Luan Van

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 78

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài


Ai gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường - vấn đề này đã được các
nhà làm luật coi đó là một nguyên tắc và cụ thể hóa trong văn bản pháp luật.
Xét về nguồn gốc lịch sử thì chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng ra đời từ rất sớm. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia
đều có những qui định chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bên
cạnh đó còn có những qui định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể bởi sự đa dạng về chủ thể gây
thiệt hại, đối tượng bị thiệt hại, hoàn cảnh bị thiệt hại...
Bộ luật dân sự năm 1995 được áp dụng để giải quyết cho các tranh
chấp dân sự nói chung, tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng nói riêng kể từ ngày 1/7/1996. Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật
dân sự 1995 đã phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho các chủ thể trong giao lưu dân sự, góp phần làm ổn định các quan hệ xã
hội. Bên cạnh những thành công đã đạt được, Bộ luật dân sự 1995 còn bộc lộ
nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Bộ luật
dân sự 2005 ra đời thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 với nhiều sự sửa đổi, bổ
sung nhất định, trong đó có chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bộ
luật dân sự 2005 qui định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ
Điều 604 đến Điều 630, trong đó bổ sung qui định về bồi thường thiệt hại do
xâm phạm thi thể, bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả, hài cốt và rất
nhiều sự sửa đổi khác trong từng qui định cụ thể.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những loại trách nhiệm
gây nhiều tranh cãi về căn cứ phát sinh, mức bồi thường...; hơn nữa qui định
của pháp luật về vấn đề này chủ yếu dừng lại ở các qui định mang tính "định
2

tính" mà không "định lượng" nên gây khó khăn rất nhiều cho các cán bộ áp
dụng pháp luật. Bên cạnh đó, án kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong các án kiện
về bồi thường; sự đối lập về tâm lý của người gây thiệt hại với người bị thiệt
hại hoặc gia đình của người bị thiệt hại... làm cho các án kiện về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng bị kháng cáo, khiếu
nại từ phía đương sự.
Xuất phát từ tình hình trên đây, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định
của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt
hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những vấn đề có
ý nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được nhiều nhà khoa
học nghiên cứu pháp luật quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trong đó có đề
cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng như
các bài viết: TS. Phùng Trung Tập: "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004; Đinh Văn Quế:
"Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Tưởng Duy
Lượng - Nguyễn Văn Cường: "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức
khỏe bị xâm phạm", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Lê Mai
Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong Bộ luật dân sự", Luận văn thạc sĩ luật học; Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn
đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín", Luận văn thạc sĩ luật học...(xem Phụ lục).
Nhìn chung, các đề tài đó đã nêu và phân tích những vấn đề chung về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự; đưa ra các yêu cầu cơ bản
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định của pháp
3

luật dân sự trong việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín, cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, các hình thức và mức bồi thường, những trường hợp miễn hoặc giảm
trách nhiệm bồi thường...
Tuy nhiên, các đề tài này hoặc đề cập ở dạng khái quát về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng hoặc có đề cập chi tiết cụ thể
hơn nhưng vào thời điểm của Bộ luật dân sự 1995 đang tồn tại hiệu lực pháp lý.
Tìm hiểu một cách có hệ thống, chi tiết về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng theo Bộ luật dân sự 2005 và các
văn bản hướng dẫn mới thì chưa có một công trình khoa học nào cho đến thời
điểm hiện tại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thông qua việc tìm hiểu các qui định của Bộ luật dân sự 2005 và các
văn bản hướng dẫn thi hành, giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn hoàn
chỉnh dưới lăng kính pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, qua đó phục vụ tốt hơn cho công việc thực tế của bản thân. Ngoài ra,
qua việc nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng cũng như việc áp dụng vào thực tiễn sẽ có những
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực thi, sửa đổi và
tuyên truyền pháp luật. Để đạt được mục đính này, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn là tìm hiểu các qui định của các văn bản pháp luật hiện hành về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; tìm hiểu thực
tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính
mạng, qua đó chỉ ra những bất cập trong các qui định của pháp luật và phương
hướng hoàn thiện qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại nói chung,
pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật, chúng tôi chỉ
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt
4

hại do có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng, đồng
thời xem xét thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự xâm phạm sức khỏe và tính
mạng. Luận văn này cũng đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng
mắc trong giải quyết bồi thường thiệt hại sức khỏe và tính mạng khi áp dụng
các quy định của Bộ luật dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê...cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết trong qui định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính
mạng; chỉ ra những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời
có những kiến nghị trong việc hoàn thiện và áp dụng pháp luật trong việc xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong luật dân sự

Chương 2: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe và
tính mạng bị xâm phạm

Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe và tính mạng
5

Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI


NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Thời kỳ sơ khai, trách nhiệm bồi thường chưa được đặt ra, theo đó
người ta thường áp dụng nguyên tắc "nợ gì trả nấy" khi có hành vi gây thiệt
hại. Luật XII bảng được ban hành vào năm 449 trước Công nguyên có qui
định: Kẻ nào làm gãy tay người khác thì kẻ đó phải chịu lại tương tự như vậy.
Khi áp dụng nguyên tắc trả thù ngang bằng, lợi ích của người bị thiệt hại
không được bảo đảm, hơn nữa lại có một thiệt hại khác phát sinh. Đây chính
là lý do để sau đó người ta xem xét vấn đề bồi thường thiệt hại.

Xét về nguồn gốc lịch sử, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là một trong những chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự.
Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng là chế định
gây nhiều tranh cãi, có nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu luật pháp
cũng như các cán bộ làm công tác thực tiễn.

Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, chế định bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng luôn được hoàn thiện bởi các chuyên gia pháp lý. Ở nước ta,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được qui định trong Quốc
triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ. Pháp luật mỗi nước có thể có những qui
định khác nhau liên quan đến xác định mức bồi thường, tuy nhiên một nguyên
tắc cơ bản luôn tồn tại - đó là: "Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại
cho người bị thiệt hại". Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều chưa có
sự phân biệt rõ nét về trách nhiệm bồi thường dân sự. Sự phân biệt rạch ròi
6

giữa trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chỉ ra đời trên cơ sở ba bộ
luật đầu tiên (Bộ luật Nam Kỳ ban hành ngày 10/3/1883; bộ Dân luật Bắc Kỳ
ban hành ngày 01/4/1931; bộ Dân luật Trung Kỳ ban hành ngày 31/10/1936)
và các nguyên lý chung về trách nhiệm bồi thường dân sự lần đầu được ghi nhận
một cách cụ thể tại Điều 712 đến Điều 716 (Bộ Dân luật Bắc Kỳ); Điều 761
đến Điều 767 (Bộ Dân luật Trung Kỳ) và cho đến năm 1972 chính quyền Sài
Gòn có ban hành bộ Dân luật Sài Gòn từ Điều 729 đến Điều 739 đề cập về
trách nhiệm bồi thường dân sự.

Cách mạng tháng Tám thành công, đánh dấu một bước ngoặt mới: Nhà
nước Việt Nam dân chủ ra đời, ngay lúc này chúng ta chưa thể ban hành được
các văn bản quy phạm pháp luật ngay. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn
ra hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lần lượt ký Sắc lệnh số 90/SL ngày
10/10/1945 và Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 thừa nhận luật lệ cũ trên
tinh thần không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa của
Nhà nước ta. Những quy định trong Sắc lệnh số 97/SL đã đặt nền móng cho
sự hình thành và phát triển của luật dân sự. Lần đầu tiên những nguyên tắc
thực sự dân chủ, tiến bộ mang tính nhân dân sâu sắc được pháp điển hóa. Như
nguyên tắc: "Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử
nó đúng với quyền lợi của nhân dân" hay "người ta chỉ được hướng dụng và
sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không
gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân".

Việc giải quyết các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên cơ
sở tổng kết kinh nghiệm của ngành tòa án. Qua thực tiễn xét xử, vận dụng và kế
thừa những quy định pháp luật đã có, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông
tư 173/UBTP ngày 23/3/1972 hướng dẫn công tác xét xử, trong đó nói rõ điều kiện
phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc, cách xác định thiệt hại...

Thông tư số 03 ngày 5/4/1983 bổ sung giải quyết bồi thường thiệt hại
trong các vụ tai nạn giao thông... đều là văn bản dưới luật, lại ban hành trong
7

điều kiện nền kinh tế tập trung bao cấp, tuy đề cập đến nhiều vấn đề xong chỉ
mang tính định hướng, chưa cụ thể... Bên cạnh đó, xu hướng phát triển kinh tế
đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đòi hỏi phải có
bộ luật dân sự điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội rộng lớn. Bộ luật Dân
sự ra đời pháp điển hóa một bước quan trọng tạo ra một văn bản pháp luật
thống nhất nhằm khắc phục những tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn
của pháp luật dân sự trước đó.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những
trách nhiệm dân sự, được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật
gây ra thiệt hại cho người khác. Chế định "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng’’ được hệ thống ở chương V, phần thứ 3 với các qui định từ
Điều 604 đến Điều 630 làm cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, đồng thời giải quyết khách quan,
nhanh chóng, công bằng theo quy định của pháp luật.

Theo khoản 5 Điều 281 Bộ luật dân sự Việt Nam thì một trong những căn
cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự đó là: "Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật".

Theo qui định tại Điều 604 Bộ luật dân sự thì sự kiện "gây thiệt hại do
hành vi trái pháp luật" là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài
hợp đồng. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa "trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng" với "nghĩa vụ bồi thường do hành vi trái
pháp luật" - Điều 604 Bộ luật dân sự đã xác nhận sự đồng nghĩa này.

Pháp luật nhà nước ta sử dụng nhiều phương thức khác nhau để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm phạm bởi
những hành vi trái pháp luật. Khi một người có hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại đối với người khác làm phát sinh các quan hệ pháp luật về bồi
thường thiệt hại.

Điều 604 Bộ luật dân sự quy định:


8

1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng,


sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại
phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy
định đó.

Như vậy, bồi thường thiệt hại là quan hệ phát sinh từ hậu quả của hành
vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản các quyền lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự,
uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc của các chủ thể khác. Bồi thường thiệt hại
là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại
phải bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, về tinh thần cho bên bị thiệt
hại. Điều kiện để phát sinh trách nhiệm này là phải có thiệt hại, có hành vi trái
pháp luật, có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
có lỗi của người gây thiệt hại.

Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì? Qua những
phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng như sau:

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm pháp lý, là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước theo đó người gây thiệt
hại phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra khi hành vi đó được
thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm hại tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, và các quyền nhân thân khác của cá nhân, tài sản,
danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc của chủ thể khác.

1.1.2. Ý nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Là một loại trách nhiệm pháp lý, được áp dụng khi thỏa mãn những
điều kiện do pháp luật qui định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
9

đồng có ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa xã hội sâu sắc, điều đó được thể hiện trên
một số phương diện sau đây:

Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế
định góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.

Trong các quan hệ xã hội nói chung, giao lưu dân sự nói riêng, chủ thể
tham gia nhằm thỏa mãn những lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình. Để
xã hội ngày càng phát triển, các chủ thể phải tham gia nhiều quan hệ xã hội
khác nhau và trong các quan hệ xã hội mà chủ thể tham gia thì lợi ích luôn là
tâm điểm để chủ thể hướng tới. Hiến pháp và các văn bản pháp luật có hiệu
lực pháp lý sau Hiến pháp luôn ghi nhận và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của các chủ thể. Đó có thể là lợi ích vật chất, thể hiện ở quyền sở hữu tài sản,
nhưng cũng có thể là lợi ích tinh thần, thể hiện ở các quyền nhân thân được
pháp luật bảo vệ. Bằng việc qui định căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi
thường... thì chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các
quan hệ xã hội khác nhau.

Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế
định góp phần đảm bảo công bằng xã hội.

Nguyên tắc chung của pháp luật là một người phải chịu trách nhiệm
về hành vi và hậu quả do hành vi đó mang lại. Bằng việc buộc người gây
thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây
ra cho người bị thiệt hại, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã
góp phần bảo đảm công bằng xã hội. Đây cũng là nguyên tắc, là mục tiêu mà
pháp luật đặt ra. Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã cụ thể hóa
và thể hiện rất rõ nguyên tắc công bằng trong bồi thường thiệt hại. Theo chế
định này, ai gây thiệt hại thì người ấy phải bồi thường, tuy nhiên sẽ có những
trường hợp riêng biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại như nguyên tắc
10

giảm mức bồi thường, bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng, bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị
thiệt hại có lỗi...

Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế
định góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật
nói chung, gây thiệt hại trái pháp luật nói riêng.

Ngoài mục đích buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm do hành
vi vi phạm của mình gây ra - nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự - chế
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn thể hiện ý nghĩa nhân đạo, ý
nghĩa xã hội sâu sắc. Thông qua chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng cùng với việc vận dụng chế định này để giải quyết các tranh chấp liên
quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chế định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa răn đe, giáo dục
và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, hành vi gây thiệt
hại trái pháp luật nói riêng. Ngoài người vi phạm, những người khác cũng
sẽ thấy rằng nếu mình có hành vi gây thiệt hại thì cũng sẽ chịu sự xử lý của
pháp luật.

Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa trong
việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua những biện pháp chế tài
nghiêm khắc. Ngoài ra, ý thức pháp luật của người dân cũng ngày một được
nâng cao hơn.

1.2. SO SÁNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM
TÀI SẢN VỚI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM CÁC
QUYỀN NHÂN THÂN

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng rất đa dạng, một
trong những sự đa dạng đó là đối tượng bị thiệt hại. Đối tượng bị thiệt hại có
thể là tài sản, nhưng cũng có thể là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
11

uy tín (sự cụ thể hóa các quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ). Chúng ta
có thể thấy rõ sự giống và khác nhau giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm các
quyền nhân thân qua sự phân tích dưới đây.

1.2.1. Những điểm giống nhau

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm
bồi thường do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm
pháp lý. Đây chính là thái độ của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và hậu quả
của hành vi đó gây ra. Cả hai loại trách nhiệm này đều là biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước được áp dụng đối với người vi phạm, buộc người vi phạm phải
chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm
bồi thường do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm
pháp lý nên chỉ phát sinh khi và chỉ khi dựa trên các căn cứ do pháp luật qui
định. Những căn cứ đó được xác định cụ thể như: có thiệt hại, có hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.

Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân còn có những
điểm giống nhau liên quan đến hậu quả (trách nhiệm vật chất), những trường
hợp được loại trừ, những trường hợp không được loại trừ...

1.2.2. Những điểm khác nhau

Bên cạnh những điểm giống nhau, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường do xâm phạm các quyền nhân
thân còn có những điểm khác biệt, chúng ta có thể thấy sự khác biệt này qua
bảng so sánh dưới đây:
12

TRÁCH NHIỆM BỒI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG


TIÊU CHÍ
THƯỜNG THIỆT HẠI DO THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM
SO SÁNH
XÂM PHẠM TÀI SẢN CÁC QUYỀN NHÂN THÂN

1. Căn cứ phát sinh Phát sinh trong hợp đồng Chỉ phát sinh ngoài hợp đồng
hoặc ngoài hợp đồng

2. Đối tượng bị Tài sản (Khái niệm tài sản Các quyền nhân thân được pháp
xâm hại được quy định tại Điều 163 luật qui định và bảo vệ
Bộ luật dân sự: "Tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản")

3. Thiệt hại phải Thiệt hại vật chất - Thiệt hại vật chất; và
bồi thường - Thiệt hại tinh thần.

4. Hậu quả pháp Bồi thường thiệt hại - Bồi thường; và/
lý được áp dụng - Xin lỗi; hoặc/
- Cải chính công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng

5. Thay đổi chủ thể Có thể có sự thay đổi chủ thể: Không thể thay đổi chủ thể, không
chuyển giao quyền yêu cầu thể chuyển giao quyền yêu cầu,
hoặc chuyển giao nghĩa vụ Điều 309 khoản 1 điểm a Bộ luật
dân sự quy định: "1. Bên có quyền
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân
sự có thể chuyển giao quyền yêu
cầu đó cho người thế quyền theo
thỏa thuận, trừ những trường
hợp sau đây: a) quyền yêu cầu
cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường
thiệt hại do xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín;…"
13

Chương 2

XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI


DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM

Trách nhiệm bồi thường nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm
tính mạng, sức khỏe nói riêng là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó trách
nhiệm bồi thường do xâm phạm tính mạng, sức khỏe phát sinh khi và chỉ khi
thỏa mãn đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui định. Các điều kiện phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại (căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại) do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm là những căn cứ do pháp luật
qui định, khi thỏa mãn các căn cứ đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng phát sinh. Pháp luật dân sự không qui định cụ
thể căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe,
tính mạng mà chỉ qui định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói chung. Do đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng để xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.

2.1. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM

Là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ
phát sinh khi thỏa mãn các căn cứ do pháp luật qui định. Việc xác định căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại có ý nghĩa hết sức quan trọng:
là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường... Cơ sở phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập tại Điều 307 (Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại) và Điều 604 (Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại) của Bộ luật dân sự năm 2005. Như vậy, trên cơ sở qui định tại hai
điều luật này, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác
định gồm 4 điều kiện:
14

 Phải có thiệt hại xảy ra;

 Phải có hành vi gây thiệt hại;

 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra;

 Người gây thiệt hại phải có lỗi.

2.1.1. Phải có thiệt hại xảy ra

Đây là điều kiện tiên quyết, điều kiện quan trọng nhất của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi nếu không có thiệt hại thì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại không bao giờ phát sinh. Mục đích của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là khôi phục, bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại, do
đó phải có thiệt hại thì mục đích đó mới đạt được.

Nếu thiệt hại do tài sản bị xâm phạm thì việc xác định "có thiệt hại" là
vấn đề không mấy khó khăn, tuy nhiên trường hợp sức khỏe, tính mạng bị
xâm phạm thì thiệt hại sẽ khó xác định, bởi chúng ta không thể "lượng hóa"
được thiệt hại trong trường hợp này. Vậy có thể hiểu thiệt hại là gì? Thiệt hại
có thể được hiểu theo hai khía cạnh: xã hội và pháp lý.

Theo ý nghĩa xã hội, mỗi hành vi trái pháp luật đều gây thiệt hại, bởi
nó làm ảnh hưởng đến những quan hệ xã hội nhất định.

Theo luật dân sự Việt Nam thì thiệt hại là những tổn thất thực tế được
tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
tài sản... của cá nhân và các chủ thể khác. Tổn thất thực tế được đề cập ở đây
là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh thần, hay những chi phí để
ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu.

Những thiệt hại thực tế xảy ra có thể là thiệt hại vật chất hoặc tinh
thần. Thiệt hại vật chất là thiệt hại được biểu hiện cụ thể như tài sản đã mất
mát, những chi phí cần thiết để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế tài sản
bị hư hỏng, những khoản thu nhập thực tế bị mất.
15

Khi một người có hành vi trái pháp luật gây ra những thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe... của người khác thì thiệt hại được xác định như thế nào?
Tính mạng, sức khỏe của con người là vô giá không thể tính thành tiền, do
vậy bồi thường thiệt hại ở đây không phải là bồi thường về tính mạng, sức
khỏe mà nó là những bồi thường thiệt hại vật chất. Những chi phí cho việc
cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng cho bên bị thiệt hại hoặc
những chi phí cần thiết khác.

Theo thông tư 173/UBTP-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày
23/3/1972 hướng dẫn thì thiệt hại được xác định: "Đó là thiệt hại vật chất,
biểu hiện cụ thể là thiệt hại về tài sản hoặc những chi phí và những thu nhập
bị mất, do có sự thiệt hại về tính mạng, sức khỏe đưa đến. Thiệt hại đó phải
thực sự xảy ra và tính toán được".

Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 ghi nhận việc
buộc người gây thiệt hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về
tinh thần" cho người bị thiệt hại, người thân của họ.

Pháp luật về dân sự nói chung, chế định bồi thường thiệt hại do danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nói riêng là những vấn đề rất nhạy cảm và
vô cùng phức tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật
chất, không thể có công thức chung để quy ra tiền áp dụng cho các trường
hợp. Việc giải quyết bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần
cũng chỉ nhằm an ủi, động viên làm dịu đi nỗi đau cho chính nạn nhân. Đây là
vấn đề rất khó, nhưng cho đến nay, về căn bản các cơ quan có thẩm quyền
chưa có ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để áp dụng cho thống nhất, vì
vậy khi vận dụng vào thực tiễn còn gây nhiều tranh cãi, chưa thống nhất.

Trên thế giới, thiệt hại về tinh thần đã được một số nước ghi nhận từ
lâu như Liên Xô, Cộng hóa Liên bang Đức... Trong cuốn "Trách nhiệm phát
sinh do gây thiệt hại" (Nhà xuất bản LGU, Lêningrat, 1973), tác giả Smirnốp
T.V khẳng định: "Nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa, tinh thần của
16

công dân Xô viết, về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ chỉ là thực
hiện đầy đủ khi người bị thiệt hại được bồi thường không những thiệt hại về
vật chất mà cả thiệt hại về tinh thần". Tại khoản 3, Điều 307 Bộ luật dân sự
của nước ta quy định: "Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó
thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải
bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại". Như vậy, thiệt hại được hiểu là ngoài những thiệt hại vật chất còn có
những thiệt hại về tinh thần.

Thiệt hại xảy ra được đánh giá một cách khách quan, trung thực, đảm
bảo công bằng xã hội. Trên thực tế, mọi thiệt hại đều mang tính khách quan,
tuy nhiên, tiên lượng và đánh giá tính khách quan của sự thiệt hại lại thông
qua ý thức chủ quan của con người. Điều đó có nghĩa là trong điều kiện, hoàn
cảnh thực tế như vậy ai cũng công nhận thiệt hại là có và mọi người đều chấp
nhận việc đánh giá mức độ thiệt hại. Nhưng nhìn chung thì người bị thiệt hại
có thể phức tạp hóa vấn đề lên, như khai tăng giá trị thiệt hại còn người gây
thiệt hại có chiều hướng đơn giản hóa. Vì vậy mà người có vai trò đánh giá
thiệt hại, đại diện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền là rất quan trọng.
Nhìn nhận và đánh giá thiệt hại dựa trên cơ sở pháp luật quy định để xem xét
có thiệt hại xảy ra hay không, mức độ thiệt hại như thế nào...

Thiệt hại phải tính toán được tương đương với một số lượng tiền xác
định mới đảm bảo đầy đủ cơ sở cho việc bồi thường. Tuy nhiên, đối với thiệt
hại về mặt tinh thần không thể tính toán bằng tiền. Hơn thế đây là khái niệm
còn khá trừu tượng, bởi "tinh thần" thì làm sao có thể cân, đo, đong, đếm cụ
thể để xác định thiệt hại, do vậy Tòa án chỉ có thể căn cứ vào từng trường hợp
cụ thể xác định số tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần, nhằm đảm bảo quyền
lợi của người bị nạn và gia đình họ, khắc phục phần nào hậu quả xảy ra. Tòa
án cũng chỉ chấp nhận những thiệt hại hợp lý mà thôi, những thiệt hại mang
tính suy diễn như: "Tôi là người không bao giờ bị tai nạn, trong tháng này tôi
17

bắt được 5 triệu đồng" hay "thu nhập của một người nông dân ở vùng quê
nghèo là từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng /tháng".

Có thiệt hại tức là những tổn thất thực tế, tồn tại khách quan và phải
tính được bằng một số tiền cụ thể nhất định, còn những thiệt hại mang tính
suy diễn, chủ quan sẽ không được thừa nhận nếu không có căn cứ xác đáng.

Như vậy, thiệt hại về vật chất là những thiệt hại trị giá được bằng tiền,
đó là thiệt hại thông thường trong các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại. Đó là
những thiệt hại vật chất trong các thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, uy tín, nhân phẩm…

Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không thể có công
thức chung để quy thành tiền áp dụng cho mọi trường hợp. Việc giải quyết
bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần tùy vào từng trường
hợp cụ thể nhằm mục đích an ủi, động viên và phần nào đó tạo điều kiện để
có thể khắc phục khó khăn, làm dịu đi nỗi đau cho chính người bị thiệt hại
hay cho những người thân thích của họ.

Thiệt hại về tinh thần là sự thiệt hại về giá trị tinh thần, tình cảm hoặc
sự suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Hình thức biểu hiện thiệt hại về
tinh thần rất đa dạng như: Sự suy sụp tâm lý của người bị thiệt hại sau khi sức
khỏe bị xâm phạm làm cho bị tàn tật, bị biến dạng bề ngoài (ví dụ như bị sẹo
ở mặt, bị gãy chân làm cho người bị thiệt hại đi cà nhắc...).

Ngoài những thiệt hại về tinh thần mà bản thân người bị thiệt hại
phải gánh chịu thì có những trường hợp người thân thích của họ cũng phải
gánh chịu tổn thất về tinh thần này. Ví dụ, đó có thể là sự suy sụp, hoang
mang, lo lắng, sự đau thương của những người thân thích với cái chết của
nạn nhân. Khác với thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần không có tiêu chí
chung để xác định cho mọi cá nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng cá
nhân là không giống nhau, nhưng thiệt hại về tinh thần thường đi kèm với
thiệt hại vật chất.
18

Điều 710 Bộ luật dân sự của Nhật Bản quy định: "Một người chịu trách
nhiệm về thiệt hại theo quy định của Điều 709 phải bồi thường cả về thiệt hại
phi vật chất bất kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín, hoặc tài
sản của người khác".

Ngoài ra, muốn bồi thường, sự thiệt hại phải thỏa mãn các điều kiện:
thiệt hại phải chắc chắn, nhất định, thực tế và chưa được bồi thường.

Nói đến sự thiệt hại chắc chắn, nhất định, thực tế là nói đến một sự
thiệt hại đã xảy ra, hoặc chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ xảy ra và có thể ước
lượng được. Để chứng minh sự thiệt hại chắc chắn, người bị thiệt hại phải đưa
ra những chứng cứ cần thiết và tin cậy như: hóa đơn chứng từ thanh toán
những chi phí hợp lý nhằm cứu chữa, phục hồi sức khỏe…Một sự thiệt hại
không chắc chắn xảy ra hoặc chỉ có tính chất giả định hoặc chỉ là mất đi một
cơ may thì không được bồi thường. (Theo Bộ luật dân sự Nhật Bản thì việc
"mất đi một cơ may" được coi là một yếu tố cấu thành thiệt hại).

Bồi thường thiệt hại chính là nhằm khôi phục lại toàn bộ hoặc một
phần tình trạng tài sản trước khi xảy ra thiệt hại hoặc bù đắp những tổn thất
do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, bị xâm phạm nên thiệt hại được
coi là điều kiện có ý nghĩa quan trọng. Không thể bồi thường thiệt hại khi
không có thiệt hại xảy ra.

Thiệt hại được hiểu là: bị tổn thất, hư hao về người và tài sản và được
xác định bằng một khoản tiền cụ thể. Thiệt hại gây ảnh hưởng đến các quan
hệ kinh tế - xã hội được pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng phản ánh hậu quả
của hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, pháp nhân cũng như của Nhà nước.

Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận có thiệt hại về tinh thần, tuy
nhiên có quan điểm cho rằng thiệt hại về tinh thần chỉ là khái niệm xã hội và
ở phạm vi tình cảm. Nhưng có quan điểm cho rằng, bồi thường bằng tiền có
thể khắc phục phần nào thiệt hại về tinh thần, không thể dùng tiền bù đắp
19

được. Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam quy định mức tiền bồi thường
thiệt hại về tinh thần tại khoản 2 Điều 609 và khoản 2 Điều 610. Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 08
tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật dân sự năm
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã có sự hướng dẫn cụ thể
về bồi thường tổn thất tinh thần.

Buộc người xâm phạm đến sức khỏe người khác phải bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần cho người bị thiệt hại và cho
những người thân thích của người bị thiệt hại trong vụ bị xâm phạm tính
mạng là phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, phù hợp với phong tục tập quán,
truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam.

2.1.2. Phải có hành vi gây thiệt hại

Hành vi gây thiệt hại trước tiên phải là hành vi pháp luật cấm thực hiện,
nếu hành vi đó được thực hiện mà pháp luật không cấm thì người thực hiện hành
vi đó không phải bồi thường thiệt hại. Không thể có người gây thiệt hại khi
không có hành vi gây thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại là hành vi có ý thức của con
người diễn ra trái với qui định của pháp luật và gây thiệt hại tới các đối tượng
được pháp luật bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại có thể bằng hành động hoặc không
hành động, hành động và không hành động đều là những biểu hiện của con
người ra ngoài thế giới khách quan, được ý thức kiểm soát, lý trí điều khiển và
đều có khả năng làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động,
gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt
hại có thể là tác động trực tiếp của chủ thể vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có
thể là tác động gián tiếp của chủ thể vào đối tượng thông qua công cụ,
phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại là một hình thức của
hành vi gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác
động, gây thiệt hại cho khách thể bằng việc chủ thể không làm một việc pháp
luật quy định bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ điều kiện để làm việc đó.
20

Thực tế thì việc xác định hành vi gây thiệt hại bằng hành động không
khó, bởi vì nó tác động trực tiếp đến đối tượng bị thiệt hại như: bắn, đâm,
chém… Nhưng ở dạng không hành động hoặc được thực hiện thông qua hành
vi của người khác thì cần phải xác định mối quan hệ giữa thiệt hại với hành vi
của người gây thiệt hại và trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với thiệt hại xảy
ra. Ví dụ: người gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng, do tình thế cấp thiết thì
không phải bồi thường. Tuy nhiên, nếu hành vi phòng vệ chính đáng và tình
thế cấp thiết đó mà vượt quá giới hạn cho phép thì các hành vi bị coi là trái
pháp luật và phải bồi thường.
Trước khi có Bộ luật dân sự thì ngành Tòa án thường căn cứ vào
Thông tư số 173/UBTP-TANDTC ngày 23/3/1972 của Tòa án nhân dân tối
cao để giải quyết các quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Theo tinh thần nội dung Thông tư thì hành vi trái pháp luật trong
quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: "Có thể là một việc phạm pháp
về hình sự, một vi phạm pháp luật về dân sự, một vi phạm đường lối chính
sách của Đảng, Nhà nước hoặc một vi phạm quy tắc sinh hoạt xã hội".
Như vậy, khi xác định hành vi gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chúng ta có thể thấy có những đặc
điểm của hành vi trái pháp luật gây thiệt hại:
Thứ nhất, hành vi gây thiệt hại phải trái pháp luật, nếu không trái pháp
luật thì không phải bồi thường mặc dù có thiệt hại xảy ra. Hành vi trái pháp
luật ở đây được hiểu là hành vi vi phạm các qui định của pháp luật, ngoài ra
những hành vi vi phạm các qui tắc xử sự sinh hoạt trong đời sống cũng có thể
coi là hành vi trái pháp luật nếu gây ra thiệt hại. Những hành vi gây thiệt hại
nhưng do yêu cầu của nghề nghiệp hoặc gây thiệt hại theo bản án, quyết định
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không phải là hành vi trái pháp luật.
Ví dụ: để cứu chữa bệnh nhân tránh vết thương bị hoại tử, bác sĩ phải cắt bỏ
chân của bệnh nhân, những người phá dỡ các công trình xây dựng trái phép,
những người thi hành án tử hình...
21

Thứ hai, hành vi trái pháp luật có thể được thể hiện dưới dạng hành
động hoặc dưới dạng không hành động.

Thứ ba, hành vi gây thiệt hại là hoạt động có ý thức và ý chí. Không
thể có hành vi gây thiệt hại mà những biểu hiện bên ngoài của nó không được
ý thức của chủ thể kiểm soát hay không được ý chí của họ điều khiển.

2.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại

Mối quan hệ nhân quả là sự liên hệ giữa hai hiện tượng trong đó có
chứa đựng nguyên nhân và kết quả. Phải có sự vận động của hiện tượng là nguyên
nhân trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới nảy sinh hiện tượng là kết quả.
Hành vi vi phạm pháp luật là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại là hậu quả. Xét về
nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác
định và hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp (nguyên nhân quyết định
đối với thiệt hại xảy ra). Có nghĩa là thiệt hại đã có sẵn cơ sở trong hành vi. Một
hành vi vi phạm nhất định trong một điều kiện xác định thì chỉ làm nảy sinh ra
hậu quả này chứ không phải là hậu quả nào khác. Thiệt hại xảy ra phải đúng là
kết quả tất yếu của hành vi vi phạm và ngược lại, nếu không có hành vi thì
thiệt hại sẽ không xảy đến. Nếu không xác định được mối quan hệ này sẽ không
xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có hành vi vi phạm và
không buộc được người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

Nếu chúng ta làm rõ được mối quan hệ nhân quả, sẽ trả lời được hai
câu hỏi được đặt ra:

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh không?

- Mức bồi thường thiệt hại được xác định như thế nào nếu nhiều người
gây thiệt hại cho một người hoặc cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại
đều có lỗi?

Trong thực tế mối quan hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy
ra biểu hiện rất phức tạp.
22

Một hành vi trái pháp luật cũng có thể gây nhiều thiệt hại vừa về vật
chất, vừa về tinh thần. Có trường hợp thiệt hại xảy ra do một hành vi trái pháp
luật khác xen vào gây ra chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng
thực tế làm phát sinh thiệt hại.

Ví dụ: A gây thương tích cho B, B được mọi người đưa vào cơ sở y tế
cấp cứu. Với tình trạng vết thương như vậy thì hoàn toàn có thể cứu chữa
được người bị hại. Tuy nhiên, do tắc trách trong quá trình cứu chữa (bác sĩ đã
không vô trùng dụng cụ cứu chữa) nên vết thương của B bị nhiễm trùng dẫn
tới hậu quả là B bị chết.

Cần phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện: nguyên nhân trực tiếp
gây ra thiệt hại, điều kiện không trực tiếp gây thiệt hại nhưng có tác động để
cho thiệt hại xảy ra nhanh hơn. Vậy trong mối quan hệ nhân quả, nguyên
nhân là yếu tố quyết định còn điều kiện là yếu tố quan trọng dẫn đến kết quả.
Nguyên nhân và điều kiện trong mối quan hệ nhân quả có thể là một hay
nhiều hiện tượng, nhưng giữa chúng có một điểm khác nhau ở chỗ quan hệ
với hậu quả xảy ra. Nếu không có nguyên nhân thì không có hiện tượng, sự
vật xảy ra và cũng không tồn tại một điều kiện. Nhưng nhiều trường hợp có
nguyên nhân xảy ra nhưng không có kết quả nếu không có điều kiện.

Về nguyên tắc thì không có việc hiện tượng này chỉ là nguyên nhân
còn hiện tượng kia chỉ là điều kiện. Mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc xác định thiệt hại.Về mặt lý luận cũng như thực tế để xác
định mối quan hệ nhân quả là một vấn đề tương đối khó khăn. Bởi vì sự thiệt
hại thông thường thì do nhiều nguyên nhân chứ không chỉ do một nguyên
nhân gây ra. Các nguyên nhân này không tồn tại độc lập mà phối hợp với
nhau phát sinh ra kết quả, nếu thiếu một trong các nguyên nhân thì không có
kết quả xảy ra. Tuy nhiên, mức độ tác động của từng nguyên nhân đối với kết
quả có thể là khác nhau, sự khác nhau này đã tạo ra vai trò chủ yếu và thứ yếu
của từng nguyên nhân. Trong thực tiễn thì thiệt hại có thể có nhiều nguyên
23

nhân, vậy xác định nguyên nhân nào là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp,
nguyên nhân nào là nguyên nhân thứ yếu và gián tiếp, một thiệt hại có thể kéo
theo nhiều thiệt hại khác, thiệt hại đầu tiên có coi là nguyên nhân của thiệt hại
sau hay không. Chúng ta không thể căn cứ vào thứ tự trước sau của hành vi
gây thiệt hại để xác định nguyên nhân chủ yếu hay thứ yếu được, nhất là trong
các vụ án có nhiều người tham gia.

Tóm lại, mối quan hệ nhân quả là sự tồn tại khách quan, không phụ
thuộc vào ý chí của con người, khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi vi phạm và thiệt hại xảy ra phải bảo đảm tính khách quan, phải đặt trong
mối liên hệ tất nhiên, nội tại của các hiện tượng chứ không được chủ quan mà
xác định quan hệ nhân quả.

2.1.4. Người gây thiệt hại có lỗi

Lỗi thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Khoản 2 Điều 309
quy định:

Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ


hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện
và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt
hại xảy ra.

Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước
hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc
có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không
xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật của
mình và đối với thiệt hại do hành vi gây nên, người có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi vi phạm của mình
gây ra khi họ có lỗi. Lỗi được cấu thành bởi hai yếu tố đó là lý trí và ý chí. Lý
24

trí là sự thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách quan, còn ý chí là yếu tố
biểu hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận thức thực tại khách quan.

Có thể xem xét hành vi của người gây thiệt hại trên các mặt sau:

- Nhận thức của người gây thiệt hại;

- Hành vi gây thiệt hại có đúng pháp luật hay trái pháp luật;

- Hành vi cụ thể của người gây thiệt hại.

Nếu xét lỗi dưới góc độ quan hệ của cá nhân thì lỗi của người gây
thiệt hại là sự biểu hiện quan hệ giữa bản thân người gây thiệt hại và xã hội
mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những quy tắc ứng xử chung của
xã hội, đòi hỏi cá nhân phải tôn trọng được thể hiện bằng các quy định của
pháp luật.

Để bảo vệ triệt để lợi ích của người bị thiệt hại trong quan hệ giữa các
công dân với nhau và đặc biệt là trong quan hệ giữa công dân với Nhà nước,
xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, pháp luật dân sự quy định lỗi có
thể được suy đoán từ ba điều kiện trên. Như vậy, có thể nói rằng: trách nhiệm
hình sự, trách nhiệm dân sự hay bất cứ trách nhiệm pháp lý nào khác nào đều
phải dựa trên cơ sở lỗi. Một người gây thiệt hại mà không có lỗi thì dù thiệt
hại tới mức nào cũng không phải bồi thường - đó là nguyên tắc. (trường hợp
phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ, tình thế cấp thiết, lỗi hoàn toàn do
người bị thiệt hại gây ra).

Lỗi cố ý biểu hiện trạng thái tâm lý của một người biết hành vi của
mình là sai, thấy rõ hậu quả của hành vi đó, mong muốn cho hậu quả xảy ra
hoặc không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả của hành vi đó
xảy ra. Lỗi vô ý là biểu hiện trạng thái tâm lý của người gây thiệt hại, thấy
trước được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt
hại đó không thể xảy ra hoặc có thể xảy ra nhưng ngăn ngừa được.
25

Lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ bồi thường thiệt
hại. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì
người gây thiệt hại không có trách nhiệm phải bồi thường. Mức độ bồi thường
phụ thuộc vào mức độ lỗi của người gây thiệt hại. Khi nghiên cứu về lỗi vô ý
có thể chia lỗi vô ý ra làm hai loại:

- Vô ý vì cẩu thả.

- Vô ý vì quá tự tin.

Vô ý cẩu thả là trường hợp người có hành vi vi phạm mặc dù có thể


thấy trước và phải thấy trước thiệt hại có thể xảy ra.

Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người có hành vi vi phạm thấy trước


khả năng hành vi của mình có thể gây thiệt hại và không mong muốn thiệt hại
xảy ra nhưng lại tin là có thể ngăn chặn được.

Sự khác nhau giữa vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin ở chỗ: người


có hành vi vi phạm với lỗi vô ý vì quá tự tin là họ nhận thấy trước được hành
vi của họ có thể gây thiệt hại, còn người có hành vi vi phạm với lỗi cẩu thả
không nhận thức được thiệt hại có thể xảy ra, trong cả hai trường hợp thì
người có hành vi vi phạm không mong muốn thiệt hại xảy ra.

Trong dân sự thì dù lỗi cố ý hay lỗi vô ý đều phải chịu trách nhiệm bồi
thường. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định:

...3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi
không có lỗi trừ các trường hợp:

a. Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.

b. Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc
tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Như vậy, ngoài nguyên tắc "phải có lỗi" Bộ luật dân sự còn quy định
cả trường hợp không có lỗi người gây ra thiệt hại vẫn phải bồi thường.
26

Khoản 4 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định:

4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu,


sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy
hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái luật thì phải liên đới bồi
thường thiệt hại.

Cũng do quy định này mà các Thẩm phán khi xét xử có cách hiểu
khác nhau cho nên dẫn đến có nhiều cách giải quyết khác nhau. Thực tế có
việc giải quyết khác nhau là do cần phải phân biệt trường hợp nào chủ sở hữu
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại với trường hợp nào họ không phải bồi thường cả khi
họ không có lỗi. Vậy nên chăng Bộ luật dân sự chỉ nên quy định việc bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà không cần phải quy
định chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra thiệt hại cả khi họ không có lỗi.

Như vậy, lỗi là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Vì vậy, cần phân biệt các hình thức lỗi để xác định mức
độ lỗi trên cơ sở đó ấn định mức bồi thường.

2.2. CÁC CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

2.2.1. Pháp nhân - chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại

Khi chưa có Bộ luật dân sự 1995, trách nhiệm của pháp nhân và cá
nhân được quy định tại Thông tư 173/UBTP-TANDTC của Tòa án nhân dân
tối cao ngày 23/3/1972. Theo tinh thần của Thông tư này thì công nhân viên
chức hay một người đại diện hợp pháp của xí nghiệp, cơ quan trong khi thi
hành nhiệm vụ, do hành vi liên quan chặt chẽ đến công tác, được xí nghiệp,
27

cơ quan phân công mà gây thiệt hại theo chế độ trách nhiệm dân sự, rồi sau
đó có quyền đòi hỏi họ hoàn trả việc bồi thường đó theo quan hệ lao động.

Trong trường hợp công nhân viên chức hoặc đại diện của xí nghiệp,
cơ quan lợi dụng nhiệm vụ do hành vi không liên quan đến công việc được
phân công, để mưu lợi riêng mà gây thiệt hại cho người khác thì cá nhân họ
phải bồi thường.

Điều 618 Bộ luật dân sự quy định: "Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại
do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao.
Nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong
việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật".

Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân
trong giao dịch dân sự. Trong quan hệ dân sự pháp nhân có thể đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định hoặc
được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện.
Pháp nhân chỉ bồi thường thiệt hại trong trường hợp người của pháp nhân
quản lý gây thiệt hại.

Ví dụ: A là lái xe của công ty B, trên đường đi công tác gây tai nạn.
Trong trường hợp này thì công ty B phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.

Có trường hợp tuy người đó là người của pháp nhân quản lý gây thiệt
hại nhưng không phải bồi thường. Cũng như ví dụ nêu trên, nhưng sau khi
hoàn thành công việc công ty giao cho, A đã lái xe tranh thủ về thăm quê và
trên đường về quê đã gây ra tai nạn, trong trường hợp này thì A phải có trách
nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại, công ty B không phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại.

Người của pháp nhân quản lý không phải chịu trách nhiệm thay cho
pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện. Trong
trường hợp người của pháp nhân quản lý lợi dụng nhiệm vụ được cơ quan chủ
28

quản giao nhưng lại làm một việc vì mục đích cá nhân mà gây thiệt hại thì
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra.

2.2.2. Cá nhân - chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại

Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia quan hệ dân
sự, Bộ luật dân sự quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cá nhân phụ thuộc vào các mức độ năng lực hành vi dân sự, khả năng bồi
thường và tình trạng tài sản của cá nhân.

Khoản 1 Điều 606 Bộ luật dân sự quy định: "Người từ đủ 18 tuổi trở
lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường".

Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có khả
năng bằng chính hành vi của mình xác lập thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
(Điều 17 Bộ luật dân sự).

Trên thực tế, khi xét xử đối với người gây thiệt hại từ đủ 18 tuổi trở lên,
chưa có việc làm, không có thu nhập, không có tài sản đáng kể và đang sống
chung với cha mẹ, thì Tòa án vẫn xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đối với họ và trong quá trình giải quyết vẫn thừa nhận sự tự nguyện của cha
mẹ người gây thiệt hại bồi thường thay cho con, nhưng về mặt luật pháp thì
không thể buộc họ bồi thường. Thực tế xảy ra cho thấy có người đủ 18 tuổi
gây thiệt hại nhưng đang học ở một trường nào đó, chưa có tài sản, không có
thu nhập đang phải sống nhờ vào cha, mẹ chu cấp tiền ăn học thì khi thụ lý cơ
quan Tòa án nên hòa giải, động viên cha mẹ người gây thiệt hại bồi thường.

"Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha,
mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu tài sản của cha, mẹ
không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng
thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu".

Trong cuộc sống phần lớn người dưới mười lăm tuổi không có tài sản
và sự tự lập về kinh tế. Điều đó không có nghĩa là tất cả những người này đều
29

không có tài sản riêng mà thực tế có nhiều trường hợp những người này đã có
tài sản riêng do được hưởng thừa kế, được tặng cho tài sản. Nhưng về mặt
pháp lý thì khi những người này gây thiệt hại thì cha, mẹ vẫn là những người
phải bồi thường thay, chỉ trừ khi việc bồi thường còn thiếu thì mới lấy tài sản
riêng của con bồi thường cho đủ.

"Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại
thì phải bồi thường bằng tài sản của mình. Nếu không đủ tài sản để bồi
thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình".

Theo luật Bộ luật lao động thì: Người từ đủ mười lăm tuổi trở lên có
thể được tham gia vào quan hệ lao động để có thu nhập và có tài sản riêng có
thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha, mẹ quản lý và cha, mẹ hoàn
toàn có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con. Tuy nhiên, những người
ở độ tuổi này chưa đầy đủ về năng lực hành vi dân sự nên phải có người đại
diện cho mình trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự; vì vậy,
cha, mẹ của người từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi vẫn phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại do con mình gây ra.

Xem xét hai trường hợp người dưới mười lăm tuổi và người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại với trường hợp người gây
thiệt hại là người mất năng lực hành vi dân sự thì nếu những người này có cá
nhân, tổ chức giám hộ thì cá nhân tổ chức đó được dùng tài sản của người
được giám hộ để bồi thường. Khoản 3 Điều 606 Bộ luật dân sự quy định:

Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng
tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được
giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì
người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người
giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì
không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
30

Xuất phát từ qui định trên đây của Bộ luật dân sự, một vấn đề nảy sinh
là: Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám
hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Vậy trong trường hợp
này sẽ lấy tài sản ở đâu để bồi thường, ai là người phải bồi thường cho người
bị thiệt hại. Theo chúng tôi cần có qui định cụ thể trong trường hợp này,
chẳng hạn coi đó là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu thiệt hại.

2.3. NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

Khi giải quyết các vụ án liên quan đến sức khỏe và tính mạng bị xâm
phạm các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tuân thủ
nguyên tắc về bồi thường thiệt hại. Dưới góc độ lý thuyết thì nguyên tắc là các
tư tưởng pháp lý chỉ đạo có ý nghĩa bao trùm, xuyên suốt trong quá trình ban
hành văn bản pháp luật cũng như áp dụng pháp luật các chủ thể phải tuân theo.

Điều 605 Bộ luật dân sự quy định:

1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các
bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường
bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức
bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.

2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường,
nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế
trước mắt và lâu dài của mình.

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì
người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

Bộ luật dân sự 2005 đã bổ sung nguyên tắc "bồi thường một lần hoặc
nhiều lần". Việc bổ sung điều kiện này tạo cho người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại tự do thỏa thuận theo hoàn cảnh kinh tế và khả năng của mình.
31

Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại được qui định tại Điều 605 Bộ
luật dân sự thể hiện sự công bằng hợp lý của pháp luật dân sự, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, pháp nhân khi bị xâm phạm, đồng thời
cũng thể hiện sự công bằng đối với người gây thiệt hại, đó là người gây thiệt
hại chỉ phải chịu trách nhiệm về mức độ lỗi mà mình gây ra.

2.3.1. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời

Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là buộc
người gây thiệt hại phải bù đắp, khắc phục những thiệt hại đã xảy ra cho người
bị thiệt hại, do đó người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho
người bị thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người bị thiệt hại. Khoản 1
Điều 605 2.3.1. nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời quy định: "Thiệt
hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời". Theo Từ điển giải thích từ ngữ
Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội năm 1999 thì cụm từ: "Bồi thường
thiệt hại" được hiểu là: "Hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có
hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn
thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại".

Vậy hiểu thế nào là "toàn bộ" và "kịp thời"?

Theo chúng tôi thì "toàn bộ" là tất cả các phần, bộ phận của một chỉnh
thể. Bồi thường toàn bộ thiệt hại là nguyên tắc công bằng hợp lý phù hợp mục
đích cũng như chức năng khôi phục. Điều này có nghĩa cực kỳ quan trọng khi
xác định bồi thường thiệt hại về tính mạng và sức khỏe trong việc cứu chữa,
hạn chế thiệt hại bởi các chi phí cứu chữa thường rất cao, trong một số trường
hợp vượt quá khả năng của người bị thiệt hại.

Bồi thường "kịp thời" là không chậm trễ, có thể người gây thiệt hại
phải bồi thường ngay mà không cần chờ quyết định của Tòa án. Ngành Tòa
án cũng nên áp dụng triệt để nguyên tắc này khi giải quyết các vụ việc liên
quan đến tính mạng và sức khỏe bị xâm phạm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
32

pháp của người bị thiệt hại một cách nhanh nhất đồng thời ngăn chặn sự dây
dưa, chây ỳ không chịu bồi thường của người gây thiệt hại.
Trong trường hợp người gây thiệt hại có khả năng về kinh tế nhưng không
chịu bồi thường ngay để chữa chạy cho người bị thiệt hại thì tùy từng trường
hợp cơ quan tiến hành tố tụng có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời buộc người gây thiệt hại phải bồi thường ngay cho người bị thiệt hại.
Ví dụ: Một người bị thiệt hại đang được cứu chữa trong cơ sở y tế bởi
hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại và có thể phải điều trị thời gian dài,
nhưng người bị thiệt hại do hoàn cảnh khó khăn không thể đáp ứng ngay được.
Trong trường hợp này nếu người gây thiệt hại không tự nguyện bồi thường do hành
vi của mình gây ra thì Tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc
người gây thiệt hại phải bồi thường ngay một khoản tiền cho người bị thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại được xác định theo nguyên tắc: người gây thiệt
hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu (bồi thường toàn bộ thiệt hại).
Thiệt hại xảy ra có thể là tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm (Điều
608; Điều 609; Điều 610 Bộ luật dân sự) tùy từng trường hợp có thể áp dụng
bồi thường thiệt hại về tinh thần (khoản 2 Điều 609; khoản 2 Điều 610 Bộ
luật dân sự); chúng ta không chấp nhận những chi phí, thiệt hại không thực tế
và thiệt hại được suy diễn chủ quan.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời cũng đã được hướng dẫn trong
Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, để áp dụng nguyên tắc này trong thực
tiễn xét xử phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, của toàn xã hội.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời không hạn chế sự tự nguyện
thỏa thuận việc bồi thường giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Đồng
thời nghiêm cấm sự ép buộc thỏa thuận và việc thỏa thuận đó không trái luật,
tùy theo sự thỏa thuận của các bên có thể cao hơn mức thiệt hại hoặc thấp hơn
mức thiệt hại xảy ra trên thực tế. Đây cũng là đặc trưng cơ bản trong giao lưu
dân sự trên cơ sở tự do ý chí, tự do cam kết thỏa thuận.
33

2.3.2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu
do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và
lâu dài của mình

Với nguyên tắc này thì người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức
bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau:

- Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại

Nếu người gây thiệt hại mà do lỗi cố ý gây thiệt hại thì không được áp
dụng nguyên tắc này bởi vì người gây thiệt hại chủ ý gây ra thiệt hại mà theo
lỗi cố ý gây thiệt hại là người gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình là
gây thiệt hại, thấy trước thiệt hại của hành vi đó và mong muốn thiệt hại xảy ra
hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho thiệt hại xảy ra.

Do vậy người gây thiệt hại phải hoàn toàn chịu trách nhiệm do lỗi của
mình về hành vi đó.

Đối với lỗi cố ý thì người gây thiệt hại không được giảm mức bồi thường.
Họ chỉ được giảm mức bồi thường do lỗi vô ý, còn lỗi cố ý thì phải bồi thường
toàn bộ dù người gây thiệt hại có hoàn cảnh kinh tế khó khăn về trước mắt và
lâu dài, trừ trường hợp các bên có thỏa thận với nhau về mức bồi thường.

Thực tế ở vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa... các Tòa án đã
tuyên mức án phù hợp nhưng người gây thiệt hại vẫn không thể bồi thường do
kinh tế khó khăn, nhưng vì pháp luật như vậy nên không thể áp dụng khác.

Nguyên tắc này đặt ra nhằm bảo đảm phán quyết của Tòa án đưa ra
được thi hành ngay và có hiệu quả, vì thực tế rất nhiều các vụ án các bản án,
quyết định của Tòa án ban hành nhưng cơ quan Thi hành án không thi hành
được thì cũng không có ý nghĩa.

- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài

Khi mức độ thiệt hại có thể lớn hơn khả năng kinh tế trước mắt và lâu
dài của người gây thiệt hại thì người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi
34

thường thiệt hại. Tất nhiên, điều kiện này luôn đi cùng với điều kiện lỗi vô ý
của người gây thiệt hại.

Trong thực tiễn xét xử các vụ án về bồi thường thiệt hại đến sức khỏe
và tính mạng bị xâm phạm, để xác định như thế nào là: "thiệt hại quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình" là một vấn đề khá phức
tạp. Theo chúng tôi thì tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ từng
trường hợp cụ thể của vụ án mà quyết định cho thỏa đáng, tránh trường hợp
giảm quá ít thì không có ý nghĩ thiết thực, và ngược lại, không nên giảm quá
nhiều do lo ngại không thể thi hành án được.

Hay cụm từ "khả năng kinh tế" cũng là một vấn đề cần xác định rõ
nhằm để xem xét trường hợp nào thì được giảm mức bồi thường thiệt hại,
trường hợp nào thì không được giảm bồi thường, đồng thời cũng là để bảo vệ
quyền lợi, bảo đảm tính công bằng, tránh sự gian lận, lợi dụng để trốn tránh
trách nhiệm bồi thường của người gây ra thiệt hại.

Ví dụ: A trong khi lau súng, do sơ ý không biết súng có đạn và bị


cướp cò, đạn nổ trúng B làm B chết và bị thương C (B là lao động chính, nuôi
dưỡng mẹ già và 2 con con nhỏ). Qua xem xét thực tế hoàn cảnh của A khó
khăn, gia đình không có tài sản gì đáng giá, ngoài ra A còn phải nuôi 1 mẹ già
và 4 con còn nhỏ. Vậy trong trường hợp này khi giải quyết, Tòa án phải coi
sự thiệt hại mà A gây ra cho B,C là quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt
và lâu dài và cần thiết giảm mức bồi thường cho A là thỏa đáng, còn giảm
mức bao nhiêu thì còn tùy thuộc vào từng trường hợp, điều kiện hoàn cảnh cụ
thể.

Ngoài hai điều kiện, lỗi của người bị thiệt hại cũng là một trong những
yếu tố quan trọng khi chúng ta xác định mức bồi thường. Nguyên tắc này
cũng là để áp dụng giảm mức bồi thường cho người gây thiệt hại trong trường
hợp có lỗi của người bị thiệt hại, cũng như phân tích ở trên, vấn đề xác định
mức bồi thường trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi rất phức tạp, xác
35

định lỗi của người gây ra thiệt hại là bao nhiêu? Hiện nay cũng chưa có văn
bản quy phạm pháp luật nào quy định về vấn đề này, trong thực tiễn xét xử
Tòa án thường tự ước lượng tỉ lệ % rồi quyết định, cho nên dẫn đến mức bồi
thường có khoảng cách rất xa nhau.

Ví dụ: Bản án số 113/2006/HSPT ngày 24/7/2006 của Tòa án nhân


dân tỉnh CM xét xử Nguyễn Thị Phượng về tội cố ý gây thương tích.

Nội dung vụ án như sau: Do có mâu thuẫn về điện sinh hoạt nên giữa
Phượng và người bị hại Nguyễn Minh Trí xảy ra cãi chửi và thách đố nhau,
Phượng đã dùng dao chém 3 nhát vào mặt và vai trái Trí, tỷ lệ thương tật 15%
vĩnh viễn, Tòa án huyện PT xử sơ thẩm phạt Phượng 2 năm tù cho hưởng án
treo và nhận xét có phần lỗi của bị hại. Sau khi xử sơ thẩm, anh Trí kháng cáo đề
nghị cấp phúc thẩm không cho Phượng hưởng án treo và tăng mức bồi thường.
Cấp phúc thẩm nhận định người bị hại có lỗi nên không có căn cứ tăng mức
hình phạt và mức bồi thường, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Vậy mức độ lỗi của
Trí ở trong vụ án này là bao nhiêu? thực tế không đơn giản. Các Tòa án khi
gặp những vụ án như thế này thường chỉ xem xét và quyết định một cách
tương đối và như vậy khó tránh khỏi việc sau khi tuyên án các bên sẽ kháng
cáo không đồng ý cách giải quyết của cấp sơ thẩm, vì trong vụ án này còn liên
quan đến hình phạt tù và mức bồi thường thiệt hại. Người gây thiệt hại thì yêu
cầu giảm hình phạt và mức bồi thường người bị thiệt hại yêu cầu tăng hình
phạt đối với bị cáo và yêu cầu tăng mức bồi thường. Hơn nữa điều luật chỉ
định hình chứ không định lượng, việc giảm mức bồi thường phải phụ thuộc
vào điều kiện, hoàn cảnh, mức độ của người gây thiệt hại mà Tòa án ra quyết
định trong những trường hợp cụ thể.

2.3.3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người
gây thiệt hại, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan có
thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường
36

Nguyên tắc được quy định tại khoản 3 Điều 605 Bộ luật dân sự, theo
nội dung của nguyên tắc này thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại, người
đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp
nhằm thay đổi mức bồi thường, khi mức bồi thường không còn phù hợp với
thực tế. Nguyên tắc này đã được các nhà làm luật dự đoán được tác động của
thị trường đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Ví dụ: Người gây thiệt hại cho rằng mức bồi thường tại thời điểm là
quá cao so với thời điểm xét xử nên yêu cầu cơ quan Tòa án giảm mức bồi
thường hoặc ngược lại người bị thiệt hại cho rằng mức tiền bồi thường hàng
tháng quá thấp không bảo đảm cho mức sinh hoạt hàng ngày nên yêu cầu cơ
quan Tòa án tăng mức bồi thường.

Thay đổi mức bồi thường có thể hiểu là việc tăng mức bồi thường, có
thể cao hơn, có thể thấp hơn mức bồi thường thiệt hại. Hay thay đổi về thời
hạn bồi thường ngắn hơn hay dài hơn mức mà trước đây các bên đã thỏa
thuận hoặc Tòa án quyết định - đó là yêu cầu của người bị thiệt hại. Còn
người gây thiệt hại có thể thay đổi mức bồi thường đối với người bị thiệt hại
đó là trường hợp người gây ra thiệt hại vì một lý do nào đó không tiếp tục
thực hiện việc bồi thường hoặc vì một lý do khách quan.

Ví dụ: Người bị thiệt hại đã bình phục hoàn toàn sức khỏe, đã tham
gia lao động tích cực và thực tế đã có khoản thu nhập (việc thu nhập cao hay
thấp chúng ta không quan tâm).

Hoặc một trường hợp cụ thể khác: Một người bị người khác đánh vào
vùng đầu gây thiệt hại về sức khỏe 44%, ngoài trách nhiệm hình sự người gây
thiệt hại phải chịu, Tòa án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị
thiệt hại tổng cộng các khoản 5.000.000 đồng, sau một thời gian người bị thiệt
hại bị tái phát vết thương, bị liệt nên không tham gia học tập, công tác, lao động...
và cần có một người chăm sóc. Trong trường hợp này người bị thiệt hại có thể
37

nộp đơn khởi kiện người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường một khoản
tiền về sức khỏe bị giảm sút, bị mất đi và một khoản theo luật cho một người
chăm sóc người bị thiệt hại. Ngược lại người gây thiệt hại cũng có quyền này khi
cho rằng thiệt hại mà Tòa án buộc họ phải bồi thường cho người bị thiệt hại
không còn cần thiết và điều kiện của họ không có khả năng tiếp tục bồi thường.

Dù thay đổi mức bồi thường theo hướng nào đi chăng nữa thì vấn đề
mấu chốt vẫn là bảo đảm cho sự công bằng, hợp lý cho những người yêu cầu.

Khoản 1 Điều 605 Bộ luật dân sự quy định: "Phương thức bồi thường
một lần hoặc nhiều lần". Vậy việc thay đổi mức bồi thường thì chúng ta chỉ áp
dụng đối với phương thức bồi thường nhiều lần còn đối với phương thức bồi
thường một lần thì không áp dụng, bởi lẽ người gây thiệt hại đã thực hiện
xong nghĩa vụ bồi thường và nghĩa vụ bồi thường đã chấm dứt. Như vậy, nếu
có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại phát sinh đối với phương thức bồi thường
thiệt hại một lần thì Tòa án không chấp nhận yêu cầu này.

2.4. HÌNH THỨC BỒI THƯỜNG VÀ MỨC BỒI THƯỜNG

2.4.1. Hình thức bồi thường thiệt hại

Hình thức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là cách thức thực hiện
nghĩa vụ của bên gây thiệt hại đối với bên bị thiệt hại. Trong quan hệ pháp
luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hình thức bồi thường
thiệt hại do các bên tự thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.

Khoản 1 Điều 605 Bộ luật dân sự quy định: "...các bên có thể thỏa
thuận về hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một
công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác".

Đối với những thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm thì
hình thức bồi thường mà Tòa án thường áp dụng là bồi thường bằng tiền do
tính chất đặc biệt của loại thiệt hại này. Các khoản tiền chi phí hợp lý mà
38

người bị thiệt hại và gia đình của họ đã bỏ ra khi điều trị tại cơ sở y tế sẽ được
tính thành một khoản tiền cụ thể.

Các bên có thể thỏa thuận "phương thức bồi thường một lần" hoặc
"phương thức bồi thường nhiều lần" tùy theo từng điều kiện kinh tế, hoàn
cảnh cụ thể. Theo quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nếu người
phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền phải bồi thường cho người thi
hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền
lãi của số tiền chưa thi hành theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Khoản tiền cấp dưỡng cho những người thân thích gần gũi của người
bị thiệt hại mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng phải được thực hiện
hàng tháng. Đối với các khoản tiền chi phí hợp lý, thu nhập bị mất đi, thu
nhập bị giảm sút cho người chăm sóc người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả
năng lao động cũng phải được bồi thường hàng tháng.

Vậy trong trường hợp người gây thiệt hại và người bị thiệt hại, những
người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng không ở cùng địa phương,
thì việc cấp dưỡng có nên áp dụng hình thức cấp dưỡng hàng tháng hay áp
dụng hình thức cấp dưỡng một lần? Theo chúng tôi là đối với trường hợp này
thì Tòa án nên áp dụng hình thức cấp dưỡng một lần thì có tính khả thi hơn.

Ví dụ: Bản án số 12/2006/HSST ngày 20/2/2006 của Tòa án nhân dân


tỉnh LC xét xử Sừn Văn Đoàn về tội giết người.

Nội dung vụ án: Đoàn vay anh Nghị 100.000 đồng do đòi nhiều lần
Đoàn không có tiền để trả, Đoàn nảy sinh ý định giết anh Nghị. Đoàn dùng
cây rìu chém anh Nghị nhiều nhát vào đầu, cổ làm anh Nghị chết tại chỗ,
Đoàn kéo xác anh Nghị lăn xuống thác nước.

Ngoài phần quyết định hình phạt, về trách nhiệm dân sự: Tòa án nhân
dân tỉnh LC buộc Đoàn phải bồi thường cho chị Vùi Thị Lần - Người đại diện
39

hợp pháp của bị hại: 55.500.000 đồng, trong đó có số tiền: 20.000.000 đồng là
tiền cấp dưỡng 1 lần cho 2 cháu là con anh Nghị, cháu lớn sinh năm 1994,
cháu nhỏ sinh năm 1997.

Điều 417 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: "Người có nghĩa vụ phải
bồi thường bằng tiền". Trong các hình thức bồi thường thiệt hại, ngoài việc
bồi thường bằng tiền còn có nguyên tắc khôi phục tình trạng ban đầu.

Bộ luật dân sự Đức thì áp dụng nguyên tắc khôi phục tình trạng ban
đầu. Bộ luật dân sự không quy định rõ như Bộ luật dân sự Nhật Bản nên không
rõ là có áp dụng nguyên tắc khôi phục tình trạng ban đầu hay không nhưng đa
số các học thuyết thì chủ trương áp dụng nguyên tắc bồi thường bằng tiền.
Tuy nhiên, cũng có không ít trường hợp trong đó án lệ và học thuyết thừa
nhận sự khôi phục tình trạng ban đầu.

2.4.2. Mức bồi thường thiệt hại

Khi áp dụng các quy định của pháp luật về mức bồi thường thiệt hại,
cần phải xem xét thực tế và tùy vào từng trường hợp cụ thể mà quyết định:
mức độ lỗi của người gây ra thiệt hại và người bị thiệt hại, khả năng kinh tế
thực tế của người gây thiệt hại để Tòa án quan tâm xem có nên giảm mức bồi
thường hay giữ nguyên mức bồi thường, như vậy thì quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự mới được bảo đảm tuyệt đối. Người gây thiệt hại phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi cố ý mà mình gây ra, còn nếu vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài thì có thể được
giảm mức bồi thường hoặc có thể chỉ phải bồi thường thấp hơn mức thiệt hại
hoặc người bị thiệt hại cũng có lỗi.

Việc xét mức bồi thường thiệt hại như thế nào cũng là một vấn đề cần
bàn đến, đó là khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì các
đương sự có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi mức bồi thường. Thông thường
những khoản mà đương sự đưa ra đề nghị được thay đổi là thu nhập bị mất,
40

thu nhập bị giảm sút, tiền cấp dưỡng. Trong luật dân sự thì tiền cấp dưỡng là
khoản tiền kéo dài theo thời gian (có trường hợp cho đến khi trưởng thành, có
trường hợp cho đến khi chết) cho nên không thể tính toán được chính xác
trong một thời gian dài như vậy được, trường hợp yêu cầu thay đổi mức bồi
thường có thể xảy ra do yêu cầu của người gây thiệt hại, có thể do yêu cầu
của người bị thiệt hại.
Đối với trường hợp người gây thiệt hại vì một lý do khách quan họ có
thể có thu nhập cao hơn thời điểm xét xử hoặc họ có thể được thừa kế tài
sản... nên người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người gây thiệt hại đền bù một
khoản tương xứng với hậu quả đã gây ra. Ngược lại, nếu người gây thiệt hại
lâm vào hoàn cảnh khó khăn phải nuôi dưỡng bố, mẹ già, con nhỏ dại… họ có
quyền yêu cầu được giảm mức bồi thường để vừa có khả năng chấp hành bản
án vừa đảm bảo được cuộc sống cho gia đình.
Đối với người bị thiệt hại có thể bản thân họ hay phía gia đình họ có
nguồn thu nhập cao trong khi đó thì người phải cấp dưỡng khó khăn hoặc
mức cấp dưỡng không còn phù hợp với thực tế vì thế mà không bảo đảm cho
người được cấp dưỡng một mức sống tối thiểu.

2.5. XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI TRONG TRƯỜNG HỢP SỨC KHỎE, TÍNH
MẠNG BỊ XÂM PHẠM

2.5.1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm


Điều 609 Bộ luật dân sự quy định:
1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm gồm:
a. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức
khỏe và chức năng bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.
b. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị
thiệt hại, nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định
41

và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình
của lao động cùng loại.
c. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người
chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, nếu người bị
thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm
sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người
bị thiệt hại.

2. Người xâm phạm sức khỏe của người khác phải bồi thường
một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận,
nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 30 tháng
lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

* Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại.

Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: "Công dân có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe..."

Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê
phương tiện đưa người thiệt hại đi cấp cứu, tiền vé tàu xe thậm chí cả vé máy
bay (nếu cần thiết) đi lại cứu chữa tại các cơ sở y tế, tiền thuốc và tiền mua
các thiết bị y tế phục vụ cho việc cấp cứu, chi phí chiếu chụp Xquang, chụp
cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ định
của bác sĩ điều trị. Tiền viện phí, tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng,
tiền chăm sóc phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí
cho việc lắp chân tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống, khắc phục
thẩm mỹ, chi phí cho việc cấy ghép bộ phận cơ thể bị mất, chi phí giải phẫu
về mặt thẩm mỹ do bị bỏng biến dạng cơ thể… để hỗ trợ thay thế một phần
chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
42

Trong trường hợp, ở những địa phương vùng sâu vùng xa, do phương
tiện đi lại khó khăn, chủ yếu bằng xe máy, xe ngựa…, khi thuê các phương tiện
này không thể có hóa đơn, chứng từ, nhưng mặc dầu vậy nếu người bị hại đưa ra
chứng cứ chứng minh yêu cầu này thì đây phải được coi là chi phí hợp lý. Hay
hiện nay nước ta có nhiều cơ sở y tế tư nhân hoạt động, khi người bị thiệt hại
được đưa vào những cơ sở này cấp cứu, điều trị thì cũng cần phải buộc người
gây thiệt hại bồi thường những chi phí cần thiết cho việc cấp cứu, điều trị của
người bị thiệt hại tại các cơ sở đó. Ngược lại, có những chi phí mà cơ sở y tế ở
địa phương có đủ điều kiện cấp cứu, chữa trị không cần thiết phải đưa đi cấp
cứu, chữa trị ở những cơ sở khám chữa bệnh tuyến trên nhưng người bị thiệt hại
lại yêu cầu, thì những chi phí này phải được coi là chi phí không hợp lý. Ngoài
ra còn có những chi phí mà người bị thiệt hại yêu cầu vượt quá hoặc không liên
quan đến việc chữa trị thương tích thì cũng không được bồi thường. Ví dụ một
người bị gãy chân nếu chữa trị ở trong nước thì chỉ tốn khoảng 6-7 triệu đồng,
nhưng người bị thiệt hại yêu cầu phải được đưa ra nước ngoài điều trị với chi phí
lên đến hàng ngàn đôla, thì những chi phí này không thể coi là hợp lý.

* Thu nhập thực tế bị giảm sút là phần thu nhập tương ứng với thu
nhập của người bị thiệt hại trước khi sức khỏe bị xâm phạm mà người bị thiệt
hại không thu nhập được. Phần thu nhập thực tế bị giảm sút là phần chênh
lệch giữa thu nhập trước và sau khi sức khỏe bị xâm phạm. Nếu người bị thiệt
hại có việc làm nhưng không ổn định thì có thể tính các khoản thu nhập bị
giảm sút như sau: Ví dụ, trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại
có thu nhập 30.000 đồng/ngày; sau khi sức khỏe bị xâm phạm họ chỉ thu nhập
được 20.000 đồng/ngày. Vậy người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi
thường số tiền chênh lệch là 10.000đồng/ngày.

Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, nếu
trước khi sức khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế nhưng
do sức khỏe họ phải đi điều trị và do đó không có được khoản thu nhập đó.
Nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác
43

định được thì áp dụng mức trung bình của lao động cùng loại ở từng địa
phương. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định thu nhập thực tế của người bị
thiệt hại gặp khó khăn, bởi vì việc cung cấp tài liệu, chứng cứ của các bên rất
khác nhau và một thực tế nữa là việc quản lý thu nhập công dân của nước ta
chưa được chặt chẽ, phần nào khó khăn cho công tác xét xử và giải quyết loại
án này. Cần phải xem xét người bị thiệt hại sau khi điều trị về nhà thì khả
năng lao động của họ có còn hay không, nếu còn thì cần xác minh thu nhập
hàng tháng sau đó đối chiếu với thu nhập của họ trước khi sức khỏe bị xâm
phạm để xác định thu nhập bị giảm sút.

Trên thực tế, khi tính thời gian hưởng thu nhập thực tế và thu nhập bị
giảm sút cũng có nhiều quan điểm khác nhau nên dẫn đến cách tính khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Chỉ tính thu nhập thực tế bị mất, bị
giảm sút trong thời gian người bị thiệt hại nằm điều trị để phục hồi sức khỏe.

Quan điểm thứ hai thì cho rằng: Thu nhập thực tế bị mất và bị giảm
sút tính từ khi sức khỏe bị xâm phạm cho đến khi người bị thiệt hại chết, ý
kiến này căn cứ vào khoản 1 Điều 612 Bộ luật dân sự: "Trong trường hợp
người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại
được hưởng bồi thường cho đến chết".

Theo chúng tôi thì thời gian hưởng thu nhập thực tế được tính theo hai
cách sau:

- Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì
thời hạn bồi thường thiệt hại được tính từ khi sức khỏe bị xâm phạm cho đến
khi người thiệt hại chết (áp dụng theo khoản 1 Điều 612 Bộ luật dân sự).

- Trường hợp người bị thiệt hại không mất hoàn toàn khả năng lao
động thì thời điểm tính bồi thường thiệt hại từ khi sức khỏe bị xâm phạm cho
đến khi thu nhập được khôi phục bằng thu nhập trước khi bị thiệt hại. Trong
44

thực tiễn, các Tòa án thường quyết định buộc người gây thiệt hại phải bồi
thường cho người bị thiệt hại một khoản tiền và đều được các bên chấp nhận.

* Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế của người chăm sóc người
bị thiệt hại trong thời gian điều trị

Thông thường chỉ chi phí cho một người, trường hợp đặc biệt không
quá hai người (nạn nhân nằm một chỗ, bị hôn mê sâu, liệt dây thần kinh...
phải có người trực tiếp theo dõi thường xuyên). Nếu người bị thiệt hại về sức
khỏe bị giảm sút thiệt hại từ 81% trở lên thì người gây thiệt hại phải chịu chi
phí cho người cấp dưỡng người bị thiệt hại cho đến khi người bị thiệt hại chết.

Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong
thời gian điều trị do người chăm sóc phải nghỉ việc để chăm sóc người bị thiệt hại.

Nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động (bị liệt, bị chấn
thương não mất trí nhớ…) và cần có người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt
hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản
tiền cấp dưỡng cho những người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Chi phí
hợp lý và khoản thu nhập thực tế của người chăm sóc người bị thiệt hại trong
thời gian điều trị theo chúng tôi thì đó là những khoản chi phí bù đắp cho
người chăm sóc người bị thiệt hại do họ phải nghỉ không làm việc, sản xuất,
lao động... để dành thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, ngoài ra còn các
khoản khác như: tiền tàu xe, tiền thuê nhà nghỉ (theo giá trung bình ở địa
phương đó)…mà nếu như không phải chăm sóc người bị thiệt hại thì họ
không phải chi.

Theo chúng tôi thì chỉ nên coi những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ phải cấp dưỡng và thực tế họ đang được cấp dưỡng là người mà người
bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng cần căn cứ vào mức thu nhập của người bị
thiệt hại và thực tế người đó cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng trước khi
bị thiệt hại để quyết định. Ví dụ: A gây thương tích cho B làm B chết, B
nghiện ma túy thường xuyên về nhà gây sức ép với bố, mẹ lấy tiền hút, chích
45

ma túy. Vậy trong trường hợp này A không phải bồi thường thiệt hại về
khoản tiền cấp dưỡng (phải là người đang trực tiếp thực hiện việc cấp dưỡng).

* Người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn
thất về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.

Để đưa ra một mức bồi thường về thiệt hại tinh thần theo chúng tôi
nên căn cứ vào những điểm sau:
- Nếu sức khỏe của người bị thiệt hại là trầm trọng, cố tật nặng, tàn phế...
thì phải coi đây là trường hợp người bị thiệt hại và gia đình họ phải gánh chịu
đau thương mất mát lớn về tinh thần vì vậy khoản tiền bù đắp về tinh thần là
phải tương đối cao mới hợp lý.
- Ngoài ra còn phải tính đến hoàn cảnh gia đình (là con độc nhất, là
lao động chính), điều kiện kinh tế của người bị thiệt hại và độ tuổi, vị trí, khả
năng của họ trong gia đình, đặc biệt là tác hại của vết thương trên cơ thể, là
người chưa thành niên, chưa có gia đình mà bị gây thương tích xấu xí diện
mạo thì phải quyết định một khoản tiền cho thỏa đáng.
Ví dụ: Bản án số 105/2006/HSST ngày 21/6/2006 của Tòa án tỉnh CM
Nội dung vụ án: Do mâu thuẫn khi chơi bida, Lê Hoàng Đ đã dùng
gậy chọc bida đập nhiều phát vào đầu của Trần Đức T, làm T bị thương nặng,
tỷ lệ thương tích 45% vĩnh viễn. Ngoài việc Đ phải chịu trách nhiệm hình sự,
gia đình Đ đã tự nguyện bồi thường tiền cứu chữa cho người bị hại. Người bị
hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổn thất về tinh thần. Tòa án tỉnh CM đã
chấp nhận và buộc Lê Hoàng Đ phải bồi thường cho người bị hại tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần: 8.000.000 đồng.

2.5.2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm


Điều 610 Bộ luật dân sự quy định:
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
46

a. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc
người bị thiệt hại trước khi chết;
b. Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng.
2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường
thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác
để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những
người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng,
người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản
tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên
thỏa thuận, nêu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá
sáu mươi tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định.
Như vậy, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
* Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị
thiệt hại trước khi chết;
Những chi phí hợp lý có thể chấp nhận đó là những chi phí chỉ đặt ra
trong trường hợp người bị thiệt hại sau khi bị người gây thiệt hại xâm phạm
đến thân thể nhưng chưa bị chết ngay vì vậy khoản thiệt hại này rất cần thiết
trong việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. Những khoản chi phí
cứu chữa người bị thiệt hại trước khi chết xác định giống như chi phí cứu
chữa người bị thiệt hại khi sức khỏe bị xâm phạm (xem thêm Mục 2.5.1).
* Chi phí hợp lý cho việc mai táng
Theo Nghị quyết 03/ HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 thì các khoản:
Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: Tiền mua quan
tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương,
47

nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi phí khác phục vụ cho việc
chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp
nhận bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ…
Như vậy Tòa án chỉ buộc người gây thiệt hại bồi thường những khoản
đã liệt kê ở trên, thực tế nhiều vụ án gia đình người bị thiệt hại gây áp lực với
Tòa án và người gây thiệt hại bằng cách là: đeo khăn tang và mang ảnh nạn
nhân đến Tòa án khi xét xử và thường đưa ra rất nhiều khoản bất hợp lý nhằm
buộc người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Có vụ án khi xét xử Thẩm phán không nghiên cứu kỹ nghị quyết và


căn cứ vào nội dung Nghị quyết hướng dẫn mà tùy tiện quyết định theo cảm
tính, các khoản tiền chi phí, bồi thường quá cao so với mức bình quân thu
nhập đầu người ở địa phương. Chấp nhận cả những khoản tiền mà theo luật
không được chấp nhận, dẫn đến bản án không có tính khả thi, không mang
tính thuyết phục cho dù vụ án này được xét xử lưu động ở địa phương nơi xảy
ra việc phạm tội nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục pháp luật.

Ví dụ: Bản án số 76/HSST ngày 14/11/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh
LC xét xử bị cáo Nguyễn Việt Hùng về tội "Giết người".

Nội dung vụ án: Do có mâu thuẫn từ việc vay nợ tiền từ trước với vợ
chồng anh Nguyễn Duy Ngọc và chị Nguyễn Thị Hằng, Hùng đã dùng dao
phát dài 90cm (loại dao phát cỏ) chém anh Ngọc 4 nhát chết tại chỗ, chị Hằng
đang nằm trên giường cùng con trai 3 tuổi xem tivi, Hùng chém chị Hằng đứt
rời bàn chân phải, 1/3 chân trái, 1/3 cẳng tay phải và nhiều vết thương khác
trên người, khi đang chém tiếp thì mũi dao cắm vào giường và gẫy cán không
chém được nữa.

Phần trách nhiệm dân sự, Tòa án quyết định:

- Buộc bị cáo bồi thường cho bà Phạm Thị Lý (mẹ anh Ngọc) tiền mai
táng phí và làm 3 ngày: 5.000.000 đồng; tiền 49 ngày, 100 ngày giỗ đầu:
48

1.500.000 đồng. Tiền cải táng xây mộ: 3.000.000 đồng. Tiền bù đắp tổn thất
về tinh thần: 10.000.000 đồng.

- Bồi thường cho chị Đỗ Thị Hằng:

- Tiền viện phí: 3.500.000 đồng.

- Tiền sàng lọc máu: 530.000 đồng.

- Tiền mua máu và các loại vật tư y tế để cấp cứu: 5.370.000 đồng.

- Tiền thu nhập bị mất (từ lúc cấp cứu cho đến khi xét xử là 100 ngày
x 25.000 đồng = 2.500.000 đồng.

- Tiền công chăm sóc: 45 ngày x 2 người x 20.000 đồng = 1.800.000 đồng.

55 ngày x 1 người x 20.000 đồng = 1.100.000 đồng.

- Chi phí cấp cứu, tiền tàu xe thăm nom của gia đình: 1.000.000 đồng.

- Tiền bồi dưỡng cho chị Hằng: 1.000.000 đồng.

- Tiền tổn thất về tinh thần: 15.000.000 đồng.

- Tiền cấp dưỡng cho bà Phạm Thị Lý 66 tuổi, đã hết tuổi lao động
mức: 200.000đồng/tháng cho đến khi bà Lý chết.

- Cấp dưỡng và chi phí chăm sóc cho chị Hằng mức: 500.000 đồng/tháng
cho đến khi chị Hằng chết.

- Cấp dưỡng cho 2 cháu con chị Hằng mỗi cháu: 200.000 đồng cho tới
khi cháu đủ 18 tuổi.

Qua vụ án nêu trên, khoản tiền làm 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày và giỗ
đầu rõ ràng là không hợp lý vì theo Nghị quyết 01/2004/NQ-HĐTP, tại tiểu
mục 2.2- mục 2- phần 2 quy định "…không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi
phí cúng lễ, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ…". Theo chúng tôi thì do nước ta có
nhiều dân tộc cùng chung sống và mỗi một dân tộc có phong tục tập quán khác
nhau nên việc giải quyết vấn đề mai táng là không đơn giản, về chi phí hợp lý
49

cho việc mai táng ngoài những khoản quy định trong Nghị quyết 03/ NQ-HĐTP
nên chấp nhận những khoản sau:

- Chi phí bảo quản xác, vệ sinh xác trước khi chôn cất.

- Chi phí cho việc thuê khâm liệm.

- Chi phí thuê khắc bia, tiền chụp và phóng ảnh thờ.

- Chi phí cho những người đào huyệt.

- Tiền mua đất để chôn người chết (nếu có).

- Tiền xây mộ (nơi không có tục cải táng).

* Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa
vụ cấp dưỡng

Chỉ những người mà khi còn sống người bị thiệt hại thực tế cấp dưỡng,
nuôi nấng thì mới được xem xét vấn đề cấp dưỡng, thông thường đó là những
người thân thích gần gũi với người bị thiệt hại.

Theo Nghị quyết 03/NQ-HĐTP thì những người sau đây được bồi thường
khoản tiền cấp dưỡng:

- Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự
nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng;

- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả
năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng;

- Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ
trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
50

- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi
dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

- Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã


thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình
trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động
không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không
sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

- Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi
mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại
đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng
lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp
dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị
thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài
sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành
niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo quan điểm của chúng tôi, thì tùy từng trường hợp mà Tòa án buộc
người gây thiệt hại phải bồi thường cho những người thân thích một khoản
tiền cấp dưỡng với mức thu nhập bình quân đầu người ở địa phương đó.
* Khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần
Không phải trong mọi trường hợp người bị thiệt hại phải bồi thường
khoản tiền về tổn thất về tinh thần và tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng
mức bồi thường cao hay thấp. Khoản 2 Điều 610 Bộ luật dân sự quy định: "…
mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu
51

không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối
thiểu do Nhà nước quy định".
Điều luật chỉ quy định bồi thường mức tối đa không quy định mức
khởi điểm bồi thường là bao nhiêu.
Theo chúng tôi thì để quyết định trường hợp nào phải bồi thường tổn
thất tinh thần thì có thể dựa trên một vài căn cứ như sau:
- Khoản bồi thường tổn thất về tinh thần dựa trên lứa tuổi của người bị
thiệt hại, chẳng hạn việc bồi thường tổn thất về tinh thần do việc gây thương
tích ở vùng mặt cho một người trẻ rõ ràng phải hơn khoản bồi thường này cho
một người già.
- Khoản bồi thường tổn thất về tinh thần cũng có thể dựa trên mối
quan hệ thực tế trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại với những người thân
thích, ruột thịt của người bị thiệt hại, chẳng hạn việc bồi thường tổn thất tinh
thần này cho gia đình người bị hại mà người bị hại là con duy nhất trong gia
đình phải cao hơn trường hợp người thiệt hại là con trong một gia đình đông
anh em….

Về mức bồi thường cần phải căn cứ vào quan hệ của người bị thiệt hại
với người thân thích, ruột thịt của người bị thiệt hại và vị trí của người thiệt
hại trong cuộc sống tinh thần của những người thân thích, ruột thịt của người
bị thiệt hại, theo tinh thần của điều luật thì bồi thường tổn thất về tinh thần
phải được quyết định một lần và ấn định một mức cụ thể trong bản án. Điều
cần thiết là nên có một văn bản quy phạm pháp luật quy định mức tối thiểu
đối với khoản tiền tổn thất về tinh thần là phù hợp với thực tế.
52

Chương 3

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP


HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG

3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM

3.1.1. Thực trạng giải quyết các vụ án về bồi thường thiệt hại do
sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm

Bộ luật dân sự năm 1995 với các qui định cụ thể về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã tạo cơ sở pháp lý cho các cấp Tòa án giải
quyết các tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng,
bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói chung. Qua một
thời gian áp dụng vào thực tiễn, mặc dù đã có hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết
số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 nhưng Bộ luật dân sự 1995 còn bộc lộ
một số khiếm khuyết nhất định. Đây chính là lý do để Bộ luật dân sự 2005 ra
đời với những sửa đổi, bổ sung cho sát với tình hình thực tiễn. Tuy vậy, kể từ
khi có Bộ luật dân sự 1995 cho đến trước khi Bộ luật dân sự 2005 ra đời thì
các tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được giải quyết triệt
để. Theo số liệu của ngành Tòa án, các vụ xâm phạm về tính mạng và sức
khỏe mà ngành Tòa án thụ lý và giải quyết trong các năm, diễn biễn như sau:

- Năm 2002: 1.964 vụ

- Năm 2003: 4.427 vụ

- Năm 2004: 3.470 vụ

- Năm 2005: 2.915 vụ

Qua số liệu trên cho thấy:


53

Thứ nhất, các vụ án xâm phạm về sức khỏe và tính mạng hàng năm
chiếm số lượng khá cao.

Thứ hai, có thể nói rằng,các cán bộ Tòa án đã vận dụng các quy định
của Bộ luật dân sự để giải quyết các yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, góp phần to lớn khắc phục những tổn thất mà người bị hại phải
gánh chịu, giúp họ dần dần ổn định cuộc sống, duy trì hoạt động bình thường
sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên, Bộ luật dân sự cũng mới chỉ quy định những vấn đề chung
nhất, cụ thể chi tiết như thế nào thì mỗi Thẩm phán lại hiểu và áp dụng khác
nhau, cách giải quyết thiếu nhất quán, chưa có sự thống nhất, có nhiều trường
hợp cùng một loại yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng mỗi
Thẩm phán lại giải quyết một cách, vì vậy dẫn đến mức bồi thường khác
nhau, do đó quyền, lợi ích của các chủ thể không được đảm bảo, nhiều trường
hợp người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại cũng không
thỏa đáng theo sự phán quyết của Tòa án. Vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể
tại những phần tiếp theo khi xem xét thực trạng xét xử về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng ở những vụ án cụ thể.

3.1.2. Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với những
yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất

Như đã phân tích chương 2, bồi thường thiệt hại về vật chất là khoản
bồi thường có thể "lượng hóa" được, mặc dù ở mức độ tương đối. Theo quy
định tại Điều 307 Bộ luật dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật
chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý cho việc ngăn
chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, thu nhập thực tế bị giảm sút
của người bị thiệt hại và tùy từng trường hợp có thể được tính cho cả người
chăm sóc người bị thiệt hại.

Trên thực tế các vụ án hình sự, phần dân sự trong các bản án này bị
kháng cáo, kháng nghị rất ít, nếu có kháng cáo kháng nghị thì chủ yếu là kháng
54

cáo và kháng nghị về phần hình phạt, còn về trách nhiệm bồi thường theo quyết
định của Tòa án thì người gây thiệt hại chấp nhận, trong một số vụ án thì bản
thân người bị thiệt hại hoặc gia đình người bị thiệt hại với người gây thiệt hại
đã thỏa thuận về phần bồi thường nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ví dụ: Bản án số 21/2005/HSST ngày 28/4/2005 của Tòa án nhân dân


tỉnh LC xét xử bị cáo Nguyễn Hữu Kiệm về tội: "Giết người". Nội dung vụ án
như sau: Do nghi ngờ vợ có quan hệ ngoại tình với một người Trung Quốc,
khuyên vợ không được, 4 giờ sáng ngày 11/6/2004 khi đang quan hệ tình dục
thì chị Ký tuyên bố chỉ ngủ với Kiệm đêm nay, còn từ mai chị Ký ngủ với ai
là quyền của chị Ký. Nghe thấy thế Kiệm dùng hai tay bóp cổ chị Ký cho đến
chết. Sau đó Kiệm bỏ trốn đến ngày 3/12/2004 bị bắt giữ. Tại cơ quan điều tra
và tại phiên tòa anh Nguyễn Văn Huấn (anh trai chị Ký) yêu cầu bị cáo Kiệm
bồi thường toàn bộ số tiền mai táng phí cho chị Ký là 6.777.000 đồng. Về tổn
thất tinh thần anh không yêu cầu vì xét thấy gia đình bị cáo khó khăn. Đối với
hai cháu là con chung của bị cáo và chị Kiệm, anh Huấn cũng không yêu cầu
bồi thường. Sau khi xét xử, bị cáo chấp nhận khoản tiền bồi thường này mà
không kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng này.

Căn cứ vào tình hình kinh tế tại địa phương vào thời điểm xảy ra vụ
án, mức bồi thường tiền mai táng phí là 6.777.000 đồng là phù hợp với thực
tế. Do đó, khi đại diện gia đình người bị hại yêu cầu, Tòa án chấp nhận buộc
bị cáo phải bồi thường tiền mai táng phí và bị cáo đồng ý, không kháng cáo là
hoàn toàn có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế.

Bên cạnh đó, có những vụ án cấp sơ thẩm quyết định mức bồi thường
quá thấp so với thực tế chi phí gia đình người bị thiệt hại đã bỏ ra, không bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, cấp phúc thẩm đã khắc phục thiếu
sót, sửa bản án sơ thẩm, tăng mức bồi thường.

Ví dụ: Bản án số 827/2006/HSPT của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử Phạm Ngọc Bảo, Phạm Trần Ngân
55

về tội giết người. Cấp sơ thẩm buộc các bị cáo bồi thường cho người đại diện
người bị hại cụ thể: Phạm Ngọc Bảo bồi thường: 20.922.000 đồng; Phạm
Trần Ngân bồi thường: 12.460.000 đồng. Sau khi xét xử, đại diện gia đình
người bị thiệt hại đã kháng cáo đòi tăng mức bồi thường. Tòa án cấp phúc
thẩm đã sửa bản án sơ thẩm buộc các bị cáo phải bồi thường: Phạm Ngọc Bảo
26.600.000 đồng; Phạm Trần Ngân 13.400.000 đồng. Lý do Tòa án cấp phúc
thẩm đưa ra để sửa một phần trong bản án sơ thẩm khi có kháng cao tăng mức
bồi thường, gia đình người bị thiệt hại đã bỏ ra các chi phí cho việc cứu chữa
người bị thiệt hại trước khi chết, tiền mai táng... với đầy đủ hóa đơn chứng từ
hợp lệ và phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. Qua vụ án này, chúng
ta thấy rằng đối với thiệt hại về vật chất, mặc dù chúng ta có thể "lượng hóa"
được nhưng không phải lúc nào cũng có thể tính toán một cách chính xác nếu
không cân nhắc cả tình hình thực tế.
Nhiều vụ án giữa bị cáo và bị hại tự nguyện thỏa thuận về vấn đề bồi
thường thiệt hại như mức bồi thường, thời gian bồi thường... Tòa án đã ghi
nhận sự tự nguyện này và không xem xét khi xét xử vụ án.
Ví dụ: Bản án số 10/2006/HSST ngày 14/2/2006 của Tòa án nhân dân
tỉnh TG xét xử bị cáo Trần Văn Khoa về tội: "Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ" theo qui định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật
hình sự 1999. Các bị hại và bị cáo đã thỏa thuận với nhau, cụ thể: Bồi thường
cho chị Ngô Thị Chinh - người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Anh Kiệt
3.000.000 đồng, thực hiện việc bồi thường mỗi tháng 200.000 đồng cho đến
khi bồi thường xong; Bồi thường cho anh Lưu Văn Oảnh 3.000.000 đồng,
thực hiện mỗi tháng 100.000 đồng cho đến khi thực hiện xong.
Có nhiều vụ án xâm phạm về sức khỏe và tính mạng, người bị thiệt
hại hoặc người đại diện hợp pháp người bị thiệt hại không yêu cầu bồi thường
thiệt hại do giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại có quan hệ thân
thích như vợ, chồng, con, anh, em ruột thịt… Ghi nhận nguyên tắc đảm bảo
quyền tự định đoạt của đương sự, Tòa án cũng không xem xét.
56

Ví dụ: Bản án số 159/2006/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh NA xét xử


bị cáo Trịnh Văn Tuấn về tội "Cố ý gây thương tích". Người bị hại là chị Lữ
Thị Phá (vợ bị cáo Tuấn).

Nội dung vụ án: Nghi ngờ vợ ngoại tình trước đó, Tuấn sai con mua
rượu về uống, uống xong Tuấn xách dao tìm vợ để chém, thương tích Tuấn
gây ra cho chị Phá là 36,18%. Sau khi điều trị ra viện, tại cơ quan điều tra và
tại phiên tòa chị Phá không yêu cầu anh Tuấn phải bồi thường những chi phí
trong thời gian điều trị.

Cũng có trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại
không kháng cáo về phần hình phạt mà chỉ kháng cáo về phần bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng sau khi xét xử sơ thẩm, cấp phúc thẩm đã chấp nhận
kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm tăng mức bồi thường.

Có rất nhiều bản án mà khi xét xử các Thẩm phán hầu như không đề
cập đến chi tiết từng vấn đề mà người bị thiệt hại, người đại diện người bị
thiệt hại yêu cầu bồi thường, những yêu cầu nào hợp lý thì được chấp nhận,
những yêu cầu nào không được chấp nhận mà chỉ đưa ra tổng cộng số tiền
phải bồi thường, không đưa ra tên từng khoản cụ thể dẫn đến cả những người
gây thiệt hại, người bị thiệt hại, người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại
không hiểu những khoản nào mình đưa ra đã được các cấp tòa chấp nhận,
những khoản nào không được chấp nhận mà chỉ đề cập một cách chung chung.

Ví dụ: Bản án số 12/2006/HSST ngày 20/2/2006 của Tòa án nhân dân


tỉnh LC xét xử Sừn Văn Đoàn về tội "Giết người". Bị cáo Đoàn giết anh Đinh
Văn Nghị, phần trách nhiệm dân sự chỉ ghi: Toàn bộ chi phí gia đình bị hại đã
phải thuê như công đi tìm xác, chở xác, tiền mai táng tổng cộng: 25.000.000
đồng (không ghi rõ tiền công tìm xác, chở xác, tiền mai táng phí từng khoản
là bao nhiêu). Chính vì không có sự cụ thể, chi tiết này mà dẫn đến sự hiểu
lầm của người gây thiệt hại nên không khỏi có những băn khoăn từ phía
người gây thiệt hại.
57

Có nhiều bản án, Tòa án đã tính toán các khoản tiền bồi thường khá
chi tiết.
Ví dụ: Bản án số 46/2006/HSST ngày 18/8/2006 của Tòa án nhân dân
tỉnh LC xét xử bị cáo Lý Quang Thịnh về tội "Giết người".
Nội dung vụ án: Giữa bị cáo Thịnh và người bị hại Triệu Văn Chung
có mâu thuẫn nhỏ từ trước, khoảng 18h ngày 22/2/2006 Thịnh đi lấy cành sắn
về trồng, Thịnh gặp và chửi Chung, Chung chửi lại và lấy đoạn nứa vụt
Thịnh, Thịnh cầm dao phát dài 84 cm chém Chung gục tại chỗ. Chung được
đưa di cấp cứu tại cơ sở y tế. Qua xem xét, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận
các khoản chi phí sau:
- Tiền thuê xe cấp cứu đi về: 200.000 đồng.
- Tiền soi kiểm tra não: 200.000 đồng.
- Tiền mua máu: 1.260.000đồng.
- Tiền thử máu: 100.000 đồng.
- Tiền mua thuốc, tiền viện phí nằm viện: 13.000.000 đồng.
- Chi phí ca mổ: 1.000.000 đồng.
- Tiền thu nhập bị mất của người bị hại (từ ngày 22/2/2006 đến ngày
xét xử): 3.000.000 đồng.
- Thu nhập bị mất của người chăm sóc người bị hại từ ngày 22/2/2006
đến ngày xét xử): 4.800.000 đồng.
- Tiền mua thuốc điều trị sau khi ra viện: 1.900.000 đồng.
- Tiền bồi dưỡng: 3.000.000 đồng.
- Tiền tổn thất về tinh thần: 5.000.000 đồng.
Tổng cộng: 33.460.000 đồng.
Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử, bị cáo không kháng cáo về hình
phạt và cũng không kháng cáo về mức bồi thường. Như vậy, có thể thấy bằng
58

việc liệt kê cụ thể các khoản bồi thường thì bị cáo (người gây thiệt hại) đã
nhận thức rõ mức bồi thường theo đúng qui định của pháp luật.

3.1.3. Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với những
yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần

Như đã phân tích, theo qui định tại Điều 307 Bộ luật dân sự thì việc
người gây thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải
chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền bù đắp về tinh thần cho
người người bị thiệt hại. Thiệt hại này bao gồm: những đau đớn về mặt thân
thể, những đau đớn về mặt tinh thần, những tổn thương về mặt thẩm mỹ…

Nhiều trường hợp người bị thiệt hại là người chưa thành niên, là con
trai duy nhất trong gia đình, là lao động chính trong gia đình, nhiều người
chết để lại con nhỏ, cha mẹ già yếu... nhiều gia đình bị mất hai hoặc ba người
thân trong cùng một vụ án... hậu quả của những trường hợp này là vô cùng
nghiêm trọng. Nó gây ra những mất mát, đau thương về tình cảm, tinh thần to
lớn không có gì bù đắp được cho vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em... của
người bị thiệt hại. Khó có thể xác định được sự đau đớn của họ khi nhìn thấy
người thân của mình bị giết một cách dã man, bị dập nát cơ thể, bị cắt ra từng
mảnh; hoặc cha mẹ mất khả năng sinh đẻ lại chỉ có một đứa con duy nhất bị
chết, những đứa trẻ thơ dại khi bị mất cha mẹ, mất đi những người thân là
nguồn gốc sự đau buồn, phiền muộn và còn kéo theo nhiều tác động tiêu cực
khác như: khó khăn về đời sống, ảnh hưởng đến học tập, lao động, sức khỏe,
công tác của những người còn sống. Những đau đớn nói trên chính là thiệt hại
về tinh thần mà Bộ luật dân sự quy định được bồi thường.

Khi sức khỏe bị xâm phạm - biểu hiện cụ thể là các hành vi gây
thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - thì mức độ thương
tật có thể có sự khác nhau trong mỗi vụ án. Thực tế xem xét qua hoạt động
xét xử thấy rằng người bị thiệt hại thường phải gánh chịu mức độ tổn hại sức
59

khỏe với tỷ lệ thương tật khác nhau từ 1% đến 90%. Người bị thiệt hại bị
thương tích ở nhiều dạng khác nhau, phải cấp cứu điều trị, phẫu thuật, phải
chịu nhiều đau đớn về thân thể (phải giải phẫu, vết thương nặng gây đau đớn,
bị tái phát khi "trái gió trở trời"...). Nhiều trường hợp người bị thiệt hại bị mất
một phần cơ thể như mất một mắt, một chân, một tay, phải cắt bỏ cơ quan nội
tạng, bị bệnh thần kinh do não bị tổn thương, bị tàn tạ biến dạng như những
người bị thiệt hại bị tạt axít vào mặt, vào người, mất khả năng thực hiện chức
năng bình thường của con người... Theo đó, người bị thiệt hại hầu như bị tàn
phế, không còn khả năng tham gia các hoạt động xã hội, vui chơi giải trí, ảnh
hưởng đến thẩm mỹ. Nhiều người bị thiệt hại là trẻ em, phụ nữ hoạt động ở
các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật... Những tổn hại nêu trên đều gây ra những
đau đớn về thân thể và tâm hồn cho những người bị thiệt hại, sự đau đớn về
thể xác còn kéo theo sự đau đớn, buồn chán, phiền muộn, lo lắng, ức chế, thay
đổi bản chất, suy giảm niềm tin trong cuộc sống, đó chính là những tổn thất
về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.

Nhìn chung, thiệt hại về tinh thần bao gồm:

- Sự đau đớn về thân thể và tinh thần, sự tác động về tâm lý. Người bị
thiệt hại phải chịu đựng đau đớn khi phải nằm hàng giờ để phẫu thuật, bị mất
một phần cơ thể của mình, bị mang thương tích suốt đời, bị tàn phế...

- Thiệt hại do mất khả năng lao động xã hội bình thường, mất khả năng
giải trí, vui chơi... Đó là sự tước đoạt tinh thần của người bị thiệt hại, mất đi
niềm vui lạc quan trong sự tồn tại, làm giảm mất chất lượng cuộc sống. Người
bị thiệt hại bị mất bộ phận khứu giác, mất cảm giác mùi vị mất khả năng hoạt
động thể thao, khiêu vũ, không còn khả năng mang vác vật nặng, mất toàn bộ
chức năng sinh dục hoặc những khó chịu trong đời sống tình dục...

- Thiệt hại về thẩm mỹ: Người bị thiệt hại bị biến dạng hoặc phải chịu
đựng nhiều vết sẹo ở trên mặt, trên thân thể hoặc phải cắt bỏ một phần thân
thể. Thiệt hại này còn gây ra những hậu quả về nghề nghiệp cho những người
60

bị thiệt hại, nó có thể gây ra những rắc rối đối với khả năng thành đạt trong
hoạt động nghề nghiệp của họ. Yếu tố thẩm mỹ đóng vai trò không thể phủ
nhận được trong một số hoạt động nghề nghiệp nhất định như: tiếp viên hàng
không, văn nghệ sĩ, bác sĩ, nhà giáo, các nhà hoạt động chính trị, thẩm phán...
Một ca sĩ, một tiếp viên hàng không... sẽ đau khổ biết bao khi khuôn mặt xinh
đẹp bị đầy sẹo không thể lên sân khấu biểu diễn, không thể lên máy bay bay
phục vụ hành khách được nữa, thẩm phán bị biến dạng khuôn mặt do bị tạt
axít và không thể thực hiện hoạt động xét xử...

Qua nghiên cứu các bản án của các Tòa án địa phương cho thấy vấn
đề bồi thường thiệt hại về tinh thần là vấn đề phức tạp trong việc xác định
mức bồi thường cũng như diện được bồi thường. Nhiều vụ án xảy ra, người
gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để lại hậu quả nghiêm trọng không có gì
hàn gắn được, để lại những đau thương mất mát về người và của nhưng khi
xét xử có Tòa án đã áp dụng bồi thường một khoản tiền về tinh thần cho
người bị thiệt hại và gia đình người bị thiệt hại, có Tòa án không áp dụng, nếu
có cũng chỉ là một mức tiền không đáng kể, điều này đương nhiên sẽ không
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.

Ví dụ: Bản án số 160/2006/HSST ngày 31/5/2006 của Tòa án nhân


dân tỉnh NA xét xử bị cáo Chế Đình Thu phạm tội: "Giết người".

Nội dung vụ án: Chế Đình Thu và chị Hoàng Thị Duyên có quan hệ yêu
đương và chị Duyên có thai, chị Duyên hẹn gặp Thu và đề nghị cưới nhưng Thu
tìm cách từ chối, chị Duyên chửi Thu, Thu nảy sinh ý định giết chị Duyên. Thu
dùng khăn quàng cổ của mình cuốn quanh cổ chị Duyên rồi xiết mạnh, chị
Duyên thả lỏng người (không có phản ứng gì), sau đó Thu còn đẩy chị Duyên
ngã đập đầu vào ghi đông xe máy và hai lần đập đầu vào thành cầu, lúc đó có
ánh đèn xe máy, sợ bị phát hiện, Thu bỏ chạy về nhà cởi quần áo ngâm vào
chậu, tắm rửa rồi đi ngủ. Chị Duyên được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị,
sau đó sức khỏe đã hồi phục. Gia đình bị cáo đã bồi thường: 4.190.000 đồng.
61

Tại phiên tòa, chị Duyên yêu cầu bồi thường thêm các khoản gồm: tiền nạo thai,
tiền phục hồi sức khỏe, tiên công lao động bị mất…tổng cộng là 9.500.000 đồng
(cấp sơ thẩm không tính cho người bị thiệt hại tiền tổn thất về tinh thần mà
trong bản án lại nhận định rằng cộng với các khoản chi phí trước đây chưa được
bồi thường tổng cộng là 11.846.400 đồng. Khoản tiền này không biết ở đâu?
Trong bản án không có dòng nào nói tới, rất chung chung…!) Chúng tôi cho
rằng, trong vụ án này, người bị thiệt hại phải được bồi thường tiền tổn thất về
tinh thần bởi vì chị Duyên là người phụ nữ trẻ, đang có thai… sau sự việc xảy
ra thì còn có thể lấy chồng được nữa hay không? nên sự việc xảy ra đối với
chị là nỗi đau và mất mát quá lớn, sự việc lại xảy ra đối với người mà mình
đang yêu, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và ảnh hưởng tới tương
lai của chị Duyên. Tòa sơ thẩm đã thiếu sót trong việc xác định thiệt hại trong
vụ án này, do đó đưa ra mức bồi thường như vậy là không thỏa đáng.

Có vụ án khi xét xử Tòa sơ thẩm không quyết định mức bồi thường
thiệt hại về tinh thần. Sau khi xét xử sơ thẩm, người bị hại, người đại diện cho
người bị thiệt hại kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét mức bồi thường,
cấp phúc thẩm đã quyết định buộc người gây thiệt hại phải bồi thường thêm
khoản tiền tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.

Ví dụ: Bản án sơ thẩm số 1155/2006/HSPT ngày 18/8/2006 của Tòa


phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử bị cáo
Trịnh Văn Công về tội "Giết người". Cấp sơ thẩm không buộc bị cáo bồi
thường tổn thất về tinh thần cho đại diện người bị hại, sau khi xét xử sơ thẩm
đại diện người bị hại kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm buộc bị cáo phải bồi
thường số tiền này. Cấp phúc thẩm đã sửa án sơ thẩm buộc bị cáo phải bồi
thường tổn thất về tinh thần cho người đại diện người bị hại 10.000.000 đồng.

Qua một số ví dụ trên đây, chúng ta thấy rằng, thiệt hại về tinh thần là
thiệt hại không mang tính tài sản, không thể cân đong đo đếm được, không
thể tính được giá trị thành tiền. Bởi vậy, không thể nêu ra nguyên tắc bồi
62

thường toàn bộ thiệt hại về tinh thần như đối với thiệt hại về vật chất được.
Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tinh thần tạo thành một yêu cầu độc lập
bên cạnh yêu cầu đòi bồi thường các thiệt hại về vật chất. Có những trường
hợp, kết hợp bồi thường cả hai loại thiệt hại đó, nhưng có trường hợp không
có bồi thường thiệt hại về vật chất mà chỉ có bồi thường thiệt hại về tinh thần.

Việc bồi thường thiệt hại về tinh thần có cùng mục đích là bồi thường
thiệt hại cho người bị thiệt hại: người bị thiệt hại bằng việc nhận một khoản
tiền, có cơ hội lập lại sự thoải mái, dễ chịu, trạng thái cân bằng nhẹ nhàng
thay cho sự đau đớn, bức xúc về tinh thần mà người đó phải chịu đựng do có
hành vi xâm hại. Chắc chắn khoản tiền bồi thường không xóa đi được sự đau
đớn, nhưng bù lại cho người bị thiệt hại ít nhiều niềm an ủi.

Như vậy có thể đưa ra ba đặc điểm chính của bồi thường thiệt hại về
tinh thần đó là:

- Không thể khắc phục được toàn bộ thiệt hại (sự đau đớn...).

- Không thể xóa bỏ được toàn bộ sự thiệt hại (sự buồn chán, khoảng
trống về tình cảm, tinh thần...).

- Không thể lấy lại trọn vẹn cái đã mất (thân thể bị biến dạng, mất đi
một phần cơ thể, bị mất đi sắc đẹp...)

Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm
phạm có sự khác nhau:

- Người bị thiệt hại được quyền đòi bồi thường một khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu do sức khỏe của mình bị xâm
phạm (Điều 609 Bộ luật dân sự).

- Người thân thích của người bị thiệt hại được bồi thường một khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần do người bị thiệt hại chết (Điều 610 Bộ luật dân sự).

Thật khó có thể tính toán và đánh giá thiệt hại về tinh thần theo phương
pháp toán học được. Vấn đề đặt ra là khi người bị thiệt hại mất một hoặc hai
63

mắt, mất một hoặc hai cánh tay, mất một hoặc hai chân… những tổn hại khác
về thân thể thì đáng giá bao nhiêu tiền? Sự đau đớn được trị giá bao nhiêu?
Giá của những giọt nước mắt cao hay thấp... Đó là điều khó có khả năng tính
toán một cách chính xác. Khoản 2 của các Điều 609, 610 cũng chỉ đưa ra mức
bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa chứ không quy định mức tối thiểu. Vì
vậy, có thể nói rằng tất cả những thiệt hại về tinh thần hay những vật không
xác định được chính xác giá trị bằng một số tiền cụ thể thì Luật cho phép các
Thẩm phán khi giải quyết loại án này được quyết định, được quyền suy xét
nhưng phải trên cơ sở xem xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện tất cả
các yếu tố của vụ án, và phải chú ý đến nguyên tắc hợp lý, bình đẳng, bảo
đảm được mục đích của việc bồi thường thiệt hại.
Những yếu tố để xác định mức tiền bồi thường tổn thất về tinh thần có
thể được xác định: mức bồi thường có quan hệ với tình trạng thể chất và tinh
thần của ngươi bị thiệt hại, thể hiện ở mức độ và tính chất nghiêm trọng của
sự tổn hại về tâm lý và về thân thể, lứa tuổi, quan hệ nhân thân và quan hệ tài
sản của người bị thiệt hại và của người gây thiệt hại.
Khi xem xét tổn thất về tinh thần phải xem xét đến mức độ tổn hại đến
đời sống của người bị thiệt hại, mức độ, thời gian, tính chất dữ dội của sự đau
đớn, thiệt hại, sự thương tổn, biến dạng thân thể, thời gian phải nằm điều trị,
thời gian mất khả năng lao động, phải xa cách gia đình, hậu quả diễn biến tiếp
theo của thương tật, sự nghi ngờ về khả năng có thể khắc phục chữa chạy điều
trị khỏi thương tích hay không, mức độ lỗi của người bị thiệt hại…
Để hiểu rõ hơn, chúng tôi có thể phân tích một số yếu tố làm rõ mối
liên hệ giữa chúng với mức tiền đền bù về tinh thần trong trường hợp sức
khỏe và tính mạng bị xâm phạm:
- Tuổi của người bị thiệt hại có ảnh hưởng đến mức bồi thường, sự
đau đớn do thương tích, sự biến dạng của cơ thể rõ ràng có ảnh hưởng lớn,
nặng nề đối với một người trẻ tuổi hơn là người lớn tuổi. Về nguyên tắc thì
ảnh hưởng của tuổi tác có ý nghĩa đối với việc bồi thường thiệt hại về thẩm
64

mỹ, bị biến dạng (mặt bị bỏng, sẹo…) khi còn trẻ tuổi có hậu quả khác hơn
nhiều so với ở vào thời điểm đã cao tuổi.
Ảnh hưởng, tổn hại đến đời sống tâm lý, sinh lý của người trẻ tuổi khá
nhiều so với người lớn tuổi hoặc cái chết của người con chưa thành niên gây
ra sự đau đớn nhiều hơn so với người con đã thành niên; lớn tuổi. Cái chết
của cha mẹ đối với người con còn nhỏ tuổi, thơ dại cũng như vậy. Tất nhiên
đây chỉ là vấn đề có tính chất ước lượng bởi sự tổn hại tinh thần của mỗi
người khác nhau là khác nhau.

- Tình trạng của người bị thiệt hại, hậu quả, mức độ đau đớn, nạn nhân
nhiều khi rơi vào tình trạng hôn mê sâu kéo dài, mất đi sự tỉnh táo minh mẫn,
khả năng thực hiện các quan hệ xã hội, thân thể tàn phế... Cha mẹ tuổi đã cao
mất đi người con duy nhất chắc chắn họ phải chịu đau khổ trong suốt thời
gian còn lại.

- Hoàn cảnh nghề nghiệp cũng là yếu tố không kém phần quan trọng
trong sự tổn thất về tinh thần: Người bị thiệt hại là những người đang hoạt
động ở những lĩnh vực như: giáo viên, ca sĩ, thẩm phán, bác sĩ…

- Người bị thiệt hại cũng có lỗi (Điều 617 Bộ luật dân sự). Lỗi của người
bị thiệt hại cũng cần thiết phải có văn bản hướng dẫn những trường hợp cụ thể,
mức độ lỗi của người bị thiệt hại để có căn cứ giải quyết vụ án chính xác, tránh
trường hợp có những vụ án khi xét xử thẩm phán nhận định coi cả lỗi của gia
đình người bị thiệt hại để giảm mức hình phạt và mức bồi thường cho người gây
thiệt hại. Nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là ai gây thiệt hại thì
phải bồi thường và họ chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường do hành vi của họ
mang lại chứ không chịu trách nhiệm bồi thường về hành vi của người khác.

Ví dụ: Bản án số 880/2006/HSST ngày 6/7/2006 của Tòa án nhân dân


Thành phố Hồ Chí Minh xét xử Trịnh Văn Công về tội "Giết người".

Nội dung vụ án: Trịnh Văn Công và Trịnh Văn Nù (bố bị hại Trịnh
Thị Thanh Thảo) chơi đánh bạc với nhau và xảy ra mâu thuẫn, Công chạy về
65

nhà cầm rựa sang nhà Nù chém vào tay và đầu Thảo dẫn đến tử vong. Bản án
sơ thẩm nhận định: trong vụ án này, người bị hại cũng có lỗi, tham gia đánh
bạc và theo đó giảm hình phạt và giảm mức bồi thường cho người gây thiệt
hại. Nhận định của Tòa án trong trường hợp này là không đúng bởi hành vi
đánh bạc của cả bị cáo và của bố người bị hại là hành vi vi phạm pháp luật nói
chung chứ không hề liên quan đến hành vi gây thiệt hại của bị cáo đối với
người bị hại. Do đó việc Tòa án căn cứ vào đó để giảm hình phạt và giảm
mức bồi thường là không đúng.

3.2. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG

3.2.1. Kiến nghị

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định có nội dung phức tạp,
thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm khôi phục
lại các quyền tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức, pháp
nhân, Nhà nước. Quá trình nghiên cứu chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu
làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do tính mạng
và sức khỏe bị xâm phạm, từ đó rút ra những kết luận sau:

- Cơ sở lý luận và thực tiễn khẳng định nguyên tắc người gây thiệt
hại phải bồi thường thiệt hại là một vấn đề quan trọng của chế định bồi
thường thiệt hại. Bộ luật dân sự đã ghi nhận và đề cao nguyên tắc đó quan
điểm, đường lối giải quyết cũng như qui định của pháp luật của Nhà nước ta
và kế thừa tinh hoa pháp luật dân sự quốc tế. Nguyên tắc bồi thường thiệt
hại thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, mang tính khoa học, bảo đảm tính chính
xác, hợp tình, hợp lý nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại, góp phần quan trọng vào việc
củng cố, phát triển các quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực cũng như
trong việc giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại xảy ra, bảo vệ lợi
ích cho các chủ thể tham gia quan hệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ các
66

quyền, lợi ích hợp pháp của những người bị thiệt hại, giáo dục mọi người có
ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
tập thể và của công dân.

Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần,
cùng với trách nhiệm bồi thường về vật chất tạo thành một tổng thể hoàn
chỉnh của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
bảo đảm cho chế định bồi thường thiệt hại phát huy hiệu quả trong thực tế đời
sống, đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội bảo đảm sự công bằng
và bình đẳng xã hội.

Qua nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm, chúng tôi xin đưa ra một vài kiến nghị:

Thứ nhất, về mức độ lỗi của người gây thiệt hại.

Mức độ lỗi của người gây thiệt hại không chỉ có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà còn có ý nghĩa quyết
định mức bồi thường thiệt hại, vì vậy các hình thức lỗi được nêu ra trong Bộ
luật dân sự chưa đủ để đánh giá thiệt hại để qua đó ấn định mức bồi thường
trong trường hợp nhiều người gây thiệt hại. Trường hợp do lỗi hỗn hợp hay
trong trường hợp xét miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra cần phải có sự phân biệt chi tiết các hình thức lỗi vô ý.

Thứ hai, về mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn thất về tinh thần.

Khoản 2 Điều 609 và khoản 2 Điều 610 Bộ luật dân sự đã quy định về
tổn thất về tinh thần nhưng mới chỉ quy định mức bồi thường tối đa không
quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với bồi thường thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm và không quá 60 tháng lương tối thiểu đối với
bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. Như vậy, điều luật chỉ quy định
mức tối đa mà không quy định mức tối thiểu là bao nhiêu cho nên khi quyết
định mức bồi thường cho từng vụ án là rất khó khăn, một vụ án khi quyết định
mức bồi thường khởi điểm là bao nhiêu? 100.000 đồng; 200.000 đồng;
67

300.000 đồng; 400.000 đồng... dẫn đến nhiều vụ án có mức bồi thường chênh
lệch nhau rất xa. Các Thẩm phán cũng chỉ ước lượng một mức tiền nào đó mà
thôi. Do vậy theo chúng tôi cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật
quy định mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị
xâm phạm từ 1 tháng lương đến tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu.
Mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm
phạm từ 6 tháng lương đến tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu.

Thứ ba, về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, chỉ
nên quy định ở Điều 623: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra mà không cần quy định chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại cả khi họ không có lỗi.
Theo chúng tôi, nên bổ sung vào điểm a khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự một
ý về việc bồi thường của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đó là trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn
do lỗi vô ý nặng của người bị hại.

Thứ tư, ngoài những kiến nghị trên đây, theo chúng tôi cần chú ý một
số vấn đề cụ thể khác:

- Khoản tiền tuất, tiền được hưởng từ chính sách của Nhà nước được
coi là khoản tiền có thu nhập ổn định để giải quyết trong trường hợp đối với
người được cấp dưỡng.

- Những khoản tiền mà người bị thiệt hại, gia đình người bị thiệt hại
có chi thực tế nhưng do khách quan nên không có hóa đơn chứng từ vẫn được
coi là chi phí hợp lý.

- Quy định rõ về khoản 3 Điều 606 Bộ luật dân sự trong trường hợp nếu
người giám hộ chứng minh là mình không có lỗi trong việc để người giám hộ
gây thiệt hại thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Vậy lấy tài sản ở
đâu để bồi thường cho người bị thiệt hại, ai là người phải bồi thường cho
người bị thiệt hại hay coi đây là rủi ro mà người bị thiệt hại phải gánh chịu?
68

3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như những giải
pháp khác để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại do sức
khỏe, tính mạng bị xâm phạm
Qua việc nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm chúng tôi xin đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật cũng như các giải pháp khác để nâng cao chất
lượng xét xử về bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng như sau:
- Rà soát lại toàn bộ các qui định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, qua đó xem xét đến sự thống nhất
của các văn bản pháp luật khi quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng để từ đó có sự sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật.
- Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể đối với các qui
định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Mặc dù trước đây ngành Tòa án đã có nghị quyết hướng dẫn các qui định của
Bộ luật dân sự năm 1995 và mới đây đã có nghị quyết hướng dẫn về bồi
thường thiệt hại trong Bộ luật dân sự 2005 nhưng nhìn chung hướng dẫn vẫn
còn dừng lại ở mức chung chung, nhắc lại các điều luật của Bộ luật dân sự mà
chưa có hướng dẫn cụ thể. Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể các
vấn đề còn nhiều quan điểm, dễ dẫn tới sự tùy tiện khi vận dụng pháp luật
như mức bù đắp tổn thất tinh thần tối thiểu, nếu vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng thì bồi thường phần vượt quá hay bồi thường toàn bộ thiệt hại...
- Cần nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử, trong đó trình độ
chuyên môn của đội ngũ thẩm phán là yếu tố không kém phần quan trọng.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến
mọi đối tượng để người dân hiểu rõ hơn các qui định của pháp luật, qua đó hạn
chế đến mức thấp nhất những hành vi gây thiệt hại hoặc khi có hành vi gây thiệt
hại thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hiểu rõ hơn về mức bồi thường... để
họ có thể thỏa thuận hoặc chấp nhận mức bồi thường nếu Tòa án ấn định.
69

KẾT LUẬN

Pháp luật dân sự là công cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy giao lưu dân
sự phát triển nhưng cũng là công cụ pháp lý để xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật, trong đó có các hành vi xâm phạm sức khoẻ, tính mạng.

Đề tài: "Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khỏe và tính mạng
bị xâm phạm - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn" đã tập trung phân tích các
qui định của Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường
do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng. Đây được coi là vấn đề có ý nghĩa
to lớn khi nghiên cứu, tìm hiểu luật thực định bởi có hiểu rõ các qui định của pháp
luật thì việc vận dụng vào thực tiễn để giải quyết các tranh chấp về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng mới được chính xác, khách quan.

Thông qua việc tìm hiểu các qui định của pháp luật, xem xét thực tiễn
vận dụng các qui định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về
bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng, đề tài đã chỉ ra được
những khó khăn, bất cập xung quanh các qui định của pháp luật cũng như việc
hiểu và vận dụng vào thực tiễn giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại
nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khoẻ, tính mạng nói riêng.

Những giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật cũng như các giải pháp
khác nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giải quyết các tranh chấp về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng mà đề tài đưa ra mặc dù có thể chưa
hoàn toàn đầy đủ nhưng cũng là những giải pháp thiết thực, nên áp dụng.

Tất cả các luận giải, giải pháp mà đề tài đưa ra đều tuân thủ một nguyên
lý duy nhất: bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng - cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Tuy nhiên,
nguyên tắc bình đẳng, tính nghiêm minh của pháp luật cũng là điều mà tất cả
chúng ta đều phải chú trọng và tuân theo.
70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Mai Anh (1997), Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Luận văn thạc sĩ luật Học, Trường Đại học Luật
Hà Nội.
2. Bình luận Bộ luật dân sự Nhật Bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931.
4. Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936.
5. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
6. Bộ luật Nam Kỳ giản yếu 1883.
7. Bộ Tư pháp (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Dân luật Việt Nam - Nghĩa vụ (1973), Sài Gòn.
9. Trần Thị Thu Hiền (1996), Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân
sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
10. Dương Quỳnh Hoa (2006), "Xác định thiệt hại trong bồi thường thiệt hai
do tính mạng bị xâm phạm", Nhà nước và pháp luật, (3).
11. Hoàng Việt luật lệ (1995), Nxb Văn hóa thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Lê Thị Bích Lan (1999), Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy
tín, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
13. Vũ Thành Long (1999), "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do tính mạng bị xâm phạm", Tòa án nhân dân, (8).
14. Nguyễn Đức Mai (1997), "Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm
phạm", Nhà nước và pháp luật, (9).
71

15. Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo, Sài Gòn.
16. Vũ Văn Mẫu (1972), Bộ Dân luật, Sài gòn.
17. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp, Hà Nội.
18. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
19. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
21. Quốc hội (2002), Bộ luật lao động, Hà Nội.
22. Quốc hội (2003), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
23. Quốc triều Hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng (1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Phùng Trung Tập (2005), "Cần bổ sung một số quy định trong dự thảo Bộ
luật dân sự (sửa đổi) về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", Dân
chủ và pháp luật, (4).
26. Thanh Thủy (2004), "Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm theo
quy định của Bộ luật dân sự", Tòa án nhân dân, (10).
27. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân năm 2002, Hà Nội.
28. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân năm 2003, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày
28/4 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng
dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự năm 1995 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân năm 2004, Hà Nội.
72

31. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân năm 2005, Hà Nội
32. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng
dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự, Hà Nội.
34. Từ điển luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
35. Thanh Tú (2003), "Cơ sở pháp lý của việc xác dịnh thiệt hại do tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm", Dân chủ và
pháp luật, (4).
36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1996), Bộ luật dân sự Cộng hòa Liên
bang Đức năm 1896, Tài liệu dịch tham khảo, Hà Nội.
37. Quách Thành Vinh (2004), "Một số nhận xét và chú ý đối với việc bồi
thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm", Tòa án nhân
dân, (11).
38. Văn Xuân (1996), "Một số vấn đề bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe", Dân chủ và pháp luật, (11).
73

PHỤ LỤC

t×nh h×nh nghiªn cøu ®Ò tµi

Liên quan đến đề tài: "Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức
khỏe và tính mạng bị xâm phạm - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", trước
đó đã có nhiều tác giả là Giảng viên trong Trường Đại học Luật Hà Nội, các
tác giả là Thẩm phán trong ngành Tòa án nhân dân và các ngành khác quan
tâm đến lĩnh vực này với những bài viết, luận văn về vấn đề bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nói chung.

Trong bài viết đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 tháng 5/2004:
"Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" – TS. Phùng Trung
Tập - Giảng viên chính khoa Luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, tác
giả đã phân tích hành vi lỗi theo Điều 309 Bộ luật dân sự 1995. Theo tác giả
là phải làm rõ những quan hệ và yếu tố có liên quan đến phạm vi lỗi của
người gây thiệt hại.khi xác định lỗi cố ý gây thiệt hại ngoài hợp đồng, cần
phải phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do
lỗi cố ý hoặc vô ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt hại được xác định là sự kiện
bất ngờ (Điều 11 Bộ luật hình sự) vì điều luật này không những được áp dụng
trong lĩnh vực luật hình sự, mà còn có ý nghĩa trực tiếp trong việc xác định
trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại ngoài hợp đồng. Sự kiện bất ngờ được
hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm phát sinh trách
nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó.

Khi xác định và phân tích chi tiết yếu tố lỗi cố ý và lỗi vô ý trong
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng cần thiết phải đặt yếu tố đó trong mối liên
hệ với những sự kiện pháp lý khác. Tác giả cho rằng sự biến pháp lý tương
74

đối và sự biến pháp lý tuyệt đối là những căn cứ làm phát sinh, thay đổi và
chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Sự biến pháp lý tương đối là một sự kiện
pháp lý mà sự khởi phát của nó do hành vi của con người tác động dưới hình
thức lỗi vô ý, do vậy người có hành vi tạo ra sự kiện đó phải bồi thường thiệt
hại theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại. Có thể nhận định rằng, lỗi vô
ý luôn tồn tại trong sự biến pháp lý tương đối, còn lỗi thuộc mọi hình thức
không thể tồn tại trong sự biến pháp lý tuyệt đối.Có thể nhận định lỗi trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải do suy đoán mà
do pháp luật quy định trước, người có lỗi phải bồi thường thiệt hại, nhất là đối
với ngành Tòa án cần thiết phải hiểu rõ cơ sở lý luận về lỗi để áp dụng chuẩn
xác các quy phạm pháp luật, qua đó đưa ra những nhận định và quyết định
chuẩn xác, đúng pháp luật.

Trong bài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người" – tác giả Đinh Văn Quế - Chánh tòa Tòa
Hình sự Tòa án nhân dân tối cao, tác giả phân tích và lấy các ví dụ để chứng
minh về các căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khỏe là hành vi gây thiệt hại phải có thật, bao gồm
cả hành động và không hành động, nếu không có hành vi gây thiệt hại thì dù
người bị coi là có lỗi đối với thiệt hại xảy ra cũng không phải bồi thường thiệt
hại. Người bị thiệt hại phải có lỗi (cố ý hoặc vô ý), lỗi trong trách nhiệm dân
sự khác với lỗi trong trách nhiệm hình sự và các trách nhiệm khác, người gây
thiệt hại có lỗi mới phải bồi thường, đó là nguyên tắc. Tuy nhiên, tác giả còn
phân tích trường hợp lỗi của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo khoản 3 Điều 627 Bộ luật dân sự.
Về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tác giả nêu ra những
trường hợp phải chịu trách nhiệm bồi thường theo Điều 611 Bộ luật Dân sự.
Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, tác giả đã phân tích các nguyên tắc được
quy định tại Điều 610 Bộ luật dân sự, trường hợp nào thì được giảm mức bồi
75

thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt cũng như lâu dài, người bị thiệt hại cũng có lỗi và khi mức bồi thường
không còn phù hợp với thực tế thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hoặc
người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án thay
đổi mức bồi thường, qua thực tiễn xét xử của Tòa án còn một số những vướng
mắc gặp phải mà chưa có hướng dẫn cụ thể của cấp có thẩm quyền. Những
chi phí hợp lý do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm mà tác giả nêu ra ngoài
những chi phí được quy định tại Điều 613, Điều 614 Bộ luật dân sự và Nghị
quyết 01/NQ-HĐTP tác giả còn đưa ra những chi phí khác cũng có thể coi là
hợp lý, thời hạn người bị thiệt hại được hưởng bồi thường do hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe con người gây nên. Các trường hợp gây thiệt hại
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, trường hợp vượt quá yêu cầu của
tình thế cấp thiết, trường hợp do người dùng chất kích thích gây ra, trường
hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại và trường hợp do người của pháp nhân,
do công chức, viên chức nhà nước gây ra.

Bài "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm"
của các tác giả Tưởng Duy Lượng - Nguyễn Văn Cường đã lựa chọn 50 bản
án dân sự và hình sự của các Tòa án địa phương đã xét xử thì đại đa số các
bản án này đều không thể hiện chi tiết từng khoản bồi thường hoặc chỉ buộc
người gây thiệt hại phải bồi thường khoản tiền điều trị, mà không đề cập đến
khoản tiền bồi thường khác và mức bồi thường cũng chênh lệch nhau khá rõ.
Các tác giả cũng nêu những bản án cụ thể còn có những thiếu sót, đưa ra
những nhận xét về những thiếu sót còn tồn tại trong các bản án. Đồng thời các
tác giả đã đưa cách tính chi tiết, cụ thể các khoản bồi thường trong các vụ án
xâm phạm sức khỏe gồm: các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng,
chăm sóc người bị xâm phạm sức khỏe, chi phí hợp lý đối với bồi thường
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, bồi thường tổn thất về tinh thần khi tính
mạng và sức khỏe bị xâm phạm.
76

Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn đề về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và uy tín". Trong chương 1, tác giả đã làm sáng tỏ khái niệm cơ
bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự và khái niệm về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín nói riêng với những đặc
điểm pháp lý chủ yếu của chế định trách nhiệm này, có so sánh với một số
chế định trách nhiệm dân sự khác. Đồng thời, tác giả còn phân tích chi tiết các
quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ở từng trường hợp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm và uy tín của các cá nhân trong xã hội. Trong chương 2, tác
giả làm rõ cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên những
căn cứ có tính điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và các thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; phải có lỗi của người
gây thiệt hại. Luận văn cũng so sánh liên hệ với pháp luật của một số nước
trên thế giới về việc quy định các yêu cầu cơ bản để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại này. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến các hình thức và mức
bồi thường cũng như các trường hợp được miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong chương 3, tác giả tập
trung tổng kết, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của ngành Tòa án nhân
dân trong những năm qua. Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân và các
khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật của ngành Tòa án
nhân dân trong lĩnh vực này, đề xuất các giải pháp.

Đề tài luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Mai Anh: "Những vấn
đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật
dân sự". Trong chương 1 của luận văn, tác giả đi sâu phân tích làm sáng tỏ
khái niệm cơ bản về trách nhiệm dân sự nói chung và khái niệm về trách
77

nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng với các đặc điểm pháp lý
chủ yếu, so sánh với một số chế định trách nhiệm dân sự khác. Chương 1 tác
giả còn nêu rõ nguyên tắc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng
như việc xác định rõ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân để từ
đó có tiền đề lý luận giải quyết một số nội dung trong chương 2, đó là vấn đề
xác định và tính toán bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong chương 2,
tác giả đề cập đến những căn cứ của việc xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại dựa trên những yếu tố có tính điều kiện như có thiệt hại xảy ra; hành
vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt
hại và hành vi trái pháp luật và hành vi gây thiệt hại là hành vi có lỗi, từ đó
xác định các loại thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm. Qua phân tích các căn cứ để xác định những thiệt hại nêu trên luận văn
còn nêu rõ các hình thức bồi thường và mức bồi thường theo quy định của Bộ
luật dân sự. Trong chương 3, tác giả chủ yếu tập trung phân tích một số
trường hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của
Bộ luật Dân sự là trường hợp bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (giải quyết phần bồi thường và việc hoàn
trả khoản tiền bồi thường) và bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra.

Đề tài luận văn thạc sĩ Trần Thị Thu Hiền: "Nguyên tắc bồi thường
thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam". Trong chương 1 của luận văn, tác giả
tập trung phân tích làm sáng tỏ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc bồi thường
thiệt hại, mối liên quan giữa nguyên tắc bồi thường thiệt hại và các nguyên
tắc khác của Bộ luật dân sự (mối liên hệ giữa nguyên tắc bồi thường thiệt hại
với các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền, mối quan hệ giữa nguyên tắc
bồi thường thiệt hại với các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích cho
các chủ thể trong quan hệ dân sự, mối quan hệ giữa nguyên tắc bồi thường
thiệt hại với nhóm nguyên tắc tuân thủ pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng giữa
78

các chủ thể, nguyên tắc bồi thường thiệt hại có mối quan hệ mật thiết với các
nguyên tắc bảo vệ truyền thống bản sắc dân tộc, mối quan hệ giữa nguyên tắc
bồi thường thiệt hại với nguyên tắc đặc thù của pháp luật dân sự). Đồng thời
đi sâu phân tích khái niệm bồi thường thiệt hại và các mối liên hệ của nó.
Trong chương 2, tác giả phân tích nguyên tắc bồi thường trong một số trường
hợp cụ thể, đó là các nguyên tắc: nguyên tắc bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng, nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng (do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, do vượt quá
yêu cầu của tình thế cấp thiết, do vị thành niên gây ra, do người không có
năng lực hành vi gây ra và trường hợp nhiều người cùng gây ra.

You might also like