Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

ĐỀ 1 (**): Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó.

nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà


văn Tô Hoài: “ Lần lần, mấy năm qua, …..chết thì thôi.”
Bài làm
a.Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này): Đoạn trích trên nằm ở phần đầu của truyện ngắn
b. Cảm nhận đoạn trích:
LĐ1: Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người vô cảm, cạn kiệt sức sống, đến cả cái chết Mị còn chẳng màng
nghĩ tới nữa, bởi cuộc sống của Mị bây giờ chẳng khác gì kiếp nô lệ, súc vật:
a. Mị với sự vô cảm, cạn kiệt sức sống, đến cả cái chết Mị còn chẳng màng nghĩ tới nữa:
_Ngay từ câu văn đầu tiên, Tô Hoài đã lột tả số phận khổ cực của người dân lao động “Lần lần mấy
năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết” :
+ Từ “lần lần” kết hợp với các cụm từ “mấy năm qua, mấy năm sau” chỉ khoảng thời gian kéo dài triền miền từ năm này qua
năm khác và xảy ra một cách từ từ, dai dẳng, mòn mỏi.
+ Trong sự chảy trôi ấy của thời gian hiện lên cái chết của con người “bố Mị chết”: Sự chảy trôi dai dẳng ấy của thời gian như
kéo dài cái khổ, cái cực của những người lao động nghèo miền núi. Họ phải cam chịu và sống dưới cái trướng của bọn chúa đất
miền núi ngày này qua tháng khác. Cuối cùng, cái khổ ấy kết thúc thành cái chết. Tài liệu của Lê Minh
=> Chỉ với một câu văn ngắn, Tô Hoài đã dấy lên niềm đồng cảm của người đọc về cuộc đời bất hạnh của những người lao động
nghèo miền núi. Quả thực, nói như Nguyễn Minh Châu: “Nhà văn không tô đen hay bôi hồng cuộc sống mà nhà văn chỉ làm
rõ bộ mặt thật của nó”.
_ Ở những câu văn tiếp theo, một lần nữa hình ảnh nắm lá ngón xuất hiện “Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn
lá ngón tự tự nữa”:
+ Lần thứ nhất, khi Mị trốn về nhà và khóc nức nở với bố, “Mị ném nắm lá ngón xuống đất Mị
không đành lòng chết”. Mị làm vậy bởi lúc ấy, Mị còn có sự ràng buộc là phải sống để trả nợ cho bố.
+ Bây giờ, “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tự nữa”. Lí giải cho trạng thái này là bởi “Ở lâu trong cái
khổ, Mị quen khổ rồi”.
=> Câu văn đánh dấu sự thay đổi trong tính cách và tâm trạng của Mị. Như vậy, do tác động của sự bóc lột mà bố con Pá
Tra gây ra mà giờ Mị đã mất đi ngọn lửa sống và chẳng còn màng nghĩ tới sống chết nữa. (Tài liệu của Lê Minh) Ba chữ “ Mị
quen khổ rồi” như chất chứa bao xót xa và phẩn uất.
=> Hoàn cảnh tạo nên tính cách và tính cách tạo nên số phận. Từ một người con gái tự do và yêu đời, cánh tay đen ngòm của
cái khổ và cái ác đã tóm lấy Mị và hút hết bao nhiêu là cái tốt, cái đẹp rồi nhả ra là một con người nhỏ bé, trơ lì và chai sạn. Đọc
những câu văn này, ta càng cảm thấy thương và đồng cảm với số phận bất hạnh của Mị.
b. Lí giải cho cảm giác “quen khổ rồi “ của Mị là bởi cuộc sống của Mị chẳng khác gì kiếp nô lệ, súc vật:
_ Mị đã tự đẩy cuộc sống của mình ngang hàng với súc vật “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con
ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”
+ Mị tự so sánh mình với con trâu, con ngựa. Hình ảnh này cho thấy sự bất lực và tủi cực của Mị.
+ Mị như một kẻ nô lệ không công, một cỗ máy lao động cho nhà thống lí Pá Tra. Mị phải sống phụ thuộc vào chúng “con ngựa
phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác” và chỉ còn biết “ăn cỏ, đi làm”. Tài liệu của Lê Minh
=> Thủ pháp vật hóa đã làm cuộc đời và thân phận của Mị hiện lên bi đát và chẳng con ra con
người nữa. Bởi vậy, Mị chán sống, chán chết cũng là một điều dễ hiểu và dễ cảm thông.
LĐ2: Tâm lí chán chường ấy đã hình thành nên một cô Mị với hình ảnh vô thức, bị động, lặp
đi lặp lại trong guồng quay bất biến của kiếp nô lệ:
a. Trước hết là ở guồng quay bất biến trong công việc:
_ Cái khổ dồn nén lâu ngày nên “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”. Cái cúi mặt của Mị phải chăng là sự gián tiếp chấp nhận
và thỏa hiệp với kiếp nô lệ này chăng ?
_ Tô Hoài tiếp tục sử dụng các cụm từ chỉ sự bất biến “nhớ đi nhớ lại, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”: Tài
liệu của Lê Minh
+ Trong tâm trí hiện tại của Mị bây giờ đã bị lấn át bởi các hành động “giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt: “Tết xong thì lên
núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp”.
+ Đặc biệt, hình ảnh “dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi” để lại
nhiều suy ngẫm cho người đọc. Bản thân các hành động hái củi, bung ngô đã là các việc làm lặp đi lặp lại đến vô thức, trong cái
nhàm chán ấy lại có một cái vô thức nữa là gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Có lẽ, Mị bây giờ như đã lâm vào
cơn mê sảng và khó tỉnh táo, lí trí, nếu không có một nguồn sức mạnh nào kéo Mị ra khỏi hố sâu số phận ấy thì chắc Mị sẽ
“suốt năm suốt đời như thế”. Thậm chí là khi “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, nhai cỏ”,
còn Mị thì “vùi vào làm việc cả đêm cả ngày”. Tài liệu của Lê Minh
=> Tuy nhiên, ẩn đằng sau những câu văn này không chỉ đơn thuần là miêu tả trạng thái hiện tại của Mị. Sự xuất hiện của Mị là
tiếng búa đinh óc, là lời tố cáo đanh thép của Tô Hoài về tội ác của bọn chúa đất khiến con người ta lâm vào “cùng đường
tuyệt lộ”. Kim Lân từng quan niệm “Nhà văn phải viết như chơi, viết bằng cả tấm lòng của mình, nhưng phải hướng vào cái
đẹp và cái thật. Khi nhà văn phát hiện ra cái gì không thật và không đẹp phải biết bất bình và lên tiếng”. Quả thật là vậy, có
lẽ khi viết những dòng văn này, Tô Hoài cũng không khỏi xót xa và căm phẫn thay cho nhân vật của mình. Từ ấy, nhà văn như
muốn người đọc cùng buồn, cùng thương cho Mị. Suy cho cùng, “con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên
muôn vàn cung bậc phong phú. Nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người” (Đặng Thai Mai).
b. Tiếp theo là guồng quay bất biến trong thói quen sinh hoạt:
_ Sự chai sạn của Mị như ngày càng nặng nề hơn trong dòng chảy của thời gian. Mỗi ngày trôi qua là lớp tro tàn trong Mị lại
dày đặc hơn, lí trí và con tim Mị cứ như vậy mà nguội lạnh và đóng băng “ Mị không nói, lùi lùi như một con rùa nuôi trong xó
cửa”:
+ Mị không nói, hay Mị cũng chẳng buồn và chẳng muốn nói, bởi cuộc sống hiện tại của Mị đâu còn
niềm vui hay điều gì đáng để quan tâm !
+ Một lần nữa, thủ pháp vật hóa lại được Tô Hoài sử dụng. Từ láy lùi lũi là một từ láy gợi hình, gợi tả dáng vẻ bần thần, lặng lẽ
cô đơn của Mị. Ta càng thấy quặn lòng và thương cho Mị hơn bao giờ hết. (Tài liệu của Lê Minh) Nhà văn Tô Hoài đã khơi lên
1
ở độc giả niềm trắc ẩn, khát vọng khôi phục và bảo vệ cái cao cả, cái tốt đẹp của cuộc đời.
_ Không chỉ hiện lên với sự vô thức trong công việc mà ngay cả ở trong thói quen sinh hoạt cũng như thế. Mị lầm lũi xung
quanh căn buồng của Mị, nơi mà “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”:
+ Căn phòng hiện lên với sự u ám , tối tăm, ánh sáng như bị triệt tiêu. Ở trong ấy, con người dường như bị cuống vào trạng thái
luẩn quẩn, vô vọng.
+ Căn phòng ấy dường như là một nhà tù, ngục thất tinh thần giam hãm cuộc sống và khóa chặt tuổi xuân của Mị. Ta liên
tưởng đến nàng Kiều khi xưa cũng bị giam hãm số phận tại lầu Ngưng Bích:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”
Chỉ có điều, nếu Thúy Kiều còn được cảm nhận cái “bốn bề bát ngát xa trông” thoáng đãng của không gian thì Mị lại bị giam
hãm trong căn phòng chật hẹp và tù túng. Ở trong ấy, Mị chẳng khác nào một tù nhân phải chịu án tù chung thân. Nhà thống
lí Pá Tra đúng là không có chỗ cho lương tri và tình người. Tài liệu của Lê Minh
_ Ở trong ngục tù ấy, “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”:
+ Ở bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do; còn bên trong là sự tù túng, chật hẹp
và giam hãm.
+ Mị “trông ra đến bao giờ chết thì thôi ” dường như là Mị đang hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói, yếu ớt với mong
muốn vượt ngục hay chăng ? Câu văn như vẽ ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà con người ta muốn giải thoát lại không
thể thoát giải, đành phải bất lực và vô vọng. Sự trông ra và ngóng vọng của Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí người
đọc. Liệu rằng số phận của Mị sẽ mãi như vậy, hay một lúc nào đó Mị sẽ trỗi dậy tháo cũi sổ lồng để giải thoát cho bản thân
mình? Đoạn trích khép lại mà mở ra bao nhiêu suy ngẫm và trăn trở trong lòng người đọc.
Nói “Văn học là nhân học “ như M.Gorki, quả không sai.
1. Đánh giá nâng cao đoạn trích:
- Sê-khốp quan niệm “Nhà văn phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Tô Hoài là một người nghệ sĩ như vậy. Qua đoạn trích
trên, Tô Hoài đã mạnh mẽ tố cáo và lên án tội ác của bọn chúa đất miền núi đã khiến người nông dân nghèo lâm vào cảnh khổ
cực, sống cũng không bằng chết. Đồng thời, nhà văn còn bày tỏ niềm cảm thông, xót xa và thương cảm cho số phận của họ. Đó
chính là tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài, nói như Elsa Triobet “Nhà văn là người cho máu”.
b. Đánh giá nghệ thuật:
Nếu coi một tác phẩm văn học là một cây đại thụ lâu đời thì Nội dung là phần rễ, còn Nghệ thuật là những tán lá xanh tốt.
Đoạn trích trên nói riêng và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nói chung thành công bởi một phần không nhỏ về giá trị nghệ
thuật:
_ NT Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, đặt nhân vật vào kịch tính để bộc lộ những tính
cách điển hình.
_ NT Xây dựng nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ đan xen xây dựng nét tính cách ổn định, phong phú, vừa bất ngờ vừa
tất yếu.
_ NT miêu tả tâm lí nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng tâm hồn”.
_ NT dựng cảnh và tả cảnh sinh động, chân thực, đặc sắc, đặc biệt là cảnh thiên nhiên.
_ NT kể chuyện linh hoạt với sự dịch chuyển của điểm nhìn trần thuật: bên ngoài và bên trong, Những câu văn giàu cảm
xúc, giàu chất thơ, đậm chất miền núi,.

2
ĐỀ 2 (***): Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét sự tinh tế của Tô Hoài
khi miêu tả sự hồi sinh trong tâm hồn của nhân vật: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu [...] quả pao rơi rồi...”
a. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này):
Đoạn trích trên thuộc phần đầu của tác phẩm
Phân tích đoạn trích:
LĐ1: Trước hết, hiện lên trong đoạn trích, tâm trạng của Mị có sự đồng vọng và đan xen giữa kí
ức của quá khứ và thực tại dưới tác động của tiếng sáo và hơi nồng men rượu:
a. Đầu tiên, Mị hiện lên với hành động uống rượu “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy
hũ rượu, cứ uống ực từng bát”:
_ Câu văn mở đầu của đoạn trích như một lời thông báo ngắn gọn về trạng thái và hành động bây giờ của Mị.
_ Đối với đồng bào dân tộc vùng núi cao, uống rượu là một thói quen và là một nét đẹp văn hóa lâu đời, gắn liền với các dịp lễ.
Cho nên uống rượu là một hành động bình thường, quen thuộc.
_ Mị không ngoại lệ, Mị cũng tìm đến với rượu trong ngày Tết, tuy nhiên, cách Mị uống rượu lại không hề bình thường
chút nào “uống ực từng bát”:
+ Uống ực là uống nhanh, uống từng ngụm lớn.
+ Uống như là để cho đỡ khát rượu, như là đang “tận hưởng” thứ đồ uống đặc sản.
+ Suy ngẫm sâu xa, uống như vậy như là đang nuốt đắng cay, tủi hờn vào trong lòng. Uống rượu mà như uống những cay
đắng của phần đời đã qua và những khát khao của phần đời chưa tới.
=> (Tài liệu của Lê Minh) Cách uống rượu cho thấy hoàn cảnh đáng thương của Mị. Phải chăng Mị tìm đến vói rượu không
chỉ đơn thuần là để cho giải khát mà còn để giải khuây, để trút đi bao gánh nặng đề lên đôi vai gầy của người con gái ấy. Có lẽ,
không còn giải pháp nào khác để trút sầu nên Mị đành bất lực tìm đến với hơi say của rượu.
a. Tiếp theo, Mị say và nhớ về quá khứ, sau đó quay trở lại với thực tại:
_ Hơi nồng của men rượu làm Mị chìm vào cơn say “Mị lịm mặt ngồi đấy”. Dường như, trong sự lâng lâng và bay bổng của
men rượu, Mị đã thoát li khỏi thực tại, nơi mà rộn ràng âm thanh của “người nhảy đồng, người hát” , để thả hồn mình vào kí
ức của quá khứ - một thời tự do và tươi đẹp của Mị “nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước”. Giải thích cho trạng thái tâm lí
như vậy một cách logic nhất là bởi “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” cộng hưởng với tác động của men rượu
trong Mị:
+ Từ láy “văng vẳng” gợi âm thanh từ xa vọng lại, như đang vang lên đâu đó quanh tai.
+ Tiếng sáo tự tìm đến với Mị, hay chính bởi trong tâm trí Mị bây giờ ngập tràn là tiếng sáo nên mỗi lúc, Mị lại tự cảm nhận
nó một cách rõ rệt hơn ?
_ Tô Hoài đã quay ngược cuốn phim cuộc đời để cho ta nhìn lại một thời thanh xuân tươi đẹp mà đã
quá vãng của Mị “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”:
+ Như vậy, hóa ra, tiếng sáo từ lâu đã gắn liền với thanh xuân của Mị. Điều này giải thích cho lí do trước đó khi nghe tiếng
sáo gọi bạn từ đầu núi lấp ló, Mị lại nhẩm thầm theo lời bài hát của người đang thổi. Tài liệu của Lê Minh
+ Tiếng sáo đánh thức kỉ niệm xưa trong Mị, là hiện thân cho quá khứ khó quên và hiện thân cho tâm hồn Mị. Âm thanh ấy
song hành và luôn tồn tại đâu đó trong tâm trí của Mị, bởi Mị nhẩm thầm đồng nghĩa với việc Mị còn nhớ tới tiếng sáo.
+ Tiếng sáo còn là tiếng gọi của sự tự do, bay bổng và khát vọng sống vẫy gọi Mị. Chính Tô Hoài từng tâm sự: “Tiếng sáo
là biểu tượng của niềm khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao khát tự do”.
+ Tiếng sáo đã nâng đỡ tâm hồn Mị, chắp thêm đôi cánh giúp Mị bay lên trên thực tại và hoàn cảnh tù túng. Quả thực,
Nhiệm vụ của nhà văn là để nâng bước cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ, để bênh vực cho những kẻ không còn ai để
bênh vực (Nguyễn Minh Châu).
=> Như vậy, chính tiếng sáo là tác nhân mạnh mẽ nhất đã khơi dậy khát vọng sống vốn âm ỉ và tiềm tàng trong Mị, bởi
“Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt “ (Tô Hoài). Tiếng sáo ấy như mạch nước ngọt rỉ
thấm vào thớ đất khô cằn vì nắng hạ, một thớ đất tâm hồn vốn màu mỡ nhưng lại bị sói mòn bởi cái xấu và cái ác của
bọn chúa đất miền núi. Đây chính là chi tiết đắt giá, là hạt bụi vàng của tác phẩm.
_ Từ quá khứ, Mị quay trở lại với thực tại “Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo”
+ Hành động uống rượu và thổi sáo bây giờ của Mị là khát khao “níu kéo quá khứ - bù đắp thực tại” của Mị.
+ Không có cây sáo, Mị biến chiếc lá từ một hình ảnh bình thường thành một hình ảnh biểu tượng của nghệ thuật, đã vậy
còn vô cùng khéo léo “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi
sáo”. Đó chính là tài năng âm nhạc và nét đẹp trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo tha thiết và lôi cuốn ấy khiến “ biết bao nhiêu người
mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
=> Hình ảnh tiếng sáo tiếp tục được hiện lên ở câu văn này. Cứ mỗi lần hình ảnh tiếng sáo hiện lên, ta lại càng thấy được vẻ
đẹp trong tâm hồn Mị. Suy cho cùng, tiếng sáo chính là tiếng hát và tiếng lòng của Mị. Nói như Nadim Hickmet “Tiếng hát
của con người còn đẹp hơn cả chính con người”, bởi nó là kết tinh của khát vọng sống và khát vọng tự do. Đồng thời, chất
thơ của truyện ngắn cũng từ ấy mà toát lên, làm cho những câu văn của Tô Hoài thấm vào hồn người êm ái và dịu dàng hơn
bao giờ hết. Đúng như Puskin từng nói “Văn xuôi chân chính bao giờ cũng thấm đượm chất thơ như chất nước ngọt ngào
thấm trong trái táo”.
LĐ2: Ở những câu văn tiếp theo, trong hơi nồng men rượu, Mị hiện lên với trạng thái tâm lí không tỉnh táo, bần
thần và lặng lẽ theo quán tính:
_ Hiện lên giữa không gian “ Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả” là hình ảnh con
người không tỉnh táo “Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”:
+ Rượu đã làm Mị lâng lâng và không làm chủ được tiềm thức, như lâm vào cơn mê sảng.
+ Mị ngồi trơ một mình giữa nhà như một kẻ vô hồn, bần thần và lặng lẽ chẳng khác gì một cái bóng câm lặng, lủi thủi một
mình.
_ Mị rơi vào vòng quay vô thức, quán tính, tuần hoàn với thói quen “Mị từ từ bước vào buồng”:
+ Từ láy “từ từ” gợi dáng vẻ lặng lẽ, bước chân chậm chạp của Mị.
+ Đây là một hành động lặp đi lặp lại như một thói quen vô thức, bị động, tự động mà không hề tự chủ. Tài liệu của Lê
3
Minh
=> Lí giải cho hành động này là bởi “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết”. Đến ngay cả mong muốn đi chơi rất nhân bản
mà Mị còn không thể thực hiện được. Thử hỏi như vậy có thật sự là Mị đang “tồn tại” , hay chỉ là đang “sống”, đang kéo dài
những ngày chưa chết mà thôi. Cha con thống lí Pá Tra có thể tước đi mạng sống của Mị bất cứ lúc nào. Căn nhà của chúng
đúng là không có chỗ cho sự lương tri và tình người.
_Quá quen và hiểu hoàn cảnh của mình, Mị đành chấp nhận số phận bằng hành động “Bấy giờ Mị ngồi xuống giường,
trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”: Tài liệu của Lê Minh
+ Căn phòng nơi Mị ngồi hiện lên với sự u ám , tối tăm, ánh sáng như bị triệt tiêu. Ở trong ấy, con
người dường như bị cuống vào trạng thái luẩn quẩn, vô vọng.
+ Căn phòng ấy dường như là một nhà tù, ngục thất tinh thần giam hãm cuộc sống và khóa chặt tuổi xuân của Mị. Ta liên
tưởng đến nàng Kiều khi xưa cũng bị giam hãm số phận tại Lầu Ngưng Bích:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”
Chỉ có điều, nếu Thúy Kiều còn được cảm nhận cái “bốn bề bát ngát xa trông” thoáng đãng của không gian thì Mị lại bị giam
hãm trong không gian tù túng “mờ mờ trăng trắng”. Ở trong ấy, Mị chẳng khác nào một tù nhân phải chịu án tù chung thân.
Tài liệu của Lê Minh
+ Mị “trông ra” dường như là Mị đang hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói, yếu ớt với mong muốn vượt ngục hay
chăng ? Câu văn như vẽ ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà con người ta muốn giải thoát lại không thể thoát giải, đành
phải bất lực và vô vọng. Sự trông ra và ngóng vọng ấy của Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí và ám ảnh người đọc.
LĐ3: Ở những câu văn tiếp theo, tâm trạng của Mị có sự thay đổi và chuyển biến rõ rệt. Từ vô thức, Mị bỗng đột
khởi cảm giác phấn chấn và nhận thức được giá trị bản thân :
a. Đầu tiên, Mị đột khởi cảm giác phấn chấn:
_ Vậy là sau bao mùa câm lặng và mất đi cảm giác được vui, được hạnh phúc, được tự do, bây giờ Mị đã tìm lại được xúc cảm
ấy “Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”:
+ Các tính từ “phơi phới, vui sướng” kết hợp với các từ “đã từ nãy, đột nhiên” cùng hình ảnh so sánh “như những đêm Tết
ngày trước” làm nhịp văn trở nên dồn dập, mạnh mẽ như nhịp tim, nhịp tâm hồn Mị. Tài liệu của Lê Minh
+ Câu văn cho thấy cảm giác rạo rực sức sống, tràn ngập hứng khởi trong Mị.
+ Đây chính là tín hiệu đầu tiên cho sự hồi sinh sức sống trong Mị, là tiền đề cho các hành động nổi loạn của Mị sau
này. Đúng như Lỗ Tấn từng nói “Một tia lửa nhỏ hôm nay là dấu hiệu cho một đám cháy ngày mai”.
b. Tiếp theo, Mị nhận thức được giá trị bản thân :
_ Nối tiếp cảm giác phấn khởi ấy, Mị chợt nhận ra giá trị của bản thân “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”:
+ Điệp từ “trẻ” và các điệp cấu trúc câu ““Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ” là cách nhấn mạnh một sự thật, đó là Mị vẫn còn trẻ,
vẫn còn thanh xuân và nhiều hứa hẹn. Câu văn đầu tiên là sự nhận thức, câu văn thứ hai là lời khẳng định mạnh mẽ cho tính
đúng đắn của câu văn trước.
+ “Mị muốn đi chơi” (Tài liệu của Lê Minh) nghĩa là Mị đang khao khát được tự do, được thả hồn
mình vào mùa xuân đẹp đẽ, ăm ắp sự sống, biêng biếc sắc màu ở Hồng Ngài.
=> Khi một người phụ nữ tự ý thức được về tuổi xuân của mình là họ đang ý thức được về sự sống và quyền sống của mình.
Hóa ra, ẩn đằng sau lớp tro tàn trong Mị, ngọn lửa ham sống vẫn luôn âm ỉ cháy. Mị như một cây rừng héo úa tàn rụi, nhưng
sâu trong mao mạch của thân, nhựa sống vẫn chảy âm thầm. Nhà văn Nguyễn Khải từng quan niệm “Ở đời này không có con
đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua ranh giới ấy”. Tuy chỉ là những dòng
suy nghĩ, nhưng Mị đã tự vượt ra khỏi giới hạn của bản thân để tìm lại sự tự do cho mình. Điều đó càng làm nổi bật lên vẻ
đẹp trong sâu thẳm của người con gái ấy. Đúng như Nguyễn Minh Châu từng quan niệm “Mỗi con người đều chứa đựng
trong lòng nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
LĐ4: Tâm trạng nhân vật Mị được Tô Hoài miêu tả vô cùng phong phú và phức tạp. Ngoài cái năng nổ, khát
khao, náo nức về sự tái sinh thì bên cạnh đó, Mị vẫn còn lo lắng, day dứt, tủi hờn về thân phận:
_ Sự vượt khỏi hoàn cảnh của Mị diễn ra không hề đơn điệu, dễ dàng. Tô Hoài đã rất tinh khi đặt nhân vật Mị vào sự
giao tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng, một bên là ý thức về thân phận. Mị nghĩ “Bao nhiêu người có chồng cũng
đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”:
+ So sánh với mọi người, Mị nghĩ tới thân phận của mình.
+ Đó là thân phận của một người con gái có cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không tự nguyện. Hai chữ “vợ chồng”
kia chỉ là danh nghĩa, còn thực tế Mị và A Sử chẳng hề “có lòng với nhau”, chẳng có chút tình cảm vợ chồng nào cả. Tài liệu
của Lê Minh
_ Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy bao nhiêu thì Mị lại phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số
phận trớ trêu đầy bi kịch khiến Mị suy nghĩ “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn
nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”:
+ Một lần nữa, hình ảnh nắm lá ngón xuất hiện. Đó là hình ảnh tượng trưng cho cái chết.
+ Mị suy nghĩ tiêu cực “sẽ ăn cho chết ngay”. Đó là bởi bây giờ Mị đã nhận thức được thực tại, nhận ra được giá trị của sự
sống cá thể. Và khi số phận bị đặt vào trong hoàn cảnh tù túng, ngột ngạt, đau khổ thì ắt con người ta sẽ phản kháng và không
chấp nhận, không cam chịu và chán ghét cuộc sống kìm hãm ấy, đến nỗi. Bởi vậy, việc Mị chán sống là điều dễ hiểu và dễ cảm
thông.
=> Đây chính là điểm ấn tượng của nhân vật Mị. Những lúc thèm sống nhất, Mị chỉ muốn chết; khi không tưởng đến cái
chết nữa chính là lúc Mị chán sống cùng cực. Cấu trúc nghịch lí này với những chuyển hóa tinh vi của nó chính là logic độc
đáo của tính cách Mị. Qua đó, người đọc thấy được sự am hiểu sâu sắc về thế giới nội tâm người phụ nữ của tác giả Tô Hoài.
=> Suy cho cùng, Mị chán sống âu cũng là biểu hiện của sự khát sống trong Mị. Bởi chỉ khi người ta yêu cuộc sống thì
mới căm ghét và phẫn uất trước sự bất công đè nặng lên số phận của họ như vậy. Tài liệu của Lê Minh
=> Viết những câu văn như vậy, ngòi bút của Tô Hoài như hóa thân vào nhân vật, để nâng niu, để trân trọng những giấc
4
mơ tình tứ của con người, đồng thời lại rất tỉnh táo, khách quan khi phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín của tâm linh
con người. Nhờ vậy mà những dòng tâm trạng, suy nghĩ của Mị hiện lên một cách rất thật, thật đến cốt, đến lõi, làm khơi dậy
lên niềm đồng cảm trong lòng người đọc. Văn học có chức năng nhân đạo hóa con người là bởi vậy.
_ Sức sống ấy trong Mị liệu rằng có trỗi dậy mãnh mẽ hơn hay không ? Liệu rằng tiếng sáo ấy có tiếp thêm sức mạnh trong Mị,
giúp Mị tháo cũi sổ lồng ? Gấp lại trang sách mà bao suy tưởng, trăn trở cứ vẩn vương trong lòng độc giả. Song song với đó,
âm thanh của tiếng sáo - tiếng thơ vẫn văng vẳng đâu đó trong tâm trí của ta:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi...”
b. Đánh giá nâng cao:
_ Đoạn văn miêu tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân thể hiện sức sống tiềm ẩn trong Mị và tài năng
miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Thông qua đây, nhà văn khám phá, trân trọng, ngợi ca những khao khát tình yêu, hạnh
phúc của con người, thể hiện niềm tin vào sức sống của con người không bị hủy diệt. Đồng thời lên án những thế lực tàn bạo
chà đạp lên cuộc sống con người. Chính điều đó đã đem đến cho Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài những giá trị nhân đạo sâu sắc.
Tài liệu của Lê Minh
_ Về nghệ thuật: Diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân của Mị được nhà văn khéo léo thể hiện bằng
nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, ngôn ngữ biểu cảm, đặc biệt; là nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật...Tất cả
đã làm nổi bật vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị.
c. Nhận xét sự tinh tế của Tô Hoài khi miêu tả sự hồi sinh trong tâm hồn của nhân vật:
_ Không miêu tả sự hồi sinh trực tiếp mà gián tiếp thông qua các tác nhân như mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, hơi nồng
men rượu,... để làm nổi bật sự âm ỉ và tiềm tàng trong Mị._ Sự hồi sinh được diễn tả chân thực qua hành động và ngôn ngữ độc
thoại nội tâm, lúc đứng ngoài quan sát, lúc nhập tâm và hóa thân vào nhân vật._ Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được thể
hiện tinh tế nhờ sử dụng thủ pháp đồng hiện và tương phản, đối lập; kết hợp với cấu trích nghịch lí độc đáo: + Đồng hiện,
tương phản giữa quá khứ và thực tại (quá khứ càng đẹp đẽ bao nhiêu thì thực tại càng đối lập bấy nhiêu).+ Đối lập giữa tính
cách bên trong và bên ngoài (bên ngoài dửng dưng, bần thần nhưng bên trong tiềm tàng, mãnh liệt).+ Cấu trúc nghịch lí: Lúc
khát vọng sống bùng lên mãnh liệt lại là lúc Mị chán sống. _ Sự hồi sinh trong Mị được khắc họa sâu sắc bằng việc diễn tả
chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm, gấp khúc tuần tự; xây dựng nhân vật theo hướng cá thể hóa cao độ theo
quá trình tiệm tiến (phát triển từng bước) và đột biến (thay đổi triệt để).
=> Nét tinh tế khi miêu tả sự hồi sinh trong Mị góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài, sự già dặn
trong ngòi bút của ông và sự am hiểu về thế giới nội tâm con người, đặc biệt là người phụ nữ.

5
ĐỀ 3 (**): Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà
văn Tô Hoài: “Bây giờ, Mị cũng không nói [. ] đi ra, khép cửa buồng lại”
a. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này) :
. Đoạn trích trên thuộc phần đầu của tác phẩm, đã thể hiện sự nổi loạn của Mị, đồng thời là lời xót thương cho số phận bất
hạnh của cô gái ấy.
a. Cảm nhận đoạn trích:
LĐ1: Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người có sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mãnh liệt khi thể
hiện thái độ và các hành động “nổi loạn”:
*Câu dẫn: Lỗ Tấn từng quan niệm Một tia lửa nhỏ hôm nay là dấu hiệu cho một đám cháy ngày mai. Từ những “tỉa lửa
nhỏ” là những dòng suy nghĩ mãnh liệt của Mị khi ý thức được giá trị sự sống cá thể “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn
đi chơi”, người con gái giàu sức sống ấy đã chuyển hóa thành “đám cháy” bằng một loạt các hành động nổi loạn để tự giải
cứu bản thân. Có thể nói, ngọn lửa ham sống trong Mị bây giờ đã đạt đến đỉnh điểm. Tài liệu của Lê Minh
a. Đoạn trích mở đầu với thái độ dứt khoát, kiên quyết của Mị trước thế lực cường quyền
và cường quyền:
_ Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua hình ảnh “Bây giờ Mị cũng không nói”:
+ Đây là một câu viết theo lối trần thuật, ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa.
+ Hình ảnh “Mị không nói” cho thấy sự gan góc, kiên quyết, dũng cảm của Mị trước A Sử - hiện thân cho thế lực cường
quyền và thần quyền dã man, tàn bạo trong xã hội cũ.
+ Mị không nói, hay dường như cũng chính là Mị không muốn nói, hay không thèm nói. Để ý rằng, trong truyện ngắn, Tô
Hoài rất ít khi để Mị cất lên tiếng nói của mình. Ở những chi tiết trước trong truyện, tác giả để Mị im lặng là làm nổi bật số
phận nhỏ bé, bất hạnh, phụ thuộc, không có tiếng nói và chỉ biết cam chịu, chấp nhận của Mị. Còn ở chi tiết này, sự im lặng của
Mị không phải là sự bất lực trước số phận nữa mà nó chuyển hóa thành động lực đấu tranh. Mị không còn phải chịu gánh nặng
của bọn chúa đất miền núi nữa, sức sống trong Mị bây giờ lớn hơn tất cả và lấn át đi nỗi sợ hãi. A Sử với Mị bây giờ dường
như chỉ còn là một cái bóng mà thôi. Đúng như Tô Hoài từng tâm sự “cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ
khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp cho buồn nguội lạnh
ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình”. Tài liệu của Lê Minh
b. Từ thái độ kiên quyết, Mị thực hiện một loạt các hành động nổi loạn để giải cứu chính mình:
_ Mị đã thực hiện một cuộc vượt ngục tinh thần bằng các hành động táo báo. Thứ nhất, “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ,
xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”:
+ Mị thắp sáng lên ngọn đèn trong phòng là Mị đang muốn xua tan đi sự u ám, ê trề, tối tăm và hiu
quạnh của bóng tối. Đây là hành động thể hiện khát khao đổi thay không gian sống sáng sủa hơn.
+ Thăp sáng thêm đèn không chỉ làm sáng thêm ánh sáng vật lí mà còn làm sáng lên cả ánh sáng của lòng Mị. Thứ ánh sáng ấy
đẹp đẽ và mãnh liệt hơn tất cả. Ánh sáng đó được nhen lên bằng ngọn lửa của tâm hồn, của cảm xúc. Ngọn lửa ấy vốn vẫn luôn
âm ỉ và tiềm tàng, nay được thêm dầu bằng sự ấm nóng, sục sôi của khát vọng sống đang đột khởi.
=> Ngọn lửa ấy quá mạnh mẽ, mãnh liệt đến nỗi đọc câu văn này, độc giả cũng như được nhen lên một ngọn lửa. Tô
Hoài đã truyền lửa vào lòng người đọc, đó là ngọn lửa của niềm tin vào sự trỗi dậy, vào một viễn cảnh tươi sáng, tự do sẽ mở ra
cho Mị. Quả thực,“ Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở
ở con người khát vọng vươn tới chân lý” (M.Gorki). Tài liệu của Lê Minh
_ Khi mà “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”, Mị như được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục các
hành động nổi loạn :
+ Sự sống mãnh liệt trỗi dậy làm Mị hướng tới khát vọng tự do “Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi”.
+ Đặc biệt, Mị đã được sống là chính mình, sống lại tuổi con gái, tuổi thanh xuân khi “ Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái
váy hoa vắt ở phía trong vách”. Đây là hành động thể hiện sức sống trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong Mị. Mị muốn mình trở nên
nữ tính, gọn gàng hơn. Khi một người phụ nữ tự ý thức được về nhan sắc, tuổi xuân của mình là họ đang nhận ra giá trị
của sự sống và quyền sống. Như vậy, Mị đã biết trân trọng bản thân mình, khác hẳn với trước đó, khi mà Mị luôn bất lực,
chán nản, tự coi mình là “con trâu, con ngựa”. Tài liệu của Lê Minh
TIỂU KẾT:
=> Suy cho cùng, sự trỗi dậy của Mị là kết quả của quá trính “cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu”, tức một khi sự
việc đã đạt đến đỉnh điểm thì sẽ tiếp tục phát triển theo chiều hướng vận động tích cực và đạt tới cực đại. Đúng như Heghen
từng quan niệm “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra”.
=> Ngòi bút của Tô Hoài như hóa thân vào nhân vật, để nâng niu, để trân trọng những giấc mơ tình tứ của con người,
đồng thời lại rất tỉnh táo, khách quan khi phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín của tâm linh con người. Đó chính là sự
am hiểu sâu sắc về thế giới nội tâm người phụ nữ của Tô Hoài. Thái độ như thế nào đối với người phụ nữ và vấn đề phụ nữ
là thước đo hết sức quan trọng của tính nhân dân, tính nhân đạo của các tác phẩm văn học.
LĐ2: Tuy khát vọng sống của Mị đang trỗi dậy mãnh liệt nhưng Tô Hoài không để Mị tự giải thoát mình dễ dàng
như vậy. Thế lực cường quyền và thần quyền chặn đứng sức sống trong Mị lại. Mị quay trở lại là một người đáng
thương, có số phận nô lệ, đau khổ khi phải chịu đòn roi của chúng:
_ Cứ tưởng như ngọn lửa sục sôi trong Mị sẽ giúp Mị giải cứu được chính mình, nhưng không, A Sử đã dập tắt ngọn lửa ấy
trong Mị, buộc Mị phải quay trở lại kiếp nô lệ với sự trói buộc và giam hãm. Phải chăng đây là một dụng ý của Tô Hoài ? Tài
liệu của Lê Minh_ Nguyễn Minh Châu từng quan niệm “Nhà văn không bôi đen hay tô hồng cuộc sống mà chỉ làm rõ bộ mặt
thật của nó”. Thật vậy, Tô Hoài đã miêu tả rất thật, thật đến cốt đến lõi tội ác mà A Sử gây ra với Mị:
+ Hình ảnh “Mị không nói” tiếp tục xuất hiện. Tuy nhiên, sự im lặng ấy bây giờ không còn dẫn đến hành động nổi loạn nữa
mà thay vào đó, nó phải trả giá bằng đòn roi.
+ A Sử - hiện thân cho bọn chúa đất miền núi, đã vô cùng tàn nhẫn khi tra tấn Mị, chẳng khác gì cách tra tấn thời Trung Cổ: “A
Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa
xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”.
6
=> Bằng thủ pháp liệt kê, cùng việc sử dụng các hình ảnh chân thực hiện ra liên tục, giọng văn gấp gáp, Tô Hoài đã lột
tả hàng loạt các hành động dã man, vô nhân đạo của A Sử. Mị như bông hoa hướng dương đang hướng về phía ánh sáng
của sự sống thì ngay lập tức bị lấn át bởi bóng tối của thế lực thống trị. Từ đỉnh cao của sự thăng hoa trong cảm xúc, Mị
như bị đẩy xuống địa ngục đen tối; từ hi vọng trở thành tuyệt vọng, từ con đường số phận rộng mở biến thành con
đường cụt. Cánh tay đen ngòm của cái xấu, cái ác, của sự tù túng và giam hãm đã tóm chặt lấy Mị, vùi Mị xuống hố sâu. Đọc
những câu văn này, ta không thể không xót xa cho Mị ! Tài liệu của Lê Minh
_ Trái tim độc giả càng quặn đau hơn khi đọc tới những câu văn tiếp theo: “Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra
ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”:
+ A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài là hắn đang chuẩn bị bắt những người con gái khác về làm vợ. Không chỉ riêng
Mị, những người con gái khác rồi cùng sẽ lâm vào cảnh khốn cùng, đau khổ dưới cái trướng của chúng mà thôi ! Nhà thống lí
Pá Tra đúng là không có chỗ cho lương tri và tình người. Tài liệu của Lê Minh
+ A Sử không những trói buộc Mị về thể xác mà còn giam hãm Mị cả về tinh thần. Ngọn đèn Mị vừa xắn thêm mỡ để cho
sáng hơn cũng bị dập tắt, Mị bị trả lại với bóng tối chơi vơi, hiu quạnh trong căn buồng “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Căn phòng ấy dường như là một nhà tù, ngục thất tinh thần giam hãm cuộc
sống và khóa chặt tuổi xuân của Mị. Ở trong ấy, Mị chẳng khác nào một tù nhân phải chịu án tù chung thân. Bên ngoài căn
phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do; còn bên trong là sự tù túng, chật hẹp và giam hãm. Nếu
không có tác động nào thì dù sớm hay muộn Mị cũng sẽ bị hút hết sức sống và tiếp tục quay trở về con người chai sạn và vô
cảm mà thôi ! Tài liệu của Lê Minh
=> Nguyễn Minh Châu từng quan niệm “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc
cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường để bênh vực cho những con
người không còn có ai để bênh vực”. Thật vậy, những dòng văn trên vừa là tiếng búa đinh óc cho hiện thực khốc liệt, tố cáo
tội ác của thế lực thống trị trong xã hội cũ; lại vừa là những lời xót xa và bênh vực cho Mị. Có lẽ khi viết những câu văn ấy,
trái tim của Tô Hoài cũng vô cùng đau đớn như bị bóp nghẹn lại, từ ấy mà tác giả mới rỏ nước mắt thành trang văn. Tô Hoài
như muốn người đọc cùng buồn, cùng vui, cùng khóc , cùng đồng cảm với Mị. Đoạn trích khép lại với hình ảnh A Sử khép cửa
buồng, nhưng cánh cửa tâm hồn của độc giả như được mở rộng ra. Những hình ảnh về một cô Mị giàu sức sống, day dứt
hơn là số phận bất hạnh của Mị cứ vẩn vương trong tâm trí của ta. Tô Hoài thật sự đã chạm được đến trái tim của bạn đọc.
Nói Văn học là sợi dây liên kết vô hình khiến con người “xích” lại gần nhau hơn, quả không sai.
d. Đánh giá về đêm tình mùa xuân:
Tóm lại, đêm tình mùa xuân là một đêm quan trọng và có ý nghĩa đối với Mị. Mị đã được hồi sinh và được sống cho chính
mình, là chính mình. Tuy sự trỗi dậy của Mị không thành công nhưng điều ấy phần nào củng cố thêm niềm tin rằng ngọn lửa
ham sống vẫn luôn cháy và luôn âm ỉ, tiềm tàng trong Mị. Hơn thế nữa, đó còn là tiền đề, bệ phóng cho sự trỗi dậy mạnh mẽ
hơn của Mị ở những chi tiết tiếp theo, như Lỗ Tấn từng nói : “Một tia lửa nhỏ hôm nay là dấu hiệu cho một đám cháy ngày
mai”.
e. Nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài:
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng quan niệm : “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát
vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của của con người thì cảm hứng nhân đạo là
cảm hứng bao trùm”. Đoạn trích trên đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài. Tác giả đã tố cáo đanh thép trước
những tội ác mà thế lực thống trị đè nặng lên vai người dân nghèo. Qua đó, nhà văn bày tỏ sự cảm thông, xót xa những số phận
bất hạnh như Mị và A Phủ. Không chỉ vậy, Tô Hoài còn phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người Tây Bắc. Tô Hoài
quả là một nhà văn chân chính, nhà văn vì con người.

7
ĐỀ 4 (**): Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật xây dựng
nhân vật của nhà văn Tô Hoài: “Những đêm mùa đông trên núi [. ] Mị phảng phất nghĩ như vậy”
a. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này) :
Đoạn trích trên thuộc phần cuối của tác phẩm, đã thể hiện sự chuyển biến tâm trạng của Mị đối với A Phủ, là tiền đề cho
việc giải cứu A Phủ, cũng là giải cứu chính Mị sau này.
b. Cảm nhận đoạn trích:
LĐ1: Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích với trạng thái vô thức và đơn điệu trong hành
động sưởi lửa:
_ Câu văn mở đầu đã vẽ ra một không gian bao la, rộng lớn “Những đêm mùa đông trên núi cao dài
và buồn”:
+ Không những gợi ra một không gian mênh mông, câu văn còn gợi thời gian “ những đêm mùa đông”. Đây là khoảng thời
gian lạnh lẽo, đặc biệt còn ở miền núi Tây Bắc nên càng lạnh hơn, lạnh đến cắt da cắt thịt. Tài liệu của Lê Minh
+ Ba tính từ “cao, dài, buồn” được đặt cạnh nhau liên tiếp gợi ra vẻ hoang vu, hiu quạnh, tĩnh lặng của cảnh vật. Dường
như cái “buồn” của cảnh vật cũng chính là nỗi buồn của lòng người, cụ thể ở đây là nhân vật Mị.
_ Sau sự trỗi dậy không thành công ở đêm tình mùa xuân, Mị lại quay trở về với vòng luẩn quẩn của số phận, tiếp tục là một
con người chai sạn tâm hồn và vô cảm. Đến tận bây giờ, khi chưa có tác nhân nào kéo Mị vực dậy khỏi hố sâu tuyệt vọng, con
người đơn điệu ấy trong Mị vẫn còn tồn tại. Mị hiện lên trong guồng quay vô thức qua các hình ảnh sưởi lửa “Mỗi đêm, Mị đã
dậy thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần; chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm”:
+ Đây là hành động lặp đi lặp lại đến đơn điệu, nhàm chán. Mị thực hiện hành động này trong sự điều khiển của lí trí -
nhưng lại không “tỉnh táo” mà vô thức, bị động, tự động mà không hề tự chủ.
+ Mị chỉ có ngọn lửa làm bầu bạn, đó là thứ ánh sáng duy nhất giúp Mị vượt qua khỏi đêm đông lạnh thấu xương tủy “nếu
không có bếp lửa thì Mị cũng đến chết héo”. Hơi ấm của ngọn lửa cũng là thứ duy nhất duy trì niềm tin và sức sống trong Mị.
Mị soi mình vào ngọn lửa. Tuy nhiên, bếp lửa ấy vừa là thứ cứu vớt Mị, lại vừa là thứ cuốn Mị đi. Tài liệu của Lê Minh
=> Mị hiện lên thật đáng thương và khiến người đọc vô cùng xót xa. Nếu không có nguồn sức mạnh nào kéo Mị ra khỏi vòng
quay bất biến ấy, có lẽ Mị sẽ mãi ở trong trạng thái chai sạn và trơ trọi đó mà thôi !
LĐ2: Với sự chai sạn và trơ lì đã ăn sâu vào tiềm thức, Mị trở nên vô cảm, mặc kệ mạng sống của người khác và
dửng dưng với chính mình. Mị dường như đã bị mất đi hoàn toàn tình thương người và lòng trắc ẩn:
Sự tù túng và giam hãm đã hút hết phẩm chất tốt đẹp trong Mị và giờ nhả ra một con người nhỏ bé, mất đi tình hữu ái
giai cấp, tình thương người. Điều ấy được thể hiện rõ nhất qua thái độ và hành động của Mị đối với A Phủ.
a. Thứ nhất, Mị trở nên vô cảm, mặc kệ mạng sống của người khác, cụ thể là A Phủ “Mỗi đêm, khi nghe tiếng
phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng,
mới biết A Phủ còn sống”:
_ Hai từ “mỗi đêm” cho thấy khoảng thời gian tuần hoàn, lặp lại. Vậy là A Phủ và Mị cùng hiện diện với nhau từ lâu, nhưng
dường như Mị không để ý và chỉ coi A Phủ là một cái bóng, bởi Mị “thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống”.
Từ láy “trừng trừng” gợi ánh mắt nhìn đăm đăm, như đang cầu cứu. Đó là ánh mắt của một kẻ bất lực khi biết sự sống và
cái chết của mình đang mong manh như sợi tóc.
_ Đáp lại ánh mắt cầu cứu ấy của A Phủ, không những không động lòng mà Mị “thản nhiên ngồi thổi lửa hơ tay”. Từ “thản
nhiên” cho thấy Mị không hề tỏ ra thương xót hay nghĩ tới A Phủ. Như vậy, hình ảnh bếp lửa mà Mị sưởi một mặt giúp Mị
vượt qua khỏi cái lạnh cắt da cắt thịt, nhưng mặt khác nó lại cuốn Mị vào guồng quay của sự vô thức, thậm chí là vô cảm.
Tài liệu của Lê Minh
_ Đỉnh điểm của việc mất đi tình người trong Mị là khi Mị tưởng tượng ra viễn cảnh “A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế
thôi”:
+ Mị thản nhiên tưởng tượng ra viễn cảnh A Phủ chết và buông ra câu nói “cũng thế thôi”. Đến ngay cả mạng sống của con
người Mị còn không có cảm xúc, thậm chí là còn coi thường nó. Ba từ “ cũng thế thôi” như cứa vào tận tâm can của người đọc.
Mị lạnh lùng buông bỏ, mặc kệ cho A Phủ sống hay chết. (Tài liệu của Lê Minh). Thử hỏi một khi con người ta đã mất đi hoàn
toàn tình thương người thì sống còn có ý nghĩa chăng ?
+ Hình ảnh bếp lửa tiếp tục hiện lên “. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết còn ở với ngọn lửa”. Đến giờ, đó không còn là
hình ảnh tích cực nữa mà trở thành biểu tượng của sự vô cảm trong Mị. Mị thật đáng trách biết mấy.
b. Thứ hai, Mị dửng dưng với chính nỗi đau của mình: “Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi
đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước”.
_ Có lẽ, những đòn roi của A Sử với Mị bây giờ cũng chẳng đáng sợ gì nữa, bởi Mị đã phải chịu đựng nó quá nhiều “Ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị không phản kháng, không chống lại A Sử, mà âm thầm chịu đựng, chấp nhận, tiếp tục
quay trở lại hành động sưởi lửa quen thuộc, ngày này qua ngày khác “đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước”.
TIỂU KẾT LĐ2:
Như vậy, chính nỗi đau của mình mà Mị còn không hề cảm thấy đau đớn, không cảm nhận và xót xa cho chính mình thì
làm sao Mị có thể động lòng trước số phận của người khác, cụ thể là A Phủ. Hơn thế nữa, việc trói đứng người khác ở nhà
thống lí Pá Tra là một việc thường xuyên, nên với A Phủ bây giờ Mị không lấy gì làm lạ.
=> Trong truyện ngắn Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đưa ra một triết lí sâu sắc “Một người đau chân có lúc nào quên được
cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được
nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất”. Thật vậy, lòng trắc ẩn của Mị giờ đây
đã bị đóng băng hoàn toàn, Mị chẳng còn có thể quan tâm tới ai nữa. Hoàn cảnh tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số
phận, bởi vậy, Mị như vậy âu cũng là do tác động của hoàn cảnh sống. Vì thế, ta càng xót xa và đồng cảm với Mị. Mị đáng
thương, chứ không đáng trách.
LĐ3: Tâm trạng Mị có những diễn biến phong phú và vô cùng phức tạp. Mị đã có những thay đổi và chuyển biến rõ rệt sau
khi chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ, đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức của Mị:
8
_ Tô Hoài từng tâm sự “cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng
Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp cho buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị
vượt qua cuộc sống đen tối của mình”. Và giờ, ngọn gió ấy đã đến, đó chính là hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ “một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”:
+ Đó là giọt nước mắt của một kẻ đang hấp hối, của một thân phận cận kề bên cái chết. Giọt nước mắt ấy như là sự căm
phẫn, uất ức trước sự bất công đến mức phát khóc, đồng thời còn như là giọt nước mắt tủi cực, bất lực mong được giải thoát.
Tài liệu của Lê Minh
+ Giọt nước mắt của A Phủ “lấp lánh” vì sự phản chiếu của “ngọn lửa bập bùng sáng lên”. Không chỉ vậy, giọt nước mắt
ấy lấp lánh là còn bởi sự quí giá của nó ? Nguyễn Minh Châu quan niệm “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những
hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Phải chăng, giọt nước mắt của A Phủ chính là những “hạt ngọc” vô giá ?
Bởi chính nó đã cứu sống chính A Phủ và cứu sống cả Mị, đồng thời làm bộc lộ vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Đây
quả là một chi tiết đắt giá, nói như nhà giáo Đỗ Kim Hồi “Nước mắt A Phủ đúng là một chi tiết nâng tầm Tô Hoài”.
_ Giọt nước mắt của A Phủ đã hồi sinh Mị trở lại, đưa Mị đến những chặng cảm xúc phong phú,
phức tạp:
a. Đầu tiên, giọt nước mắt ấy khiến Mị nhớ lại quá khứ đau thương và nhận ra sự tương đồng về số phận của
mình với A Phủ: “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt
chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”.
_ Giọt nước mắt đánh thức kí ức hãi hùng và ám ảnh trong Mị, để rồi Mị nhận ra sự giống nhau giữa mình và A Phủ:
+ Giống nhau về hình phạt thể xác: Họ đều bị ngược đãi, bị trói đứng một cách dã man và tàn bạo. Tài liệu của Lê Minh
+ Giống nhau về tâm trạng: Họ đều khóc, đều cay đắng trước sự bất công của số phận.
=> Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ. Như vậy, giọt nước mắt đã khơi dậy nỗi niềm đồng cảm giữa hai thân phận đồng cảnh ngộ,
mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Đây chính là trạng thái tâm lí mở đầu cho những suy nghĩ kế tiếp
của Mị.
b. Tiếp theo, Mị bỗng cảm thấy thương thân và chợt thức tỉnh về sự tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra:
_ Nhớ lại tội ác của bọn cha con thống lí Pá Tra khiến Mị sợ hãi “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt
mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”:
+ Từ cảm thán “trời ơi” như tiếng kêu than thân, hãi hùng, phẫn uất trước thế lực thống trị.
+ Câu văn ngắn nhưng có tới 3 từ “chết” , gợi lên sự rợn ngợp về cảm giác chết chóc, bi thương. Đồng thời, nhịp văn gấp gáp
cho thấy nét tâm trạng rối bời, ngổn ngang, hãi hùng như nhịp tim đập nhanh của Mị. Tài liệu của Lê Minh
+ Sự sợ hãi của Mị càng tăng thêm khi có sự kết nối giữa ba số phận “Người ta - mình - người đàn bà ngày trước”. Mị là
một nhân chứng sống chứng kiến biết bao tội ác tày trời mà biết bao nhiêu người lỡ sa vào bàn tay dã man phải chịu đựng. Tô
Hoài đã thành công khi lột tả được bản chất vô nhân đạo của chúng rất thật, thật đến cốt, đến lõi, đúng như Nguyễn Minh Châu
từng quan niệm “Nhà văn không tô đen hay bôi hồng cuộc sống mà chỉ làm rõ bộ mặt thật của nó”.
_ Sự hãi hùng và căm phẫn khiến Mị phải thốt lên với lòng mình rằng “Chúng nó thật độc ác”:
+ Năm chữ “chúng nó thật độc ác” cất lên như một lời nguyền rủa, tố cáo hùng hồn và đanh
thép. Mị như đang trút hết nỗi lòng nặng trĩu của mình.
+ Vậy là sau bao nhiêu dồn nén, cam chịu, chấp nhận kiếp sống nô lệ, trâu ngựa, lần đầu tiên Mị đã thức tỉnh ra và hiểu một
cách cặn kẽ về sự dã man tàn bạo của chúng. Không biết, bao nhiêu người đã bị vùi chôn dưới bàn tay nhuốm máu của chúng !
a. Sau đó, khi đã nhận ra được hiện thực tàn nhẫn và khốc liệt, từ thương mình, Mị
chuyển sang thương người, cụ thể là thương A Phủ:
_ Mị lo lắng cho sự sống của A Phủ “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”:
Tài liệu của Lê Minh
+ Câu văn tiếp tục xuất hiện dày đặc điệp từ “chết” kết hợp với cách nói tăng tiến “chết đau,
chết đói, chết rét” gợi bàn tay của tử thần có thể tóm gọn con người đi bất cứ lúc nào.
+ Chết đau vì bị dây trói siết chặt, cứa từng mảnh thịt; chết đói vì bị trừng phạt, bỏ rơi; chết rét vì cái lạnh cắt da cắt thịt
của núi rừng Tây Bắc. Cuối cùng, dù thế nào thì cũng “phải chết”.
_ Mị đặt mình và A Phủ lên bàn cân của số phận “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…”:
+ Mị nhìn nhận lại bản thân mình và chấp nhận cuộc sống trói buộc này, rằng là thân phận
đàn bà, đã vậy còn bị trình ma rồi nên cuối cùng rồi Mị cũng sẽ phải chết.
+ Trong khi đó, đối với A Phủ, Mị phủ định cái chết của A Phủ và bênh vực cho sự trừng phát vô lí, bất công A
Phủ phải chịu “Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…”.
=> Mị đã nhận ra giá trị sự sống cá thể nên cảm thấy việc A Phủ phải chết là một việc phi lí. Đó là sự nhận thức
mang tính lí trí chứ không phải cảm tính nữa, Mị đã nghiêng hết sự sống về phía A Phủ. Như vậy, nhờ có giọt nước
mắt lấp lánh của A Phủ mà trái tim băng giá của Mị đã được nung nóng trở lại, đánh thức lòng trắc ẩn, lòng nhân ái
và phần người trong Mị. (Tài liệu của Lê Minh) Cứ tưởng như những phẩm chất ấy đã bị mất đi hoàn toàn, nhưng
không, nó vốn vẫn luôn tồn tại trong con người Mị, chỉ là chưa có nguồn sức mạnh nào khiến nó trỗi dậy mà thôi.
Mị như một cây rừng héo úa nhưng sâu trong mao mạch của cây, nhựa sống vẫn chảy âm thầm, như Nguyễn Minh
Châu từng nói ““Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận
thức khám phá tất cả những cái đó”.
=> Khi viết những câu văn như vậy, Tô Hoài rất tỉnh táo, rất khách quan khi phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín của
tâm linh con người. Nhà văn như hóa thân vào nhân vật để nói lên tiếng lòng của mình. (Phần gạch chân chính là Giá trị
nhân đạo) Đó là tiếng lòng của sự cảm thông, xót xa trước số phận đau khổ của người dân nghèo miền núi, cũng là lời ngầm tố
cáo đanh thép trước tội ác của bọn chúa đất miền núi. Không chỉ vậy, nhà văn còn ngợi ca phẩm chất tốt đẹp luôn ẩn sâu trong
tâm hồn họ - những con người nghèo khổ. làm khơi dậy ở độc giả niềm đồng cảm và mong muốn giải cứu cho nhân vật. Nói
“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát
vọng vươn tới chân lý” như M.Gorki quả không sai. Tài liệu của Lê Minh
a. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài:
9
_ Tô Hoài đã xây dựng hình tượng nhân vật Mị vô cùng chân thực qua hành động và ngôn ngữ độc thoại nội tâm, lúc đứng
ngoài quan sát, lúc nhập tâm và hóa thân vào nhân vật.
_ Hình tượng nhân vật Mị còn được xây dựng và được thể hiện tinh tế nhờ sử dụng thủ pháp
đồng hiện và tương phản, đối lập:
+ Đồng hiện giữa quá khứ và thực tại (quá khứ và thực tại đều đau khổ, cay nghiệt).
+ Đối lập giữa tính cách trước và sau khi chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ (trước đó dửng dưng, vô cảm nhưng sau đó
đồng cảm, thương người mãnh liệt) để làm nổi bật phẩm chất của Mị.
_ Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị được khắc họa sâu sắc bằng việc diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng
trầm, gấp khúc tuần tự; xây dựng nhân vật theo hướng cá thể hóa cao độ theo quá trình tiệm tiến (phát triển từng bước) và đột
biến (thay đổi triệt để).
=> Cách xây dựng nhân vật Mị góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài, sự già dặn trong ngòi bút
của ông và sự am hiểu về thế giới nội tâm con người, đặc biệt là người phụ nữ.

10
ĐỀ 5 (***): Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét về tư tưởng nhân đạo
mới mẻ của nhà văn Tô Hoài: “Đám than đã vạc hẳn lửa [ ] lao chạy xuống dốc núi”
a. Dẫn dắt (tóm tắt) vào đoạn trích (Bắt buộc phải có thao tác này):
Đoạn trích trên thuộc phần cuối của tác phẩm, đã thể hiện tình thương người và sức sống tiềm tàng trong Mị khi giải cứu
hoàn toàn cho A Phủ và cho chính mình.
b. Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị:
LĐ1: Trước hết, hiện lên trong đoạn trích là hình ảnh Mị trong trạng thái suy nghĩ và nung
nấu ý định giải cứu A Phủ:
_ Câu văn mở đầu đoạn trích như một lời thông báo “Đám than đã vạc hẳn lửa”:
+ Đây là hình ảnh có tác dụng vén màn và chuyển cảnh. Ánh lửa bập bùng của bếp lửa Mị sưởi - thứ ánh sáng vật lí gắn liền
với Mị nay đã nhạt và mập mờ dần, nhường chỗ cho bóng đêm hiu quạnh.
+ Tuy nhiên, một nguồn sáng khác lại bừng sáng lên. Thứ ánh sáng ấy có lẽ đẹp đẽ và vĩnh cữu hơn tất cả, đó chính là ngọn
lửa của lòng Mị, của tình thương người, lòng nhân ái. Không sớm thì muộn, Mị chắc chắn sẽ sớm giải cứu cho A Phủ . Tài liệu
của Lê Minh
_ Trong bóng tối ấy, Mị hiện lên với trạng thái khác thường “Mị không thổi, cũng không đứng lên”:
+ Nếu ở những câu văn trước, Mị gắn liền với hình ảnh sưởi lửa “ Mỗi đêm, Mị đã dậy thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết
bao nhiêu lần; chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm”. Đó là những hành động vô thức, lặp đi lặp lại, bị
động, tự động mà không hề tự chủ thì bây giờ Mị đã thoát khỏi guồng quay vô thức ấy.
+ Mị đã không còn ở trong cơn mê sảng đó nữa mà đã tỉnh táo trở lại để chuẩn bị cho một “cuộc cách mạng mang tính
sống còn”.
_ Bóng tối bao trùm cũng là lúc những suy nghĩ trong Mị mọc lên ngổn ngang. Ngọn lửa của khát khao giải cứu A Phủ trong
Mị như được nhen thêm dầu và được hun nóng bằng những dòng suy nghĩ mạnh mẽ: Tài liệu của Lê Minh
+ Thoạt tiên, “Mị nhớ lại đời mình”. Phải chăng Mị nhìn lại cuộc đời của mình là để hướng tới cuộc
đời của A Phủ, để tạo động cơ cho hành động giải cứu A Phủ sau này?
+ Sau đó, Mị mường tượng ra viễn cảnh mạng người đổi mạng người đầy gay cấn “Mị lại tưởng tượng như có có thể một
lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay
vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ”.
.) Câu văn như vẽ ra hai số phận. Một người tự do còn một người bị giam hãm; một người được sống còn một người phải
chết thay.
.) Tuy nhiên, bất chấp điều ấy, Mị “không thấy sợ”. Ba chữ “không thấy sợ” vang lên một cách mạnh mẽ, như một lời
tuyên bố dứt khoát khi chịu trách nhiệm cho mạng sống của người khác.
=> Đúng như Tô Hoài tâm sự “lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”, đối với Mị bây
giờ, tình thương người đã lấn át tất cả. Mị sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để trao sự sống cho một người đàn ông
không quen biết. Điều ấy khiến Mị thật đáng cảm phục và trân trọng. Tài liệu của Lê Minh
LĐ2: Từ những dòng suy nghĩ mạnh mẽ, Mị đã chuyển hóa thành hành động đầy táo bạo là giải cứu cho A Phủ
khi ngọn lửa lòng Mị đang bập bùng:
_ Lỗ Tấn từng quan niệm “Một tia lửa nhỏ hôm nay là dấu hiệu cho một đám cháy ngày mai”. Quả thực là như vậy, từ tia lửa
nhỏ là những dòng suy nghĩ giờ đã bùng lên thành đám cháy qua hành động “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”:
+ Mị cắt dây khi “trong nhà đã tối bưng”. Đây là một dụng ý nghệ thuật của Tô Hoài, nhà văn đã tạo điều kiện thuận cho
nhân vật của mình. Phải chăng khi bóng tối bủa vây cũng là lúc việc giải cứu diễn ra dễ dàng hơn ?
+ Hành động này diễn ra nhanh, gọn, nghe chừng có vẻ rất đơn giản nhưng lại vô cùng nguy hiểm, có thể trả giá bằng một
mạng người.
+ Hành động này là kết quả của những suy nghĩ giăng mắc, ngổn ngang trong Mị. Nhưng đó mới chỉ là điều kiện cần. Còn
điều kiện đủ để thực hiện việc làm động trời ấy chính là tình thương người và khát vọng tự do đang âm ỉ cháy trong Mị.
+ Mị cắt đi sợi dây trói là cắt đi sợi dây nô lệ, chặt đứt xiềng xích của bọn chúa đất miền núi, thiêu đốt cũi sắt ràng buộc
cuộc đời A Phủ bằng sức nóng của ngọn lửa lòng mình và bằng một tinh thần thép.
+ Đồng thời, cắt đi sợi dây ấy mà lại tạo ra một sợi dây khác. Đó chính là sợi dây liên kết vô hình giữa Mị và A Phủ. (Tài liệu
của Lê Minh) Từ giờ, cuộc đời của họ liên quan đến nhau, A Phủ là nạn nhân được Mị giải cứu, còn Mị là ân nhân của A Phủ.
=> Hành động giải cứu này khiến ta liên tưởng đến mô-típ giải cứu trong truyện dân gian. Đó là chàng Lục Vân Tiên cứu
Kiều Nguyệt Nga, chàng Thạch Sanh giết chằn tinh cứu công chúa Nguyệt Nga,. Đó là kết quả của chân lí cái thiện thắng cái
ác. Hành động này của Mị có phần ấn tưởng hơn,
bởi trong truyện dân gian là nhân vật nam giải cứu cho nhân vật nữ, còn Mị thì ngược lại. Bởi vậy, chi tiết này để lại ấn tượng
vô cùng đậm nét trong tâm trí độc giả.
_ Sau khi cắt dây cởi trói, “Mị cũng hốt hoảng”. Như vậy, hành động cởi trói ấy có thể coi là xuất phát từ bản năng của Mị.
Tuy vậy, nó không hề bồng bột hay thiếu suy nghĩ mà lại quan trọng và tất yếu.
_ Tiếp theo đó, Mị cất tiếng nói “Đi ngay…”:
+ Câu nói này chính là tiếng lòng của Mị, là lời tự quyết dứt khoát, mạnh mẽ với lòng mình vì hành
động táo báo vừa rồi, không thể thay đổi được nữa.
+ Câu nói ấy còn như một mệnh lệnh đối với A Phủ hãy nhanh chớp lấy thời cơ này để có cơ hội sống trước khi cánh tay đen
ngòm của thế lực thống trị tóm anh lại. Tuy chỉ là lời thì thào nhưng nó lại có âm vang mạnh mẽ đến kì lạ. Nó như tiếp thêm
nguồn sức mạnh cho A Phủ, khiến A Phủ tuy “bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay,
A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”.
=> Trong truyện ngắn Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đưa ra một triết lí sâu sắc “Một người đau chân có lúc nào quên được cái
chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được
nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất”. Tuy vậy, đối với Mị, không những
Mị quên đi “cái chân đau” của mình để nghĩ tới A Phủ mà còn nghiêng hết phần sống về phía người con trai ấy. Nhà văn
Nguyễn Khải từng quan niệm “Ở cuộc đời này không có bước đường cùng mà chỉ có những giới hạn, điều quan trọng là
11
phải có sức mạnh để vượt qua những giới hạn ấy”. Mị đã vượt ra khỏi bức tường ngột ngạt của thần quyền và cường quyền
để tìm đến ánh sáng của tự do. Đó chính là phẩm chất sáng ngời ẩn đằng sau vẻ ngoài vô cảm, chai sạn của Mị.
LĐ3: Cuối cùng, khát vọng sống trong Mị đã được đẩy lên cao nhất tới đỉnh điểm bằng hành
động chạy trốn theo A Phủ: Tài liệu của Lê Minh
_ Tuy nhiên, trước khi để Mị tìm đến con đường tự do, Tô Hoài đã đặt Mị trong một tình huống mang tính thử thách
“Mị đứng im lặng trong bóng tối”:
+ Câu văn ngắn, viết theo lối trần thuật, nằm ngổn ngang một mình giữa các con chữ tạo ra một khoảng lặng trong tình tiết
gay cấn của truyện, cũng như một khoảng lặng trong tâm hồn Mị.
+ Tô Hoài để Mị chìm trong những suy tưởng miên man, buộc Mị phải chọn lựa giữa hai lựa chọn:
Ở lại và chết, hay bỏ chạy và được sống.
=> Cuối cùng, cánh cửa của con đường tự do đã mở và tỏa ánh sáng dẫn lối Mị vào. Mị đã nghe theo lí trí để tự giải cứu
chính mình.
_ Sự trỗi dậy ấy của Mị được khắc họa chân thực và chi tiết qua các động từ mạnh “vụt chạy ra,
băng, lăn, chạy, chạy xuống”:
+ Đây là những hình ảnh gợi bước chân mạnh mẽ, dứt khoát của Mị.
+ Đó là bước chân đạp đổ cường quyền và thần quyền, tự giải cứu mình, tự tháo cũi sổ lồng.
_ Thật bất ngờ, sau bao nhiêu mùa câm lặng, Mị đã cất lên tiếng nói “A Phủ cho tôi đi - Ở đây thì chết mất” :
+ Đây là lời nói của một người đang trỗi dậy sức sống mãnh liệt.
+ Không còn chán sống như những chi tiết trước trong truyện nữa, bây giờ Mị sợ chết. Tuy vậy, sợ chết không phải là thái độ
hèn nhát mà lại thể hiện khát vọng sống và nhu cầu tự do.
*NHẬN XÉT:
=> Ở những chi tiết trước, những lúc chán sống nhất thì Mị lại chẳng buồn nghĩ đến cái chết, còn những lúc khát vọng
sống bùng lên mãnh liệt thì Mị chỉ muốn chết đi thôi. Cấu trúc nghịch lí này bây giờ đã được chuyển hóa tinh vi từ nghịch
lí thành hợp lí. Mị bây giờ không chỉ ham sống, khát sống mà còn cần phải sống. Đúng là “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của
mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra” (Heghen). Tài liệu của Lê Minh
=> Sự trỗi dậy của Mị là kết quả của quá trính “cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu”, tức một khi sự việc đã đạt
đến đỉnh điểm thì sẽ tiếp tục phát triển theo chiều hướng vận động tích cực và đạt tới cực đại. Không chỉ vậy, việc Mị chạy
trốn theo A Phủ còn là một bản năng tự vệ tích cực, phản ánh một quy luật, một quá trình tất yếu, đó là Ở đâu có áp bức, ở
đó có đấu tranh.
=> Để ý rằng, các tác phẩm thuộc dòng Văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 thường có cách kết thúc khép kín bằng
cuộc đời nhân vật bi kịch và tăm tối. Với Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh, với Thạch Lam
đời là miếng vải có lỗ thủng, những vết ố, nhưng vẫn nguyên vẹn, với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi.
Tuy nhiên, Tô Hoài không nhìn nhận cuộc sống trong bế tắc như vây. Tác giả mở ra ánh sáng cuối con đường cho nhân
vật của mình. Chi tiết kết thúc truyện “Hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” đã gieo không ít niềm tin vào
lòng người đọc về sự đổi thay số phận của họ. Phải chăng khi chạy khỏi Hồng Ngài vào đêm tối, họ sẽ tìm đến một buổi sớm tự
do tại Phiềng Sa “từ thung đau thương ra cánh đồng vui” ?
a. Nhận xét về tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn Tô Hoài:
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng quan niệm : “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát
vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của của con người thì cảm hứng nhân đạo là
cảm hứng bao trùm”. Đoạn trích trên đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài. Tác giả đã tố cáo đanh thép trước
những tội ác mà thế lực thống trị đè nặng lên vai người dân nghèo. Qua đó, nhà văn bày tỏ sự cảm thông, xót xa những số phận
bất hạnh như Mị và A Phủ. Không chỉ vậy, Tô Hoài còn phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người Tây Bắc: sức sống
tiềm tàng, bất diệt. Tài liệu của Lê Minh
=> Điểm mới trong tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài: Gắn tình thương với đấu tranh, cách mạng; nhà văn mở ra con đường
giải phóng cho người dân lao động từ bóng tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến tự do.

12

You might also like