. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1994), Những quy định pháp luật về
tài sản và quyền sở hữu tài sản, Hà Nội.
14. Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa (1999), Từ điển Luật học.
15. Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa (2003), Từ điển Tiếng Việt.
16. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2003 - 2004.
17. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Các văn bản quy phạm pháp luật của
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành pháp luật.
18. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Tài liệu quán triệt và triển khai thực
hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
19. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2004), Báo cáo tổng kết công tác
thi đua nghành TAND Thành phố Hà Nội năm 2004.
20. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2005), Báo cáo tổng kết công tác
thi đua nghành TAND Thành phố Hà Nội năm 2005.
21. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2006a), Báo cáo tổng kết công tác
năm 2005 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2006 của TAND Thành phố
Hà Nội.
22. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2006b), Báo cáo sơ kết công tác
thi đua nghành TAND Thành phố Hà Nội 6 tháng đầu năm 2006.
23. Trường Đại học luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật
học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Trường Đại học luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật dân sự, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội.
25. Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1995), Bình luận khoa học Bộ
luật dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98
26. Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1997), Bình luận khoa học một
số vấn đề cơ bản của Bộ luật dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2001), Bình luận khoa học Bộ
luật dân sự Việt Nam (tập III), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Ngọc Điện (1999b), Nghiên cứu về tài sản trong luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Đàm Văn Hiếu (1981), Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Nxb.
Pháp lý, Hà Nội.
30. Ngô Văn Thâu (1987), Một số điều cần biết trong các quyền dân sự
của công dân, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
31. Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hữu Đắc (1996), Các thuật ngữ cơ bản trong
luật dân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đinh Trung Tụng (chủ biên) (2005), Bình luận những nội dung mới của
Bộ luật Dân sự năm 2005, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

Tạp chí
33. Viện khoa học xét xử – Tòa án nhân dân tối cao (2006), Tạp chí thông
tin khoa học xét xử, (1).

99
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge
 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one

You might also like