Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 31

4, Phân tích kết quả nghiên cứu

Sau khi lọc và mã hóa kết quả của cuộc khảo sát, chúng tôi đưa ra phân tích và đánh giá
khách quan về các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học Thăng Long
về cơ sở vật chất.
4.1. Mức độ tiếp cận các đối tượng trong khu vực

SINH VIÊN CÁC KHỐI NGÀNH


100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Kinh tế - Ngôn ngữ Toán - Tin Du lịch Truyền Khoa học Âm nhạc Khoa học
Quản lí học thông đa xã hội và ứng dụng sức khỏe
phương nhân văn
tiện
1 2 3 4 5 6 7 8

Bảng … Biểu đồ kết quả tiếp cận sinh viên trường đại học Thăng Long
Trong tổng 8 khối ngành, tính trên 100 sinh viên được khảo sát, khối ngành kinh tế-quản
lí chiếm cao nhất với 80%, còn các ngành còn lại chiếm mức tỉ trọng rất thấp hoặc không
có. Cụ thể khối ngôn ngữ 5%, khối toán – tin 6%, khối du lịch 3%, khối truyền thông đa
phương tiện và khối khoa học sức khỏe là 0%, khối khoa học xã hội và nhân văn là 2 %,
khối âm nhạc ứng dụng 4%.
Số liệu trên báo hiệu rằng về tổng quan kết quả về bài khảo sát sẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi
đánh giá của hầu hết bởi khoa kinh tế-quản lí và cho thấy cuộc khảo sát của chúng tôi dễ
tiếp cận với khối ngành kinh tế-quản lí nhất của trường đại học Thăng Long. Nhóm tác
giả là sinh viên khoa Kinh tế - quản lí nên việc phần lớn đối tượng tham gia khảo sát là
sinh viên ngành này bởi việc sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện tìm đến những
mẫu khảo sát mà nhóm tác giả dễ tiếp cận, dễ khảo sát nhất. Còn các nhóm ngành khác ít
hơn do khả năng tiếp cận của nhóm tác giả là hạn chế, tuy nhiên vẫn có mẫu khảo sát của
các nhóm ngành còn lại như ngôn ngữ, âm nhạc ứng dụng là do sự quen biết từ trước khi
vào trường hoặc việc một vài thành viên của nhóm tác giả tham gia vào câu lạc bộ nên có
bạn bè học ở các nhóm ngành khác.
4.2. Thời gian trải nghiệm của đối tượng.

Giai đoạn trải nghiệm


100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Năm nhất Năm hai Năm ba Năm tư Khác

Số lượng Tỷ trọng

Bảng…. Biểu đồ kết quả về giai đoạn trải nghiệm của sinh viên
Trong tổng số 100 sinh viên được khảo sát, tỷ trọng sinh viên đang học giai đoạn năm thứ
3 chiếm cao nhất 79% trên tổng số. Giai đoạn năm nhất là 4%, giai đoạn năm hai là 6%,
giai đoạn năm tư là 9%, số lượng khác chiếm 2%. Có thể thấy, số lượng sinh viên tham
gia cuộc nghiên cứu tập trung nhiều nhất vào giai đoạn năm 3. Cho thấy, căn cứ vào số
liệu trên, cho thấy cuộc khảo sát thu được số liệu tương đối tốt về mặt trải nghiệm thực
tế, với lý do phần lớn các sinh viên được khảo sát đang học năm thứ 3, đây là khoảng thời
gian đủ để trải nghiệm và đánh giá về các nhân tố cơ sở vật chất. Các sinh viên năm 1, 2,
số khác rất ít, lý do bởi trong những năm đầu các sinh viên vừa học, vừa làm thêm trải
nghiệm dẫn đến thời gian học tại trường không được nhiều để có thể đánh giá chính xác
về cơ sở vật chất. Một phần khác, những sinh viên năm 4 mặc dù tỷ trọng nhỉnh hơn
nhưng vẫn ở mức rất thấp với nguyên nhân giai đoạn này thường chủ yếu các sinh tập
trung làm việc thực tập tại các công ty dẫn đến việc đánh giá không mấy khả quan. Hầu
hết các thành viên của nhóm tác giả học năm thứ 3 tại trường nên việc tiếp cận được
nhiều sinh viên năm thứ 3 là hoàn toàn đúng, hơn thế nữa nhóm sinh viên còn lại chưa có
nhiều trải nghiệm tại trường hoặc bận rộn với công việc dẫn đến khó khăn hơn trong việc
thực hiện khảo sát, nên việc tìm đến sinh viên năm 3 khiến kết quả nghiên cứu chính xác
hơn.
4.3. Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về KHU VỰC LỚP HỌC tại
trường đại học Thăng Long.
KHU VỰC LỚP HỌC
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
QC1 QC2 QC3 QC4
Rất hài lòng Hài lòng Bình thường Không hài lòng Rất không hài lòng

Bảng…. Biểu đồ kết quả đánh giá về các nhân tố khu vực lớp học
Khu vực lớp học được trang bị đầy đủ các thiết bị giảng dạy (máy chiếu, loa,..)
(QC1)
Dựa trên kết quả cuộc khảo sát về việc trang bị thiết bị giảng dạy trong khu vực lớp học,
có thể thấy rằng sự hài lòng của sinh viên đa dạng và đầy ý nghĩa. Cụ thể, 44% người
tham gia khảo sát đánh giá rất hài lòng với việc thiết bị giảng dạy được trang bị đầy đủ,
chứng tỏ sự hiệu quả và đáp ứng cao đối với nhu cầu học tập của họ trên lớp, giảng
đường. Ngoài ra, 37% sinh viên cảm thấy hài lòng, mặc dù không đạt tới mức độ rất hài
lòng nhưng vẫn chứng tỏ sự hài lòng chung đối với trang bị. Từ đó suy ra có đến 81/100
sinh viên cảm thấy hài lòng với sự đầy đủ của các thiết bị giảng dạy, chứng tỏ trường đại
học Thăng Long đã trang bị tốt các thiết bị này để phục vụ cho nhu cầu học tập cũng như
giảng dạy tại trường.
Tuy nhiên, 7% sinh viên ở mức độ đánh giá bình thường và 7% còn lại cảm thấy không
hài lòng với việc trang bị thiết bị giảng dạy. Điều này chỉ ra rằng vẫn còn những cải thiện
cần được thực hiện để đáp ứng mong muốn và kỳ vọng của sinh viên. Chắc hẳn sự đầy đủ
các thiết bị giảng dạy với các đáp viên là chưa nói hết được tình trạng của các thiết bị đó,
khi một số phòng học loa bị hỏng hay rè, máy chiếu bị vàng, mờ khó khăn trong việc theo
dõi bài giảng của thầy cô hay máy tính bị hỏng, mất kết nối, nhòe khiến sinh viên gặp rắc
rối khi thuyết trình bài tập. Đối với 5% sinh viên cảm thấy rất không hài lòng, việc giải
quyết các vấn đề này trở nên ngày càng quan trọng, có thể liên quan đến cả chất lượng
thiết bị và dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật. Việc đánh giá rất không hài lòng cũng hoàn toàn có
khả năng khi có đến 5/100 sinh viên đánh giá, chứng tỏ họ đã gặp phải trường hợp rất bất
lợi như đang thuyết trình thì bị ngắt kết nối hoặc khi làm bài tập nghe ngoại ngữ nhưng
âm thanh không được tốt, một số phòng bị thiếu thiết bị giảng dạy và khiến họ cảm thấy
rất không hài lòng.
Trên cơ sở này, nhà trường có thể xem xét việc cải thiện và nâng cấp các thiết bị giảng
dạy, đồng thời tăng cường chất lượng dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật. Những biện pháp này
không chỉ giúp tối ưu hóa sự hài lòng của sinh viên hiện tại mà còn tạo ra một môi trường
giảng dạy tốt nhất cho tương lai.
Khu vực lớp học bàn, ghế được bảo quản thường xuyên, không bị hỏng hóc, còn
mới (QC2)
Dựa trên kết quả cuộc khảo sát về tình trạng và bảo quản của bàn, ghế trong khu vực lớp
học, ta nhận thấy sự đa dạng trong quan điểm của sinh viên về điều này. Có 38% sinh
viên đánh giá mức độ hài lòng, cho thấy một số lượng đáng kể sinh viên cảm thấy thoải
mái và hạnh phúc với điều kiện bàn, ghế trong lớp học. Sự hài lòng này phản ánh sự
chăm sóc và duy trì bài bản của các thiết bị, tạo ra một môi trường học tập thuận lợi.
Mức độ rất hài lòng (28%) chỉ thấp hơn một chút so với hài lòng, nhưng vẫn cho thấy sự
hạnh phúc đối với điều kiện hiện tại. Có lẽ các sinh viên ở mức độ này đánh giá cao sự
tiện nghi và chất lượng của bàn, ghế, góp phần tạo ra một không gian học tập tích cực.
Mức độ bình thường (24%) chỉ ra rằng một phần sinh viên không có ý kiến quá lớn về
vấn đề này. Họ có thể cảm thấy thoải mái đủ để tiếp tục học mà không bị ảnh hưởng quá
nhiều bởi điều kiện của bàn, ghế.
Mặt khác, 7% sinh viên cảm thấy không hài lòng. Đây có thể chỉ ra các vấn đề nhỏ như
sự không thoải mái hoặc không tiện lợi trong việc sử dụng các thiết bị này. Đôi khi, thiết
kế của lớp học, bàn, và ghế không đáp ứng được nhu cầu của học sinh và giáo viên. Điều
này có thể gây ra sự không thoải mái và khó chịu, dẫn đến những đánh giá không tốt. Dù
được bảo quản định kì, nhưng nếu sản phẩm đã quá cũ, chất lượng đi xuống thì cũng
khiến sinh viên không hài lòng.
Cuối cùng, mức độ rất không hài lòng (3%) thấp nhất, nhưng vẫn đáng chú ý. Có thể là
nhân viên lau chùi không đạt yêu cầu, rác còn lại trong gầm bàn, dưới chân bàn ghế khiến
sinh viên cảm thấy không gian học tập không được sạch sẽ hay bàn ghế đã quá cũ, không
đáp ứng linh hoạt nhu cầu học tập của họ. Các sinh viên ở mức độ này đánh giá thấp về
chất lượng của bàn, ghế, yêu cầu sự chú ý ngay lập tức để cải thiện môi trường học tập
của họ.
Dựa trên những đánh giá này, việc duy trì và nâng cấp các bàn, ghế trong khu vực học là
rất quan trọng. Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên, mà còn thúc đẩy
sự hứng khởi và tập trung trong quá trình học tập, tạo ra một môi trường học tập tích cực
và chất lượng
Khu vực lớp học điều hòa các phòng đầy đủ, vẫn duy trì tốt. (QC3)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về việc điều hòa khu vực lớp học, ta nhận thấy sự đa dạng
trong quan điểm của sinh viên về điều này. Với 31% sinh viên đánh giá là rất hài lòng và
41% sinh viên đánh giá là hài lòng thì có thể kết luận rằng hệ thống điều hòa hiện tại đã
đủ tốt để đáp ứng nhu cầu của họ. Sự hài lòng này chứng tỏ rằng hệ thống điều hòa đầy
đủ tạo, tạo cảm giác thoải mái và giúp tăng cường sự tập trung trong quá trình học.
Mức độ bình thường (15%) cho thấy có một số sinh viên không có ý kiến quá lớn về điều
hòa. Họ có thể cảm thấy hệ thống điều hòa làm việc không thật sự xuất sắc để làm họ
hoàn toàn thoải mái và dễ chịu khi làm việc, nhưng đồng thời cũng không cảm thấy quá
khó chịu, làm mất tập trung khi học tập. Điều này cho thấy hệ thống điều hòa vẫn có thể
duy trì ở mức trung bình và chưa phải là yếu tố cấp thiết cần phải sửa đổi ngay tập tức.
Với 9% sinh viên đánh giá không hài lòng và 4% đánh giá rất không hài lòng, có vẻ như
có một số vấn đề cần được giải quyết trong hệ thống điều hòa hiện tại. Mặc dù điều hòa
có sẵn và duy trì ổn định, nhưng có thể có vấn đề về chất lượng của dịch vụ điều hòa.
Một số sinh viên phản ánh việc điều hòa không làm mát hoặc làm mát không đều, gây ra
cảm giác nóng nực và không thoải mái. Một số khác các sinh viên lại cho rằng điều hòa
quá lạnh dẫn đến sự mất tập trung khi học tập và làm việc. Có thể cần kiểm tra và bảo
dưỡng hệ thống để đảm bảo rằng nó hoạt động ổn định và hiệu quả, đặc biệt trong những
ngày hè nắng gắt.
Tổng kết, việc nâng cấp hệ thống điều hòa chưa thực sự cần thiết nhưng phải đảm bảo sự
hoạt động ổn định của dịch vụ. Điều này rất quan trọng để tạo ra một môi trường học tập
lý tưởng cho sinh viên. Sự thoải mái và tiện nghi từ việc sử dụng hệ thống điều hòa
không chỉ giúp sinh viên học tập hiệu quả mà còn tạo ra trải nghiệm học tập tích cực và
hứng khởi hơn.
Khu vực lớp học được quét dọn sạch sẽ hàng ngày (QC4)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về việc quét dọn sạch sẽ khu vực lớp học hàng ngày,
chúng ta có cái nhìn rõ ràng về cách mà sinh viên đánh giá việc này. Với 40% sinh viên
đánh giá là hài lòng, có thể kết luận rằng việc quét dọn được thực hiện một cách đầy đủ
và chất lượng. Nhân viên quét dọn vệ sinh được đào tạo tốt để thực hiện nhiệm vụ của
mình, hay quản lí vệ sinh giám sát, theo dõi, đốc thúc nhân viên vệ sinh đem đến hiệu quả
tốt là khu vực lớp học được quét dọn sạch sẽ. Sự hài lòng này chứng tỏ rằng việc lớp học
được giữ sạch sẽ hàng ngày không chỉ là yếu tố quan trọng trong việc tạo ra một môi
trường học tập sạch sẽ và trấn an, mà còn thể đồng thời tăng cường sự hứng khởi và tập
trung của sinh viên.
Mức độ rất hài lòng (36%) cũng cao, cho thấy một lượng đáng kể sinh viên rất hạnh phúc
với việc lớp học được giữ gìn sạch sẽ. Chứng tỏ họ đánh giá rất cao công tác dọn dẹp vệ
sinh lớp học của nhân viên vệ sinh, không chỉ mang đến không gian học tập sạch sẽ mà
còn giúp nâng cao mỹ quan trường học. Điều này không chỉ tạo ra một môi trường học
tập thú vị và dễ chịu, mà còn thúc đẩy sự tự hào và tinh thần học tập tích cực.
Mức độ bình thường (13%) cho thấy có một phần nhỏ sinh viên không có ý kiến quá lớn
về việc này. Họ có thể cảm thấy thoải mái đủ để tiếp tục học mà không bị ảnh hưởng
đáng kể bởi việc lớp học có được quét dọn sạch sẽ hàng ngày.
Với 6% sinh viên đánh giá không hài lòng và 5% đánh giá rất không hài lòng, có vẻ như
có một số vấn đề cần được giải quyết trong việc duy trì sự sạch sẽ của lớp học. Trong các
ngày mưa việc dọn dẹp gặp nhiều khó khăn, khối lượng công việc tăng lên đáng kể và
nhân viên vệ sinh khó có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình 100% dẫn đến sự không hài
lòng về không gian học tập, sinh viên cảm thấy lớp học bị bẩn khiến họ cảm thấy không
thoải mái. Điều này đòi hỏi sự chú ý và nỗ lực để cải thiện chất lượng của dịch vụ quét
dọn hàng ngày để đáp ứng mong muốn của sinh viên.
Tóm lại, việc duy trì mức độ sạch sẽ trong lớp học là rất quan trọng để tạo ra một môi
trường học tập tích cực và chuyên nghiệp. Sự hài lòng của sinh viên trong lĩnh vực này
không chỉ ảnh hưởng đến trải nghiệm học tập của họ mà còn đánh giá chất lượng và
chăm sóc của tổ chức giáo dục.
4.4. Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về KHU VỰC THƯ VIỆN
tại trường đại học Thăng Long.
KHU VỰC THƯ VIỆN
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
QL1 QL2 QL3

Rất hài lòng Hài lòng Bình thường


Không hài lòng Rất không hài lòng

Bảng….. Biểu đồ kết quả đánh giá nhân tố của sinh viên trong khu vực thư viện
Giá sách, báo chí, tài liệu của thư viện thường xuyên được cập nhật (QL1)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về việc cập nhật giá sách, báo chí và tài liệu trong thư
viện, ta nhận thấy có sự đa dạng trong quan điểm của sinh viên về việc này. Mức độ hài
lòng (42%) là cao nhất, chứng tỏ rằng đa số sinh viên đánh giá cao việc thư viện thường
xuyên cập nhật sách, báo chí và tài liệu. Sự hài lòng này có thể chỉ ra rằng việc có nguồn
tài liệu mới và đa dạng không chỉ tăng cường kiến thức của sinh viên mà còn tạo ra một
môi trường học tập đa dạng và thú vị.
Mức độ rất hài lòng (25%) vẫn khá cao, cho thấy một phần đáng kể sinh viên cảm thấy
rất hạnh phúc với chất lượng và lượng tài liệu mới trong thư viện. Sự đa dạng trong
nguồn tài liệu có thể hỗ trợ sinh viên nghiên cứu và học tập hiệu quả hơn. Theo khảo sát
của nhóm tác giả, có đến 67/100 sinh viên đánh giá rằng giá sách, báo chí, tài liệu của thư
viện được cập nhật thường xuyên. Điều đó chỉ ra nhân viên thư viện, nhà trường rất nỗ
lực trong việc làm mới, phong phú giá sách, liên tục cập nhật tài liệu, sách báo để hỗ trợ
sinh viên, giảng viên tiếp cận các thông tin mới nhất, thời sự nhất.
Mức độ bình thường (28%) chỉ ra rằng có một phần sinh viên không có ý kiến quá lớn về
việc này. Họ có thể cảm thấy thoải mái đủ để tiếp tục học mà không bị ảnh hưởng đáng
kể bởi việc thư viện cung cấp sách, báo chí và tài liệu mới.
Với 3% sinh viên đánh giá không hài lòng và 2% đánh giá rất không hài lòng, có vẻ như
có một số sinh viên không hài lòng với chất lượng hoặc đa dạng của tài liệu. Tuy chỉ có
5/100 sinh viên không hài lòng với giá sách của thư viện, có thể do họ không tìm được
các tài liệu mới nhất mà họ muốn tham khảo, tìm đọc, hoặc nhân viên thư viện xếp tài
liệu, sách báo ở chỗ mà họ khó tìm thấy, không tìm thấy. Điều này đòi hỏi sự chú ý và nỗ
lực từ phía thư viện để cải thiện việc cập nhật tài liệu và đáp ứng nhu cầu đa dạng của
sinh viên.
Tóm lại, việc duy trì và nâng cấp nguồn tài liệu trong thư viện là rất quan trọng để đáp
ứng mong muốn học tập của sinh viên. Sự đa dạng và chất lượng của sách, báo chí và tài
liệu không chỉ là nguồn cảm hứng cho học thuật mà còn giúp tạo ra một môi trường học
tập phong phú và đầy kiến thức.
Khu vực thư viện có đầy đủ các tài liệu tham khảo, sách báo. (QL2)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về việc đầy đủ các tài liệu tham khảo, sách và báo chí
trong khu vực thư viện, có thể thấy sự hài lòng và đánh giá tích cực từ phía sinh viên. Với
45% sinh viên đánh giá là hài lòng, có thể kết luận rằng thư viện cung cấp một nguồn tài
liệu tham khảo đầy đủ và đáng tin cậy. Sự hài lòng này là kết quả của việc sinh viên có
thể dễ dàng tiếp cận thông tin và tài liệu cần thiết để nâng cao kiến thức và nghiên cứu.
Mức độ rất hài lòng (30%) cũng cao, cho thấy một lượng lớn sinh viên đánh giá cao chất
lượng và sự đa dạng của các tài liệu trong thư viện. Sự đánh giá tích cực này chứng tỏ
rằng thư viện không chỉ cung cấp sách và tài liệu cần thiết mà còn giúp sinh viên phát
triển kiến thức và kỹ năng nghiên cứu của họ. Có 75/100 đáp viên đánh giá cao tính đầy
đủ của tài liệu tham khảo, sách báo ở thư viện, chứng tỏ rằng nhân viên thư viên nhà
trường đã và đang nỗ lực làm phong phú, đa dạng, đầy đủ nguồn tài liệu của thư viện, hỗ
trợ tốt nhất cho sinh viên trong công tác học tập từng học phần.
Mức độ bình thường (20%) chỉ ra rằng có một phần nhỏ sinh viên không có ý kiến quá
lớn về việc này. Họ có thể cảm thấy thoải mái đủ để tiếp tục học mà không bị ảnh hưởng
đáng kể bởi việc thư viện cung cấp tài liệu. Một trong số sinh viên đang theo học tại
trường thì cảm thấy việc sử dụng hay không các tài liệu tham khảo, sách báo không quá
quan trọng, họ chỉ dùng giáo dùng, slide bài giảng của giảng viên cung cấp đã cảm thấy
hài lòng.
Với chỉ 2% sinh viên đánh giá không hài lòng và 3% đánh giá rất không hài lòng, có vẻ
như có một số sinh viên không hài lòng với chất lượng hoặc đa dạng của tài liệu trong thư
viện. Có 5/100 sinh viên không hài lòng thậm chí rất không hài lòng với tính đầy đủ của
tài liệu tham khảo, sách báo, chứng tỏ với họ thì tài liệu, sách báo của thư viện cung cấp
không đủ đáp ứng nhu cầu của họ, hoặc những giáo trình, tài liệu họ cần lại không có sẵn
ở thư viện. Đôi khi có những tài liệu có ở thư viện nhưng số lượng quá ít dẫn đến họ
không tiếp cận được, bị các sinh viên khác mượn dẫn đến tâm lí không hài lòng của các
đáp viên này. Điều này đòi hỏi sự chú ý và nỗ lực từ phía thư viện để cải thiện chất lượng
và đáp ứng nhu cầu đa dạng của sinh viên.
Tổng cộng, việc duy trì và nâng cao nguồn tài liệu trong thư viện đóng vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ quá trình học tập và nghiên cứu của sinh viên. Sự đa dạng và chất lượng
của sách, báo chí và tài liệu không chỉ là nguồn cảm hứng cho học thuật mà còn giúp tạo
ra một môi trường học tập tích cực và phát triển.
Khu vực bàn tự học của sinh viên có đầy đủ các ổ cắm sạc cho laptop, cho điện thoại
phục vụ nhu cầu học. (QL3)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về việc có đủ ổ cắm sạc cho laptop và điện thoại trong khu
vực bàn tự học của sinh viên, chúng ta có cái nhìn rõ ràng về cách sinh viên đánh giá việc
này. Với 39% sinh viên đánh giá là hài lòng, có thể kết luận rằng việc cung cấp đủ ổ cắm
sạc đáp ứng được nhu cầu của đa số sinh viên. Sự hài lòng này chứng tỏ rằng sinh viên có
thể tập trung vào học mà không lo lắng về việc hết pin trong quá trình tự học tại các bàn
làm việc.
Mức độ rất hài lòng (32%) cũng cao, cho thấy một lượng đáng kể sinh viên rất hạnh phúc
với việc có đủ điểm sạc điện thoại và laptop. Điều này chứng tỏ rằng việc tiện lợi này
không chỉ giúp họ duy trì năng suất học tập mà còn tạo ra một môi trường tự học thuận
lợi.
Mức độ bình thường (20%) chỉ ra rằng một số sinh viên không có ý kiến quá lớn về việc
này. Họ có thể cảm thấy thoải mái đủ để tiếp tục học mà không bị ảnh hưởng đáng kể bởi
việc có đủ ổ cắm sạc. Có tổng 91/100 đáp viên đánh giá tính đầy đủ của các ổ cắm điện
trên mức trung bình, có thể hiểu là các ổ cắm sạc cho laptop, cho điện thoại di động gần
như đáp ứng đủ nhu cầu của họ, việc trang bị ổ cắm riêng cho từng bàn học hay khu học
nhóm, hay tại bàn máy tính tầng 3 cũng khiến sinh viên cảm thấy sự tiện dụng, sẵn có của
ổ cắm điện.
Với 7% sinh viên đánh giá không hài lòng và 2% đánh giá rất không hài lòng, có vẻ như
vẫn còn một số vấn đề cần được giải quyết. Nhiều trường hợp các nhóm sinh viên làm
việc trên tầng 4, mà các ổ cắm điện trên khu học nhóm vẫn còn hạn chế khiến sinh viên
không hài lòng với việc này. Cũng có thể là do các ổ cắm sạc này không còn hoạt động
tốt, bị hỏng hóc dẫn đến sự không hài lòng của sinh viên. Điều này đòi hỏi sự chú ý và nỗ
lực từ phía trường để cải thiện tiện ích trong khu vực bàn tự học, khu học nhóm đặc biệt
với những sinh viên đánh giá thấp về việc này.
Tóm lại, việc cung cấp đủ ổ cắm sạc cho laptop và điện thoại trong khu vực bàn tự học là
rất quan trọng. Sự tiện lợi này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên học tập mà
còn thúc đẩy sự tự chủ và tập trung, tạo ra một môi trường học tập tích cực và hiệu quả.
4.5. Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về KHU VỰC PHÒNG
THỰC HÀNH tại trường đại học Thăng Long

KHU VỰC THỰC HÀNH


100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
QP1 QP2 QP3

Rất hài lòng Hài lòng Bình thường


Không hài lòng Rất không hài lòng

Bảng…. Biểu đồ kết quả đánh giá nhân tố khu vực phòng thực hành
Phòng thí nghiệm, thực hành đạt yêu cầu vệ sinh, an toàn. (QP1)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về điều kiện vệ sinh và an toàn trong phòng thí nghiệm và
thực hành, chúng ta có thể nhận thấy rằng sinh viên đánh giá mức độ hài lòng với môi
trường này ở mức khá cao. Mức độ hài lòng (48%) chiếm tỷ lệ cao nhất, cho thấy đa số
sinh viên cảm thấy hài lòng với mức độ vệ sinh và an toàn trong phòng thí nghiệm. Có
gần một nửa đáp viên đánh giá hài lòng, chứng tỏ phòng thí nghiệm, thực hành được
trang bị các thiết bị đảm bảo an toàn khi học tập, sử dụng, bên cạnh đó cũng được vệ sinh
thường xuyên sạch sẽ. Sự hài lòng này có thể phản ánh việc trường đáp ứng đủ các tiêu
chuẩn an toàn và vệ sinh, tạo ra một môi trường làm việc tốt cho sinh viên.
Mức độ rất hài lòng (26%) cũng là một tỷ lệ đáng chú ý, chỉ ra rằng một phần lớn sinh
viên đánh giá cao về mức độ an toàn và vệ sinh trong phòng thí nghiệm. Sự hài lòng này
có thể phản ánh chất lượng của các biện pháp an toàn và các quy định vệ sinh được thực
hiện định kỳ. Mặc dù có một số sinh viên cảm thấy bình thường (17%) hoặc không hài
lòng (6%), tỷ lệ này thấp hơn so với các mức độ hài lòng. Điều này có thể chỉ ra rằng các
vấn đề về vệ sinh và an toàn được giải quyết một cách hiệu quả, mặc dù vẫn còn cần có
những nỗ lực để nâng cao chất lượng hơn nữa. Tuy có một ít sinh viên đánh giá rất không
hài lòng (3%), tỷ lệ này rất thấp và có thể được xem xét để xác định các vấn đề cụ thể và
thực hiện các biện pháp cải thiện.
Tóm lại, dựa vào kết quả cuộc khảo sát, có thể kết luận rằng phòng thí nghiệm và thực
hành đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh và an toàn đối với đa số sinh viên. Sự hài lòng của
họ là một minh chứng cho chất lượng và sự an toàn của môi trường học tập này. Tuy
nhiên, việc tiếp tục giữ vững và nâng cao chất lượng này vẫn cần sự chú ý và nỗ lực liên
tục từ phía trường đại học.
Phòng thí nghiệm, thực hành đạt điều kiện về ánh sáng, độ thông thoáng. (QP2)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về điều kiện ánh sáng và độ thông thoáng trong phòng thí
nghiệm và thực hành, ta nhận thấy có sự đa dạng trong quan điểm của sinh viên về điều
này. Mức độ hài lòng (37%) chiếm tỷ lệ lớn nhất, mức độ bình thường (28%) cao thứ hai,
cho thấy một số lượng đáng kể sinh viên cụ thể là 65/100 sinh viên cảm thấy khá hài lòng
với mức độ ánh sáng và thông thoáng trong phòng thí nghiệm, thực hành. Chứng tỏ
phòng thí nghiệm, thực hành cơ bản đáp ứng được những điều kiện về ánh sáng, không
khí. Hệ thống thông khí, hệ thống ánh sáng được trang bị tốt và được kiểm tra, bảo trì,
bảo dưỡng lau dọn thường xuyên. Điều này cho thấy rằng điều kiện này được đáp ứng đủ
để hỗ trợ việc học tập và thí nghiệm của sinh viên.
Tuy nhiên, có một tỷ lệ nhất định sinh viên cảm thấy không hài lòng (13%) về điều kiện
ánh sáng và thông thoáng. Điều này có thể chỉ ra rằng có những phòng thí nghiệm hoặc
khu vực cần được cải thiện về việc tăng cường ánh sáng tự nhiên và thông thoáng không
gian.
Mức độ rất không hài lòng (11%) cũng là một tỷ lệ đáng chú ý. Sinh viên ở đây đánh giá
mức độ này với mức độ không hài lòng cao nhất, có thể cho thấy rằng một số phòng thí
nghiệm hoặc khu vực thực hành gặp phải vấn đề nghiêm trọng về điều kiện ánh sáng và
thông thoáng, ảnh hưởng đến trải nghiệm học tập của họ.
Tóm lại, kết quả khảo sát cho thấy việc cải thiện điều kiện ánh sáng và độ thông thoáng
trong phòng thí nghiệm và thực hành là cần thiết. Sự đa dạng trong quan điểm của sinh
viên đề xuất rằng có sự chênh lệch giữa các khu vực hoặc phòng học trong trường. Cải
thiện về mặt ánh sáng tự nhiên và thông thoáng không gian không chỉ tăng cường sự
thoải mái mà còn tăng cường sự tập trung và hiệu suất học tập của sinh viên.
Phòng thực hành đầy đủ, có các thiết bị hiện đại đáp ứng nhu cầu của từng môn
học, từng chuyên ngành.(QP3)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về việc có đủ thiết bị hiện đại để đáp ứng nhu cầu của
từng môn học và chuyên ngành trong phòng thực hành, có thể thấy rằng sinh viên đánh
giá mức độ hài lòng cao về sự đầy đủ và chất lượng của thiết bị trong các phòng thực
hành. Mức độ hài lòng (49%) chiếm tỷ lệ cao nhất trong cuộc khảo sát này, cho thấy hầu
hết sinh viên cảm thấy hài lòng với việc có đủ thiết bị hiện đại để hỗ trợ quá trình học tập
và thực hành của họ. Sự đánh giá tích cực này có thể phản ánh việc trường đáp ứng được
các yêu cầu đặt ra từ các khoa và chuyên ngành, giúp sinh viên có được trải nghiệm học
tập tốt nhất.
Mức độ rất hài lòng (28%) cũng là một tỷ lệ cao, chứng tỏ một phần đáng kể sinh viên
đánh giá cao về chất lượng và sự đa dạng của thiết bị trong các phòng thực hành. Sự hài
lòng này thường kết hợp với việc thiết bị hiện đại giúp họ thực hiện các thí nghiệm và dự
án nghiên cứu một cách hiệu quả và chính xác.
Có hơn ¾ tổng số sinh viên cảm thấy phòng thực hành đầy đủ, có các thiết bị hiện đại
đáp ứng nhu cầu của từng môn học, từng chuyên ngành. Chứng tỏ phòng thực hành đã
được nhà trường trang bị rất tốt các trang thiết bị hiện đại, đáp ứng được nhu cầu học tập
sử dụng của sinh viên cũng như đội ngũ giảng viên.
Mặc dù tỷ lệ bình thường (15%), không hài lòng (5%) và rất không hài lòng (3%) đều
thấp, nhưng vẫn cần chú ý đặc biệt đối với các sinh viên đánh giá thấp về chất lượng thiết
bị. Điều này có thể chỉ ra rằng một số phòng thực hành hoặc chuyên ngành cần sự nâng
cấp hoặc thay đổi để đáp ứng đúng mong muốn và nhu cầu của sinh viên.
Tóm lại, cuộc khảo sát thể hiện rằng trường đang tiếp tục cung cấp các thiết bị hiện đại và
đủ đáp ứng cho quá trình học tập và thực hành của sinh viên. Sự hài lòng từ sinh viên
không chỉ phản ánh chất lượng của các thiết bị, mà còn chứa đựng hy vọng và mong đợi
về sự phát triển trong ngành học của họ. Điều này không chỉ tạo ra một môi trường học
tập tích cực, mà còn giúp họ chuẩn bị cho tương lai nghề nghiệp của mình một cách tốt
nhất.
4.6. Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về KHU VỰC THỂ DỤC
THỂ THAO tại trường đại học Thăng Long
KHU VỰC TDTT
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
QS1 QS2 QS3

Rất hài lòng Hài lòng Bình thường


Không hài lòng Rất không hài lòng

Bảng…. Biểu đồ kết quả đánh giá nhân tố khu vực TDTT
Sân bãi TDTT rộng rãi, thoáng mát (QS1)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về sân bãi Thể dục thể thao (TDTT), có thể thấy rằng sự
đánh giá của sinh viên về sân bãi này khá tích cực, mặc dù có một số ý kiến không hài
lòng. Mức độ hài lòng (42%) chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cuộc khảo sát này. Điều này cho
thấy hầu hết sinh viên đều hài lòng với sự rộng rãi và thoáng mát của sân bãi TDTT. Sự
hài lòng này có thể phản ánh mức độ sự thoải mái và tiện lợi khi sử dụng sân bãi cho các
hoạt động thể dục và thể thao.
Mức độ rất hài lòng (23%) cũng là một tỷ lệ đáng chú ý, chứng tỏ rằng một số sinh viên
cảm thấy rất hài lòng với điều kiện của sân bãi. Sự đánh giá tích cực này có thể phản ánh
việc sân bãi đáp ứng được các tiêu chí về sự thoáng đãng và tiện lợi, giúp sinh viên tận
hưởng các hoạt động thể dục và thể thao một cách tốt nhất. Có 65/100 sinh viên đánh giá
trên mức trung bình về sự rộng rãi, thoáng mát của sân bài TDTT, chứng tỏ khu vực sân
bãi này đủ diện tích để phục vụ cho nhu cầu học tập, rèn luyện thể dục cho sinh viên, bên
cạnh đó nó cũng được dọn dẹp vệ sinh thường xuyên, cây cối hay khu che nắng mưa ở
sân bãi cũng được trang bị mang đến không gian thoáng mát, sạch sẽ, thoải mái cho sinh
viên khi học tập cũng như rèn luyện. Công tác vệ sinh của công nhân viên cũng được
đánh giá cao.
Mặc dù có một số sinh viên cảm thấy không hài lòng (13%) hoặc rất không hài lòng
(3%), tỷ lệ này thấp hơn so với các mức độ hài lòng. Điều này có thể chỉ ra rằng mặc dù
có ý kiến tiêu cực, nhưng chúng vẫn đang ở mức độ chấp nhận được và không ảnh hưởng
đáng kể đến trải nghiệm của sinh viên. Có vài sinh viên sẽ cảm thấy diện tích của sân bãi
không đủ rộng, không đáp ứng được nhu cầu như không có sân cầu lông, chỉ có 1 sân
bóng chuyền, khu phòng tập gym còn bé, giới hạn không gian, hay không có sân vận
động, bể bơi. Vấn đề này cũng khó khăn cho nhà trường khi nằm trong khu vực không
thể mở rộng diện tích dẫn đến thiếu hụt không gian cho việc làm phong phú sân bãi.
Mức độ bình thường (19%) chỉ ra rằng một phần nhỏ sinh viên không có ý kiến quá lớn
về sân bãi, có thể cảm thấy thoải mái đủ để tiếp tục sử dụng mà không gặp phải các vấn
đề đáng kể.
Tóm lại, mặc dù có một số ý kiến tiêu cực, tỷ lệ cao của sinh viên đánh giá tích cực về
sân bãi TDTT. Điều này chỉ ra rằng sân bãi này đáp ứng được mong muốn của họ đối với
một môi trường tập luyện và vận động thoáng đãng và tiện lợi. Tuy nhiên, việc lắng nghe
ý kiến của sinh viên không hài lòng và thảo luận với họ để cải thiện các vấn đề cụ thể có
thể giúp nâng cao chất lượng của sân bãi TDTT và tạo ra một môi trường thể thao tốt
nhất cho cả toàn thể sinh viên.
Sân bãi TDTT có đầy đủ các đồ dùng phù hợp với tùng môn học (QS2)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về việc có đủ các đồ dùng phù hợp với từng môn học trên
sân bãi Thể dục thể thao (TDTT), chúng ta thấy rằng sinh viên đánh giá khá tích cực về
việc này, mặc dù còn một số ý kiến không hài lòng. Mức độ hài lòng (44%) chiếm tỷ lệ
lớn nhất trong cuộc khảo sát này. Điều này cho thấy một phần đáng kể sinh viên đều hài
lòng với việc có đủ đồ dùng và thiết bị phù hợp để hỗ trợ việc tập luyện và tham gia các
hoạt động thể dục. Sự hài lòng này có thể phản ánh việc sân bãi TDTT đáp ứng được các
yêu cầu của các môn học cụ thể, giúp sinh viên có trải nghiệm tốt nhất trong quá trình
học tập và tập luyện.
Mức độ rất hài lòng (29%) cũng là một tỷ lệ đáng chú ý, chứng tỏ rằng một số sinh viên
cảm thấy rất hài lòng với việc sân bãi TDTT cung cấp đầy đủ đồ dùng cho các môn học
của họ. Sự hài lòng này thường kết hợp với việc đồ dùng được bảo quản tốt và sạch sẽ,
tăng thêm sự thoải mái và an toàn khi sử dụng.
Mặc dù có một số sinh viên cảm thấy không hài lòng (8%) hoặc rất không hài lòng (5%),
tỷ lệ này thấp hơn so với các mức độ hài lòng. Điều này có thể chỉ ra rằng trong khi còn
một số vấn đề cần được giải quyết, chúng vẫn ở mức độ chấp nhận được đối với hầu hết
sinh viên. Một số môn học như bóng bàn có thể không cung cấp đủ vợt, bóng, số bàn
cũng ít nên khó đáp ứng nhu cầu tương đối lớn của sinh viên trong học phần Bóng bàn cơ
bản, hay bóng rổ, bóng chuyền có nhiều trái bị xịt hơi, không căng, thiếu bóng gây cảm
giác không hài lòng cho sinh viên theo học hai học phần này.
Mức độ bình thường (14%) chỉ ra rằng một phần nhỏ sinh viên không có ý kiến quá lớn
về việc này, có thể cảm thấy thoải mái đủ để tiếp tục sử dụng mà không gặp phải các vấn
đề đáng kể.
Tóm lại, kết quả khảo sát cho thấy sân bãi TDTT đã đáp ứng được yêu cầu về đồ dùng và
thiết bị phù hợp với các môn học. Sự hài lòng từ sinh viên không chỉ phản ánh chất lượng
của các đồ dùng, mà còn chứa đựng mong muốn về sự tiện lợi và chất lượng của trang
thiết bị. Mặc dù có một số ý kiến tiêu cực, việc tiếp tục lắng nghe ý kiến của sinh viên và
thực hiện các cải tiến có thể giúp nâng cao trải nghiệm thể thao và tập luyện của họ.-
Sân bãi TDTT hiện đại, sạch sẽ (QS3)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát về sân bãi Thể dục thể thao (TDTT), có thể thấy rằng sinh
viên đánh giá khá tích cực về việc sân bãi này được coi là hiện đại và sạch sẽ, mặc dù có
một số ý kiến không hài lòng. Mức độ hài lòng (44%) chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cuộc
khảo sát này. Điều này cho thấy hầu hết sinh viên đều hài lòng với việc sân bãi TDTT
được thiết kế và trang trí theo kiểu hiện đại, cung cấp không gian thoáng đãng và tiện
nghi. Sự hài lòng này có thể phản ánh việc sân bãi đáp ứng được mong muốn của sinh
viên về một môi trường thể thao hiện đại và tiện lợi.
Mức độ rất hài lòng (30%) cũng là một tỷ lệ đáng chú ý. Sự đánh giá cao này có thể
chứng minh rằng sân bãi không chỉ đáp ứng được các tiêu chuẩn về hiện đại mà còn về
mức độ sạch sẽ, giúp sinh viên cảm thấy thoải mái và an toàn khi sử dụng. Chứng tỏ công
tác vệ sinh, quét dọn của công nhân viên được thực hiện tốt mang đến không gian sân bãi
sạch sẽ, thoải mái, sân bãi cũng được trang bị, cập nhật công nghệ mới nhất mang đến sự
hài lòng cho sinh viên.
Mặc dù có một số sinh viên cảm thấy không hài lòng (6%) hoặc rất không hài lòng (4%),
tỷ lệ này thấp hơn so với các mức độ hài lòng. Điều này có thể chỉ ra rằng trong khi có
một số vấn đề cần được giải quyết, chúng vẫn ở mức độ chấp nhận được đối với hầu hết
sinh viên. Mức độ bình thường (16%) chỉ ra rằng một phần nhỏ sinh viên không có ý kiến
quá lớn về việc này, có thể cảm thấy thoải mái đủ để tiếp tục sử dụng mà không gặp phải
các vấn đề đáng kể.
Tóm lại, kết quả của cuộc khảo sát cho thấy sân bãi TDTT đáp ứng được yêu cầu về hiện
đại và sạch sẽ, cung cấp một môi trường thể thao tương đối tốt cho sinh viên. Tuy nhiên,
việc lắng nghe ý kiến của sinh viên không hài lòng và thực hiện các biện pháp cải thiện
có thể giúp nâng cao chất lượng và trải nghiệm của họ khi sử dụng sân bãi TDTT.
4.7. Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về KHU VỰC CANTEEN
tại trường đại học Thăng Long
KHU VỰC CANTEEN
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
QT1 QT2 QT3 QT4

Rất hài lòng Hài lòng Bình thường


Không hài lòng Rất không hài lòng

Bảng…. Biểu đồ kết quả đánh giá nhân tố khu vực CANTEEN
Khu vực canteen KHÔNG có đầy đủ chỗ ngồi cho sinh viên ăn và nghỉ (QT1)
Dựa vào kết quả của cuộc khảo sát, chúng tôi đã thu được dữ liệu về mức độ đánh giá của
sinh viên về tình hình chỗ ngồi tại khu vực canteen. Kết quả thống kê cho thấy mức độ
đánh giá của sinh viên như sau:
Mức độ bình thường chiếm tỷ lệ cao nhất với 27%. Mức này có thể coi vấn đề này là phổ
biến và không gây ra quan ngại lớn. Mức rất đồng ý chiếm 19%, những người này đồng ý
với quan điểm rằng khu vực canteen không đủ chỗ ngồi, và họ đánh giá tình hình này rất
không tốt. Mức đồng ý chiếm 25%, đây là những người đồng tình với ý kiến rằng khu
vực canteen không đủ chỗ ngồi, mặc dù có thể không đánh giá tình hình đó một cách tiêu
cực như mức rất đồng ý. Có gần một nửa số sinh viên cảm thấy khu vực nhà ăn của
trường thiếu chỗ ngồi, có thể vào những giờ cao điểm trong ngày, canteen phải phục vụ
một lượng khách lớn cả giảng viên và sinh viên dẫn đến quá tải nên không khó tránh khỏi
việc thiếu chỗ ngồi.
Mức không đồng ý chiếm 22%, những người này không đồng ý với quan điểm rằng khu
vực canteen không đủ chỗ ngồi, cho rằng có đủ chỗ ngồi cho sinh viên. Mức rất không
đồng ý chiếm 7%, đây là những người phản đối mạnh mẽ ý kiến rằng khu vực canteen
không đủ chỗ ngồi cho sinh viên. Có khoảng 1/3 tổng số sinh viên cảm thấy khu nhà ăn
đủ chỗ ngồi, có thể họ đánh giá cao mức độ phục vụ của canteen, hoặc họ thường xuyên
sử dụng canteen vào những giờ không đông.
Từ kết quả trên, có thể thấy rằng mặc dù có một phần không nhỏ sinh viên không đồng
tình với quan điểm rằng khu vực canteen không đủ chỗ ngồi, nhưng tỷ lệ đồng tình và rất
đồng tình lại chiếm tỷ lệ cao hơn, điều này cho thấy có một phần đáng kể sinh viên cảm
thấy không hài lòng với tình hình chỗ ngồi tại khu vực canteen hiện tại.
Khu vực canteen KHÔNG hiện đại, KHÔNG đáp ứng các nhu cầu của sinh viên.
(QT2)
Dựa vào kết quả cuộc khảo sát, chúng tôi thu thập được dữ liệu về đánh giá của sinh viên
về khu vực canteen. Kết quả thống kê cho thấy các mức độ đánh giá như sau: Mức độ
không đồng ý chiếm tỷ lệ cao nhất với 40%. Đây là những sinh viên không đồng tình với
quan điểm rằng khu vực canteen không hiện đại và không đáp ứng các nhu cầu của họ.
Mức độ bình thường chiếm 26%. Một số sinh viên cảm thấy tình hình canteen là bình
thường, không hiện đại nhưng cũng không quá kém, lỗi thời. Mức độ rất không đồng ý
chiếm 19%. Một số sinh viên phản đối mạnh mẽ ý kiến rằng khu vực canteen không hiện
đại và không đáp ứng các nhu cầu của họ. Có 75/100 đáp viên đánh giá rằng nhà ăn hiện
đại và đáp ứng nhu cầu của họ, chứng tỏ rằng khu canteen được trang bị đầy đủ thiết bị,
dụng cụ phục vụ ăn uống, nhân viên canteen cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình
mang đến trải nghiệm tốt nhất cho sinh viên.
Mức độ rất đồng ý chiếm 2%. Chỉ một số ít sinh viên đồng ý rằng khu vực canteen không
hiện đại và không đáp ứng các nhu cầu của họ một cách rất tích cực. Mức độ đồng ý
chiếm 13%. Một phần nhỏ sinh viên đồng tình với quan điểm trên, nhưng không đánh giá
tình hình đó một cách tiêu cực như mức rất đồng ý. Với 1/3 tổng số đáp ứng đánh giá
rằng khu nhà ăn không hiện đại, không đáp ứng được nhu cầu của họ, chứng tỏ có vài
vấn đề ở canteen khiến họ không hài lòng, như máy quạt không mát, hệ thống hút mùi
chưa tốt dẫn đến quần áo của đáp viên sau khi sử dụng dịch vụ tại nhà ăn bị ám mùi.. điều
đó khiến họ không hài lòng.
Từ kết quả trên, có thể thấy rằng tỷ lệ sinh viên không hài lòng với khu vực canteen hiện
tại chiếm tỷ lệ lớn, với hơn một nửa số người tham gia cuộc khảo sát đánh giá rằng nó
đáp ứng các tiêu chuẩn hiện đại và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của sinh viên.
Sinh viên KHÔNG hài lòng với cách trang trí, sắp xếp chỗ ăn ở khu vực canteen
(QT3)
Dựa vào kết quả của cuộc khảo sát, chúng tôi thu thập được dữ liệu từ sinh viên về cách
trang trí và sắp xếp chỗ ăn tại khu vực canteen. Câu hỏi được đặt ra là "Sinh viên
KHÔNG hài lòng với cách trang trí, sắp xếp chỗ ăn ở khu vực canteen." Kết quả thống kê
cho thấy mức độ đánh giá của sinh viên như sau:
Mức độ Không đồng ý và Rất không đồng ý: Chiếm tỷ lệ cao nhất, lên đến 60%. Đây là
số liệu đáng chú ý, chỉ ra rằng đa số sinh viên hài lòng với cách trang trí và sắp xếp chỗ
ăn tại khu vực canteen. Điều này có thể ám chỉ rằng họ thấy thoải mái hoặc hài lòng với
môi trường này, có thể do đầy đủ không gian, đầy đủ sự thoải mái hoặc thực hiện được
các hoạt động một cách thuận lợi.
Mức độ Bình thường: Chiếm 29%. Một số sinh viên cảm thấy rằng trang trí và sắp xếp
chỗ ăn tại canteen chỉ ở mức độ bình thường, không tốt cũng không tồi.
Gần 90% đáp viên đánh giá trên trên mức trung bình về cách trang trí, sắp xếp chỗ ăn.
Chứng tỏ khu vực nhà ăn được bài trí, sắp xếp rất tốt, đẹp mắt, phù hợp với không gian
và đáp ứng nhu cầu của sinh viên.
Mức độ Đồng ý và Rất đồng ý: Chiếm 8% và 3% tương ứng. Số lượng sinh viên đồng ý
và rất đồng ý với cách trang trí và sắp xếp chỗ ăn tại khu vực canteen là rất kém, chỉ là
một phần nhỏ so với tổng số người tham gia khảo sát. Có vài sinh viên gặp khó khăn
trong việc tìm kiếm chỗ ngồi, hoặc cảm thấy không gian nhà ăn không thuận mắt.
Từ kết quả trên, có thể kết luận rằng đa số sinh viên hài lòng với cách trang trí và sắp xếp
chỗ ăn tại khu vực canteen. Điều này có thể làm gia tăng mức độ thoải mái và hài lòng
khi sử dụng khu vực này.
Khu vực canteen KHÔNG đủ đồ ăn, KHÔNG đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
(QT4)
Dựa vào kết quả của cuộc khảo sát, chúng tôi thu thập được dữ liệu từ sinh viên về việc
đủ đồ ăn và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại khu vực canteen. Câu hỏi được đặt ra
là "Khu vực canteen KHÔNG đủ đồ ăn, KHÔNG đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm."
Kết quả thống kê cho thấy mức độ đánh giá của sinh viên như sau:
Mức độ không đồng ý và rất không đồng ý chiếm tỷ lệ cao nhất, lên đến 63%. Đây là số
liệu đáng chú ý, chỉ ra rằng đa số sinh viên không đồng tình với quan điểm rằng khu vực
canteen không đủ đồ ăn và không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này có thể là
một vấn đề tích cực, đặc biệt sinh viên cảm thấy rằng thực phẩm an toàn về vấn đề sức
khỏe. Mức độ bình thường chiếm 29%. Một số sinh viên cảm thấy rằng tình hình canteen
là bình thường, không quá tệ nhưng cũng không đủ tốt để nhận xét tích cực. Tổng số
92/100 đáp viên đánh giá trên mức trung bình về đồ ăn của canteen, cho thấy thức ăn của
canteen được chế biến, bày bán hoàn toàn đảm bảo vệ sinh an toàn, đủ số lượng để đáp
ứng nhu cầu sinh viên.
Mức độ đồng ý và rất đồng ý chiếm 6% và 2% tương ứng. Số lượng sinh viên đồng ý và
rất đồng ý với việc canteen không đủ đồ ăn và không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
là rất ít, chỉ là một phần nhỏ so với tổng số người tham gia khảo sát. Có vài sinh viên bị
thiếu đồ ăn, hoặc khu họ kết thúc lớp học thì các phần đồ ăn đã hết hoặc họ cảm thấy đồ
ăn không đủ an toàn sạch sẽ.
Từ kết quả trên, có thể kết luận rằng đa số sinh viên hài lòng với tình hình đủ đồ ăn và vệ
sinh an toàn thực phẩm tại khu vực canteen. Điều này có thể tạo ra sự an tâm về sức khỏe
và an toàn thực phẩm trong toàn thể sinh viên,
4.8. Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về KHU VỰC VƯỜN SINH
VIÊN tại trường đại học Thăng Long

KHU VỰC VƯỜN SINH VIÊN


100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
QG1 QG2 QG3

Rất hài lòng Hài lòng Bình thường


Không hài lòng Rất không hài lòng

Bảng…. Biểu đồ kết quả đánh giá nhân tố khu vực vườn sinh viên
Khu vực vườn sinh viên có quang cảnh, cây cối mát mẻ, yên tĩnh (QG1)
Dựa vào kết quả của cuộc khảo sát về khu vực vườn sinh viên, có thể thấy rằng đa số sinh
viên đánh giá tích cực về quang cảnh, cây cỏ và yên bình của khu vực này. Theo số liệu,
có 33% sinh viên cho biết họ rất hài lòng, trong khi 42% hài lòng. Tuy nhiên, cũng có
một phần nhỏ sinh viên (7% không hài lòng và 6% rất không hài lòng) không đánh giá
cao khu vực này. Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến các đánh giá khác nhau từ phía
sinh viên:
Mức độ Hài lòng và Rất hài lòng nguyên nhân do quang cảnh đẹp sinh viên có thể hài
lòng với vẻ đẹp tự nhiên của khu vực vườn sinh viên, với cây cỏ xanh mướt và các loại
hoa lá đa dạng, tạo nên một môi trường thư giãn và hứng khởi. Yên bình và mát mẻ sự
yên tĩnh của khu vực có thể tạo điều kiện cho việc học tập và nghỉ ngơi. Cây cỏ xanh
mướt cũng mang lại cảm giác mát mẻ, đặc biệt vào các ngày nắng nóng.
Mức độ Bình thường thể hiện mức độ kỳ vọng không cao, một số sinh viên có thể không
có kỳ vọng cao đối với khu vực vườn sinh viên hoặc không dành quá nhiều thời gian tại
đây, do đó họ đánh giá mức độ bình thường.
Mức độ Không hài lòng và Rất không hài lòng nếu khu vực không được duy trì đúng
cách, có thể xuất hiện vấn đề về rác thải, cây cỏ không được chăm sóc hoặc không gian
không được giữ gìn sạch sẽ, điều này có thể làm giảm chất lượng của khu vực vườn. Tiện
ích không đủ nếu không có đủ ghế ngồi hoặc không có các tiện ích như bàn, wifi hoặc
không gian che chắn khỏi nắng, sinh viên có thể cảm thấy không thoải mái khi sử dụng
khu vực này.
Khu vực vườn sinh viên bàn ghế không bị hỏng hóc (QG2)
Dựa vào kết quả của cuộc khảo sát về tình trạng bàn ghế trong khu vực vườn sinh viên,
có thể thấy rằng đa số sinh viên đánh giá tích cực về tình trạng của bàn ghế này. Theo số
liệu, có 24% sinh viên cho biết họ rất hài lòng, trong khi 45% hài lòng. Tuy nhiên, cũng
có một số sinh viên (10% không hài lòng và 2% rất không hài lòng) không hài lòng với
tình trạng của bàn ghế. Có một số nguyên nhân mà sinh viên có thể đánh giá tình trạng
bàn ghế như vậy:
Mức độ Hài lòng và Rất hài lòng lý do bởi bàn ghế ổn định không bị hỏng hóc, điều này
tạo ra một môi trường ngồi thoải mái và an toàn cho sinh viên. Khả năng sử dụng ổn
định của bàn ghế giúp sinh viên có thể sử dụng chúng một cách thuận lợi, không gây ra
bất kỳ bất tiện nào trong quá trình học tập hoặc nghỉ ngơi.
Mức độ bình thường độ tuổi của bàn ghế bàn ghế có thể ở trong tình trạng bình thường
do tuổi tác và việc sử dụng thường xuyên. Những chi tiết nhỏ có thể có một chút hỏng
hóc nhưng không ảnh hưởng đến việc sử dụng chung của sinh viên.
Mức độ Không hài lòng và Rất không hài lòng nguyên do bởi hỏng hóc và thiếu an toàn:
Nếu có bàn ghế bị hỏng hóc hoặc không an toàn để sử dụng, điều này có thể làm cho sinh
viên không hài lòng. Bất kỳ sự hỏng hóc nào có thể gây ra nguy cơ chấn thương hoặc
không thoải mái khi ngồi.
Tóm lại, tình trạng của bàn ghế trong khu vực vườn sinh viên có thể ảnh hưởng đến trải
nghiệm của sinh viên tại đây. Nếu bàn ghế được duy trì và giữ gìn đúng cách, nó sẽ tạo ra
một môi trường thoải mái và an toàn, giúp sinh viên cảm thấy hài lòng khi sử dụng không
gian này.
Xích đu vườn sinh viên còn mới (QG3)
Dựa vào kết quả của cuộc khảo sát về tình trạng của xích đu trong khu vực vườn sinh
viên, có thể thấy rằng đa số sinh viên đánh giá tích cực về tình trạng của xích đu này, mặc
dù có một số ý kiến tiêu cực.
Số liệu cho thấy 56% sinh viên (20% rất hài lòng và 36% hài lòng) đều hài lòng với tình
trạng mới của xích đu. Họ có thể cảm nhận được chất lượng và tính an toàn của xích đu,
khiến cho việc sử dụng nó trở thành một trải nghiệm dễ dàng và thoải mái. Xích đu luôn
được các nhân viên kĩ thuật của nhà trường trùng tu, sửa chữa, sơn mới, nên chất lượng
cũng như hình dáng đều khiến sinh viên hài lòng.
Mặc dù có một phần nhỏ sinh viên (8% không hài lòng và 1% rất không hài lòng) không
hài lòng với tình trạng của xích đu, có thể điều này liên quan đến các vấn đề như an toàn
hoặc tuỳ thuộc vào tiêu chí cá nhân của họ về việc đánh giá xích đu là mới hay cũ. Có vài
sinh viên gặp tình trạng xích đu bị bẩn, len sơn, tiếng kêu to khi ngồi khiến cho họ cảm
thấy không an toàn, thoái mái khi sử dụng.
Tuy vậy, với hơn một nửa sinh viên hài lòng, có thể kết luận rằng xích đu trong khu vực
vườn sinh viên đang đáp ứng được mong muốn của đa số người sử dụng, tạo ra một
không gian giải trí và thư giãn tốt cho cộng đồng sinh viên.
4.9. Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về KHU VỰC BÃI ĐỖ XE
tại trường đại học Thăng Long

KHU VỰC BÃI ĐỖ


100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
QX1 QX2

Rất hài lòng Hài lòng Bình thường


Không hài lòng Rất không hài lòng

Bảng…. Biểu đồ kết quả đánh giá nhân tố khu vực bãi đỗ xe
Nhà xe của sinh viên rộng rãi, có đủ chỗ để xe (QX1)
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát, chúng tôi đã thực hiện phân tích về mức độ
hài lòng của sinh viên đối với nhà xe của trường. Kết quả này cho thấy rằng nhà xe của
sinh viên được đánh giá rộng rãi, với 37% sinh viên cho biết họ hài lòng, trong khi có
17% sinh viên cho biết họ rất hài lòng. Một phần đáng chú ý là 26% sinh viên đánh giá
mức độ hài lòng của họ là bình thường. Khoảng 80% đáp viên cảm thấy hài lòng với nhà
xe của trường, có đủ chỗ, diện tích rộng phục vụ cho toàn bộ sinh viên trong trường.
Tuy nhiên, cũng có một phần nhỏ sinh viên không hài lòng với nhà xe này. Cụ thể, 15%
sinh viên cho biết họ không hài lòng và 5% sinh viên cho biết họ rất không hài lòng với
nhà xe của sinh viên. Có thể do những ngày có cả 3 nhóm đi học dẫn đến tình trạng quá
tải chỗ dựng xe, khiến sinh viên khó khăn trong việc tìm chỗ để xe hay tìm kiếm xe lúc
về do nhân viên trông xe dắt đi chỗ khác, hoặc cũng do nhân viên trông giữ xe chưa sắp
xếp xe tốt dẫn đến thiếu chỗ để.
Dựa trên kết quả này, có thể kết luận rằng mặc dù có một phần nhỏ sinh viên không hài
lòng, nhà xe vẫn đáp ứng tốt nhu cầu của đa số sinh viên, cung cấp đủ chỗ để xe và được
đánh giá tích cực với tỷ lệ cao về hài lòng.
Nhà để xe có mái chắn nắng, mưa (QX2)
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát, chúng tôi đã thực hiện phân tích về mức độ
hài lòng của sinh viên đối với việc có mái chắn nắng và mưa tại nhà để xe trường. Kết
quả này cho thấy rằng việc có mái chắn nắng và mưa tại nhà để xe được đánh giá tích cực
từ đa số sinh viên.
Tỷ lệ đáng chú ý là 43% sinh viên cho biết họ hài lòng với việc có mái chắn này, trong
khi có 19% sinh viên cho biết họ rất hài lòng. Điều này cho thấy rằng việc cung cấp mái
chắn nắng và mưa tại nhà để xe đáp ứng được nhu cầu của một lượng lớn sinh viên. Có
gần 2/3 tổng số sinh viên hài lòng với mái chắn nắng mưa của nhà xe, nhà trường nỗ lực
trong việc trang bị mái chắn cho khu vực để xe, đảm bảo cho xe của sinh viên không bị
hư hỏng do thời tiết.
Ngoài ra, có 27% sinh viên cho biết họ cảm thấy việc này là bình thường. Điều này có thể
ngụ ý rằng mái chắn nắng và mưa được xem là điều tự nhiên và không gây ấn tượng
mạnh, nhưng vẫn đủ để đáp ứng mong đợi của họ.
Mặc dù tỷ lệ này cao, cũng có một phần nhỏ sinh viên không hài lòng với tình hình hiện
tại. Cụ thể, 7% sinh viên cho biết họ không hài lòng và 4% sinh viên cho biết họ rất
không hài lòng với mái chắn nắng và mưa tại nhà để xe. Có thể vào những ngày quá tải
xe khiến cho nhân viên trông xe phải hướng dẫn sinh viên dựng xe ở ngoài trời khiến xe
của họ gặp phải vài vấn đề như hỏng hóc, bánh xe bị xịt hơi.
Từ kết quả này, có thể suy ra rằng trong khi nhiều sinh viên cảm thấy hài lòng hoặc rất
hài lòng với mái chắn nắng và mưa tại nhà để xe, vẫn cần có sự cải thiện hoặc điều chỉnh
để đáp ứng mong muốn của những sinh viên không hài lòng và rất không hài lòng về điều
này.
4.10. Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về HỆ THỐNG ĐIỆN,
NƯỚC, WIFI, WEBSITE tại trường đại học Thăng Long

HỆ THỐNG ĐIỆN NƯỚC


100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
QW1 QW2 QW3 QW4 QW5

Rất hài lòng Hài lòng Bình thường


Không hài lòng Rất không hài lòng

Bảng…. Biểu đồ kết quả đánh giá nhân tố hệ thống điện nước, wifi.
Hệ thống wifi được phủ sóng toàn trường đáp ứng tốt nhu cầu học tập của sinh viên
(QW1)
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát về hệ thống wifi tại trường, chúng tôi đã tiến
hành phân tích để hiểu tình hình và nguyên nhân đằng sau các mức độ đánh giá từ sinh
viên. Kết quả cho thấy rằng hệ thống wifi tại trường đã thu hút sự chú ý đáng kể từ sinh
viên. Cụ thể như sau:
Có 18% sinh viên rất đồng ý rằng hệ thống wifi đáp ứng tốt nhu cầu học tập của họ nuyên
nhân có thể là chất lượng tín hiệu tốt và ổn định, giúp hỗ trợ các hoạt động học tập trực
tuyến một cách hiệu quả. Hỗ trợ kỹ thuật tốt từ bộ phận hỗ trợ kỹ thuật nhanh chóng và
hiệu quả khi gặp vấn đề.
Có 24% sinh viên đồng ý rằng hệ thống wifi đáp ứng nhu cầu học tập của họ. Nguyên
nhân có thể là chất lượng tín hiệu đủ tốt để hỗ trợ hầu hết các hoạt động học tập, mặc dù
có thể có một số vấn đề nhỏ. Có sự hỗ trợ kỹ thuật, nhưng có thể cần được cải thiện để
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sinh viên.
Có 26% sinh viên thấy bình thường về hệ thống wifi, nguyên nhân có thể là chất lượng
tín hiệu đủ tốt, nhưng không ổn định dẫn đến sinh viên có thể nhận thấy rằng tín hiệu đôi
khi không ổn định, dẫn đến trải nghiệm kết nối không đồng đều. Hỗ trợ kỹ thuật có thể đã
được cung cấp, nhưng không đủ để giải quyết tất cả các vấn đề một cách hiệu quả.
Tổng có hơn 70/100 đáp viên đánh giá trên mức trung bình về mức độ phủ sóng của wifi
chứng tỏ công tác hỗ trợ, nhân viên kĩ thuật và phía nhà trường đang rất nỗ lực mang lại
cho sinh viên trải nghiệm tốt nhất khi sử dụng hệ thống mạng wifi. Cụ thể như mỗi tầng
của tòa học, phòng tự học, các lớp học, giảng đường, thư viện đều có mạng wifi riêng.
Khu vực ở phòng ban cho giảng viên có trang bị mạng wifi riêng có bảo mật.
Với 25% sinh viên không đồng ý rằng hệ thống wifi đáp ứng tốt nhu cầu học tập của họ,
nguyên nhân có thể do chất lượng tín hiệu thấp, dẫn đến gián đoạn trong quá trình học tập
trực tuyến. Hỗ trợ kỹ thuật không đáp ứng được các vấn đề hoặc không được cung cấp
một cách hiệu quả.
Và 7% sinh viên rất không đồng ý rằng hệ thống wifi đáp ứng tốt nhu cầu học tập của họ
có thể do tín hiệu wifi có thể rất kém, gây ra nhiều gián đoạn và không thể sử dụng cho
các hoạt động học tập trực tuyến, thi cử. Hỗ trợ kỹ thuật không được cung cấp hoặc
không đủ để giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả, nhanh chóng.
Với hơn 1/3 tổng số đáp viên đánh giá không tốt, chứng tỏ mạng wifi của nhà trường vẫn
tồn tại vấn đề cần giải quyết. Do sự hạn chế về phạm vi mạng không đáp ứng đủ cho số
lượng sinh viên đông đảo, đôi khi xảy ra tình trạng mất kết nối, thậm chí có những trường
hợp mất mạng toàn bộ hệ thống, gây không hài lòng cho sinh viên và ảnh hưởng đến quá
trình học tập và giảng dạy.
Nhìn chung, từ kết quả trên có thể hiểu rõ hơn về nguyên nhân cụ thể mà sinh viên gặp
phải khi sử dụng hệ thống wifi trên trường và đề xuất những hướng đi để cải thiện tình
hình dựa trên những yếu tố đã được xác định.
Website TLU, Fanpage, E-learning thường xuyên được cập nhật (QW2)
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát, chúng tôi đã tiến hành phân tích về việc cập
nhật thông tin trên website của trường (TLU), fanpage và hệ thống E-learning. Kết quả
cho thấy có một số điểm tích cực, nhưng cũng còn những vấn đề cần được chú ý.
Tỷ lệ đáng chú ý là 61% sinh viên (bao gồm 43% đồng ý và 18% rất đồng ý) cho biết họ
cảm thấy thông tin trên website của trường, fanpage và hệ thống E-learning được cập
nhật đều đặn. Điều này cho thấy một phần lớn sinh viên đánh giá tích cực về việc những
nguồn thông tin này được duy trì và cập nhật liên tục. Chứng tỏ các thông tin ở website,
fanpage, hệ thống E-learning có ích và được dễ dàng tìm thấy bởi sinh viên, họ cũng dễ
dàng tiếp cận cũng như sử dụng hệ thống này.
Tuy nhiên, cũng có 29% sinh viên (ở mức bình thường) cho biết họ cảm thấy thông tin
cập nhật không đều đặn hoặc không đủ thường xuyên. Điều này có thể tạo ra sự bất tiện
cho sinh viên khi họ cố gắng tìm kiếm thông tin quan trọng về các khóa học, sự kiện hoặc
các thông báo quan trọng khác.
Ngoài ra, có một phần nhỏ sinh viên (tổng cộng 10%, bao gồm 7% rất không đồng ý và
3% rất đồng ý) không hài lòng với tình trạng cập nhật thông tin trên các nền tảng truyền
thông này. Điều này ngụ ý rằng vẫn còn những vấn đề cần được giải quyết, có thể bao
gồm việc cải thiện quy trình cập nhật thông tin hoặc tăng cường giao tiếp với sinh viên để
đảm bảo họ nhận được thông tin chính xác và kịp thời. Vài trường hợp, sinh viên gặp khó
khăn trong việc tìm kiếm thông tin về lịch thi, đóng học phí, các hoạt động của trường
hay khó khăn trong tra cứu, sử dụng, học tập trên các nền tảng này.
Từ kết quả này, có thể kết luận rằng việc cập nhật thông tin trên website của trường
(TLU), fanpage và hệ thống E-learning đã được đánh giá tích cực bởi một số lượng đáng
kể sinh viên, nhưng cũng cần có sự cải thiện để đáp ứng mong muốn của những sinh viên
không hài lòng hoặc rất không hài lòng về tình trạng này.
Mạng Internet, Website TLU hữu ích đối với sinh viên(QW3)
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát, chúng tôi đã tiến hành phân tích về việc đánh
giá mức độ hữu ích của mạng Internet và trang web của trường (TLU) đối với sinh viên.
Kết quả này cung cấp cái nhìn sâu hơn về cách mà sinh viên đánh giá tài nguyên trực
tuyến của trường.
Tỷ lệ đáng chú ý là 60% sinh viên (bao gồm 39% đồng ý và 21% rất đồng ý) cho biết họ
cảm thấy mạng Internet và trang web của trường hữu ích đối với họ. Điều này ngụ ý rằng
một số lượng đáng kể sinh viên nhận thức giá trị của việc có một kết nối Internet ổn định
cùng với trang web đầy đủ thông tin và hữu ích.
Mặc dù có tỷ lệ đáng chú ý hữu ích, vẫn có 35% sinh viên đánh giá rằng tài nguyên này
chỉ ở mức bình thường. Điều này có thể ngụ ý rằng trong khi mạng Internet và trang web
của trường đang cung cấp thông tin cần thiết, có thể còn cần cải thiện để đáp ứng mong
muốn của sinh viên hoặc để tối ưu hóa trải nghiệm truy cập thông tin của họ.
Ngoài ra, có một số nhỏ sinh viên (tổng cộng 5%, bao gồm 4% rất đồng ý và 1% rất
không đồng ý) cảm thấy mạng Internet và trang web của trường không hữu ích đối với
họ. Điều này có thể là kết quả của các vấn đề kỹ thuật hoặc thiếu thông tin hữu ích trên
trang web. Vài vấn đề xảy ra như website bị lỗi, sập hệ thống khi đăng kí học hay tra cứu
thông tin khó khăn, mạng internet trục trặc, ngắt kết nối hay sóng yếu.
Từ kết quả này, có thể kết luận rằng trong khi một số lượng đáng kể sinh viên đánh giá
cao giá trị của mạng Internet và trang web của trường, vẫn cần có sự cải thiện hoặc điều
chỉnh để đáp ứng mong muốn của những sinh viên không hài lòng hoặc chưa cảm thấy đủ
hữu ích với tài nguyên trực tuyến này. Điều này có thể bao gồm việc tối ưu hóa trang
web, cung cấp nhiều thông tin hơn hoặc giải quyết các vấn đề kỹ thuật liên quan đến
mạng Internet.
Giáo trình, tài liệu học tập của mỗi môn học được thông báo đầy đủ, đa dạng trên
E-learning, MS Teams (QW4)
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát về việc thông báo giáo trình và tài liệu học tập
trên các nền tảng như E-learning và MS Teams, chúng tôi đã tiến hành phân tích để hiểu
tình hình và nguyên nhân đằng sau các mức độ đánh giá từ sinh viên. Kết quả cho thấy có
một số điểm tích cực, nhưng cũng còn những vấn đề cần được chú ý.
Tỷ lệ đáng chú ý là 65% sinh viên (bao gồm 45% đồng ý và 20% rất đồng ý) cho biết họ
cảm thấy giáo trình và tài liệu học tập của mỗi môn học được thông báo đầy đủ và đa
dạng trên các nền tảng như E-learning và MS Teams. Điều này cho thấy một phần lớn
sinh viên đánh giá tích cực về việc nhận thông tin học tập, giúp họ chuẩn bị tốt cho các
khóa học của mình.
Tuy nhiên, vẫn có 27% sinh viên (tức 27% ở mức bình thường) cho biết họ cảm thấy
thông tin không được thông báo một cách đủ đầy đủ hoặc đa dạng. Điều này có thể ngụ ý
rằng mặc dù có sự cố gắng trong việc cung cấp thông tin học tập, có thể cần tăng cường
về việc đa dạng hóa nội dung hoặc cải thiện quy trình thông báo để đáp ứng mong muốn
của sinh viên.
Ngoài ra, mặc dù tỷ lệ này thấp, vẫn có một phần nhỏ sinh viên (tổng cộng 8%, bao gồm
5% rất đồng ý và 3% rất không đồng ý) không hài lòng với việc thông báo giáo trình và
tài liệu học tập trên các nền tảng trực tuyến này. Điều này có thể gây ra mất mát trong
việc chủ động học tập của họ. Việc các giảng viên không cập nhật đúng hạn các tài liệu,
hay hệ thống bị lỗi cũng khiến sinh viên đánh giá không cao.
Từ kết quả này, có thể kết luận rằng trong khi nhiều sinh viên đánh giá cao việc thông
báo giáo trình và tài liệu học tập trên E-learning và MS Teams, vẫn cần có sự cải thiện
hoặc điều chỉnh để đáp ứng mong muốn của những sinh viên không hài lòng hoặc cảm
thấy thông tin không đủ đa dạng. Điều này có thể bao gồm việc tăng cường việc đa dạng
hóa nội dung, cải thiện quy trình thông báo, hoặc tăng cường giao tiếp với sinh viên để
đảm bảo họ nhận được thông tin chính xác và kịp thời.
Hệ thống điện, nước hoạt động tốt, thuận tiện (QW5)
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát về hệ thống điện và nước tại trường, chúng tôi
đã tiến hành phân tích để hiểu tình hình và nguyên nhân đằng sau các mức độ đánh giá từ
sinh viên. Kết quả này cung cấp cái nhìn sâu hơn về việc họ đánh giá hệ thống cơ sở vật
chất cần thiết này.
Tỷ lệ đáng chú ý là 68% sinh viên (bao gồm 41% đồng ý và 27% rất đồng ý) cho biết họ
cảm thấy hệ thống điện và nước tại trường hoạt động tốt và thuận tiện. Điều này ngụ ý
rằng đa số sinh viên đánh giá cao việc có một hệ thống điện và nước ổn định, giúp họ tiện
lợi trong việc sinh hoạt hàng ngày và học tập. Hệ thống điện đang trang bị rộng khắp
trường, hệ thống nước uống cung cấp liên tục 24/7 mang đến sự hài lòng tối đa cho sinh
viên. Nhà vệ sinh cũng được trang bị điện nước hay vật tư đầy đủ, sạch sẽ, đáp ứng nhu
cầu sinh viên.
Mặc dù có tỷ lệ đáng chú ý về sự hài lòng, vẫn có 22% sinh viên (tức 22% ở mức bình
thường) cho biết họ cảm thấy hệ thống này chỉ ở mức độ bình thường. Điều này có thể
ngụ ý rằng có thể có những vấn đề nhỏ hoặc gián đoạn đôi khi trong việc cung cấp điện
và nước, gây ra sự bất tiện cho sinh viên.
Ngoài ra, mặc dù tỷ lệ này thấp, vẫn có 10% sinh viên (bao gồm 8% rất đồng ý và 2% rất
không đồng ý) không hài lòng với tình trạng hiện tại của hệ thống điện và nước tại
trường. Điều này có thể xuất phát từ các vấn đề kỹ thuật hoặc gián đoạn dài hơn trong
việc cung cấp điện và nước. Đôi khi việc cung cấp nước uống chưa được liên tục ở những
tầng nhà cao của tòa học, hay hệ thống điện bị ngắt bất ngờ mà không có dự phòng khiến
sinh viên gặp vấn đề như thiếu sáng, thiếu mát trong điều kiện thời tiết không tốt.
Từ kết quả này, có thể kết luận rằng trong khi hầu hết sinh viên đánh giá cao việc hoạt
động của hệ thống điện và nước tại trường, vẫn cần có sự cải thiện hoặc điều chỉnh để
đáp ứng mong muốn của những sinh viên không hài lòng hoặc cảm thấy bất tiện với tình
trạng này. Điều này có thể bao gồm việc nâng cấp cơ sở hạ tầng hoặc tăng cường bảo
dưỡng để đảm bảo rằng sinh viên có được điện và nước một cách ổn định và liên tục.
4.11. Sự hài lòng với cơ sở vật chất nhà trường đã trang bị (HL), mức tiền đóng học
phí có phù hợp với cơ sở vật chất (HP), sự sẵn sàng giới thiệu (GT)
Sự hài lòng với cơ sở vật chất (HL)
Bảng…. Biểu đồ kết quả về sự hài lòng về cơ sở vật chất của sinh viên
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát về sự hài lòng của sinh viên đối với cơ sở vật
chất mà nhà trường đã trang bị, chúng tôi đã tiến hành phân tích để hiểu tình hình và
nguyên nhân đằng sau các mức độ đánh giá từ sinh viên. Kết quả này cung cấp cái nhìn
sâu hơn về việc họ đánh giá môi trường học tập và sinh hoạt của mình.
Một tỷ lệ đáng chú ý là 81% sinh viên (58% hài lòng và 23% rất hài lòng) đánh giá cao
việc trang bị cơ sở vật chất của nhà trường. Điều này cho thấy rằng đa số sinh viên cảm
thấy hài lòng với các tiện nghi và không gian học tập, kết hợp với các khu vực sinh hoạt
mà nhà trường cung cấp.
Tuy có một số lượng nhỏ sinh viên (tổng cộng 3%, bao gồm 2% không hài lòng và 1% rất
không hài lòng), họ không hài lòng với cơ sở vật chất hiện tại. Nguyên nhân có thể xuất
phát từ các vấn đề như thiếu tiện nghi, bảo trì không tốt hoặc không đáp ứng được nhu
cầu cụ thể của sinh viên.
Dựa trên kết quả này, có thể kết luận rằng hầu hết sinh viên đánh giá cao việc trang bị cơ
sở vật chất của nhà trường. Tuy nhiên, vẫn cần có sự chú ý đặc biệt đối với những phản
hồi tiêu cực để cải thiện các vấn đề nhỏ và đảm bảo rằng mọi sinh viên đều có một môi
trường học tập và sinh hoạt tốt nhất có thể. Có thể cân nhắc việc tăng cường bảo dưỡng,
cải thiện các tiện nghi hoặc tăng cường giao tiếp với sinh viên để đảm bảo rằng họ đều
hài lòng và hỗ trợ trong quá trình học tập và sinh hoạt của mình.
Hài lòng về mức học phí (HP)
Bảng…. Biểu đồ kết quả đánh giá phù hợp học phí của sinh viên.
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát về đánh giá của sinh viên về mức tiền đóng
học phí và việc phù hợp của nó với cơ sở vật chất, chúng tôi đã tiến hành phân tích để
hiểu tình hình và nguyên nhân đằng sau các mức độ đánh giá từ sinh viên. Kết quả này
cung cấp cái nhìn sâu hơn về quan điểm của sinh viên về giá trị học phí mà họ trả và
những gì họ nhận được từ trường.
Tỷ lệ đáng chú ý là 59% sinh viên (bao gồm 39% hài lòng và 20% rất hài lòng) cảm thấy
hài lòng với mức tiền học phí mà họ phải trả và cho rằng nó phù hợp với cơ sở vật chất
của trường. Điều này ngụ ý rằng một phần lớn sinh viên cảm thấy họ nhận được giá trị
tương xứng với số tiền họ trả, và họ hài lòng với mức học phí hiện tại.
Mặc dù có tỷ lệ lớn sinh viên hài lòng, vẫn có 40% sinh viên (34% ở mức bình thường,
6% không hài lòng và 1% rất không hài lòng) cảm thấy họ trả quá nhiều hoặc không thấy
hài lòng với mức tiền học phí so với cơ sở vật chất mà họ nhận được. Nguyên nhân có thể
liên quan đến các chi phí không mong muốn, sự không hài lòng với chất lượng các dịch
vụ, hoặc không thấy hài lòng với các tiện nghi và trang thiết bị được cung cấp bởi trường.
Dựa trên kết quả này, có thể kết luận rằng mặc dù có một số sinh viên hài lòng với mức
tiền đóng học phí và cảm thấy nó phù hợp với cơ sở vật chất của trường, vẫn cần có sự
chú ý đặc biệt đối với phần lớn sinh viên không hài lòng. Điều này có thể bao gồm việc
xem xét lại cấu trúc học phí, tối ưu hóa các chi phí và cải thiện chất lượng các dịch vụ và
tiện nghi để đáp ứng mong muốn và kỳ vọng của sinh viên một cách tốt nhất.
Sự sẵn sàng giới thiệu (GT)
Bảng…. Biểu đồ kết quả về sự sẵn sàng giới thiệu của sinh viên
Dựa vào kết quả thu được từ cuộc khảo sát về sự sẵn sàng của sinh viên trong việc giới
thiệu cho các khóa học, chúng tôi đã tiến hành phân tích để hiểu tình hình và nguyên
nhân đằng sau các mức độ đánh giá từ sinh viên. Kết quả này cung cấp thông tin quan
trọng về mức độ hứng khởi và sẵn lòng của sinh viên trong việc chia sẻ kinh nghiệm của
mình với người khác.
Tỷ lệ đáng chú ý là 76% sinh viên (33% rất sẵn lòng và 43% sẵn lòng) cho biết họ đều
sẵn lòng giới thiệu cho các khóa học. Điều này cho thấy một đa số sinh viên sẵn lòng chia
sẻ kiến thức và trải nghiệm của họ với những người mới, giúp tạo ra một cộng đồng học
thuật và hỗ trợ tập trung vào chia sẻ kiến thức.
Tuy có một tỷ lệ lớn sinh viên sẵn lòng, nhưng vẫn có 24% sinh viên (tức 19% ở mức
bình thường, 4% không sẵn lòng và 1% rất không sẵn lòng) không chắc chắn hoặc không
sẵn lòng giới thiệu cho các khóa học. Có thể có nhiều nguyên nhân đằng sau điều này,
bao gồm cảm giác không tự tin về kiến thức của họ, lo lắng về việc thất bại hoặc không
muốn chia sẻ thông tin cá nhân.
Từ kết quả này, có thể kết luận rằng trong khi có một số lượng lớn sinh viên sẵn lòng giới
thiệu cho các khóa học, vẫn cần có sự chú ý đặc biệt đối với sinh viên không chắc chắn
hoặc không sẵn lòng. Điều này có thể bao gồm việc cung cấp hỗ trợ và đào tạo để tăng
cường sự tự tin của họ, hoặc tạo ra các cơ hội giới thiệu dễ dàng hơn và thoải mái hơn để
khuyến khích sự tham gia của họ trong việc chia sẻ kiến thức và trải nghiệm.
4.12. Xu hướng đánh giá mức độ trung bình của đối tương
Dựa vào kết quả nghiên cứu chúng tôi tổng hợp trên 11 câu hỏi lớn tương đương 30 câu
hỏi nhỏ được phân chia theo câu chính được tính trên 100 phiếu. Chúng tôi thu được kết
quả như sau khi xét chung thang đánh giá hài lòng cũng như đồng ý: tổng số mức rất hài
lòng từ câu hỏi QC – GT là 692 lượt đánh giá, số đánh giá hài lòng là 1133 lượt đánh giá,
số đánh giá bình thường là 674 lượt, số đánh giá không hài lòng là 339 lượt, số đánh giá
rất không hài lòng là 162 lượt. Từ số liệu trên, chúng tôi tính trung bình trên 30 câu hỏi
đánh giá nhỏ thu được số đánh trung bình mỗi mức như sau: mức rất hài lòng xấp xỉ 0,23
lượt, mức hài lòng xấp xỉ 0,38 lượt, mức bình thường xấp xỉ 0,22 lượt, mức không hài
lòng là 0,113 lượt, mức rất không hài lòng là 0,054 lượt.
Qua đó, chúng tôi nhận định phân tích từ số liệu trung bình của mức hài lòng là cao nhất
và căn cứ với phân tích tỷ trọng chúng tôi khẳng định xu hướng đánh giá của sinh viên
đang nghiêng theo hướng hài lòng với các nhân tố trong cơ sở vật chất của trường đại học
Thăng Long.

You might also like