NGUYỄN HOÀNG PHÁT - BÀI THI CHÍNH LUẬN VỀ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG NĂM 2024

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 22

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

HỌC VIỆN HÀNG KHÔNG VIỆT NAM

CHI BỘ SINH VIÊN

BÀI DỰ THI CHÍNH LUẬN

BẢO VỆ VỮNG CHẮC NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG


CỦA ĐẢNG NĂM 2024 TRONG ĐẢNG BỘ KHỐI
CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG

Đảng viên thực hiện:


Nguyễn Hoàng Phát
Ngày sinh: 21/09/2002

TP. Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2024


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHẬN THỨC VỀ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM......................................................................................2
1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản.......................2
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.................................................................................3
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.........................5
CHƯƠNG 2: BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM..................................................................................................................................14
2.1. Yêu cầu chung........................................................................................................14
2.2. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tử của Đảng ta trong tình hình mới..................14
2.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là kim chỉ nam của cách
mạng Việt Nam............................................................................................................14
2.2.2. Nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, hòng chống phá nền
tảng tư tưởng của Đảng..............................................................................................16
2.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh, có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
trong tình hình mới.....................................................................................................17

1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHẬN THỨC VỀ NỀN TẢNG
TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản

Hồ Chí Minh là một thanh niên yêu nước, đã rời bến Nhà Rồng - Sài Gòn vào năm 1911
để tìm kiếm cách giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức của thực dân và phong kiến. Người ta
đã chứng kiến những khó khăn mà nhân dân phải chịu đựng dưới sự thống trị của kẻ xâm
lược, và quyết tâm giành lại độc lập cho Tổ quốc, mang lại cuộc sống ấm no và hạnh
phúc cho nhân dân.

Trong quá trình tìm kiếm con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận ra tầm quan trọng
của việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước Cách mạng Tháng Mười Nga 1917,
ông đã đi qua nhiều châu lục và nước, từ những nước tư bản phát triển đến các nước
thuộc địa, và nhận thấy rằng nhân dân lao động ở mọi nơi đều bị bóc lột và khốn khổ.

Cuối năm 1917, khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Hồ Chí Minh đã chào
mừng và ủng hộ nhiệt thành. Sự kiện này đã tạo ra một định hướng mới cho con đường
cứu nước của ông: theo đuổi cách mạng theo mô hình của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Vào tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh đã đọc được bản Sơ thảo lần đầu tiên của Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa, in trên báo L’Humanité. Điều này đã cung cấp cho ông một
nền tảng vững chắc cho tư tưởng về Đảng Cộng sản.

Tại Đại hội Tua - Đại hội Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII vào cuối tháng 12 năm 1920,
Hồ Chí Minh đã đề ra ba nhiệm vụ của Đảng đối với cách mạng thuộc địa và cách mạng
Đông Dương. Ông đã bỏ phiếu ủng hộ việc Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng
sản, và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đồng thời là
người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Hồ Chí Minh một đảng viên cộng sản Pháp và là một trong những người sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp, ông đã hoàn toàn tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế III.
Ông đã nhiều lần chỉ trích Đảng vì không làm đủ để giải phóng các nước thuộc địa. Đối
với Hồ
2
Chí Minh, việc giải phóng dân tộc Việt Nam và thành lập một đảng cách mạng chân
chính để lãnh đạo một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam là mục tiêu và
nhiệm vụ quan trọng nhất.

Sau 12 năm đi khắp thế giới để nghiên cứu, học hỏi, xem xét kinh nghiệm của các nước,
và nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga và lý luận Mác - Lênin, vào tháng 6 năm
1923, Hồ Chí Minh đã bí mật trở về nước. Ông đã tự đặt ra nhiệm vụ: “trở về nước, đi
vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, và dẫn dắt họ trong
cuộc đấu tranh giành tự do độc lập”.

Từ nhận thức ban đầu về Đảng Cộng sản, đến việc đề ra chủ trương và giải pháp để thành
lập Đảng Cộng sản để lãnh đạo quần chúng đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị phong kiến,
thực dân và giành độc lập, tự do cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ ràng. Tư tưởng
của ông trong quá trình hình thành Đảng Cộng sản là làm cho toàn Đảng nhận thức rõ
ràng rằng nhiệm vụ của Đảng không chỉ là giải phóng giai cấp vô sản mà còn là giải
phóng toàn thể dân tộc Việt Nam.

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã công nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân toàn cầu và
Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân. Điều này dễ dàng được thừa nhận ở các
nước phương Tây có nền công nghiệp phát triển, nơi công nhân chiếm đa số trong dân số.
Tuy nhiên, ở các nước kém phát triển, chủ yếu là nông nghiệp, đặc biệt là các nước thuộc
địa nửa phong kiến như Việt Nam, nơi công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân số
(khoảng 1,2% hoặc 22 vạn người) vào thời điểm trước năm 1930, việc nhận thức rõ ràng
vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc không phải là một vấn đề đơn giản.

Dựa trên thực tế ở Việt Nam trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX,
cũng như kết quả của quá trình quan sát, nghiên cứu trong những năm đi khắp thế giới,
Hồ Chí

3
Minh đã viết nhiều bài báo nói về vai trò của giai cấp công nhân để bảo vệ quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Tại Đại hội Quốc tế Nông dân lần đầu tiên vào năm 1923, Hồ Chí Minh đã khẳng định
rằng trong thời đại hiện tại, giai cấp công nhân là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh
lịch sử lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng thông qua liên minh với nông dân. Và
sau này, khi đánh giá về giai cấp công nhân Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định
rằng chỉ có giai cấp công nhân mới là lực lượng dũng cảm, cách mạng nhất, luôn gan góc,
đương đầu với bọn thực dân, đế quốc.

Với lý luận tiên phong soi đường và kinh nghiệm từ phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của dân tộc
được giao phó, xứng đáng là người lãnh đạo cách mạng và được nhân dân tin tưởng, ủng
hộ. Công lao vô cùng to lớn của Hồ Chí Minh đối với dân tộc ta là Người đã sớm phát
hiện và khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam và vai trò lãnh đạo
thuộc về giai cấp công nhân Việt Nam và sáng lập Đảng tiên phong - Đảng Cộng sản
Đông Dương vào năm 1930 để lãnh đạo giai cấp công nhân Việt Nam và toàn dân tộc
Việt Nam đạt mục tiêu, lý tưởng Đảng đã đề ra.

Trong suốt 80 năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh và trưởng
thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập,
cùng với cả dân tộc, giai cấp công nhân luôn giữ vững bản chất cách mạng và cơ bản đã
hoàn thành được sứ mệnh lịch sử dân tộc được giao phó và sẽ tiếp tục hoàn thành nhiệm
vụ nặng nề trong gia đoạn tiếp theo của cách mạng Việt Nam.

Nhận thức đúng đắn sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay có
ý nghĩa quan trọng góp phần bảo vệ học thuyết Mác –Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đặc biệt, sau khi Liên Xô và
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, các thế lực thù địch đã tập trung chống phá
quyết liệt nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Mục tiêu đầu tiên, quan trọng
mà chúng tập trung đánh phá là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, học thuyết Mác -
Lênin về sứ

4
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nhằm thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở
các nước xã hội chủ nghĩa.

Theo nguyên tắc của Lênin, Đảng Cộng sản được hình thành như một kết quả của sự kết
hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Tuy nhiên, tình hình ở Việt
Nam khác biệt so với các nước Châu Âu và Nga. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp,
với số lượng nông dân chiếm hơn 90% dân số, trong khi lực lượng giai cấp công nhân lại
rất nhỏ. Do đó, việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam là một vấn đề khó khăn, đòi
hỏi sự sáng tạo, không thể tuân theo một quy luật chung. Lênin đã từng chỉ ra rằng sự ra
đời của các Đảng Cộng sản chỉ tuân theo một quy luật chung, nhưng đối với mỗi quốc
gia, cần phải có sự vận dụng phù hợp. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển để tìm ra
con đường riêng, phù hợp với tình hình, đặc điểm lịch sử dân tộc, và đặc điểm của phong
trào yêu nước Việt Nam. Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối
cứu nước của mình vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, và chuẩn bị về
mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, là yếu tố quyết định
nhất. Sau 30 năm xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin
kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng,
về vai trò lãnh đạo và bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, về mặt trận dân tộc
thống nhất tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, về chiến lược, sách lược cách mạng
khoa học, đúng đắn, thể hiện ở Chánh cương và Sách lược vắn tắt cho đến ngày nay vẫn
còn nguyên giá trị.

1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong di sản tư tưởng toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Người về việc
xây dựng Đảng là một trong những nội dung quan trọng nhất, được thể hiện qua các bài
viết, bài nói và hành động của Người. Người đã cống hiến cả cuộc đời mình để phấn đấu
cho sự lớn mạnh của Đảng và độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Sự quan tâm của
Người đối với Đảng xuất phát từ quan niệm nhất quán rằng, Đảng luôn là nhân tố quyết
định sự thành công của cách mạng. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi Người
vĩnh biệt chúng ta, tư tưởng của Người về Đảng và việc xây dựng Đảng được đề cập một
5
cách toàn

6
diện. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và thường xuyên nhắc nhở rằng, Đảng phải luôn
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Theo Hồ Chí Minh, bản chất giai
cấp công nhân của Đảng, trước hết đòi hỏi Đảng phải tuyệt đối trung thành và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tác phẩm Đường Cơách mệnh, Người viết: “Cách
mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động
và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền
mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai phải hiểu,
ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có
trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Người luôn
cảnh báo cán bộ, đội ngũ đảng viên về nguy cơ sa vào tệ quan liêu, xa rời quần chúng, vi
phạm quyền làm chủ của quần chúng nhân dân. Người đã chỉ rõ 12 điều về tư cách của
một Đảng cách mạng chân chính. Trong 12 điều đó thì điều đầu tiên là “Đảng không phải
là một tổ chức để làm quan phát tài. Đảng phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm
cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Để lãnh đạo cách mạng thành công, Đảng
phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt; chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt.

Theo quan điểm của Mác và Ăngghen, người đảng viên phải thể hiện sự giác ngộ lý
tưởng, trình độ, năng lực; lòng trung thành với Đảng; vai trò tiên phong của người cộng
sản; nhiệt tình cách mạng; tính tổ chức kỷ luật cao; tinh thần tự giác, chủ động, hy sinh,
bền bỉ. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin về Đảng
và khái quát một cách giản dị về tư cách người đảng viên:

Đầu tiên, người đảng viên phải luôn nêu cao tinh thần gương mẫu, lời nói và việc làm
phải đi đôi với nhau. Người chỉ rõ: “Đảng viên bất kỳ làm việc gì cũng phải gương mẫu”,
“Đảng viên muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt
chước”.

Thứ hai, người đảng viên phải là người “khiêm tốn, rộng lượng, đó là hai đức tính mà
người cách mạng nào cũng phải có”. “Càng có công lao càng phải khiêm tốn. Chớ vì có ít
công lao mà sinh bệnh công thần, kèn cựa địa vị”.

7
Thứ ba, người đảng viên phải biết tự cải tạo mình, tức là phải cải cách tính nết mình trước
tiên. Người đảng viên hàng ngày “phải tự kiểm điểm mình. Phải lấy những “nhiệm vụ
đảng viên mà kiểm điểm”.

Thứ tư, người đảng viên phải là người quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho chủ
nghĩa cộng sản. Người khẳng định: “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, Đảng ta không có lợi ích nào khác”.

Thứ năm, người đảng viên là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Chính xuất phát từ luận điểm đó, Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở người đảng viên phải tuyệt
đối trung thành với Đảng, với nhân dân, phải quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng cho
cách mạng. đó là điều chủ chốt nhất.

Thứ sáu, người đảng viên phải đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội ở trong Đảng. Chủ
nghĩa cá nhân là kẻ địch của cách mạng. Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó
khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền
hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên
quyền. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém
tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của nhà
nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân.

Thứ bảy, người đảng viên phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử xấu ra khỏi Đảng. Nhưng
củng cố và phát triển đó là một công tác quan trọng và thường xuyên.

Cùng với việc nêu lên những nội dung về tư cách người đảng viên, Người rất quan tâm
đến việc giáo dục, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nói chung, đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên của Đảng và Người thực sự là tấm gương sáng ngời, mẫu mực về đạo đức
cách mạng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh - là tác phẩm vô cùng quan trọng vạch
đường hướng cho cách mạng Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc đặt lên trang đầu “Tư cách một người cách mệnh” với 23 điều cần thiết
trong xử thế với bản thân, với người khác và với công việc. Người đặt ra yêu cầu phải
cần, kiệm, vị công

8
vong tư, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng ham muốn về vật
chất… đó là những cốt yếu trong tự tu dưỡng về tư cách, đạo đức của người cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, đã nhận biết được tầm
quan trọng của đội ngũ cán bộ - yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của cách
mạng. Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền mới ra đời đã
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do nhiều yếu tố như kẻ thù trong nước, kẻ
thù ngoại xâm, đói nghèo, thiếu học. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan
tâm đến việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên, cải tiến và
đổi mới phong cách, phương pháp và cách thức làm việc của cán bộ.

Mặc dù bận rộn với nhiều công việc của Đảng và Chính phủ, nhưng Người đã dành thời
gian để viết tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc” vào tháng 10-1947 như một tài liệu
để giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên. Người đã nghiêm khắc phê phán những biểu
hiện suy đồi về đạo đức, lối sống và đặt ra những yêu cầu và nội dung về rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ đảng viên.

Người đã chỉ rõ rằng, để xây dựng đường lối và nhiệm vụ cao cả của Đảng, chúng ta phải
luôn dựa vào điều kiện cụ thể và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, trong nước và ở các
địa phương. Đảng phải giữ vững tính cách mạng, tính nguyên tắc nhưng cũng phải linh
hoạt về phương pháp. Đảng không được che giấu khuyết điểm, không sợ phê bình, phải
lựa chọn cán bộ tốt, giữ nghiêm kỷ luật, thống nhất hành động.

Từ thực tiễn cách mạng, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận quan trọng: Cán bộ là
người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng.

Do đó, cán bộ là nền tảng của mọi công việc, và “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng”. Nói cán bộ là nền tảng của mọi công việc tức là mọi việc đều phải bắt đầu từ đó
và dựa vào đó. Bởi vì chỉ khi nền tảng vững chắc thì cây mới phát triển tốt. Tuy nhiên, để
giữ

9
vai trò là nền tảng, theo Chủ Tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ phải nỗ lực rèn luyện để
đạt được các tiêu chuẩn sau:

Tiêu chuẩn đầu tiên là người cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Phải đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp, của dân
tộc lên trên hết, giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích cá nhân với lợi ích của giai cấp,
của dân tộc, liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, tôn trọng
quyền làm chủ của nhân dân; phải thực thà ngay thẳng, không được giấu dốt, giấu khuyết
điểm, sai lầm, khiêm tốn, cầu thị, không kiêu ngạo, chủ quan; phải chí công vô tư, chú
trọng chăm lo đời sống của nhân dân. Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, không độc đoán cá
nhân, không tự cho phép mình đứng trên tổ chức, đứng ngoài kỷ luật, lời nói đi đôi với
việc làm, làm nhiều hơn nói. Có ý thức tự phê bình và phê bình cao. Phê bình phải đi liền
với tự phê bình. Có lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa lãng phí, hủ hoá, tham
nhũng, không có tư tưởng đặc quyền, đặc lợi.

Tiêu chuẩn thứ hai, người cán bộ phải có năng lực tương ứng với nhiệm vụ được giao.
Theo Hồ Chí Minh, có đức nhưng lại phải có tài. Có tài mà thiếu đức thường gây ra
những tác hại không nhỏ. Ngược lại chỉ có đức mà không có tài thì chẳng khác nào ông
bụt ngồi ở trong chùa. Nội dung đức, tài ở mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau được Hồ
Chí Minh và Đảng ta cụ thể hoá, bổ sung, phát triển rất phù hợp với tình hình nhiệm vụ
của từng giai đoạn. Đặc biệt khi Đảng giành được chính quyền được Hồ Chí Minh chỉ ra
khác nhau với lúc chưa có chính quyền. Trong bài Người cán bộ cách mạng viết ngày 3-
3-1955, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt là: “Nhận rõ phải trái.
Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. Người cán bộ phải “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Vì Đảng, vì dân đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
công việc, không ngừng học tập để nâng cao trình độ mọi mặt, quan hệ mật thiết với quần
chúng, có tinh thần tập thể, đoàn kết, thương yêu đồng bào, đồng chí, tính tổ chức kỷ luật,
cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng.

Tiêu chuẩn thứ ba đòi hỏi người cán bộ phải sở hữu phong cách khoa học. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, để có được phong cách khoa học, người cán bộ cần phải chống
lại những
10
thói quen quan liêu chủ quan, tác phong quan liêu đại khái, chống lại sự mê muội hình
thức, chỉ nhằm vào bề ngoài hình thức, chỉ muốn phô trương cho oai, chống lại cách làm
việc theo lối bàn giấy, ngồi một nơi chỉ tay năm ngón, không chịu xuống địa phương và
cơ sở. Dựa trên những tiêu chuẩn này, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao cho chủ thể công
tác cán bộ, bố trí, sử dụng cán bộ, đó là: Phải hiểu rõ và đánh giá đúng cán bộ, phải khéo
léo trong việc sử dụng cán bộ, phải có gan cất nhắc cán bộ. Để thực hiện tốt những vấn đề
trên của công tác cán bộ, Người thường nhắc nhở: Trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận
xét rõ ràng, toàn diện cả công tác, cách sinh hoạt, cách viết, cách nói, việc làm, xem xét
mối quan hệ với mọi người như thế nào. Xem xét cán bộ phải có quan điểm lịch sử, cụ
thể, toàn diện và phát triển không chỉ một việc, một lúc mà phải tiến hành thường xuyên,
xem xét cả quá trình từ trước tới nay. Sau đề bạt, cất nhắc cán bộ cần phải tiếp tục bồi
dưỡng giúp đỡ họ để họ có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chủ Tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Cất nhắc cán bộ không nên làm như “giã gạo”, nghĩa là trước khi cất nhắc không
xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ, khi họ sai lầm thì đẩy xuống chờ lúc họ
làm khá lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời.
Người cho rằng: “Biết mình cố nhiên là khó. Tự biết mình cũng không phải là dễ. Đã
không tự biết mình thì khó mà biết người… Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc
chắn không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu. Người ta thường phạm những chứng
bệnh sau:

1. Tự cao tự đại.

2. Ưa người ta nịnh mình.

3. Đem lòng yêu ghét của mình mà đối với người.

4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau.

Phạm một trong bốn bệnh đó cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấy rõ
cái mặt thật của những cái mình trông… Phải sửa chữa khuyết điểm của mình. Mình càng
ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”. Khi sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh
lưu ý: “Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa
chữa
11
chỗ xấu cho họ”. Cất nhắc cán bộ phải “vì công tác, vì tài năng, chứ không thể vì lòng yêu
ghét, vì thân thích nể nang. Trong sử dụng cán bộ cần chống “những chứng bệnh” sau đây:

“1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết bầu bạn cho họ là chắc chắn hơn người
ngoài.

2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót, mà chán ghét những người chính trực.

3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không
hợp với mình.

Vì những chứng bệnh đó, kết quả những người kia làm bậy, mình cũng cứ bao dung, che
chở, bảo hộ khiến cho chúng ngày càng hư hỏng. Đối với người chính trực thì bới lông
tìm vết để trả thù. Như thế cố nhiên là hỏng cả công việc của Đảng, hỏng cả danh giá của
người lãnh đạo”. Hồ Chí Minh khẳng định “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng”18, đây là công việc mà Đảng phải tốn nhiều công sức, phải tiến hành công phu,
chu đáo “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý
báu”.

Trong việc sắp xếp và sử dụng cán bộ, việc kết hợp giữa các thế hệ cán bộ với độ tuổi,
kinh nghiệm, giới tính, dân tộc và trình độ khác nhau là rất quan trọng. Điều này đảm bảo
cho đội ngũ cán bộ mạnh mẽ, kế thừa và phát triển. Đây là một yếu tố quan trọng quyết
định sự thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo con
đường chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dựa trên thực tế cách mạng, Hồ
Chí Minh khẳng định “cán bộ là gốc rễ của mọi công việc”, là quan điểm đúng đắn và
khoa học, giúp Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của cán bộ, công tác cán bộ và có những quan điểm, chủ trương, chính sách xây dựng đội
ngũ cán bộ, khuyến khích động viên cán bộ, chính sách thu hút nhân tài. Thực hiện lời
dạy của Người, bằng nhiều biện pháp, chính sách thiết thực đối với cán bộ và công tác
cán bộ, Đảng ta đã có một đội ngũ cán bộ công chức không ngừng lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn
cách mạng và trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đội ngũ
cán bộ tốt, còn một bộ phận cán bộ đảng viên suy thoái về phẩm chất đạo đức, lợi dụng
12
chức quyền tham ô, tham nhũng,

13
hối lộ, buôn lậu, lãng phí, quan liêu xa rời quần chúng, xa rời thực tế, nói không đi đôi
với làm, nói một đằng, làm một nẻo… Những chứng bệnh này, Hồ Chí Minh coi đó là kẻ
thù của nhân dân, là thứ “giặc ở trong lòng”. Theo Hồ Chí Minh, tham ô là trộm cướp.
Lãng phí tuy không lấy của dân song kết quả cũng tai hại cho dân, cho chính phủ, có khi
tai hại hơn tham ô. Vì lẽ đó chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng quan trọng và cần kíp
như đánh giặc ngoài mặt trận. Đảng ta khẳng định, tham ô, tham nhũng, lãng phí là trong
bốn nguy cơ, thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.

Để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, Đảng khẳng định chủ nghĩa Mác –Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
Đảng ta có nhiều chỉ thị, nghị quyết về xây dựng Đảng, về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, về thực hành tiết
kiệm, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; trung ương và các địa phương, bộ,
ngành đã thành lập ban chỉ đạo phòng, chống tham mưu cho Trung ương đề ra các biện
pháp phòng chống tham nhũng lãng phí. Đặc biệt, Đảng ta đã phát động cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị 06-CT/TW
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhân kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng (3-2-2006) có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, hoạt động công tác trên mọi lĩnh vực đồng thời ngăn chặn suy thoái,
xuống cấp về đạo đức trong đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng. Đây là chủ trương đúng
đắn, sáng tạo của Đảng đồng thời thể hiện sự kính trọng, tôn vinh và tiếp tục khẳng định
giá trị lý luận và thực tiến tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi người chúng ta phải có những
việc làm tốt, hành động tốt, phương pháp và phong cách làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn.
Đối với người lãnh đạo, người đứng đầu đơn vị, người làm công tác tổ chức cán bộ càng
phải coi trọng vấn đề này, từ đó có quyết tâm tự học tập, tự rèn luyện khắc phục những
hạn chế, khuyết điểm.

14
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là rộng lớn, bao la, không chỉ trong xây dựng Đảng mà
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống văn hóa, tinh thần, xã hội, trong các mối quan hện…
Vì vậy không thể một lúc, một thời gian ngắn mà chúng ta có thể học được tất cả tư
tưởng của Người. Thiết nghĩ, học tập tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh phải học được
tất cả tự học, tự rèn luyện suốt đời, học mọi lúc, mọi nơi và trong mọi việc làm của mình.
Nhân đây xin kiến nghị của Đảng, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” không chỉ thực hiện đến kết thúc nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng theo
tinh thần Chỉ thị 06 của Bộ Chính trị mà nên đưa nội dung cuộc vận động vào trong
chương trình sinh hoạt thường kỳ của các tổ chức đảng, trong các đoàn thể trong hệ thống
chính trị và trong nhân dân.

15
CHƯƠNG 2: BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Yêu cầu chung

 Hiểu rõ và tuân thủ: Mỗi thành viên của Đảng phải hiểu rõ và tuân thủ nền tảng tư
tưởng của Đảng, bao gồm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
 Tự học và tự rèn luyện: Thành viên Đảng cần phải tự học tập và tự rèn luyện để nâng
cao kiến thức và hiểu biết về nền tảng tư tưởng của Đảng.
 Phát huy tinh thần đoàn kết: Mỗi thành viên Đảng cần phát huy tinh thần đoàn kết,
đồng lòng và hợp tác để bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng.
 Chống lại suy thoái về đạo đức và lối sống: Thành viên Đảng cần phải chống lại suy
thoái về đạo đức và lối sống, không lợi dụng chức quyền để tham ô, tham nhũng.
 Thực hiện các chỉ thị và nghị quyết của Đảng: Mỗi thành viên Đảng cần thực hiện các
chỉ thị và nghị quyết của Đảng, đặc biệt là những chỉ thị liên quan đến việc xây dựng
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh.
 Tham gia cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”:
Mỗi thành viên Đảng cần tham gia cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác và ngăn
chặn suy thoái, xuống cấp về đạo đức trong đội ngũ cán bộ Đảng.
 Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng: Mỗi thành viên Đảng cần phải bảo
vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và
phát triển của Đảng và đất nước.

2.2. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tử của Đảng ta trong tình hình mới

2.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là kim chỉ nam của cách mạng
Việt Nam

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn
mạnh: “Đảng muốn vững chắc thì phải có chủ nghĩa làm nền tảng, mỗi thành viên trong

16
Đảng đều phải hiểu và tuân theo chủ nghĩa đó. Đảng không có chủ nghĩa giống như con
người không có trí tuệ, con tàu không có la bàn. Hiện nay, có nhiều học thuyết, nhiều chủ
nghĩa, nhưng chủ nghĩa chính xác nhất, vững chắc nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-
nin”. Thấm nhuần quan điểm sâu sắc của Người, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng, năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, năm 2016, Đảng ta xác định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kiên định và
vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Dưới sự dẫn dắt của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân trong cuộc đấu tranh giành lại chính quyền, phá vỡ gông
xiềng của thực dân Pháp sau hơn 80 năm, tạo ra Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên tại
Đông Nam Á, sau đó là hai cuộc kháng chiến dài hạn để giành lại độc lập, tự do cho dân
tộc và đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau 35 năm đổi mới, nước ta đã
giữ vững được ổn định chính trị, xã hội; chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay… Từ thực tiễn của cách mạng, Đảng ta đã vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đưa cách
mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là minh chứng
sống động và thuyết phục, khẳng định tính đúng đắn của cách mạng Việt Nam trong việc
lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa
Mác - Lê- nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, hiện nay, các thế lực thù địch và phản động đang ra sức đẩy mạnh chống phá
Đảng ta, đặc biệt là trên mặt trận tư tưởng, chính trị; một bộ phận cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, nhận thức không đúng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh càng khiến cho việc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch gặp
nhiều khó khăn, như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ,
đảng
17
viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi,
mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”.

2.2.2. Nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, hòng chống phá nền
tảng tư tưởng của Đảng

Các thế lực thù địch đang nỗ lực tuyên truyền, xuyên tạc, biến dạng và phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với mục tiêu loại bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng trong cách mạng Việt Nam, thông qua các biện pháp như: Xuyên tạc, giảm nhẹ,
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh
với chủ nghĩa Mác - Lê-nin; Tập trung tấn công, xuyên tạc quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Bóp méo, giảm nhẹ, phủ nhận thành
quả đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng…

Về kinh tế, họ xuyên tạc, chống phá đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa của nước ta. Các thế lực thù địch âm mưu làm cho nền kinh tế nước ta phát
triển chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Họ bóp méo các nguyên lý kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đối lập định hướng xã hội chủ nghĩa với phát triển kinh tế thị
trường…, tạo ra nền tảng vật chất, xã hội hình thành nền “chính trị dân chủ” và “xã hôi
dân sự” kiểu tư bản chủ nghĩa.

Về văn hóa, họ lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá
cách mạng Việt Nam; gieo rắc tư tưởng sùng bái lối sống, văn hóa phương Tây; o bế các
cây viết, khuynh hướng, xu hướng văn hóa - văn nghệ cực đoan, phản động; phát tán
những tác phẩm cổ vũ sự chống đối, xúc phạm những giá trị văn hóa truyền thống, đòi
“giải thiêng thần tượng”, “hạ bệ thần tượng”. Các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề
dân chủ, nhân quyền để lôi kéo, dụ dỗ một bộ phận quần chúng thực hiện các hành vi
chống đối chính quyền; tìm cách khoét sâu vào những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của
ta để bóp méo, xuyên tạc, tạo ra sự hoài nghi, lung lay trong tư tưởng của đảng viên và
nhân dân ta.

18
Về ngoại giao, tìm cách cản trở Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, mặt khác, lôi kéo,
mua chuộc các đối tác từ bên ngoài để gây sức ép, tác động vào bên trong đất nước; quốc
tế hóa những vấn đề nội bộ của Việt Nam; xuyên tạc đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam…

2.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh, có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong
tình hình mới

Trong thời gian gần đây, công tác đấu tranh để phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái,
thù địch và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã thu được những thành tựu đáng kể.
Ban chỉ đạo 35 các cấp đã được thành lập, cùng với cơ quan thường trực, lực lượng nòng
cốt, lực lượng chuyên sâu, lực lượng tham gia đấu tranh ở từng cấp đã hoạt động hiệu
quả, góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch.

Tuy nhiên, trước âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch
ngày càng tinh vi, nham hiểm, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp để bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch trong
tình hình mới.

Thứ nhất, chủ động nắm bắt tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của các đối
tượng để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính
trị. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch ở Việt Nam hiện nay cần có những nội dung, phương thức phù hợp với từng thời
điểm, giai đoạn nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức lợi
dụng internet, mạng xã hội để chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vậy,
ngoài hình thức đấu tranh truyền thống, cần bổ sung những hình thức đấu tranh mới, như:
đấu tranh trực tiếp, trực diện trên không gian mạng, thông qua các phương tiện truyền
thông xã hội; xây dựng đội ngũ thông tin viên rộng rãi, nhất là hội viên các đoàn thể nhân
dân…

Thứ hai, tiếp tục tuyên truyền, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần ở nước ta. Thực hiện nghiêm, có hiệu quả Chỉ
19
thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, nâng
cao

20
chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, kịp thời luận giải những vấn đề lý luận mới, khó, còn nhiều ý kiến khác
nhau, tạo sự đồng thuận trong nhận thức xã hội. Bằng các hình thức tuyên truyền phù
hợp, giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ và nắm vững bản chất khoa học, cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thấy rõ bản chất phản động
của những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch…

Thứ ba, chúng ta cần kiên trì, áp dụng một cách chính xác và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Như V.I. Lê-nin đã từng nói: “Chúng ta
không coi lý luận của Mác là một thứ đã hoàn thiện và không thể thay đổi; ngược lại,
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ là nền tảng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ
nghĩa cần phải phát triển thêm về mọi mặt, nếu họ không muốn trở nên lạc hậu so với
cuộc sống”. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê-nin có nghĩa là phải hiểu rõ bản chất khoa học
và cách mạng, vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng của
nước ta, để những nội dung, quan điểm của học thuyết Mác - Lê-nin có thêm sức sống
mới, được hiện thực hóa, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.

21

You might also like