Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 44

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

BÀI TẬP GIỮA KỲ HỌC PHẦN

XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT

ĐỀ TÀI: XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT VỀ CƠ QUAN HÀNH


CHÍNH NHÀ NƯỚC

Nhóm 03

Giảng viên giảng dạy: TS. Phan Thị Lan Phương

Hà Nội, 2024

1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM

Họ và Tên Mã sinh viên

Phạm Phương Thảo : 20061261

Trần Tú Linh : 21061175

Nguyễn Thị Phương Chi : 21061335

Nguyễn Thục Anh : 21061017

Nguyễn Thị Thục Cầm : 21061037

Nguyễn Thị Hạnh : 21061101

Phạm Mai Linh : 21061171

Hoàng Thị Diệu : 21061063

Vũ Thanh Xuân : 22061372

Đỗ Thu An : 21061321

Nguyễn Ánh Ngọc : 21061209

Lê Thị Hà Nhi : 21061217

Nguyễn Thị Thảo : 22061320

Nguyễn Thu Giang : 22061088

Nông Thị Điệp : 21061079

Lương Thị Thảo : 22061314

MỤC LỤC

1
I. KHÁI QUÁT VỀ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.............................1
1.1. Khái niệm của cơ quan hành chính nhà nước..............................................1
1.2. Đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước................................................1
II. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI CỦA XHHPL TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC............................................2
2.1. Khái niệm Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước....................2
2.2. Đặc điểm xã hội học về hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.......3
2.3. Các yếu tố xã hội tác động đến hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước ………………………………………………………………………………...6
III. ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CƠ SỞ XÃ HỘI HỌC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.................................................................18
3.1. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật................................................18
3.2. Năng lực trình độ, đạo đức của các cán bộ, cơ quan.................................23
3.3. Tăng hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước............25
3.4. Trách nhiệm đối với xã hội của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước………………………………………………………………………………..30
IV. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
DƯỚI GÓC ĐỘ XÃ HỘI HIỆN NAY......................................................................33
4.1. Thực trạng.....................................................................................................33
4.2. Giải pháp........................................................................................................35
KẾT LUẬN.................................................................................................................37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................38

2
I. KHÁI QUÁT VỀ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I.1. Khái niệm của cơ quan hành chính nhà nước
Trong quá trình đổi mới đất nước và các lần ban hành hiến pháp, mới nhất là
Hiến pháp năm 2013 thì ta có thể thấy bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ngày càng toàn diện. Tức là thể chế hành chính của các cơ quan Nhà nước
đã được thay đổi sao cho phù hợp với việc quản lý xã hội, cũng như là đáp ứng công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước nhằm nâng cao hơn, hệ thống hơn cơ quan hành
chính nhà nước.
Theo Điều 94 và Điều 114 của Hiến pháp năm 2013, thuật ngữ “cơ quan hành
chính” dùng để chỉ Chính phủ, UBND các cấp. Đối với các cơ quan như Bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND là những bộ phận cơ cấu của Chính phủ,
của UBND, thì những cơ quan này không được gọi là cơ quan hành chính nhà nước.
Như vậy, theo Hiến pháp năm 2013 thì cơ quan hành chính nhà nước được sử dụng để
chỉ Chính phủ, UBND các cấp là những cơ quan quản lý có thẩm quyền chung. Tuy
nhiên trong khoa học pháp lý thì thuật ngữ cơ quan hành chính đã được mở rộng ra
bao gồm cả Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp.
Tóm lại, có thể hiểu cơ quan hành chính nhà nước là những bộ phận hợp thành
của bộ máy hành chính nhà nước, được thành lập để thực hiện chức năng hành chính
nhà nước.
I.2. Đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước
Cơ quan hành chính nhà nước có đặc điểm chung của cơ quan nhà nước, gồm
có: đây là tập thể cán bộ công chức nhà nước; có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ
chức; được trao những thẩm quyền để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước và nhân sự của cơ quan nhà nước được hình thành theo quy định của Hiến pháp,
luật pháp và các văn bản pháp luật có liên quan.
Ngoài ra, một số đặc điểm đặc trưng khác của cơ quan hành chính nhà còn có:
(1) Cơ quan hành chính nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng chính là
quản lý nhà nước (thực hiện quản lý với tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế
quốc dân và đời sống xã hội).

1
(2) Cơ quan hành chính nhà nước tạo thành hệ thống thống nhất và có tính thứ bậc
( do sự thống nhất của các quá trình kinh tế- xã hội và sự thống nhất của hoạt động
hành chính nhà nước quyết định).
(3) Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước mang tính dưới luật, được tiến hành
dựa trên cơ sở của Hiến pháp, luật, pháp lệnh để thi hành các văn bản đó.
(4) Thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt
động hành chính nhà nước (tức là không thể can thiệp hay tác động vào hoạt động xét
xử của Tòa án).
(5) Cơ quan hành chính nhà nước do cơ quan quyền lực thành lập, trực tiếp hoặc gián
tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách nhiệm và báo cáo trước cơ
quan quyền lực nhà nước.
(6) Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là đối tượng giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước (giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, thực hiện nhiệm
vụ, kế hoạch, giám sát việc thực hiện nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước).
(7) Các cơ quan hành chính nhà nước có đối tượng, khách thể tác động rộng lớn. (Đó
là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau,
các tổ chức xã hội, công dân và các quá trình chính trị, kinh tế- xã hội)1.
II. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI CỦA XHHPL TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
II.1. Khái niệm Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
a) Khái niệm
Các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và hoạt động dựa trên quy định
của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền riêng và có những mối quan hệ
phối hợp trong thực thi công việc được giao với các cơ quan khác trong bộ máy nhà
nước mà quan hệ đó được quy định bởi thẩm quyền nhất định do pháp luật quy định –
đó là tổng thể những quyền, nghĩa vụ chung và những quyền hạn cụ thể mang tính
quyền lực – pháp lý mà nhà nước trao cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà
nước2.

1
Phạm Hồng Thái- Nguyễn Thị Minh Hà, Giáo trình Luật hành chính, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, tr.109-
112
2
Khái niệm, đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước (hethongphapluat.com)

2
Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là thực hiện hoạt động quản lý hành
chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo
dục...Việc thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước là nhằm hoàn thành chức
năng quản lý hành chính nhà nước.
b) Bản chất
Bản chất của hoạt động hành chính nhà nước được thể hiện qua hai khía cạnh:
chấp hành và điều hành.
- Chấp hành là sự thực hiện trên thực tế các luật và các văn bản mang tính chất
luật của Nhà nước (các pháp lệnh và một số nghị quyết của Quốc hội), các văn bản
pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên nói chung. Nó có tính thụ động, vì đó là
chấp hành đúng nội dung và mục đích của văn bản cấp trên.
- Điều hành là hoạt động dựa trên cơ sở luật để chỉ đạo trực tiếp hoạt động của
đối tượng quản lý. Đặc trưng của hoạt động điều hành là các cơ quan hành chính (chủ
thể quản lý) ra văn bản dưới luật mang tính chủ đạo, quy phạm hoặc cá biệt, được bảo
đảm thực hiện bằng sự thuyết phục và khả năng áp dụng cưỡng chế nhà nước. Nó
mang tính chủ động, sáng tạo cao, vì phải điều hành các lĩnh vực hoạt động quản lý
nhà nước vốn phát triển nhanh chóng, thường xuyên thay đổi theo các điều kiện khách
quan, các luật và văn bản pháp luật khác của các cơ quan nhà nước cấp trên không thể
dự liệu được hết.
- Hoạt động chấp hành thường đồng thời bao hàm hoạt động điều hành, hay nói
cách khác điều hành là để chấp hành pháp luật tốt hơn. Ví dụ, để chấp hành Luật
phòng, chống tham nhũng, Chính phủ phải tổ chức thành lập Ban Chỉ đạo chống tham
nhũng Trung ương, chỉ đạo các bộ và các địa phương thành lập các ban tương tự và
thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các biện pháp phòng chống
tham nhũng trong bộ máy hành chính.
II.2. Đặc điểm xã hội học về hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước
Hành chính nhà nước là loại hoạt động đặc biệt có những đặc trưng chủ yếu sau
đây:
- Mang tính tổ chức - điều chỉnh tích cực là chủ yếu
Suy từ khái niệm hai chức năng tổ chức và điều chỉnh, thì tổ chức - điều chỉnh tích
cực ngược với khía cạnh bảo vệ pháp luật, ngược với hoạt động tài phán. Tuy vậy,

3
khía cạnh bảo vệ pháp luật trong hoạt động hành chính nhà nước vẫn rất cần thiết và
quan trọng, nhưng chỉ chiếm phần nhỏ.
- Có tính chủ động, sáng tạo cao
Tính chủ động, sáng tạo thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, đặc trưng này gắn liền với tính tổ chức - điều chỉnh và xuất phát trực
tiếp từ bản chất của mặt điều hành của hoạt động hành chính. Tính chất này có cơ sở
khách quan là chính bản thân tính chất và sự phức tạp, phong phú, đa dạng của khách
thể quản lý, đó là mọi mặt đời sống xã hội luôn biến động và phát triển, đòi hỏi tác
động quản lý phải ứng phó nhanh nhạy, kịp thời, vận dụng sáng tạo pháp luật, tìm
kiếm biện pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất.
Thứ hai, xây dựng, ban hành văn bản quy phạm hành chính điều chỉnh hoạt động
hành chính (còn gọi là hoạt động lập quy). Trong các văn bản đó có thể chứa những
quy phạm tiên phát điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh, chưa ổn định và
chưa được luật và pháp lệnh điều chỉnh.
Thứ ba, tính chủ động, sáng tạo còn được thể hiện ở các hoạt động tổ chức, chỉ đạo
cụ thể đa dạng trên thực tiễn, ở sự áp dụng các hình thức và phương pháp hoạt động
phong phú.
- Tính dưới luật
Tính dưới luật là đặc trưng của hoạt động hành chính và liên quan chặt chẽ với tính
chủ động, sáng tạo. Tính dưới luật thể hiện ở chỗ hoạt động hành chính chính là hoạt
động chấp hành pháp luật và điều hành trên cơ sở luật. Các quyết định được ban hành
trong hoạt động hành chính phải phù hợp với luật và văn bản của các cơ quan nhà
nước cấp trên, nếu mâu thuẫn với chúng thì sẽ bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ.
- Tính chính trị
Hoạt động hành chính, cũng như quản lý nhà nước theo nghĩa rộng đều là những
hoạt động mang tính chính trị, bởi mọi hoạt động của nhà nước đều là những kênh
thực hiện quyền lực nhà nước.
Mặt khác, khi giải quyết những vấn đề nào đó trong một lĩnh vực nào đó của hoạt
động hành chính, ví dụ lĩnh vực kinh tế, văn hóa, cũng phải luôn tính đến nhiệm vụ
phục vụ mục tiêu chính trị.
- Tính kinh tế của hoạt động hành chính

4
Hoạt động hành chính nhà nước, cũng như mọi hoạt động xã hội, nhà nước khác
cũng đều phải tính đến hiệu quả kinh tế, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Được bảo đảm về phương diện tổ chức - bộ máy
Đặc trưng này xuất phát từ nguyên lý khách thể quản lý quyết định mô hình chủ
thể quản lý, nên nhiệm vụ rộng lớn của hoạt động hành chính đòi hỏi phải có một hệ
thống chủ thể nhiều về số lượng cơ quan cũng như biên chế, phức tạp về tổ chức - cơ
cấu và rất đa dạng về chức năng, nhiệm vụ cũng như hình thức và phương pháp hoạt
động.
- Được bảo đảm bằng cơ sở vật chất
Nhà nước là chủ sở hữu những tư liệu sản xuất và những nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý giá nhất. Bộ máy hành chính nhà nước là chủ thể thay mặt Nhà nước định
đoạt và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các phương tiện tài chính của Nhà
nước… Đó là một điều kiện rất quan trọng để thực hiện thành công nhiệm vụ của hoạt
động hành chính.
- Tính chuyên nghiệp
Tính chuyên nghiệp thể hiện ở chỗ đây là hoạt động đòi hỏi tính chuyên môn hóa
cao. Cán bộ, công chức của bộ máy hành chính không những cần có kiến thức lý luận,
kỹ năng hành chính và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về ngành, lĩnh vực khoa học -
kỹ thuật hoặc sản xuất mà mình đảm nhiệm, mà phải có kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn.
- Tính liên tục
Tính chất này thể hiện ở chỗ hoạt động hành chính phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục, hàng ngày hàng giờ không bị gián đoạn, bởi vì khách thể quản lý -
hoạt động của đối tượng quản lý diễn ra không ngừng trong thực tiễn khách quan.
Đây cũng là đặc trưng mà các loại hoạt động nhà nước khác không có.
- Các đặc trưng khác
Ngoài ra, có thể kể thêm một số đặc trưng khác của hoạt động hành chính như:
tính khoa học, tính kế hoạch, thường được thể hiện dưới những hình thức pháp lý ...
Tóm lại, từ những phân tích trên đây có thể định nghĩa: Hoạt động hành chính nhà
nước Việt Nam là hoạt động mang tính chất chấp hành và điều hành của các cơ quan
nhà nước Việt Nam, chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước và của những tổ chức,

5
cá nhân được trao quyền tiến hành trên cơ sở và để thi hành luật nhằm thực hiện
thường xuyên, hiệu quả các nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực
hoạt động hành chính - chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; an ninh, quốc phòng3.
Ví dụ 1: Quy trình hoạt động xây dựng pháp luật luôn có sự tham gia chặt chẽ giữa
các cơ quan hành chính nhà nước, từ đó làm nổi bật vai trò của các cơ quan hành
chính trong công cuộc xây dựng pháp luật ( cơ quan soạn thảo Cơ quan tham gia phối
hợp). Điều này cũng được ghi nhận tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015 để làm rõ trách nhiệm của các cơ quan , tổ chức trong từng quy trình và nội
dung chịu trách nghiệm...
Ví dụ 2: Xu hướng con người sử dụng không gian mạng ngày càng gia tăng, tác
động lớn tới không gian sống thực của con người. Không chỉ mang đến nguồn thông
tin vô tận, không gian mạng còn là nơi kết nối thông tin nhanh, thúc đẩy sự phát triển
xã hội.
Về vấn đề này pháp luật cũng có quy định rất rõ ràng về hoạt động của cơ quan
nhà nước trên môi trường mạng và trên môi trường điện tử thông qua các điều khoản:
+ Hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng được quy định tại Điều 27
Luật Công nghệ thông tin năm 2006.
+ Hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường điện tử được quy định tại Điều 44
Luật Giao dịch điện tử năm 2023 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2024).
+ Các hành vi bị nghiêm cấm trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trên môi
trường mạng được quy định tại Điều 12 Luật Công nghệ thông tin năm 2006.
+ Các hành vi bị nghiêm cấm trong giao dịch điện tử được quy định tại điều Điều 6
Luật Giao dịch điện tử năm 2023 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2024)4.
II.3. Các yếu tố xã hội tác động đến hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước
a) Yếu tố bên ngoài

3
Phạm Hồng Thái- Nguyễn Thị Minh Hà, Giáo trình Luật hành chính, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, tr.32-38
4
“ Hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng và môi trường điện tử” - Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau-
03/10/2023

6
- Yếu tố kinh tế
Thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế của bộ máy hành chính nhà
nước (các Bộ, các ngành) để tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội. Chức năng kinh tế
được thể hiện thông qua các hoạt động: Định ra chiến lược, kế hoạch phát triển xã hội
và nền kinh tế quốc dân, bao gồm các quy hoạch, kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế
khu vực; các quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế; ban hành
chính sách, văn bản pháp luật, quy định tiêu chuẩn, định mức, quy phạm kinh tế - kỹ
thuật chủ yếu; phối hợp hài hòa những mối quan hệ kinh tế và kế hoạch phát triển giữa
các ngành, địa phương, các xí nghiệp; chỉ đạo và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế giữa các
ngành với các địa phương.
Thể chế hành chính nhà nước được hiểu là bao gồm toàn bộ các cơ quan hành
chính nhà nước và toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tạo khuôn khổ
pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời quy định các mối quan hệ trong hoạt động
kinh tế cũng như các mối quan hệ giữa các cơ quan và nội bộ bên trong của các cơ
quan hành chính nhà nước.
Hệ thống thể chế hành chính nhà nước tạo môi trường pháp lý ổn định cho thị
trường phát triển. Vai trò này được thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, Thể chế hành chính nhà nước tạo môi trường ổn định cho sự phát triển
thị trường, tạo lập lòng tin với các chủ thể kinh tế.
+ Nhà nước tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hiệu
quả. Chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này. Hệ chuẩn pháp luật kinh tế của
nhà nước càng được xây dựng đồng bộ, đúng đắn, nhất quán và kịp thời bao nhiêu,
càng có tác động tích cực tới sự vận hành của nền kinh tế bấy nhiêu.
+ Để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, nền kinh tế thị trường đòi hỏi
một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống pháp lý để chống lại bạo lực và
gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về
phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các
ngân hàng thương mại để đảm việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách
nghiêm ngặt...

7
+ Thực tế cho thấy, mức độ đầu tư vào một thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: mức độ ổn định chính trị, mức độ tiên đoán việc nhà nước ban hành thể chế mới,
mức độ phản ánh nguyện vọng của doanh nghiệp trong các chính sách của nhà nước,
khả năng bảo vệ tài sản và an ninh của nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân, độ tin
cậy của tư pháp, mức độ tham nhũng... các yếu tố trên là thước đo lòng tin của nhà
đầu tư vào thể chế nhà nước, và một khi lòng tin bị suy giảm, các khoản đầu tư sẽ
ngưng trệ hoặc ngừng hẳn.
+ Những nước nào có thể chế đáng tin cậy cao thì cũng có tỷ lệ đầu tư cao so với
những nước có thể chế đáng tin cậy thấp và do đó, tạo ra một sự khác biệt đáng kể về
tăng trưởng.
Thứ hai, thể chế hành chính nhà nước tạo cơ sở pháp lý cho thị trường phát triển
+ Trong hoạt động quản lý nhà nước, thể chế kinh tế của quốc gia bao gồm hệ thống
các quy định của pháp luật định hướng, dẫn dắt và can thiệp vào các hoạt động kinh tế
nhằm làm cho nền kinh tế quốc dân vận động theo cơ chế thị trường. Thể chế kinh tế
nói trên là nền tảng cơ bản để mọi chủ thể kinh tế hoạt động một cách hợp pháp. Đó là
nền tảng cơ bản để các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành các hoạt động quản lý
nhà nước cần thiết theo chức năng của mình. Những hoạt động mà các cơ quan hành
chính nhà nước tiến hành nhằm làm cho hoạt động kinh tế định hướng đúng như pháp
luật nhà nước quy định.
+ Bản chất hoạt động kinh tế của quốc gia rất khác nhau, vai trò của nhà nước, sự can
thiệp, điều tiết của nhà nước và thể chế hành chính nhà nước cũng rất khác nhau.
Những nước công nghiệp phát triển, chế độ kinh tế đa thành phần, thị trường đã được
xác lập, thì chức năng điều tiết kinh tế - xã hội được mở rộng và vai trò của nhà nước
trong việc quản lý khu vực công cộng, các hoạt động xã hội ngày càng tăng. Thể chế
kinh tế và thể chế hành chính quản lý kinh tế được xem xét và điều chỉnh phù hợp với
mức độ phát triển của kinh tế sẽ tạo cơ hội cho kinh tế phát triển mạnh hơn, và nhà
nước có thể quản lý tốt hơn sự vận động của nền kinh tế.
Thể chế có thể giúp quản lý rủi ro giao dịch thị trường, nâng cao hiệu quả và khả
năng sinh lời thông qua ba kênh chính là: 1. Truyền dẫn thông tin về các điều kiện thị
trường, hàng hóa và các bên tham gia; 2. Xác định và thực thi quyền sở hữu cũng như
các hợp đồng; và 3. Tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường.

8
Thứ nhất, các thể chế thông tin hỗ trợ thị trường
+ Thông tin là huyết mạch của mọi nền kinh tế. Nếu không có thông tin đáng tin cậy,
thị trường sẽ không hoạt động tốt. Thông tin đóng vai trò cơ sở cho mọi giao dịch kinh
tế, cho nên, việc thiếu thông tin sẽ gây ra sự sụp đổ của thị trường hoặc làm cho thị
trường không hình thành được ở một số nơi.
+ Do các nền kinh tế đang được toàn cầu hóa, nên các giao dịch ngày càng trở nên
phức tạp và được thực hiện từ những khoảng cách xa. Trong điều kiện đó, những thể
chế thông tin truyền thống (chẳng hạn như tin đồn của dân chúng về uy tín của một
loại hàng hóa nào đó ở địa phương) đã không còn thích hợp nữa.
+ Quốc gia với chiến lược phát triển khôn ngoan thường tìm cách tạo nên giá trị gia
tăng cao hơn trên mỗi đơn vị sản phẩm. Để làm được việc này, chính phủ phải dành
một phần quan trọng nguồn lực của mình giúp các doanh nghiệp và người dân có
được thông tin thấu đáo và kịp thời về thị trường và công nghệ để họ có quyết định
sáng suốt hơn trong đầu tư và tổ chức sản xuất của mình.
+ Tuy nhiên, những thông tin không phải là sẵn có, chúng cần được thu thập và chia
sẻ giữa các bên tham dự thị trường, bởi vậy, vấn đề đặt ra là: không phải nhà nước
đơn độc đứng ra đảm nhận việc cung cấp thông tin, mà quan trọng hơn cả là nhà nước
cần xây dựng những thể chế thông tin hỗ trợ thị trường.
+ Ở Việt Nam, Chính phủ làm điều này chưa tốt. Vì vậy, mặc dù doanh nghiệp và
người dân, đặc biệt đã rất năng động nhưng hiệu quả thu được vẫn rất thấp. Một minh
họa cho thực trạng này là ý kiến của lão nông Lê Văn Lam trong thư gửi Thủ tướng
Chính phủ ngày 4/5/2008: “Người nông dân luôn phải lao đao về việc chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, khi thì đào ao nuôi cá, lúc thì bỏ ruộng trồng bắp nhưng hầu như không
mang lại hiệu quả, cũng vì người nông dân thiếu kiến thức về thị trường cũng như kỹ
thuật sản xuất”.
Thứ hai, các thể chế về quyền sở hữu
+ Thị trường hoạt động dựa trên nền móng của các thể chế. Khi không có các nguyên
tắc cơ bản của trật tự xã hội với các thể chế làm trụ đỡ thì thị trường không thể hoạt
động được. Một minh chứng điển hình là các thị trường sẽ không thể phát triển tốt nếu
như không có sự thừa nhận và tôn trọng quyền sở hữu từ phía nhà nước.

9
+ Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường cần thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư
nhân, cũng như quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền
sở hữu đó. Nếu không có sự đảm bảo ấy, một số người sẽ gặp phải những rủi ro nếu
đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt cuộc, tiền lãi thu
về lại có thể rơi vào nhà nước hoặc các tập đoàn khác.
Thứ ba, thể chế hành chính nhà nước đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh của thị
trường, chống độc quyền
+ Thị trường đảm bảo có sự cạnh tranh khi có nhiều doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp
chỉ có quy mô rất nhỏ so với toàn ngành, sản phẩm được chuẩn hóa hoặc đồng nhất,
khách hàng có được thông tin hoàn hảo về chất lượng sản phẩm, vì vậy họ hiểu rằng
mặc dù các doanh nghiệp khác nhau song lại sản xuất ra sản phẩm giống hệt nhau, các
doanh nghiệp có thể tự do tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường, vì thế không có động
cơ thông đồng, cấu kết giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường.
+ Vai trò này thể hiện ở tập hợp những biện pháp của nhà nước nhằm cổ vũ cạnh tranh
giữa các nhà cung ứng với nhau, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình trạng
độc quyền. Thể chế hành chính nhà nước về cạnh tranh điều chỉnh hành vi của các
doanh nghiệp thông qua các quy định và cấm các hành vi hạn chế cạnh tranh như
thông đồng định giá, các thỏa thuận thông đồng khác, hoặc các hành vi lạm dụng vị
thế thống lĩnh thị trường. Theo nghĩa rộng, chính sách cạnh tranh bao gồm hai phần:
1. Luật cạnh tranh hoặc Luật chống độc quyền; 2. Các quy định và chính sách vi mô
đối với ngành để ngăn chặn các hành vi phản cạnh tranh và điều tiết các thông lệ, hoạt
động kinh doanh.
Ví dụ: Theo xếp hạng năng lực cạnh tranh hàng năm của Diễn đàn Kinh tế thế giới
năm 2005, 2006, Việt Nam đứng dưới hầu hết các nước láng giềng Đông Á và Đông
Nam Á (năm 2007, Việt Nam xếp thứ 64 trong các nước được xếp hạng, thứ hạng của
Singapore là 7, Thái Lan thứ 28, Trung Quốc ở vị trí thứ 34). Trong khi đó, bảng xếp
hạng năng lực cạnh tranh là một công cụ hữu ích trong việc đánh giá tốc độ cải cách
của Việt Nam trong mối tương quan với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu, các nhà đầu
tư nước ngoài đều nhìn vào những chỉ số về năng lực cạnh tranh và môi trường chính
sách, thể chế trước khi quyết định đầu tư. Vì vậy, thách thức của Việt Nam hiện nay là
làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh.

10
Douglass C.North, nhà kinh tế được giải thưởng Nobel, có kết luận rằng, một nước
không khá lên được là do thể chế của nó tạo nên các quy tắc vận hành xã hội không
khuyến khích các nỗ lực kiến tạo nên giá trị mới.
Kinh nghiệm của một số quốc gia Đông Á cho thấy, chiến lược phù hợp, thể chế
và thực thi hiệu quả là những yếu tố mấu chốt đối với sự thành công của chính sách
can thiệp của nhà nước.
Việt Nam đang trong tiến trình cải cách hành chính. “Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010” ban hành theo Quyết định số
136/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/9/2001 đã khẳng định “từng
bước đổi mới thể chế hành chính trên các lĩnh vực, trước hết là hình thành thể chế
kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Việc xác định vai trò của thể chế hành chính nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường trong giai đoạn hiện nay sẽ giúp cho việc xây dựng hệ thống thể chế kinh tế
đáp ứng được mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra
- Yếu tố xã hội
Sự tham gia và ủng hộ của người dân đối với quản lý nhà nước không chỉ góp
phần đảm bảo việc phát huy dân chủ của Nhà nước ta, đảm bảo quyền của nhân dân
trong hoạt động quản lý nhà nước, khẳng định bản chất của Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mà còn là nhân
tố quan trọng tác động đến hiệu quả quản lý nhà nước. Thực tiễn cho thấy, sự tham
gia, ủng hộ của người dân đối với cơ quan nhà nước càng lớn thì hoạt động quản lý
của bộ máy nhà nước càng dễ dàng đạt được mục tiêu và chỉ khi nào người dân thực
sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước thì việc xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới thực sự thành công.
Nhân dân tham gia quản lý nhà nước là nguyên tắc hiến định được Nhà nước thừa
nhận và bảo đảm thực hiện. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân,
Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương,
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật phòng,
chống tham nhũng… đã quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để
nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước (như việc các đại biểu dân cử,
các cơ quan nhà nước phải tiếp nhận và giải quyết những đề xuất, kiến nghị, khiếu nại

11
của người dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp vào các văn bản quy phạm pháp luật được
ban hành, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội…).
Nhân dân tham gia quản lý nhà nước đảm bảo tính khách quan trong công tác quản
lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nói riêng, giúp nhân dân hiện thực hóa
địa vị pháp lý cũng như thể hiện nguyện vọng chính đáng, phát huy vai trò làm chủ
của mình trong công tác quản lý nhà nước. Nhân dân không chỉ có quyền giám sát đối
với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo mà
còn có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp thể hiện
quyền lợi của mình. Điều này thể hiện vai trò đặc biệt của nhân dân trong quản lý nhà
nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm
bảo những điều kiện để nhân dân được tham gia vào quản lý hành chính nhà nước.
Nhân dân có thể trực tiếp tham gia hoạt động quản lý nhà nước thông qua việc trực
tiếp làm việc tại các cơ quan nhà nước hoặc thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ công dân của mình. Nhân dân cũng có thể gián tiếp thực hiện việc quản lý nhà
nước thông qua việc tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội, các hoạt động tự
quản ở cơ sở5
Sự tham gia của người dân có ý nghĩa quan trọng đối với quản lý hành chính công
như:
+ Một là, sự tham gia của người dân góp phần thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề
công. Sự tham gia của người dân là một yếu tố không thể thiếu để các cơ quan hành
chính nhà nước giải quyết có hiệu quả các vấn đề công, và là một cơ chế quan trọng
của quản lý công hiện đại, cũng là một nguồn lực rất quan trọng của xã hội;
+ Hai là, sự tham gia của người dân góp phần nâng cao chất lượng chính sách công.
Thông qua sự tham gia của người dân, chính phủ có thể tiếp nhận được nhiều loại
thông tin và tri thức của cá nhân và tổ chức từ bên ngoài để làm cơ sở cho việc lựa
chọn chính sách, góp phần hạn chế sự sai lầm của chính sách và nâng cao chất lượng
chính sách. Sự tham gia của người dân làm cho cơ quan hành chính nắm bắt được đầy
đủ hơn nguyện vọng và mong muốn của người dân, còn người dân có thể dựa vào

5
Nguyễn Minh Phương, Bùi Văn Minh, Các yếu tố tác động đến hiệu quả quản lý nhà nước ta hiện nay, Tạp chí
Tổ chức nhà nước (2018),
https://tcnn.vn/news/detail/41620/Cac-yeu-to-tac-dong-den-hieu-qua-quan-ly-nha-nuoc-o-nuoc-ta-hien-nay.html

12
phương thức trực tiếp hơn để chuyển hóa những mong muốn, lợi ích của mình thành
chính sách công.
+ Ba là, sự tham gia của người dân góp phần thực thi có hiệu quả chính sách. Nếu
không có sự thừa nhận, phối hợp và ủng hộ của người dân thì việc thực thi chính sách
của các cơ quan hành chính nhà nước không thể tiến hành thuận lợi. Nếu trong quá
trình chính sách, các cơ quan hành chính loại trừ sự tham gia của người dân thì rất dễ
gặp phải sự phản đối, không hợp tác của người dân, từ đó làm cho chi phí thực thi
chính sách tăng lên. Còn nếu các cơ quan hành chính coi trọng và phát huy sự tham
gia của người dân thì sẽ nâng cao mức độ tiếp nhận chính sách của người dân, từ đó
nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Trong giai đoạn hoạch định chính sách, việc
thông qua các hình thức khác nhau để lắng nghe ý kiến của người dân có thể làm cho
chi phí hoạch định chính sách tăng lên, nhưng khi thực thi chính sách sẽ giảm thiểu
chi phí thực hiện do có sự ủng hộ và hợp tác của người dân.
+ Bốn là, sự tham gia của người dân góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng phục
vụ công. Sự tham gia làm đa dạng hóa nguồn lực đầu vào và tối đa hóa hiệu quả đầu
ra của phục vụ công. Chẳng hạn, sự tham gia của các đoàn thể, các tổ chức tự nguyện,
tổ chức tự quản vào hoạt động cung ứng dịch vụ công ở cơ sở sẽ làm tăng lên nguồn
lực đầu vào cho phục vụ công, mở rộng đầu ra của phục vụ công, giảm nhẹ áp lực về
nhân lực, tài lực cho chính quyền, hạn chế tình trạng chậm trễ và hiệu quả thấp trong
hoạt động cung ứng dịch vụ của chính quyền;
+ Năm là, sự tham gia góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với các cơ quan
hành chính nhà nước. Niềm tin của người dân đối với các cơ quan hành chính nhà
nước được quyết định bởi các yếu tố như các cơ quan hành chính hoạt động vì lợi ích
công, tính đại diện của quản trị chính phủ, tính chính đáng, hợp pháp và hợp lý của
hành vi hành chính, tính công khai, minh bạch của quá trình hành chính, năng lực và
hiệu quả quản trị của các cơ quan hành chính. Sự tham gia của người dân thể hiện tính
dân chủ, tính công khai, minh bạch của quá trình quản lý công, vì thế nó góp phần
nâng cao năng lực quản trị của các cơ quan hành chính nhà nước và làm cho các cơ
quan hành chính duy trì và tạo ra nhiều giá trị công. Tất cả điều này sẽ góp phần củng
cố niềm tin của người dân đối với các cơ quan hành chính6.
6
TS. Nguyễn Trọng Bình, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Sự tham gia của người dân trong quản lý công, Nghiên
cứu lập pháp số 1(377)- kỳ 1, tháng 1/2019), http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?

13
Một số việc thể hiện sự tham gia và ủng hộ của người dân đến hoạt động cơ quan
nhà nước như:
+ Người dân tham gia xây dựng, đóng góp ý kiến xây dựng nội quy ở xã, phường về
nếp sống, bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội và các quy định khác.
+ Công dân tham gia góp ý xây dựng về các dự thảo luật sửa đổi như dự thảo sửa đổi
Luật Đất đai
+ Tố cáo những hành vi, những việc làm sai trái của cơ quan nhà nước, có thể là ủy
ban phường, các cơ quan hành chính về các hành vi vi phạm như nhận hối lộ, quan
liêu, ...
+ Công dân tham gia bàn bạc, quyết định một số chủ trương xây dựng các công trình
công cộng
+ Tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước trong các thủ tục
hành chính công, ...
+ Công dân có quyền khiếu nại các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước nếu
nhận thấy có sự sai sót, có sự sai phạm trong các quyết định hành chính. Việc này
chính là một trong những biểu hiện rõ nét nhất trong việc tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội của công dân.
- Yếu tố chính trị:
Với đặc điểm hệ thống chính trị là “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền,
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, do đó đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị của
Việt Nam có vai trò tác động đến tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy hành
chính tương đối khác biệt so với nhiều nước, đặc biệt là ở tính độc lập tương đối của
chúng.
Ví dụ như trong hoạt động lập quy, Chính phủ không chỉ cụ thể hóa quy định trong
các đạo luật mà còn phải thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng. Ngoài ra,
công tác tổ chức, quản lý, phát triển nguồn nhân lực kể từ khâu quy hoạch, tuyển
dụng, sử dụng, đề bạt, kỷ luật cho đến chế độ, chính sách áp dụng đối với các cán bộ,
công chức, viên chức đều gắn với công tác Đảng. Do đó, quá trình cải cách hành chính
luôn có mối quan hệ hữu cơ với việc đổi mới phương thức, nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng mà cụ thể ở đây là Đảng Cộng sản Việt Nam.
tintucid=206840

14
Tương tự, mối quan hệ giữa bộ máy hành chính nhà nước với các bộ phận khác
của hệ thống chính trị như các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan lập pháp và tư
pháp… cũng có nhiều nét đặc thù và đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu
quả quản lý nhà nước, ví dụ như vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước phải dựa trên cơ sở bảo đảm tính
đồng bộ giữa tiến trình cải cách hành chính với cải cách tư pháp và lập pháp trong
chỉnh thể đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan ở Việt Nam hiện
nay7. Như vậy, với môi trường chính trị ổn định, bền vững đi cùng với đường lối lãnh
đạo của Đảng thì hiệu quả quản lý nhà nước và niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước sẽ được củng cố, từ đó tạo nên trật tự, ổn định trong xã hội.
b) Yếu tố bên trong
- Hệ thống thể chế hành chính
Hệ thống thể chế hành chính là căn cứ và tiền đề pháp lý cho các hoạt động quản
lý, điều hành của bộ máy hành chính nhà nước, chủ yếu tập trung ở 2 nhóm:
Thứ nhất, hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước chủ yếu là xác định địa vị pháp lý, chức năng, thẩm quyền, trách
nhiệm của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Phần lớn những quy định này
được thể hiện trong các luật như Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức chính quyền
địa phương…, các nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ của các bộ,
cơ quan ngang bộ, về cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện… và hệ thống các quy chế làm việc của các cơ quan, văn bản có liên quan đến
nội dung phân công, phân cấp quản lý nhà nước.
Thứ hai, hệ thống văn bản do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành theo
thẩm quyền (dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật hành chính, văn bản cá biệt) để
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Môi trường thể chế là điều kiện tiên quyết để duy trì và bảo đảm sự vận hành của
cả hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính nhà nước chỉ có
thể hoạt động hiệu quả trong môi trường thể chế thuận lợi, bao gồm hệ thống văn bản
7
Nguyễn Minh Phương, Bùi Văn Minh, Các yếu tố tác động đến hiệu quả quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay,
Tạp chí Tổ chức nhà nước (16/11/2018), https://tcnn.vn/news/detail/41620/Cac-yeu-to-tac-dong-den-hieu-qua-
quan-ly-nha-nuoc-o-nuoc-ta-hien-nay.html

15
chứa đựng các quy định được ban hành đúng thẩm quyền, kịp thời, phù hợp với yêu
cầu quản lý và trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội và bảo đảm sự bao
quát toàn bộ các ngành, lĩnh vực quản lý từ trung ương đến địa phương.
- Hệ thống các thiết chế hành chính nhà nước
Hệ thống các thiết chế hành chính nhà nước bao gồm các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan
này chủ yếu phụ thuộc vào các khía cạnh:
+ Vị trí, chức năng từng cơ quan phù hợp với tính chất tổ chức bộ máy cũng như nội
dung, phạm vi yêu cầu quản lý nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn cụ thể;
+ Nội dung các nhiệm vụ được xác định bảo đảm tính bao quát, toàn diện trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội và đối với tất cả các khâu của quá trình quản lý
+ Cơ cấu tổ chức phù hợp với quy mô và trình độ quản lý, được phân công, phân cấp
hợp lý
+ Hệ thống các quy định, quy chế đầy đủ, bao quát quy trình vận hành và sự phối hợp,
kết hợp giữa các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương
Đây là những yếu tố cần và đủ đảm bảo sự vận hành thống nhất, thông suốt và bảo
đảm tính hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước.
- Tổ chức bộ máy cơ quan hành chính nhà nước
Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước là quản lý hành chính nhà nước,
là hoạt động chịu sự chi phối, tác động của rất nhiều yếu tố và có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, khi một yếu tố thay đổi sẽ kéo theo các nhân tố khác thay đổi. Vì vậy để
thực hiện tốt nhiệm vụ trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, việc phân công
trong nội bộ hệ thống tổ chức, việc xác định nhiệm vụ cho các cơ quan khác nhau để
tạo được sự điều hoà, phối hợp cần thiết nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu tổng
thể của hệ thống các cơ quan hành chính và cả bộ máy nhà nước nói chung đóng vai
trò quan trọng.
Cơ cấu tổ chức hợp lý, phân công rõ ràng nhiệm vụ, chức năng của từng bộ phận
sẽ tránh được sự chồng chéo, vướng mắc đồng thời có thể dễ dàng phối hợp, điều

16
chỉnh công việc năng suất, hiệu quả cao. Ngược lại nếu cơ cấu bất hợp lý sẽ làm giảm
hiệu quả hoạt động.
Bộ máy hành chính là một chỉnh thể và mỗi cơ quan hành chính là một bộ phận, cả
bộ máy chỉ hoạt động tốt khi mỗi bộ phận vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình vừa
phối hợp tốt với các bộ phận khác để hoàn thành được mục tiêu chung.
- Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Chất lượng nguồn nhân lực luôn là yếu tố “nòng cốt” quyết định hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước. Một nền hành chính chuyên nghiệp chỉ có thể hình thành trên cơ sở
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực tương ứng mang tính chuyên nghiệp.
Việc xem xét, đánh giá tính chuyên nghiệp chủ yếu và trước hết dựa trên các tiêu
chí sau:
+ Sự phân biệt rõ từng nhóm đối tượng phù hợp với yêu cầu và nội dung quản lý hoạt
động của bộ máy nhà nước (phân công theo nhóm: thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ
đạo và thực thi công vụ)
+ Trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức: Trình độ,
năng lực chuyên môn của từng loại đối tượng phụ thuộc trước hết vào chất lượng và
chuyên môn đào tạo. Do vậy, theo quy định chung, việc tuyển dụng, đào tạo, bồi
dưỡng phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm là giải pháp quan trọng
hàng đầu không thể thay thế.
+ Kỹ năng hành chính: Xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, các kỹ năng cần thiết trong hoạt động công vụ được cụ thể hóa thành quy
trình, quy phạm đòi hỏi phải được thực hiện một cách thống nhất. Ngoài ra, kỹ năng
sử dụng các công cụ hỗ trợ như ngoại ngữ, ứng dụng tin học, các khả năng thích nghi,
giao tiếp, làm việc nhóm,… cũng thể hiện sự chuyên nghiệp đối với nhân lực làm việc
tại cơ quan của bộ máy nhà nước.
+ Ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương và đề cao văn hóa công vụ, nhất là văn hóa giao
tiếp, ứng xử, ý thức tôn trọng và chấp hành kỷ luật, kỷ cương, việc gương mẫu thực
hiện văn hóa công vụ là đòi hỏi khách quan, bắt nguồn từ tính chất của hoạt động
quản lý, không chỉ là biểu hiện của đạo đức công vụ mà còn là thước đo tính chuyên
nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức.

17
Khi tham gia quản lý nhà nước, công chức là lực lượng then chốt trong xây dựng
và thực hiện thể chế, chính sách, chương trình, kế hoạch, Thủ tục hành chính và các
quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, cơ quan quyền lực cùng cấp và cơ quan
hành chính trực tiếp ban hành; là lực lượng thường xuyên giải quyết công việc cho tổ
chức, người dân… Nếu công chức có trình độ, năng lực và phẩm chất tốt thì thực thi
công vụ có hiệu quả, những nhu cầu cấp thiết của người dân và xã hội sẽ được giải
quyết nhanh chóng hơn, những quyền, lợi ích chính đáng của người dân được bảo đảm
và tạo cơ hội cho các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển.
- Tài chính và cơ sở vật chất, kỹ thuật
Đối với các cơ quan hành chính, tài chính trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật như công
sở, công sản và các khoản chi thường xuyên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo
luật định và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó, Việc đầu tư về
tài chính, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho sự vận hành của bộ máy và
hoạt động của chế độ công vụ, công chức vừa là điều kiện, vừa là một trong những
tiêu chí chủ yếu đánh giá hiệu quả của nền hành chính (xét về hiệu quả chi tiêu công).
Tăng cường đầu tư hạ tầng kỹ thuật, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho
cơ quan hành chính không chỉ nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động công vụ,
giảm chi phí hoạt động, tiết kiệm thời gian, là cơ sở để tinh giản biên chế và nâng cao
năng lực điều hành của chủ thể quản lý… mà còn tạo môi trường làm việc chuyên
nghiệp, hiện đại, minh bạch hóa việc giải quyết Thủ tục hành chính và cung ứng dịch
vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp8.
III. ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CƠ SỞ XÃ HỘI HỌC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Cơ quan hành chính nhà nước có vai trò thiết yếu trong hoạt động của xã hội hiện
đại. Hoạt động hiệu quả của các cơ quan này có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung
cấp dịch vụ công, thực thi chính sách và quản lý nhà nước. Cơ sở xã hội học pháp luật
có thể nói là điều kiện then chốt hình thành nên hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước. Dưới đây là 1 số điều kiện đảm bảo cơ sở xã hội học pháp luật với hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước có sự liên kết chặt chẽ với nhau, gồm có:

8
Nguyễn Minh Phương, Bùi Văn Minh, Các yếu tố tác động đến hiệu quả quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay,
Tạp chí Tổ chức nhà nước (16/11/2018), https://tcnn.vn/news/detail/41620/Cac-yeu-to-tac-dong-den-hieu-qua-
quan-ly-nha-nuoc-o-nuoc-ta-hien-nay.htm

18
III.1. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của nhà nước, trong đó bao
gồm cả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Một hệ thống pháp luật hoàn
thiện là trên cơ sở Hiến pháp 2013 bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, cụ thể và khả thi
của các văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo tính phù hợp của hệ thống thể chế, pháp
luật, chính sách của Việt Nam với những điều ước, cam kết, thỏa thuận quốc tế mà
Việt Nam tham gia ký kết. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ giúp đảm bảo tính
công bằng, minh bạch và đáng tin cậy trong quá trình ra quyết định và thực hiện chính
sách.

Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật là một trong những cơ sở để bảo đảm
cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, đồng
thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hóa các quy định pháp luật trong đời
sống xã hội. Nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì việc thực hiện
chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có những quy định pháp luật nhiều khi
không thể thực hiện được trên thực tế.

Một yếu tố quan trọng trong mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật là tính toàn
diện, đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện sự thống nhất ở hai cấp độ. Ở cấp độ
chung, sự đồng bộ giữa các ngành luật với nhau. có 2 vấn đề lớn là : xác định rõ ranh
giới giữa các ngành luật và tạo ra được 1 hệ thống quy phạm pháp luật căn bản (thể
hiện trong các văn bản luật) để tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn bộ hệ thống
pháp luật. Ở cấp độ cụ thể đó là thể hiện sự thống nhất , không mâu thuẫn, không
trùng lặp, chồng chéo trong mỗi ngành luật , mỗi chế định pháp luật và giữa các quy
phạm pháp luật với nhau. xét theo cơ cấu của mỗi hệ thống pháp luật với 3 thành tố cơ
bản thì ngành luật có tính chất loại, chế định pháp luật có tính chất nhóm, quy phạm
pháp luật có tính chất tế bào. Để tạo ra tính đồng bộ phải giải quyết triệt để, đúng đắn
mối quan hệ loại - nhóm - tế bào.

Hệ thống pháp luật toàn diện và đồng bộ thể hiện ở cấu trúc hình thức của nó,
nghĩa là hệ thống pháp luật phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh
pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, các quy định pháp luật
phải có khả năng bao quát toàn bộ đời sống xã hội, để các quan hệ xã hội quan trọng
có tính điển hình, phổ biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật thì đều có pháp luật
điều chỉnh. Về kết cấu mỗi quy phạm pháp luật phải có cấu trúc logic, chặt chẽ; mỗi
chế định pháp luật có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết; mỗi ngành luật có đầy
đủ các chế định pháp luật theo cơ cấu của ngành luật; còn hệ thống pháp luật có đủ
các ngành luật đáp ứng được nhu cầu phát triển của các quan hệ xã hội ở mỗi giai
đoạn phát triển của đất nước. Điều này đòi hỏi việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật không chỉ chú trọng tới các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, củng cố chính
quyền nhân dân mà còn phải chú ý tới các luật điều chỉnh một cách toàn diện các quan
hệ xã hội thuộc các lĩnh vực đời sống dân sinh như dân sự, thương mại, đầu tư, môi
trường..., không chỉ chú trọng tới luật nội dung mà còn phải chú ý tới luật hình thức về
trình tự, thủ tục.

19
Bất kỳ một quy phạm hay văn bản quy phạm pháp luật nào cũng được tạo ra và tác
động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà trong một tổng thể những mối liên hệ
và những sự ràng buộc nhất định. Do vậy, tính toàn diện và đồng bộ của hệ thống
pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi và hiệu quả của việc thực hiện pháp
luật. Bởi tất cả những mối liên hệ, những sự ràng buộc đó của các quy định, các văn
bản pháp luật với những yếu tố và hiện tượng khác nhau trong đời sống xã hội xét đến
cùng đều có ảnh hưởng tới sự tác động, điều chỉnh của pháp luật. Việc thực hiện một
quy phạm pháp luật hay một chế định luật không tốt có thể sẽ làm việc thực hiện các
quy phạm, các chế định pháp luật khác gặp nhiều khó khăn thậm chí là không thể thực
hiện được, tùy theo vị trí, vai trò và các mối liên hệ của nó với các yếu tố, các bộ phận
khác.
Tính toàn diện, đồng bộ của hệ thống pháp luật còn thể hiện ở việc ban hành đầy
đủ các văn bản quy định chi tiết các văn bản, quy định pháp luật trong những trường
hợp cần có sự quy định chi tiết, để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng đã có
đủ các điều kiện để có thể được tổ chức thực hiện ngay trên thực tế.
Bên cạnh đó, sự thống nhất của hệ thống pháp luật là điều kiện cần thiết bảo đảm
cho tính thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong việc thực hiện pháp
luật. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật được thể hiện trong cả hệ thống cũng như
trong từng bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật ở các cấp độ khác nhau, nghĩa là
giữa các ngành luật trong hệ thống pháp luật; giữa các chế định pháp luật trong cùng
một ngành luật; giữa các quy phạm pháp luật trong một chế định pháp luật cũng phải
thống nhất. Không có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của
các quy phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong các bộ phận khác nhau của hệ
thống pháp luật. Điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà về nội dung mà còn phải bảo đảm tính thứ
bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý của chúng.

Sự phù hợp của hệ thống pháp luật cũng không kém phần quan trọng. Tính thể
hiện ở nội dung của hệ thống pháp luật luôn có sự tương quan với trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói pháp luật là những nhu cầu cơ bản, điển hình
và có tính phổ biến nhất của đời sống kinh tế - xã hội được khái quát hoá, mô hình hoá
dưới hình thức pháp lý cụ thể thông qua hoạt động lý trí và ý chí của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Do vậy, sự phù hợp của các văn bản quy phạm pháp luật mà đặc
biệt là của các văn bản luật với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã
hội là điều kiện vô cùng quan trọng bảo đảm cho tính khả thi và hiệu quả của pháp
luật. Phù hợp với các quy luật và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ làm cho pháp luật dễ
dàng được thực hiện, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho sự phát
triển của kinh tế - xã hội, trường hợp ngược lại, pháp luật khó được thực hiện trên
thực tế, thậm chí có thể cản trở hoặc gây ra những thiệt hại nhất định cho sự phát triển
đó.

Trước hết các quy định pháp luật phải vừa phản ánh được những quy luật kinh tế
chung vừa phản ánh được những quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất
tồn tại trong đất nước. Nó phải tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
nhanh, bền vững của kinh tế đất nước. Trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta xác định
xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xây dựng nền
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc hệ thống pháp luật phản ánh

20
đúng tính chất, đặc điểm, trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, định hướng đúng cho
sự phát triển kinh tế là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Tiếp đến là sự phù hợp của pháp luật với điều kiện chính trị của đất nước, mà quan
trọng nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Hệ thống pháp luật Việt
Nam hiện nay phải thể chế hoá cương lĩnh chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã
hội của Đảng trong điều kiện đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trong xã hội Việt Nam hiện nay tồn tại
nhiều giai tầng khác nhau và lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, giai tầng cũng
có sự khác nhau. Để bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định thì đòi hỏi pháp luật phải
quy định một cách sự hài hoà về lợi ích cơ bản của tất cả các lực lượng chủ yếu trong
xã hội sao cho có thể chấp nhận được. Vì vậy, nội dung của hệ thống pháp luật phải
quy định sao cho tương quan giữa các loại lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau
có được sự hài hoà và có thể chấp nhận được. Dưới hình thức pháp lý, trong khuôn
khổ các văn bản pháp luật nhà làm luật phải làm sao cho lợi ích hợp pháp của tầng lớp
xã hội này không xung đột với lợi ích của các tầng lớp khác. Chỉ trong những điều
kiện như vậy mới bảo đảm được sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội và
việc thực hiện các quyền, tự do, lợi ích của tầng lớp xã hội này sẽ không làm tổn hại
đến tự do, lợi ích của các tầng lớp khác trong xã hội. Nếu không quan tâm tới sự thống
nhất, hài hoà giữa các loại lợi ích của các lực lượng khác nhau trong quá trình xây
dựng và thực hiện pháp luật có thể dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội,
chẳng những không phát huy được vai trò của pháp luật mà còn làm lu mờ bản chất
tốt đẹp của pháp luật dưới chế độ xã hội chúng ta.

Trong xã hội ngoài pháp luật còn có những công cụ khác như đạo đức, phong tục
tập quán, tín điều tôn giáo..., những công cụ này cùng với pháp luật luôn có tác động
rất lớn lên các quan hệ xã hội. Sự tác động của các quy phạm xã hội khác nhau lên các
quan hệ xã hội luôn không giản đơn, chúng có liên quan, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò, tác dụng của mình một cách tốt nhất khi có
sự tác động cùng chiều, phù hợp với những công cụ điều chỉnh khác. Do vậy, hệ thống
pháp luật đòi hỏi phải phù hợp với phong tục, tập quán, những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hoá cao đẹp của nhân dân các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước. Sự phù hợp của hệ thống pháp luật với đạo đức, văn
hóa dân tộc, với thuần phong mỹ tục của đất nước, các công cụ điều chỉnh quan hệ xã
hội khác cũng là một trong những yếu tố phản ánh chất lượng của nó, làm cho hệ
thống pháp luật được tôn trọng và là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật
nghiêm minh trên cơ sở tự giác của mọi người.

Không chỉ phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hệ thống pháp
luật quốc gia còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong xu hướng hội nhập và
hợp tác hiện nay, vấn đề này luôn đòi hỏi phải được chú trọng và trong những giới hạn
có thể hệ thống pháp luật quốc gia cần phải phù hợp với các công ước, điều ước và
thông lệ quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Hệ thống pháp luật quốc gia
phải được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ
quốc tế, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả lý luận, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của
các nước khác trên thế giới.

21
Phương pháp điều chỉnh pháp luật được sử dụng phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã
hội. Chất lượng của hệ thống pháp luật còn biểu hiện ở việc lựa chọn phương pháp
điều chỉnh pháp luật phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội. Việc lựa chọn phương pháp
điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội mà
pháp luật điều chỉnh và ý muốn chủ quan của nhà làm luật thông qua sự nhận thức, sự
tính toán của họ về những lĩnh vực, những vấn đề cần điều chỉnh pháp luật trong mỗi
giai đoạn lịch sử của sự phát triển xã hội. Sự lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp
luật không đúng, không phù hợp sẽ làm mất đi hoặc giảm đi tính hiệu quả của pháp
luật, bởi khi đó sẽ không đạt được mục đích mong muốn hoặc chỉ đạt được ở mức độ
thấp. Chẳng hạn, để giải quyết những tranh chấp, xử lý những vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai có thể bằng thủ tục hành chính và cũng có thể
bằng thủ tục tư pháp, vì vậy đòi hỏi phải chọn phương pháp nào và giao cho cơ quan
nào giải quyết thì phù hợp hơn, có hiệu quả cao hơn.

Cuối cùng, các quy định của pháp luật phải có khả năng thực hiện được. Một hệ
thống pháp luật có chất lượng thì phải bảo đảm tính khả thi, nghĩa là các quy định
pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội
hiện tại. Điều này đòi hỏi các quy định pháp luật phải được ban hành phù hợp với
trình độ phát triển của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Nếu các quy định
pháp luật được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các điều kiện phát triển của đất
nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật. Trong những trường hợp đó
hoặc là pháp luật không có khả năng thực hiện được hoặc là được thực hiện không
triệt để, không nghiêm, không phát huy hết vai trò tác dụng của nó trong đời sống xã
hội.

Tính khả thi của hệ thống pháp luật còn thể hiện ở việc các quy định pháp luật phải
được ban hành đúng lúc, kịp thời đáp ứng những nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra,
đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban
hành pháp luật phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có
cho phép thực hiện được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không, đồng thời
phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ
cán bộ, công chức có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong việc tiếp
nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó (ủng hộ hay không ủng hộ), trình độ văn hoá
và kiến thức pháp lý của nhân dân... Pháp luật có chất lượng phải là pháp luật đưa ra
được phương án tốt nhất với phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp nhất để thông
qua đó có thể đạt được mục đích mong muốn trong những điều kiện kinh tế - xã hội
hiện tại.

Chất lượng của hệ thống pháp luật là một trong những cơ sở để bảo đảm cho việc
thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, đồng thời cho
phép dự báo được khả năng hiện thực hoá các quy định pháp luật trong đời sống xã
hội. “Pháp luật được ban hành kịp thời, đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với các quy luật
khách quan và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và ở trình độ pháp lý cao: rõ ràng,

22
chính xác và một nghĩa thì tạo cơ sở cho điều chỉnh và tác động pháp luật đạt được kết
quả cao và ngược lại”9.

Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, dẫn đến sai sót trong hoạt động của cơ quan
hành chính. Một trong những thách thức chính của hệ thống pháp luật là luật pháp và
các quy định có thể không rõ ràng hoặc mâu thuẫn. Điều này có thể gây khó khăn cho
các cơ quan hành chính trong việc giải thích và thực hiện các quy định này một cách
nhất quán. Ngoài ra, cách giải thích pháp lý có thể khác nhau, dẫn đến sự không nhất
quán trong cách thức hoạt động của các cơ quan. Cuối cùng, lỗi của con người có thể
xảy ra trong quá trình thực thi luật pháp và các quy định, làm tăng thêm những thách
thức vốn có của hệ thống pháp luật.

Tham nhũng có thể làm suy yếu hệ thống pháp luật và hoạt động của các cơ quan
hành chính. Hối lộ và các hình thức tham nhũng khác có thể ảnh hưởng đến việc ra
quyết định hành chính, dẫn đến kết quả ưu tiên lợi ích cá nhân hơn lợi ích chung. Các
quan chức tham nhũng cũng có thể có những hành vi phi đạo đức, làm xói mòn hơn
nữa niềm tin của công chúng vào hệ thống pháp luật và các cơ quan hành chính.

Những lỗ hổng pháp lý có thể cho phép các cơ quan hành chính hoạt động theo
cách gây tổn hại cho người dân. Ví dụ, các cơ quan có thể khai thác những sơ hở để
trốn tránh trách nhiệm giải trình, cho phép họ tham gia vào các hành vi phi đạo đức
hoặc bất hợp pháp mà không bị trừng phạt. Ngoài ra, những sơ hở có thể tạo điều kiện
cho sự phân biệt đối xử hoặc đối xử bất bình đẳng với công dân, điều này có thể làm
xói mòn hơn nữa niềm tin của công chúng vào hệ thống pháp luật và các cơ quan hành
chính. Cuối cùng, những sơ hở có thể tạo điều kiện cho các cơ quan hoạt động ngoài
lợi ích tốt nhất của công chúng, dẫn đến kết quả không phù hợp với nhu cầu hoặc
mong muốn của công chúng.

Hệ thống pháp luật cung cấp khuôn khổ cho hoạt động của cơ quan hành chính
công bằng và minh bạch. Cụ thể, hệ thống pháp luật thiết lập các quy tắc và thủ tục rõ
ràng để các cơ quan tuân theo, đảm bảo rằng họ hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật còn cung cấp các cơ chế để công dân buộc các cơ quan
phải chịu trách nhiệm, chẳng hạn như thông qua hệ thống tòa án hoặc các phiên điều
trần hành chính. Cuối cùng, hệ thống pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của công dân,
đảm bảo các cơ quan không có hành vi gây tổn hại hoặc phân biệt đối xử.

Các cơ quan hành chính phải chịu sự giám sát và quy định để đảm bảo hoạt động
đúng đắn. Ví dụ, các cơ quan phải chịu sự kiểm toán và thanh tra để đảm bảo rằng họ
đang hoạt động tuân thủ luật pháp và các quy định. Ngoài ra, các cơ quan quản lý tồn
tại để giám sát việc tuân thủ luật pháp và quy định của cơ quan và điều tra các trường
hợp không tuân thủ. Cuối cùng, người dân có thể nộp đơn khiếu nại hoặc khiếu nại
các cơ quan, cung cấp thêm mức độ giám sát và trách nhiệm giải trình.

Những bất cập trong hệ thống pháp luật và hoạt động của cơ quan hành chính có
thể được giải quyết và cải thiện. Ví dụ, luật pháp và các quy định có thể được sửa đổi
9
Lê Minh Tâm, Về khái niệm hiệu quả pháp luật và những tiêu chí xác định hiệu quả pháp luật, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật 11/2000, tr.51.

23
để giải quyết những thiếu sót và đảm bảo rằng chúng rõ ràng và nhất quán. Ngoài ra,
các biện pháp đào tạo và trách nhiệm giải trình có thể được thực hiện để giảm thiểu sai
sót của con người và đảm bảo rằng các cơ quan đang hoạt động tuân thủ luật pháp và
quy định. Cuối cùng, các biện pháp chống tham nhũng có thể được tăng cường để
ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực và đảm bảo rằng các cơ quan đang hoạt động
vì lợi ích tốt nhất của công chúng.

III.2. Năng lực trình độ, đạo đức của các cán bộ, cơ quan
Một yếu tố quan trọng khác đóng vai trò quan trọng trong sự hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước là năng lực trình độ, đạo đức của cán bộ và cơ quan. Các
cán bộ là những người đại diện cho cơ quan hành chính nhà nước và thực hiện các
chính sách, quyết định của chính phủ. Để đảm bảo tính hiệu quả và đáng tin cậy trong
hoạt động, các cán bộ cần có năng lực chuyên môn, trình độ học vấn và kỹ năng cần
thiết.

Hiệu quả quản lý công của các cơ quan hành chính nhà nước phụ thuộc vào năng
lực, trình độ và đạo đức của người làm công chức đó. Các quan chức có thẩm quyền
có thể đưa ra những quyết định sáng suốt và cải thiện niềm tin của công chúng vào
chính phủ, trong khi hành vi phi đạo đức có thể dẫn đến tham nhũng và làm suy yếu
tính minh bạch. Trình độ chuyên môn của cán bộ đảm bảo họ có kiến thức và kỹ năng
phù hợp để giải quyết các vấn đề phức tạp và nâng cao hiệu quả của các cơ quan chính
phủ. Tuy nhiên, các lập luận phản bác cho rằng năng lực không phải là yếu tố duy
nhất trong quản trị hiệu quả, trình độ chuyên môn có thể được đánh giá quá cao và đạo
đức có thể khó xác định và thực thi.

Năng lực rất quan trọng để quản trị hiệu quả vì nó đảm bảo các quan chức có thể
đưa ra quyết định sáng suốt, tránh những sai lầm tốn kém và cải thiện niềm tin của
công chúng vào chính phủ. Các quan chức không đủ năng lực có thể mắc phải những
sai lầm gây ảnh hưởng lâu dài đến công chúng, chẳng hạn như cuộc khủng hoảng
nước ở Flint10, khi các quan chức không giải quyết được vấn đề ô nhiễm chì trong
nguồn cung cấp nước. Các quan chức có thẩm quyền có thể nâng cao niềm tin của
công chúng vào chính phủ bằng cách chứng tỏ kiến thức và khả năng giải quyết các
vấn đề phức tạp của họ. Ví dụ, sự lãnh đạo hiệu quả trong đại dịch COVID-19 của
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và Viện Y tế Quốc gia (NIH)
đã cải thiện niềm tin của công chúng vào các cơ quan chính phủ.

Trình độ chuyên môn của cán bộ cũng quan trọng không kém vì chúng đảm bảo
cán bộ có kiến thức và kỹ năng phù hợp để giải quyết các vấn đề phức tạp và nâng cao
hiệu quả của các cơ quan chính phủ. Các quan chức có trình độ được trang bị tốt hơn
để hướng dẫn cấp dưới và đảm bảo rằng nhiệm vụ của cơ quan được thực hiện một
cách hiệu quả. Ví dụ, Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) yêu cầu các quan chức phải
có kiến thức nền tảng về khoa học môi trường hoặc lĩnh vực liên quan để đảm bảo họ
có đủ chuyên môn cần thiết để thực hiện sứ mệnh của cơ quan. Ngoài ra, trình độ
chuyên môn có thể đảm bảo rằng các quan chức có những kỹ năng cần thiết để giải

10
26/02/2020, cuộc khủng hoảng nước sinh hoạt ở Flint, một thành phố có hơn 100.000 dân cư của bang
Michigan, Mỹ.

24
quyết các vấn đề phức tạp, chẳng hạn như an ninh mạng, có thể có tác động đáng kể
đến công chúng.

Đạo đức của quan chức là điều cần thiết để duy trì niềm tin của công chúng vào
chính phủ. Hành vi phi đạo đức có thể dẫn đến tham nhũng và làm suy yếu tính minh
bạch, trong khi hành vi đạo đức có thể cải thiện tính minh bạch và thể hiện cam kết
đối với lợi ích công cộng. Ví dụ: Cục Điều tra Liên bang (FBI) có quy tắc đạo đức
cấm các đặc vụ tham gia vào các hoạt động có thể ảnh hưởng đến tính chính trực của
họ hoặc sứ mệnh của cơ quan. Hành vi đạo đức cũng có thể cải thiện tính minh bạch
bằng cách đảm bảo rằng các quan chức phải chịu trách nhiệm về hành động của mình,
như được chứng minh qua cuộc điều tra của Bộ Tư pháp về việc cảnh sát sử dụng vũ
lực.

Năng lực không phải là yếu tố duy nhất để quản trị hiệu quả. Các yếu tố khác,
chẳng hạn như ý chí chính trị và phân bổ nguồn lực, có thể ảnh hưởng đến quản trị. Ví
dụ, ngay cả khi các quan chức có đủ năng lực cần thiết nhưng nếu họ thiếu ý chí chính
trị để đưa ra những quyết định khó khăn thì nhiệm vụ của cơ quan có thể không được
thực hiện một cách hiệu quả. Ngoài ra, năng lực có thể không cần thiết đối với một số
vị trí nhất định, chẳng hạn như trợ lý hành chính hoặc nhân viên văn thư. Năng lực
cũng có thể được phát triển thông qua đào tạo tại chỗ và các quan chức có thể có được
những kỹ năng cần thiết theo thời gian.

Bằng cấp có thể được đánh giá quá cao và kinh nghiệm có thể có giá trị như bằng
cấp chính thức. Việc quá chú trọng vào trình độ chuyên môn có thể hạn chế sự đa
dạng trong chính phủ, vì các cá nhân có hoàn cảnh khó khăn có thể không được tiếp
cận với các cơ hội giáo dục giống như những người cùng lứa tuổi với họ. Ngoài ra,
bằng cấp có thể đạt được thông qua chế độ gia đình trị hoặc các biện pháp không công
bằng khác, làm suy yếu các nguyên tắc của chế độ nhân tài. Cuối cùng, việc quá chú
trọng đến trình độ chuyên môn có thể hạn chế khả năng thích ứng của các quan chức
với hoàn cảnh thay đổi, vì họ có thể phụ thuộc quá nhiều vào trình độ học vấn chính
quy và không cởi mở với những ý tưởng hoặc cách tiếp cận mới.

Đạo đức có thể khó xác định và thực thi vì hành vi đạo đức thay đổi tùy theo văn
hóa và bối cảnh. Những gì được coi là đạo đức trong một nền văn hóa có thể không
được coi là đạo đức trong một nền văn hóa khác và các cá nhân có thể có những cách
hiểu khác nhau về những gì tạo nên hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức cũng có thể
mang tính chủ quan và các quan chức có thể được thúc đẩy bởi các giá trị và nguyên
tắc khác nhau. Cuối cùng, hành vi đạo đức có thể khó thực thi nếu không có sự giám
sát thích hợp, vì các quan chức có thể có hành vi phi đạo đức mà không bị phát hiện.
III.3. Tăng hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước
Công tác cải cách hành chính ở nước ta những năm qua đã đạt được kết quả
khá toàn diện và nổi bật, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển bền vững kinh tế - xã
hội, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành

25
chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương và nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh
quốc tế. Hành chính Nhà nước có bổn phận phục vụ sự nghiệp phát triển cộng đồng và
nhu cầu thiết yếu của công dân. Vì vậy, việc nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của
nền hành chính Nhà nước tiếp tục là một yêu cầu tất yếu và cấp bách trong điều kiện
nước ta hiện nay. Sự cần thiết này xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
- Hành chính Nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước nhằm hiện
thực hóa đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nâng cao
hiệu quả hoạt động hành chính Nhà nước chính là nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với toàn xã hội, là hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bản thân
bộ máy Nhà nước (mà trong đó trực tiếp là bộ máy hành chính Nhà nước) cần
đổi mới tổ chức hoạt động để đáp ứng yêu cầu mới đặt ra.
- Tình hình chính trị, kinh tế và tiến bộ khoa học - công nghệ trên thế giới thay
đổi về cơ bản, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới về tổ chức và hoạt động của hành
chính Nhà nước để có thể đáp ứng kịp với diễn biến của tình hình và tốc độ
phát triển của thời đại.
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hành chính Nhà nước là những tác động có
chủ đích nhằm làm cho hoạt động hành chính Nhà nước đạt được những mục tiêu định
hướng. Nền hành chính nước ta tuy có nhiều đổi mới nhưng về cơ bản vẫn là một nền
hành chính thực hiện theo cơ chế mệnh lệnh và xin - cho. Nền hành chính như vậy
chưa thể đảm nhiệm vai trò khai thông các nguồn lực trong mỗi cá nhân, tổ chức và xã
hội để phát triển đất nước. Trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường có định
hướng XHCN trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, cần thiết phải chuyển từ nền
hành chính truyền thống sang nền hành chính phát triển. Trong nền hành chính phát
triển, quan hệ giữa nhà nước với công dân thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng. Các
quyền và nghĩa vụ mỗi bên được xác định rõ ràng, không tuyệt đối hóa, không quá đề
cao vai trò của Nhà nước trước công dân, không xem cơ quan nhà nước như một chủ
thể ra lệnh, ban phát quyền lợi cho công dân; công chức nhà nước không được quyền
sách nhiễu, gây phiền hà cho dân, mà phải coi công dân là khách hàng, cơ quan hành
chính là người phục vụ và phải thực hiện cam kết phục vụ một cách công khai.
Có thể chỉ ra một số nội dung thể hiện quan điểm của Đảng về việc tăng hiệu quả,
hiệu lực của các cơ quan hành chính; xây dựng nền hành chính nhà nước đáp ứng yêu

26
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới này như
sau:
Thứ nhất, thống nhất, nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và tăng cường chỉ đạo
tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Theo hướng này, cần thống
nhất và nâng cao nhận thức về chủ trương, định hướng đổi mới hệ thống chính trị mà
Đảng ta đã đề ra trong nhiệm kỳ Đại hội XIII. Đổi mới tư duy tức là đổi mới cách nghĩ
và cách làm. Đổi mới tư duy để nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn, tạo ra sự chủ động,
sáng tạo, đột phá trong toàn bộ quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy và không ngừng cải
cách; rà soát, khắc phục những hạn chế của bộ máy hành nhà nước để xây dựng và
vận hành bộ máy hành chính nhà nước thật sự tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo
phát triển, liêm chính, phục vụ Nhân dân. Đổi mới tư duy thể hiện tầm nhìn chiến
lược, để thấy được xu hướng và quy luật tất yếu của việc tiếp tục cải cách, thiết kế,
sắp xếp lại các cơ quan, tổ chức. Đổi mới cách làm đòi hỏi các cấp, các ngành, địa
phương và đội ngũ cán bộ, công chức phải ý thức rõ và định vị đúng sứ mệnh của bộ
máy hành chính nhà nước là dẫn dắt, định hướng, tạo điều kiện cho sự phát triển theo
đúng khuôn khổ và định hướng của nền quản trị quốc gia. Bên cạnh đó, tập trung đẩy
mạnh cải cách chế độ công vụ để tạo động lực, khơi dậy và phát huy tinh thần cống
hiến vì Nhân dân, vì đất nước của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người đứng
đầu trong thực thi công vụ, nhiệm vụ.
Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
Tiếp tục đánh giá toàn diện về quy định của Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức
chính quyền địa phương, các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ
chức của bộ, cơ quan ngang bộ để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu
cầu cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, cải cách tổ chức bên trong của
Chính phủ để giúp phân định rõ ràng, đầy đủ hơn thẩm quyền của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác
định: “Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định” 11. Do đó, cần
tiếp tục thể chế hóa quan điểm này và cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 để thiết lập tổ

11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.178.

27
chức chính quyền địa phương một cách linh hoạt, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu đổi mới
quản trị quốc gia, quản trị địa phương.
Thứ ba, tiếp tục sắp xếp, kiện toàn, tổ chức lại các đơn vị hành chính. Đẩy mạnh
sắp xếp các đơn vị hành chính phù hợp với quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính
các cấp để tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy. Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
các quy định về phân chia và phân loại đơn vị hành chính ở nước ta trong Hiến pháp
năm 201312 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019)13. Các văn bản này đã quy định rõ trong các đơn vị hành chính sẽ có cụ thể
những loại đơn vị hành chính cấp dưới trực thuộc (bên trong) và đây là cơ sở để thiết
lập tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, phân loại các đơn vị hành chính một
cách thống nhất và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên các quy định tại Nghị quyết
1211/2016/UBTVQH13 vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, làm cơ sở cho việc sửa đổi các
quy định liên quan phân loại và sắp xếp các đơn vị hành chính14. Chính quyền các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chủ động phối hợp với Trung ương tiếp tục
tổng kết việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và đề xuất kế hoạch, lộ
trình sắp xếp đơn vị hành chính các cấp trong giai đoạn 2021-2030, trong đó cần
nghiên cứu kỹ lưỡng, chặt chẽ việc sắp xếp cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh để tiếp
tục thực hiện có hiệu quả chủ trương “khuyến khích sáp nhập, tăng quy mô các đơn vị
hành chính các cấp ở những nơi có đủ điều kiện để nâng cao năng lực quản lý, điều
hành và tăng cường các nguồn lực của địa phương”15.
Thứ tư, đẩy mạnh đổi mới bộ máy Chính phủ, chính quyền địa phương và tổ chức
sắp xếp, kiện toàn các cơ quan, tổ chức bên trong bộ máy hành chính nhà nước. Nghị
quyết Đại hội XIII đã xác định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả” 16. Theo đó, cải cách bộ máy của Chính phủ
phải tiếp tục khẳng định và phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ. Chính phủ tập trung vào xây dựng thể chế kiến tạo phát triển,
quản trị quốc gia và tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần thượng tôn pháp luật.
12
Điều 110 Hiến pháp 2013.
13
Điều 2 Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
14
Nguyễn Đặng Phương Truyền, Hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị
hành chính ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6/2019
15
Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII.
16
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.177.

28
Chính phủ, các bộ, ngành tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, luật pháp, cơ chế, chính sách. Chính phủ có đủ năng lực, đủ khả
năng giải trình; tạo ra tầm nhìn tốt và chính sách tốt; sự tương tác thân thiện với xã
hội, người dân, với thị trường và doanh nghiệp; tạo ra và chia sẻ sự phát triển. Ngoài
ra, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới bộ máy của Chính phủ tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả
trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực, khắc phục triệt để những
chồng chéo, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, đảm
bảo nguyên tắc một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm
chính. Tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cơ sở khoa học về phạm vi quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực của những bộ, ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng để có giải pháp phù
hợp và thực hiện kiện toàn, sắp xếp tổ chức, thu gọn đầu mối nhằm khắc phục tình
trạng cồng kềnh, nhiều đầu mối, nhiều đơn vị trực thuộc, đặc biệt khắc phục tình trạng
“bộ trong bộ” vốn là hạn chế chưa khắc phục được của việc sáp nhập các bộ, cơ quan
từ giai đoạn trước càng nặng nề thêm”17. Tiếp tục rà soát, chuyển một số nhiệm vụ mà
các bộ, ngành, cơ quan nhà nước không cần thiết phải thực hiện cho tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp đảm nhận.
Thứ năm, tiếp tục tục cải cách bộ máy chính quyền địa phương thực sự tinh gọn và
khoa học, có khả năng cảm nhận, thích ứng và giải quyết nhanh nhất, tốt nhất các vấn
đề phát sinh từ thực tiễn ở địa phương. Do đó, cần thiết kế các mô hình chính quyền
địa phương phù hợp với đặc thù của các địa phương. Đồng thời, tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện đảm bảo “sự thống
nhất trong đa dạng” về tổ chức bộ máy ở địa phương.
Thứ sáu, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, ủy quyền trong hoạt động của tổ chức
bộ máy hành chính nhà nước. Nghị quyết Đại hội XIII đã xác định: “đổi mới mạnh mẽ
phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành”18,“đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống
nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”, 19và
“đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ,
ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương, bảo đảm quản lý
17
Chính phủ (2021), Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 về Tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành
chính giai đoạn 2011-2020, phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2021-2030.
18
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.225.
19
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.225.

29
nhà nước thống nhất”20. Do đó, phải tiếp tục xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, bộ, ngành với
địa phương. Chính phủ tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chính sách,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ không quyết định
các vấn đề cụ thể thuộc trách nhiệm của các bộ, ngành đã được phân công và những
vấn đề thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của chính quyền địa phương trong phạm vi đã
được phân cấp, phân quyền. Bên cạnh đó, phải “phân định rõ trách nhiệm tập thể và
trách nhiệm cá nhân, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, thông suốt và hiệu quả;
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành,
từng đơn vị và từng cá nhân người đứng đầu bộ, ngành, địa phương và đơn vị” 21.
Đồng thời, phải thực hiện hiệu quả việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền
lực gắn với trách nhiệm người đứng đầu, tăng cường tính công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình của từng cơ quan, tổ chức trong bộ máy hành chính nhà nước
III.4. Trách nhiệm đối với xã hội của người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước
“Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước (HCNN)” là thuật ngữ dùng để chỉ
thiết chế giữ vị trí pháp lý cao nhất trong cơ quan HCNN, thực hiện vai trò lãnh đạo,
quản lý hoạt động của cơ quan HCNN, có nghĩa vụ và quyền hạn cao nhất đối với
hoạt động của cơ quan HCNN và chịu trách nhiệm về hoạt động của cơ quan HCNN
đó”. Chủ thể này chịu trách nhiệm và nghĩa vụ cao nhất trong việc tổ chức thực hiện
chức năng và nhiệm vụ của cơ quan và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ
quan với tư cách là người đứng đầu cơ quan HCNN. Có thể hiểu, người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ thiết chế giữ vị trí pháp lý, quyền
và nghĩa vụ cao nhất trong cơ quan hành chính nhà nước, thực hiện vai trò lãnh đạo
quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
Trách nhiệm đối với xã hội của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
được hiểu là sự cam kết ứng xử của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước phù
hợp với lợi ích của xã hội trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của xã hội, của

20
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.284.
21
Phạm Thị Thanh Trà, Tiếp tục xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 4/2021, tr.3-7.

30
người dân. Trách nhiệm đối với xã hội hướng đến mục tiêu lớn nhất là lợi ích của
người dân, của xã hội, vì sự phát triển bền vững, tốt đẹp của xã hội.
Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm đối với xã hội bởi
những lý do sau đây:
- Trách nhiệm đối với xã hội là sứ mệnh cơ bản của nhà nước. Từ thời cổ đại,
Aristoteles đã cho rằng sứ mệnh của nhà nước, của những nhà cầm quyền
không chỉ đảm bảo cho con người sống bình thường, mà còn phải làm sao để
cho con người sống hạnh phúc22. “Mục đích của nhà nước là cuộc sống phúc
lợi…bản thân nhà nước là sự giao thiệp của các gia tộc và dân cư nhằm đạt
được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập”23, tức là đạt được một cuộc sống
ưu việt, mà theo ông không chỉ về phương diện của cải vật chất mà còn là bảo
đảm công lý. Ngày nay, các làn sóng cải cách chính phủ đều nhằm hướng đến
gia tăng trách nhiệm đối với xã hội của các chính phủ. Chính phủ ngày càng
phải tốt hơn do áp lực ngày càng tăng từ phía công chúng đối với việc cải thiện
dịch vụ và hoạt động đáp ứng của một nền hành chính phục vụ các công dân
chứ không phải ra lệnh cho họ. Đặt trong bối cảnh đó, trách nhiệm đối với xã
hội hay là trách nhiệm bên ngoài của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước là loại hình trách nhiệm cần được quan tâm sâu sắc, là phương tiện để
thực hiện trách nhiệm đối với xã hội của nhà nước.
- Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có vai trò rất quan trọng trong
việc thực hiện trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội. Có thể khẳng định như
vậy, bởi hệ thống các cơ quan hành pháp được coi là trung tâm của bộ máy nhà
nước. “Xét cho cùng trung tâm hoạt động của nhà nước mỗi quốc gia là hoạt
động của hành pháp”24. Hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
là nhân tố sống còn trong việc tạo ra, duy trì, điều hành, hiện thực hóa các
chính sách của nhà nước, là thiết chế quan trọng nhất mang lại tự do và hạnh
phúc cho người dân. Chính vì thế, nếu nói rằng trách nhiệm đối với xã hội là sứ
mệnh cơ bản của nhà nước thì cũng có thể nói đó chính là sứ mệnh cơ bản của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước – chủ thể quyết định việc hiện
22
Nhà triết học và bác học người Hy Lạp cổ điển (384-322 TCN).
23
Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên), Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.207.
24
Nguyễn Đăng Dung, Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2008,
tr.106.

31
thực hóa và biến trách nhiệm này như một khái niệm vĩ mô, chung chung thành
những biểu hiện cụ thể, vi mô trong đời sống hằng ngày, hằng giờ của từng
người dân, từng tổ chức trong xã hội.
- Hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước là nhân tố sống còn
trong việc tạo ra, duy trì, điều hành, hiện thực hóa các chính sách của nhà nước,
là thiết chế quan trọng nhất mang lại tự do và hạnh phúc cho người dân. Chính
vì thế, nếu nói rằng trách nhiệm đối với xã hội là sứ mệnh cơ bản của nhà nước
thì cũng có thể nói đó chính là sứ mệnh cơ bản của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước – chủ thể quyết định việc hiện thực hóa và biến trách
nhiệm này như một khái niệm vĩ mô, chung chung thành những biểu hiện cụ
thể, vi mô trong đời sống hằng ngày, hằng giờ của từng người dân, từng tổ
chức trong xã hội.
Biểu hiện trách nhiệm đối với xã hội của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước rất đa dạng, ví dụ: đặt lợi ích của người dân lên trên hết; gắn kết quả hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước với sự hài lòng của xã hội; tăng cường, huy động sự
tham gia của dân vào quá trình quản lý và cung cấp dịch vụ công… Nhìn chung,
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước được coi là thực hiện tốt trách nhiệm
đối với xã hội khi cả trong nhận thức, thái độ và hành vi của họ luôn đặt lợi ích của xã
hội, của người dân lên trên hết.
Nói một cách ngắn gọn, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có trách
nhiệm đối với xã hội thì “Việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm; Việc gì có hại
cho dân thì phải hết sức tránh”25. Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cần
coi con người là trung tâm trong các thiết kế chính sách, đồng nghĩa với các chính
sách phải đặt nhu cầu, lợi ích của người dân lên trên hết. “Một nhà nước không biết
đến những nhu cầu của những bộ phận lớn dân chúng trong việc thiết lập và thực thi
chính sách thì không phải là một nhà nước có năng lực”26.
Để thực hiện trách nhiệm đối với xã hội, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước phải làm nhiều hơn những gì pháp luật quy định, phải vượt qua những lợi ích
mang tính “nội bộ” của hệ thống cơ quan nhà nước để hướng đến xã hội, làm cho đời

25
Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2000, tr.47.
26
Ngân hàng thế giới, Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo về tình hình phát triển thế giới
1997, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.139.

32
sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Nếu chỉ thực hiện trách nhiệm theo các quy định
được văn bản hóa, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước vẫn thực hiện trách
nhiệm của mình nhưng có thể họ chỉ hoạt động như những “cái máy phục vụ” – thực
thi trách nhiệm bằng đôi bàn tay mà thiếu sự sáng tạo của khối óc và sự cảm nhận của
trái tim. Để thực hiện tốt trách nhiệm đối với xã hội, người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước phải luôn hun đúc một tâm niệm rằng sứ mệnh của cơ quan hành
chính nhà nước là phải luôn bảo đảm và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của
người dân. Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước phải “nghĩ ra” việc cần làm
vì ý thức được vai trò của mình đối với xã hội chứ không chỉ đơn giản là tuân thủ các
quy định của các cơ quan nhà nước. Tâm niệm đó phải đến từ sự tự nguyện, từ đạo
đức, từ văn hóa trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
IV. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT
NAM DƯỚI GÓC ĐỘ XÃ HỘI HIỆN NAY
IV.1. Thực trạng
a) Tích cực
- Về cơ cấu tổ chức:
Vai trò, chức năng của chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã
có sự chuyển đổi từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp thông qua pháp luật và
các công cụ quản lý vĩ mô; Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đã bắt đầu có
sự tinh giản.
- Về đội ngũ cán bộ, công chức:
Xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt
động thực tiễn, gắn bó với Nhân dân, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, người đứng đầu trong việc xây dựng,
triển khai, nâng cao chất lượng các chương trình, kế hoạch, hướng dẫn thực hiện các
chủ trương, nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ, thường
xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả
những tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ.

33
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đẩy mạnh theo quy hoạch, theo tiêu
chuẩn chức danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sự gương mẫu, tinh thần vì Nhân dân
phục vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu
các cấp. Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới về mọi lĩnh vực cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng như cán bộ dự nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý;
trang bị kiến thức về hội nhập, thông lệ quốc tế, pháp luật, ngoại ngữ, kỹ năng giao
tiếp, xử lý tình huống,...
Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức
Có sự kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy
quyền.
- Hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước:
Hiệu quả quản lý hành chính nhà nước không ngừng được nâng cao: Qua tiến hành
cải cách, việc phân cấp quản lý giữa cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương
được tăng cường; phương thức làm việc được đổi mới. Việc sắp xếp, kiện toàn, tinh
giản tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập ở Trung ương và địa phương
được thực hiện có hiệu quả.
- Nỗ lực cải thiện minh bạch và công khai:
Một số cơ quan hành chính nhà nước đã thực hiện các biện pháp để cải thiện minh
bạch và công khai trong hoạt động của mình. Việc công bố thông tin, tổ chức các buổi
gặp gỡ công dân và cải thiện quy trình làm việc là những ví dụ điển hình.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính:
Nhiều cơ quan hành chính nhà nước đã tiến hành cải cách hành chính để giảm bớt
thủ tục, tiết kiệm thời gian và chi phí cho người dân.
- Sử dụng công nghệ thông tin:

34
Các cơ quan hành chính nhà nước đã chú trọng vào việc áp dụng công nghệ thông
tin để tối ưu hóa quy trình làm việc, nâng cao hiệu quả và tiện ích cho người dân.
- Nâng cao năng lực và đào tạo:
Nhiều cơ quan hành chính nhà nước đã đầu tư vào đào tạo và phát triển năng lực
cho cán bộ công chức, giúp họ nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng làm việc.
b) Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm đạt được thì bộ máy hành chính nhà nước vẫn tồn tại
nhiều hạn chế27, đó là:
Thứ nhất, công tác lãnh đạo, chỉ đạo cải cách hành chính chưa thực sự quyết liệt.
Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp. Tính đồng bộ, cân đối, khả thi của hệ
thống pháp luật tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn sự chênh lệch, thiếu tính
đồng bộ giữa các lĩnh vực. Tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật,
pháp lệnh vẫn đang là nguyên nhân hạn chế hiệu lực thực tế của cả hệ thống pháp luật.
Thứ hai, việc đổi mới chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính nhà nước
còn chậm. Bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các sở ở
cấp tỉnh và các phòng ở cấp huyện còn cồng kềnh, phức tạp, thiếu ổn định. Thực hiện
tinh giản biên chế còn chậm. Phân cấp quản lý nhà nước chưa được thực hiện triệt để,
nghiêm túc.
Thứ ba, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có nơi chưa đồng đều, còn yếu về
năng lực phát hiện vấn đề, tham mưu và đề xuất các biện pháp giải quyết; còn có
những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực. Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý
cán bộ công chức có vi phạm pháp luật chưa thường xuyên, hiệu quả thấp.
Thứ tư, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương
vẫn chưa thực sự thống nhất, thông suốt. Kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa được
thực hiện nghiêm túc, vẫn còn tình trạng tùy tiện, thiếu quy định rõ ràng về quy trình
giải quyết công việc ở các cơ quan hành chính.
Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính
còn hạn chế.
27
Cải cách hành chính ở nước ta - Thực trạng và một số đề xuất. https://danchuphapluat.vn/cai-cach-hanh-
chinh-o-nuoc-ta-thuc-trang-va-mot-so-de-xuat

35
Thứ sáu, cơ chế giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ chưa thực sự được thắt
chặt.
IV.2. Giải pháp
Dưới góc độ xã hội hiện nay, cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam có thể
nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thông qua các giải pháp sau:
- Cải cách hành chính: Tiến hành cải cách hành chính để giảm bớt thủ tục, giảm
gánh nặng cho người dân và doanh nghiệp. Tối ưu hóa các quy trình, quy định
để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc làm kinh doanh và phát triển kinh tế xã
hội.
- Tăng cường minh bạch và công khai: Tăng cường minh bạch và công khai
trong quản lý và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Điều này có thể
giúp tăng cảm giác tin cậy của người dân và doanh nghiệp đối với chính phủ,
đồng thời giúp ngăn chặn hoặc giảm thiểu các hành vi tham nhũng.
- Tạo điều kiện cho sự tham gia của cộng đồng: Tăng cường sự tham gia của
cộng đồng trong quyết định và giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước. Thông qua việc tổ chức hội thảo, đối thoại, thăm dò ý kiến, cơ quan nhà
nước có thể hiểu rõ hơn về nhu cầu và ý kiến của cộng đồng.
- Đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ: Đầu tư vào đào tạo và phát triển
năng lực cho cán bộ công chức. Điều này giúp cán bộ nắm vững kiến thức
chuyên môn và kỹ năng làm việc, từ đó nâng cao chất lượng phục vụ và hiệu
quả hoạt động của cơ quan.
- Sử dụng công nghệ thông tin: Áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý và hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước nhằm tối ưu hóa các quy trình, nâng
cao tính minh bạch và tiện ích cho người dân và doanh nghiệp.
- Xây dựng văn hóa làm việc tích cực: Tạo ra môi trường làm việc tích cực và
sáng tạo để khuyến khích cán bộ công chức làm việc hiệu quả và nâng cao chất
lượng dịch vụ công. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc tạo ra các
chính sách thưởng phạt công bằng và rõ ràng.

Ngoài ra, còn có các giải pháp như sau: 1) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống
thể chế của nền hành chính nhà nước, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực; 2) Chú trọng

36
cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, đáp ứng sự hài
lòng của người dân; 3) Đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; 4)
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hướng tới xây dựng nền
công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài; 5) Cải cách tài chính công
theo hướng đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước gắn với
nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
thúc đẩy sự sáng tạo. Kiểm soát tham nhũng tại các cơ quan, đơn vị với phương châm
kiên quyết, kiên trì, quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn,
hiệu quả hơn, không có vùng cấm, không có ngoại lệ; 6) Phát triển Chính phủ điện tử,
Chính phủ số.

37
KẾT LUẬN
Tóm lại, dưới góc nhìn xã hội học, ta có thể thấy hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước một cách bao quát nhất từ cơ cấu tổ chức đến hiệu quả hoạt động và
tổng thể các yếu tố xã hội tác động đến cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở đó
đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
trong thực tiễn. Đồng thời, qua quá trình tìm hiểu các kiến thức về các cơ quan hành
chính nhà nước dưới góc độ xã hội học thì việc củng cố kiến thức cũng như việc tư
duy vấn đề này dưới góc nhìn đa chiều được hoàn thiện hơn.

38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Hồng Thái- Nguyễn Thị Minh Hà, Giáo trình Luật hành chính, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội, tr.109- 112
2. Khái niệm, đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước (hethongphapluat.com)
3. Phạm Hồng Thái- Nguyễn Thị Minh Hà, Giáo trình Luật hành chính, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội, tr.32-38
4. “ Hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng và môi trường điện
tử” - Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau- 03/10/2023
https://sotuphap.camau.gov.vn/wps/portal/?
1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm%3Apath%3A/sotuphaplibrary/
sotuphapsite/noidungtrangrss/tintucsukien/thoisuchinhtrivatintuc/tin+06-a.10.3-
03.10.2023
5. Nguyễn Minh Phương, Bùi Văn Minh, Các yếu tố tác động đến hiệu quả quản
lý nhà nước ở nước ta hiện nay, Tạp chí Tổ chức nhà nước (16/11/2018),
https://tcnn.vn/news/detail/41620/Cac-yeu-to-tac-dong-den-hieu-qua-quan-ly-
nha-nuoc-o-nuoc-ta-hien-nay.html
6. TS. Nguyễn Trọng Bình, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Sự tham gia của người
dân trong quản lý công, Nghiên cứu lập pháp số 1(377)- kỳ 1, tháng 1/2019),
http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=206840
7. Nguyễn Minh Phú (2018), Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8 (360), tr.3-12
8. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên): Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998, tr.207
9. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên): Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998, tr.207
10. Nguyễn Đăng Dung: Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2008, tr.106
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2000, tr.47
12. Cải cách hành chính ở nước ta - Thực trạng và một số đề xuất.
https://danchuphapluat.vn/cai-cach-hanh-chinh-o-nuoc-ta-thuc-trang-va-mot-
so-de-xuat

39
13. Vũ Ngọc Hà. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 389), tháng 9/2023 Xây
dựng nền hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
https://danchuphapluat.vn/xay-dung-nen-hanh-chinh-nha-nuoc-dap-ung-yeu-
cau-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-trong-giai-
doan-moi
14. ThS. Bùi Thị Ngọc Hiền - Trường Cao đẳng Nội vụ Hà Nội / Tạp chí Tổ chức

Nhà nước Số 8/2009


15. “Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010”

ban hành theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 17/9/2001.
16. Học viện Hành chính. Giáo trình Hành chính công (dùng cho sau đại học). Nxb

Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2008


17. Trần Đình n, Võ Trí Thanh. Thể chế - Cải cách thể chế và phát triển. Nxb

Thống kê, Hà Nội, 2002, tr.10-11.


18. Nguyễn Minh Phương, Bùi Văn Minh, Các yếu tố tác động đến hiệu quả quản

lý nhà nước ta hiện nay, Tạp chí Tổ chức nhà nước (2018),
https://tcnn.vn/news/detail/41620/Cac-yeu-to-tac-dong-den-hieu-qua-quan-ly-
nha-nuoc-o-nuoc-ta-hien-nay.html
19. TS. Nguyễn Trọng Bình, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Sự tham gia của người

dân trong quản lý công, Nghiên cứu lập pháp số 1(377)- kỳ 1, tháng 1/2019),
http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=206840

40
41

You might also like