Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

 BẤT CẬP 1:

Ông H, tự cho mình là người đang giữ chức vụ quản lý và có mức lương hàng tháng là
13.500.000đ, không xuất hiện trong danh sách kèm theo tờ khai quyết toán thuế thu nhập
cá nhân năm 2018 của Công ty Cổ phần Nhựa T. Điều này cho thấy có khả năng mức
lương ông H ghi trong hợp đồng lao động không phản ánh đúng thực tế. Điều này có thể
dẫn đến việc trốn thuế hoặc vi phạm các quy định về lao động và thuế. Đây là một vấn đề
nghiêm trọng cần được điều tra và xử lý kịp thời.

Nhóm tác giả nhận thấy bất cập trong tình tiết này liên quan đến các điều khoản sau của
Bộ Luật Lao Động của Việt Nam:

1/ Hợp đồng lao động: Theo Điều 90 của Bộ Luật Lao Động 2019, tiền lương là số tiền
mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo thỏa thuận để thực hiện công
việc, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ
sung khác. Trong trường hợp của ông H, không có hợp đồng lao động bằng văn bản giữa
ông và Công ty Cổ phần Nhựa T từ ngày 14/02/2017 đến ngày 10/01/2018.

2/ Quản lý công ty: Theo Điều 4 của Luật Doanh Nghiệp 2020, người quản lý doanh
nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ
doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên
Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm
quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.

3/ Mức lương: Theo Điều 90 của Bộ Luật Lao Động 2019, mức lương theo công việc
hoặc chức danh không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Trong trường hợp của ông H,
mức lương tự cho là 13.500.000đ nhưng không thể cung cấp tài liệu hoặc chứng cứ nào
để chứng minh mức lương đã thỏa thuận giữa các bên.
Nhóm tác giả nhận thấy việc thiếu hợp đồng văn bản như trên có thể dẫn đến hậu quả vi
phạm pháp luật. Trong góc nhìn của nhóm tác giả, bất cập trong tình tiết này liên quan
đến ba vấn đề chính:

1/ Thiếu hợp đồng lao động bằng văn bản: Theo Luật Lao động của Việt Nam, mọi thỏa
thuận về công việc và tiền lương giữa người lao động và người sử dụng lao động phải
được ghi trong hợp đồng lao động. Trong trường hợp của ông H, không có hợp đồng lao
động bằng văn bản giữa ông và Công ty Nhựa T từ ngày 14/02/2017 đến ngày
10/01/2018.

2/ Vị trí và mức lương không rõ ràng: Ông H tự cho mình là quản lý công ty và có mức
lương là 13.500.000đ, nhưng không thể cung cấp tài liệu hoặc chứng cứ nào để chứng
minh công việc và mức lương đã thỏa thuận giữa các bên. Điều này có thể gây ra những
vấn đề pháp lý liên quan đến quyền lợi của người lao động và nghĩa vụ của người sử
dụng lao động

3/ Sự không nhất quán trong thông tin: Trong một sự kiện xảy ra tại Công ty Nhựa T vào
ngày 15/9/2017, ông H có mặt tại công ty nhưng lại được ghi nhận là “đang nằm võng”.
Trong khi đó, bà H khai với Công an rằng ông H là kế toán của Công ty. Điều này gây ra
sự không nhất quán trong thông tin về vị trí công việc của ông H tại công ty.

Việc thiếu hợp đồng lao động bằng văn bản, vị trí và mức lương không rõ ràng, sự không
nhất quán trong thông tin như trên có thể dẫn đến việc vi phạm các quy định về lao động
và thuế tại Việt Nam. Nhóm tác giả nhận thấy trong trường hợp này, nếu mức lương của
ông H là 13.500.000đ là có thật thì ông H sẽ không phải đóng thuế. Mặt khác, quyền lợi
của ông sẽ không được đảm bảo vì ông không được xem là người lao động của công ty
nên sẽ không được trợ cấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn, trợ cấp thất
nghiệp từ công ty theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó việc thiếu hợp đồng văn bản còn dẫn tới hậu quả bất lợi cho người lao động
trong việc tranh chấp hợp đồng lao động. Để làm rõ điều này, nhóm tác giả sẽ phân tích
dựa trên khoản 1, điều 13 của Bộ luật Lao động năm 2019 có nội dung như sau:

“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về
việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong
quan hệ lao động. Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác (hoặc không có tên
gọi) nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều
hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.”

Về yếu tố "người sử dụng lao động", nhóm tác giả nhận thấy rằng công ty có thể cử một
người không có thẩm quyền của công ty để giao kết hợp đồng với người lao động. Tức là
công ty có thể thuê người lao động để phục vụ cho lợi ích kinh tế của công ty dưới tư
cách cá nhân chứ không phải pháp nhân. Nghĩa là bằng việc này, công ty "lách luật" bởi
giữa người lao động và công ty không tồn tại bất kì thỏa thuận nào. Từ đó công ty có thể
thuê nhân công mà không phải đóng thuế, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn, trợ cấp thất
nghiệp theo quy định của pháp luật. Nói chung là công ty sẽ không phải chịu trách nhiệm
pháp lý đối với người lao động.

 BẤT CẬP 2:

Nội dung hợp đồng lao động được nêu trong khoản 1, điều 21, Bộ luật Lao động như sau:

“a) Tên, địa chỉ của người sử dụng lao động và họ tên, chức danh của người giao kết hợp
đồng lao động bên phía người sử dụng lao động;

b) Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú, số thẻ Căn cước công dân, Chứng
minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người giao kết hợp đồng lao động bên phía người lao
động;

c) Công việc và địa điểm làm việc;


d) Thời hạn của hợp đồng lao động;

đ) Mức lương theo công việc hoặc chức danh, hình thức trả lương, thời hạn trả lương,
phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác;

e) Chế độ nâng bậc, nâng lương;

g) Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

h) Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động;

i) Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp;

k) Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề.”

Nhóm tác giả nhận thấy điểm c, khoản 1, điều 21, Bộ luật Lao động 2019 không hợp lí vì
thiếu tính linh hoạt do không phải lúc nào người lao động cũng được người sử dụng lao
động yêu cầu làm một công việc nhất định và làm việc tại một địa điểm cố định. Như vậy
khi người lao động được người sử dụng lao động yêu cầu làm công việc khác hoặc làm
việc tại địa điểm khác so với thông tin được khai trên hợp đồng lao động thì người lao
động sẽ vi phạm hợp đồng tại điểm c, khoản 1, điều 21, Bộ luật Lao động 2019.

You might also like