Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Viện Ngân hàng – Tài chính

BÀI TẬP LỚN


Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học

ĐỀ BÀI:
Liên minh giai cấp hiện nay

Họ và tên sinh viên: Trịnh Thị Minh Châu


Mã sinh viên: 11211019
Lớp học phần: LLNL1107 (222)_15
Giảng viên hướng dẫn: TS Lê Ngọc Thông

HÀ NỘI – 2/2023
MỤC LỤC

A – MỞ ĐẦU .............................................................................................................3

B – NỘI DUNG ..........................................................................................................4

I – LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VỚI GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ CÁC TẦNG LỚP LAO
ĐỘNG XÃ HỘI KHÁC ............................................................................................ 4

1.Khái niệm liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ........................................................................................................4

2.Tính tất yếu của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội .........................................................................................................4

3.Nội dung của liên minh ...................................................................................7

4.Nguyên tắc của liên minh ................................................................................9

II – SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG VẤN ĐỀ LIÊN MINH GIAI CẤP
HAY QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY ........................................................................................ 10

1.Thực trạng khối đại đoàn kết dân tộc trong những năm qua ...................10

2.Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................................ 11

2.2.Những hạn chế ............................................................................................ 15

2.3.Giải pháp .....................................................................................................16

III – VẬN DỤNG CỦA SINH VIÊN TRỊNH THỊ MINH CHÂU TRONG
VẤN ĐỀ LIÊN MINH GIAI CẤP HAY QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ..................................18

1.Giới thiệu bản thân........................................................................................ 18

2.Vận dụng của sinh viên Trịnh Thị Minh Châu trong vấn đề liên minh
giai cấp hay quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện
nay ...................................................................................................................... 18

C – KẾT LUẬN .......................................................................................................21

D – TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................22

2
A – MỞ ĐẦU
Sau nhiều cuộc cách mạng đánh đuổi quân xâm lược, thực dân, đế quốc để
bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước thắng lợi vẻ vang, Việt Nam ta bắt đầu bước
vào một thời kì mới – thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Đây là thời kì lịch sử đặc
biệt, thời kì cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo ra
những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó
những nguyên tắc căn bản của xã hội chủ nghĩa sẽ được thực hiện.
Lý luận về liên minh giai cấp là một nội dung quan trọng trong hệ thống lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Nó cho phép chúng ta nhận thức sâu sắc về tính tất
yếu khách quan, nội dung liên minh giai cấp, cùng các hình thức phong phú đa dạng
và những phương hướng giải quyết vấn đề liên minh giai cấp trong tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Sau 35 năm đổi mới, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan
điểm Mác xít về liên minh giai cấp vào hoàn cảnh cụ thể tại Việt Nam và đã đạt
được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, chúng ta cũng còn không ít sai sót trong
nhận thức và chỉ đạo thực tiễn, để lại hậu quả xấu về kinh tế, xã hội, ngoại giao,
quốc phòng – an ninh. Do vậy, chưa được phát huy tới mức cao nhất sức mạnh nội
lực của toàn dân, trước hết là sức mạnh của khối liên minh công – nông - trí thức,
làm cơ sở cho khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc nghiên cứu về chủ đề này sẽ giúp cho em có một kiến thức nền tảng ban
đầu để hiểu biết sâu sắc hơn về sự phát triển của đất nước cũng như trên thế giới,
hiểu hơn về những chính sách của Đảng và Nhà Nước trong việc xây dựng đất
nước, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Việc làm rõ những vấn đề đặt ra và đưa
ra giải pháp cho những mặt hạn chế trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở Việt Nam là cấp bách và thiết thực. Và đây cũng là lý do em chọn đề tài “Liên
minh giai cấp hiện nay”. Và đi sâu hơn, em sẽ phân tích về sự vận dụng quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh giai cấp của Đảng và của bản thân em về
sự nhận thức, dự kiến vận dụng như thế nào trong tương lai và góp công sức nhỏ bé
trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay.
Với kiến thức và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, còn nhiều thiếu xót,
em rất mong nhận được sự đánh giá, nhận xét và đóng góp ý kiến của thầy để bài
viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
3
B – NỘI DUNG
I – LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VỚI GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ CÁC TẦNG LỚP LAO
ĐỘNG XÃ HỘI KHÁC
1.Khái niệm liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự
liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện nhu
cầu và lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
là một vấn đề quan trọng, mang tính chiến lược lâu dài, là một trong những con
đường để hoàn thiện cơ cấu xã hội - giai cấp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó
quyết định sự thành bại của cuộc cánh mạng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng liên minh công – nông – trí thức là hình thành động lực quan trọng
nhất của phát triển xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp, động viên được tối đa các nguồn
lực trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
2.Tính tất yếu của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
2.1.Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh công – nông
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến khả
năng và sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản với các tầng lớp trung gian. Sau
cách mạng 1848 - 1852 ở Tây Âu, các ông thấy rõ, vấn đề liên minh giữa giai cấp
công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, nhất là giai cấp nông dân trở
thành vấn đề có tính sống còn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã Pa-ri (năm 1871)
cũng là do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân. Từ thực
tiễn lịch sử sinh động của Công xã Pa-ri, C.Mác đã bổ sung cho lý luận của mình về
liên minh công - nông: đó là vai trò hết sức quan trọng của giai cấp nông dân không
chỉ trong việc giành chính quyền mà còn cả trong việc giữ chính quyền.

4
Sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân,
mà còn từ phía giai cấp nông dân. Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác cũng không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không
thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp
công nhân, không trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác
khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ
nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông
dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là
giai cấp vô sản cách mạng” 1. Vì “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành
thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh
đạo tự nhiên của mình” 2. Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân,
cần phải thấy rõ đặc điểm, vai trò của giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng.
Nhấn mạnh rằng, không có sự ủng hộ của nông dân thì giai cấp công nhân nói
chung sẽ không thể hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng xã hội, trong tác phẩm
“Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848 đến 1850” C. Mác viết: “Công nhân Pháp
không thể tiến lên được một bước nào và cũng không thể đụng đến một sợi tóc nào
của chế độ tư sản, trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản, tức là nông dân và tầng lớp tiểu tư sản, nổi dậy chống chế độ tư sản,
chống sự thống trị của tư bản chưa bị tiến trình của cách mạng buộc phải đi theo
những người vô sản, coi là đội tiên phong của mình” 3.
2.2.Quan điểm của V.I.Lênin về liên minh công – nông
Kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vị trí,
vai trò của liên minh công - nông, V.I.Lênin cho rằng, liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là nguyên tắc tối cao của chuyên
chính vô sản.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên
minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với
đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông

1
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.7, tr.84 – 85.
2
C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t.8, tr.269.
3
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.30.

5
dân, trí thức, v.v.) hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại
tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của
giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và
củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội” 4.
V.I.Lênin nêu nhiều luận điểm về liên minh công - nông - trí thức. Trong đó
có luận điểm: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai
cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo
những tầng lớp không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”. Người
còn khẳng định: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và
giữa kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”.
Theo V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư
sản, là một tất yếu và đó là cuộc đấu tranh mạnh mẽ nhất, tập trung nhất và quyết
liệt nhất, trong cuộc đấu tranh đó giai cấp công nhân phải liên minh với nông dân,
vì nông dân là lực lượng của cách mạng. Ông đề cập tư tưởng liên minh công -
nông và cho rằng, đường lối thì của một giai cấp, còn lợi ích thì của sự liên minh
giai cấp. Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng không chỉ đem lại lợi ích
cho giai cấp công nhân mà cho cả giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động.
2.3.Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giai cấp, tầng lớp trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất, trong chủ nghĩa tư bản, các tầng lớp lao động đều bị giai cấp tư sản
bóc lột, do đó họ có chung một kẻ thù. Để lật đổ kẻ thù của mình là giai cấp tư sản,
xóa bỏ áp bức, bóc lột, xóa bỏ xã hội bất công, đòi hỏi tất cả các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội đó phải liên minh với nhau.
Thứ hai, trong chủ nghĩa xã hội, liên minh công – nông và các tầng lớp tri
thức thực chất là liên minh giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Công
nhân cần nông dân, nông dân cần trí thức, và ngược lại trí thức cần công nhân và
nông dân. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội thực chất là mối
quan hệ giữa các ngành nghề trong một nền cơ cấu kinh tế.

4
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.452.

6
Thứ ba, trong xã hội nói chung, giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động
khác là lực lượng chính trị to lớn để bảo vệ và xây dựng xã hội. Do đó, để đạt được
mục đích bảo vệ và xây dựng xã hội, đạt mục đích chung là xây dựng chủ nghĩa xã
hội, các giai cấp, tầng lớp phải liên minh với nhau.
3.Nội dung của liên minh
3.1.Nội dung chính trị
Nội dung chính trị của liên minh giai cấp trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền là nhằm giành lấy chính quyền về tay nhân dân lao động.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên minh về chính trị giữa giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác là cùng nhau tham
gia vào chính quyền nhà nước từ trung ương đến cơ sở, cùng nhau bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và mọi thành quả cách mạng, làm cho nhà nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng vững mạnh. Tuy nhiên liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác không phải là dung hòa tư tưởng
của các tầng lớp mà là liên minh này phải dựa trên lập trường chính trị của giai cấp
công nhân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác phải
thực hiện những nhiệm vụ chính trị, để đạt đích là xây dựng chế đệ chính trị dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
Trong khối liên minh thì giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong giữ vai
trò lãnh đạo chính trị tư tưởng để thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử: Xóa bỏ
hoàn toàn chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công xã hội xã
hội chủ nghĩa tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Liên minh giai cấp, tầng lớp phải đặt trong tổng thể nhiệm vụ của hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa. Bản thân các giai cấp, tầng lớp trong liên minh đều có
trách nhiệm xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, có quyền tham gia các tổ
chức chính trị - xã hội mà mình được phép theo quy định của pháp luật.
3.2.Nội dung kinh tế
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ
thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Chủ nghĩa Mác-Lenin đã chỉ
7
rõ: xã hội chủ nghĩa muốn chiến thắng chủ nghĩa tư bản phải tạo được cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại ở trình độ cao vững chắc. Vì vậy mà khi giành được chính
quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân cùng các giai cấp
tầng lớp khác trong xã hội phải tăng nhanh số lượng của những lực lượng sản xuất
để tạo cơ sở cho sự phát triển của quan hệ sản xuất, đồng thời xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Theo V.I.Lenin thì trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, chính trị đã chuyển trọng tâm sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế,
đấu tranh giai cấp mang lại những nội dung mới , hình thức mới, do vậy nội dung
kinh tế đóng vai trò quan trọng nhất. Bởi nó vừa thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích kinh
tế thiết thân cho các giai cấp, tầng lớp cho xã hội, đồng thời cũng tạo cơ sở, vật chất
- kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội.
Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội phải được thể hiện trong việc tạo ra quan hệ tác động lẫn nhau giữa các
ngành nghề, các lĩnh vực như công nghiệp - nông nghiệp - khoa học - kỹ thuật,...
Quan hệ hỗ trợ này chỉ được tạo lập và vững chắc khi quan hệ, lợi ích kinh tế được
giải quyết thích hợp, hài hòa giữa các chủ thể lợi ích trong khối liên minh.
3.3.Nội dung về văn hóa – xã hội
Thực chất nội dung văn hóa – xã hội chính là sự đoàn kết, hợp lực của công
nhân – nông dân - trí thức nhằm xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội
chủ nghĩa. Đây là nội dung cơ bản lâu dài, tạo điều kiện cho cách mạng phát triển
bền vững. Nội dung này đòi hỏi:
Đảm bảo kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, tiến bộ và
công bằng xã hội; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa; giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng nông thôn mới;
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó công nhân – nông dân – trí thức là
nguồn nhân lực quan trọng và cơ bản nhất của quốc gia.
Nhiệm vụ cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả,
đồng thời kết hợp các giải pháp hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo cho công nhân, nông
dân và trí thức; đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ
trợ xã hội cho công nhân, nông dân, trí thức, chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất
lượng sống cho nhân dân.
8
Nâng cao dân trí, phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ khoa học
công nghệ; chống các biểu hiện tiêu cực và tệ nạn xã hội. Nâng cao dân trí là nội
dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ,
trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học
công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các
hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch
phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng
ngày càng thuận lợi và hiện đại (Xây dựng quy hoạch tổng thể và phát triển khu
công nghiệp, khu đô thị phải gắn với đảm bảo phát triển nông thôn và nông nghiệp
bền vững). Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình
phúc lợi công cộng một cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là
vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
4.Nguyên tắc của liên minh
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng
xã hội chủ nghĩa và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền, dân
tộc xích lại gần nhau trên thực tế.
Muốn xây dựng được khối liên minh vững chắc giữa các giai cấp, tầng lớp trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ta cần phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc 1: Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
V.I. Lênin cho rằng, xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân không có nghĩa là chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp này mà phải đi
theo đường lối giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương
thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, chỉ có đi
theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định: "... chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có
thế giải phóng quần chúng tiểu nông thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới
chủ nghĩa xã hội".
- Nguyên tắc 2: Phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện.

9
V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở những người cộng sản ở Nga là phải bằng
những việc làm cụ thể để cho giai cấp nông dân thấy rằng, đi với giai cấp vô sản có
lợi hơn đi với giai cấp tư sản, từ đó họ tự nguyện đi với giai cấp công nhân. Có thực
hiện trên tinh thần tự nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân mới có thể bền vững, lâu dài. Để liên minh dựa trên cơ sở tự nguyện thì
cần phải giáo dục giác ngộ quần chúng nhân dân lao động.
- Nguyên tắc 3: Kết hợp đúng đắn các lợi ích.
Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân có những lợi ích cơ bản là thống
nhất, bởi vì họ đểu là những người lao động, đều bị bóc lột dưới chủ nghĩa tư bản.
Sự thống nhất lợi ích này tạo điều kiện thực hiện sự liên minh giữa họ.
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là những chủ thể kinh tế khác
nhau. Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất mới cộng sản chủ
nghĩa. Giai cấp nông dân gắn với chế độ tư hữu nhỏ. Mà chế độ tư hữu nhỏ thì mâu
thuẫn với phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất. Do vậy cần phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn này, phải thường
xuyên phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh và giải quyết kịp thời, phải chú ý tới
những lợi ích thiết thực của nông dân. V.I.Lênin cho rằng: "Chúng ta phải để cho
nông dân, với tư cách là người sản xuất nhỏ, có được một phạm vi tự do khá lớn.
Không nâng cao kinh tế nông dân, chúng ta không thể giải quyết được tình hình
lương thực"; cần phải có những nhượng bộ nhất định đối với nông dân.

II – SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG VẤN ĐỀ LIÊN MINH GIAI CẤP
HAY QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
1.Thực trạng khối đại đoàn kết dân tộc trong những năm qua
Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng
Hồ Chí Minh về liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức vào điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam, ngay từ văn kiện Đại hội lần thứ
II của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính quyền của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên

10
minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân
lãnh đạo” 5.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam năm 1991, Đảng ta xác định: xây dựng khối liên minh công - nông - trí
làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”6.
Tổng kết thành tựu của 25 năm đổi mới, trong văn kiện Đại hội XI, Đảng ta
đã chỉ một trong năm bài học kinh nghiệm lớn là: “Sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những
thắng lợi của lịch sử’’7. Hiện nay, vấn đề liên minh công - nông đã được mở rộng
thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và
trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục
khẳng định, phải “tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo” 8, để
lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở Việt
Nam hiện nay
2.1.Những thành tựu đạt được
Những kết quả kể trên là minh chứng cho bức tranh kinh tế khởi sắc rõ nét
và nhiều lĩnh vực đang đà phục hồi mạnh mẽ.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng
tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về liên minh giai cấp. Hiện nay, vấn đề liên
minh công nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.437.
6
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.86.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.66.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2016, tr.158

11
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức do Đảng lãnh đạo” 9, để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối
đại đoàn kết dân tộc.
Sau hơn 30 năm đổi mới, khối liên minh công - nông - trí thức nước ta đã đạt
được những kết quả quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
- Về chính trị:
Từ khi ra đời, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng việc xây
dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huỳnh Đảm khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc
trong mặt trận thống nhất là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, là truyền thống quý báu trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đảng Cộng sản
Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn là đội tiên
phong của nhân dân lao động, trong đó nòng cốt là giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dâ n
không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập hợp đoàn kết trong Mặt
trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng
chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy
cao độ, trở thành động lực của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Sau 35 năm
thực hiện công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn
so với những năm trước đổi mới. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng
định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay”. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả
của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục của toàn Đảng, toàn dân, toàn

9
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.158.

12
quân ta, của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và
xu thế phát triển của thời đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn lấy liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng của Nhà nước. Vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong công tác dân vận tiếp tục được
khẳng định và nâng cao trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Mối quan hệ
gắn bó giữa Mặt trận và các đoàn thể với các tầng lớp nhân dân ngày càng được
củng cố, tăng cường, phát huy. Ðường lối chủ trương của Ðảng, Nhà nước về đại
đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện và thể chế hóa bằng các chính
sách, pháp luật. Các tầng lớp nhân dân chung sức, chung lòng cùng Ðảng, Nhà nước
vượt qua khó khăn, thử thách, giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dân và nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Về kinh tế:
Cốt lõi của liên minh về kinh tế là mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và
nông nghiệp. Từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi
đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”. Đảng ta cũng khẳng
định: “Công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện ... nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân”. Đảng ta còn xác định: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu”. Đảng ta đề ra những chính sách khuyến nông, các cơ sở
kinh tế nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, xây dựng và phát triển
con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc và bảo vệ Tổ
13
quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng, Nhà
nước ta đã có những chính sách đổi mới, tập hợp, lôi cuốn ngày càng đông đảo các
tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào định cư ở nước ngoài trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đảng ta lập ra những chiến dịch chống mù chữ, đề nghị tầng lớp tri
thức nâng cao dân trí và đời sống văn hóa, tinh thần cho nông dân, đấu tranh loại trừ
các tệ quan liêu, tham nhũng gây mất dân chủ...
- Về văn hóa – xã hội:
Đảng ta luôn coi phát triển kinh tế là cơ sở vật chất để thực hiện các chính
sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội là mục tiêu của hoạt động kinh tế và ngược lại
thực hiện các chính sách xã hội lại là động lực để phát triển kinh tế. Đồng thời phát
triển kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội,bảo vệ
môi trường sinh thái, nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân. Đại hội XII của
Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển bền vững văn hóa, xã hội; gắn kết chặt chẽ, hài
hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, khuyến
khích và trợ giúp nông dân trong tiến trình thực hiện nghị quyết các đại hội đảng đã
phát huy tác dụng, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi: “Kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất
và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa
đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và
tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao” 10.
Các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xã hội rộng lớn do Mặt
trận và các tổ chức thành viên phát động ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng
lớp nhân dân hưởng ứng tích cực. Ðặc biệt, các phong trào, cuộc vận động “Toàn
dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở’’; “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh’’; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam’’; hoạt động
bảo vệ biên giới, chủ quyền, biển đảo, phòng chống thiên tai, bão lũ và đoàn kết

10
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr.121 – 122, 85.

14
giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ
thiện, lá lành đùm lá rách, các hoạt động tự quản ở cộng đồng dân cư... có tác dụng
thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng xây dựng quê hương, đất nước.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra các chủ trương và giải pháp chủ yếu để
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo
điều kiện cho mọi giai cấp, tầng lớp xã hội phát triển vững mạnh. Cùng với phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí cũng được Đảng ta xác định là cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, đồng
thuận giữa nhà nước và nhân dân, qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực tế trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo, bảo
đảm lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách xã hội,
thể hiện sự ưu việt của chế độ xã hội nước ta. Thực hiện tốt chính sách xã hội không
chỉ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn là một trong những yếu tố quyết
định sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
2.2.Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc của Đảng ta vẫn tồn tại một số mặt hạn chế như:
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi
chưa phát huy được vai trò, quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Chưa đánh giá và
dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân các cấp có lúc, có nơi chưa sâu sát với các tầng lớp nhân
dân và cơ sở, vẫn còn có biểu hiện hành chính hóa, chưa thật thiết thưc, hiệu quả.
Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể
chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được tổ chức thực hiện một cách nghiêm
túc, làm gây nên bức xúc trong một bộ phận nhân dân.
Vấn đề phát triển giai cấp công nhân ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn
nhiều bất cập. Trình độ học vấn có xu hướng tăng, nhưng so với yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì vẫn chưa theo kịp.
Đặc biệt, chúng ta đang thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, chuyên gia kỹ thuật,
15
nhà quản lý giỏi. Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân nhiều nơi chưa được
bảo đảm, kỷ luật lao động chưa nghiêm, tác phong tự do tùy tiện. Quyền lợi hợp
pháp của công nhân ở nhiều đơn vị bị vi phạm, như trả lương không đúng hợp đồng,
nợ bảo hiểm, bảo hộ lao động không bảo đảm... Tình hình đó kéo theo sự giác ngộ
giai cấp, ý thức chính trị cũng phai nhạt, nhất là đối với bộ phận công nhân trong
khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Trong tiến trình đổi mới “Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị để tạo
động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước đã thực
hiện các chính sách, sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức; đãi
ngộ, tôn vinh trí thức; tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức và các hội của trí
thức hoạt động, phát triển”. Tuy nhiên đội ngũ trí thức nước ta còn bộc lộ nhiều hạn
chế và yếu kém. Nhìn chung, 15 hoạt động nghiên cứu khoa học chưa xuất phát và
gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Ngoài nước, các thế lực thù địch chưa từ bỏ ý đồ phá hoại, lật đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà
bình”, kết hợp gây bạo loạn lật đổ, với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi,
xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ,
nhân quyền và những yếu kém, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ,
đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên tạc đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra mâu thuẫn,
xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế độ nước ta.
2.3.Giải pháp
Trong tình hình đất nước hiện nay, để có thể tăng cường, củng cố, phát huy
sức mạnh của liên minh giai cấp công nông – trí thức trong xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc xã hội chủ nghĩa ta cần thực hiện những biện pháp đúng đắn, quyết liệt:
Thứ nhất, cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang
phát triển công nghiệp và dịch vụ vì tăng trưởng kinh tế sẽ gắn liền với đảm bảo
tiến bộ, công bằng xã hội, là cơ sở và điều kiện thuận lợi cho những biến đổi tích
cực về cơ cấu xã hội, đặc biệt là cơ cấu xã hội – giai cấp.
Thứ hai, cần xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội một cách tổng
thể, quan tâm tới mọi giai cấp. Với giai cấp công nhân, cần quan tâm, giáo dục, đào
16
tạo, phát triển cả về số lượng và chất lượng. Cần nâng cao bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân,… Cùng với đó là
sửa đổi, bổ sung các chính sách bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống cho giai cấp
công nhân. Đối với giai cấp nông dân, cần xây dựng và phát huy vai trò chủ thể của
họ trong quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Cần hỗ trợ,
khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận tiến bộ
KHKT để nâng cao năng suất, đồng thời chuyển dần sang làm công nghiệp và dịch
vụ nhằm xoá đói giảm nghèo, cải thiện chất lượng đời sống. Đối với đội ngũ trí
thức, cần chủ trương xây dựng một đội ngũ lớn mạnh, ngày càng nâng cao chất
lượng, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo.
Cần trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng năng lực, phẩm chất và kết quả 16
cống hiến, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và tôn vinh công lao của họ, và đặc biệt là
cần phát triển chính sách khuyến khích nhân tài xây dựng đất nước.
Thứ ba, tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc giữa các lực
lượng trong liên minh và toàn xã hội. Cần nâng cao tầm nhận thức cho mọi người,
từ đó xây dựng chủ trương đúng đắn, phù hợp. Cần giải quyết tốt các mâu thuẫn,
khác biệt giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm tạo sự đồng thuận, sức mạnh tổng
hợp để thực hiện đổi mới, phấn đấu vì một nước Việt Nam dân chủ, công bằng, văn
minh.
Thứ tư, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng nông thôn mới,
phát triển tri thức. Đó chính là phương thức căn bản và quan trọng để thực hiện và
tăng cường liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ở
Việt Nam.
Thứ năm, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh có thể ảnh hưởng tới
khối liên minh. Liên minh giai cấp bền vững phải dựa trên việc tôn trọng nhu cầu,
lợi ích của chính bản thân các chủ thể tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề cơ bản và
xuyên suốt, vừa là nội dung, vừa là nguyên tắc mang tính quy luật trong việc xây
dựng khối liên minh công - nông - trí thức là phải xác định đúng các nhu cầu, phát
hiện kịp thời các nhu cầu mới nảy sinh của công nhân, nông dân, trí thức trong từng
giai đoạn cụ thể; trên cơ sở những tiềm năng và thực trạng kinh tế - xã hội từ đó có
17
giải pháp để thỏa mãn các nhu cầu; xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn nảy
sinh giữa các giai cấp. Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho
việc xây dựng và phát triển xã hội, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.

III – VẬN DỤNG CỦA SINH VIÊN TRỊNH THỊ MINH CHÂU TRONG VẤN
ĐỀ LIÊN MINH GIAI CẤP HAY QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.Giới thiệu bản thân
Em tên là Trịnh Thị Minh Châu, sinh viên chuyên ngành Tài chính doanh
nghiệp, trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Em ra đời vào buổi sáng sớm, thời khắc
mặt trời mọc, chắc hẳn giờ sinh ấy đã nhắc nhở em rằng mình chính là ánh sáng bé
nhỏ của Tổ quốc Việt Nam rộng lớn, cần cố gắng học tập, trau dồi kiến thức để có
thể góp một phần công sức nhỏ bé xây dựng đất nước. Quê hương của em là một
tỉnh miền núi với những dấu chân lịch sử anh hùng vĩ đại – tỉnh Bắc Kạn. Từ nhỏ
đến lớn, được nghe, được dạy và học về lịch sử nước nhà, em hiểu rõ được những
sự hi sinh mất mát của thế hệ đi trước và cảm thấy biết ơn sâu sắc vì nhờ đó mà
mới có đất nước Việt Nam thời bình như hiện nay. Nhận thấy bản thân là một
người yêu Đảng, yêu Tổ quốc, muốn dành trọn cuộc đời để cống hiến cho nước
nhà. Em luôn tìm hiểu, học hỏi về những lý luận và tìm cách để đưa vào thực tiễn,
hy vọng rằng nỗ lực của bản thân em có thể xứng đáng với giá trị hy sinh cao cả
của những vị anh hùng.
2.Vận dụng của sinh viên Trịnh Thị Minh Châu trong vấn đề liên minh giai
cấp hay quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay
2.1.Thành công
Bản thân em hiện tại đang là sinh viên năm 2, học lĩnh vực về kinh tế. Bởi
kiến thức, kinh nghệm, vị trí của em còn hạn chế, nên sự vận dụng cá nhân góp
sức trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc chưa được nhiều. Tuy
nhiên, sự vận dụng ấy cũng đạt được một số thành tựu nhất định:
Thứ nhất, luôn không ngừng trau dồi kiến thức về lý luận chủ nghĩa Mác Lê
– nin trong vấn đề liên minh giai cấp và cho đến nay, em ngày càng hiểu rõ hơn về
tầm quan trọng của liên minh giai cấp cũng như nội dung lý lận, hiểu sâu để có thể
18
vận dụng tốt. Bên cạnh đó, nghiên cứu kĩ các chính sách, đường lối của Đảng, đó
là luôn luôn xác định phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu
tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận định xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững mạnh được khẳng định rõ ràng, cụ thể
hơn qua từng Đại hội Đảng. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu
để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo” 11. Đến đại hội XII nhấn mạnh yêu cầu
trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc”.
Thứ hai, hiện nay xuất hiện nhiều đảng phái xuyên tạc, làm lệch lạc tư tưởng
của một bộ phận người dân, tuyên truyền những điều hòng chia cách khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Nhưng em luôn một lòng hướng về Đảng, nhà nước, khối đại
đoàn kết dân tộc đã xây dựng bao lâu nay, không bị ảnh hưởng bởi những điều xấu
xa ấy. Bên cạnh đó, tuyên truyền cho gia đình, bạn bè và những người xung quanh
để họ không bị lệch lạc bởi những điều sai trái, không đúng với sự thật, một lòng
hướng về một Đảng Cộng sản Việt Nam, về khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
2.2.Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc vận dụng trong quá trình xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc còn nhiều hạn chế như:
Vận dụng chưa được đa dạng những lĩnh vực, chưa được đông đảo những
đối tượng bởi em vẫn đang là sinh viên năm hai, cả trí và lực đều chưa đủ để có
thể vận dụng hiệu quả, nhuần nhuyễn những lý luận trong thực tiễn; cũng như
chưa có cơ hội tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau để có thể đưa ra những ý
kiến, quan điểm của bản thân.
Hiện nay xã hội ngày càng phát triển, kèm theo đó là nhiều thông tin, Đảng
phái mới xuất hiện để quấy phá xã hội. Cũng như xu thế hội nhập quốc tế, ảnh
hưởng tư tưởng của các quốc gia phát triển khác, tầm quan trọng của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc đôi khi bị lãng quên, nhường lại vị trí quan trọng cho những
cái mới.

11
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 60, tr. 132.

19
2.3.Những giải pháp dự kiến vận dụng
Định hướng tương lai của em là một công việc trong các cơ quan, đoàn thể
của nhà nước, cụ thể là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với định hướng bản thân và ý
chí muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta ngày càng vững mạnh, từ
nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, em đã đưa ra những dự kiến vận dụng để
đề xuất với cán bộ nhà nước, có thể thực hiện khi bản thân đủ trí đủ lực. Đây là
những ý kiến em đưa ra tại thời điểm năm 2023, khi bản thân còn đang là sinh
viên, nếu tương lai nhận thức của bản thân được sâu sắc hơn cũng như đất nước có
những thay đổi thì những dự kiến vận dụng này có thể thay đổi:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người đứng
đầu và cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển khối đại đoàn kết
toàn dân tộc hiện nay.
Thứ hai, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên, hội viên và các giai tầng, các giới trong toàn dân tộc.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đa dạng
hóa các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở.
Thứ tư, tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực phối
hợp giữa chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội làm công tác dân vận.
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại,
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

20
C – KẾT LUẬN
Lý luận về liên minh giai cấp là một nội dung quan trọng trong hệ thống lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, là cơ sở lý luận sắc bén để các Đảng Cộng sản
nói chung và Đảng ta nói riêng vận dụng trong tổ chức xây dựng lực lượng cách
mạng thực hiện các nhiệm vụ trong từng giai đoạn cụ thể. Cho đến nay, lý luận ấy
vẫn còn nguyên giá trị, không chỉ soi sáng con đường giải phóng dân tộc ở nước ta
mà còn là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước ta xây dựng và phát triển đất nước.
Hiện nay, vấn đề liên minh công - nông đã được mở rộng thành liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng
cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, phải
“tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”, để lực lượng này
thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức là một nhu cầu tất yếu và là một chủ trương nhất quán của Đảng ta.
Nó vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu đồng thời là con đường, biện pháp để Đảng
lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam
hiện nay đòi hỏi phải tiến hành nhiều giải pháp quan trọng với sự tham gia của
nhiều lực lượng. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải biết vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách linh hoạt, mềm dẻo. Thường xuyên tổng
kết thực tiễn, khái quát lý luận để bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa
học phù hợp với điều kiện mới. Đặc biệt, thế hệ sinh viên nói chung và bản thân em
nói riêng cần nắm rõ được tầm quan trọng của liên minh giai cấp từ những giai đoạn
trước đây cho đến hiện nay, từ đó vận dụng nhuần nhuyễn lý luận, tư tưởng trong
thực tiễn để khối đại đoàn kết toàn dân tộc ta ngày càng vững chắc, mạnh mẽ, là
động lực và là nền tảng cho sự phát triển của Đảng ta.

21
D – TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen,Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
2. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001
4. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, XI, XII Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016
6. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X
7. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
8. Tạp chí ban tuyên giáo trung ương số ra 15/6/2021
9. Trang thông tin điện tử mặt trận tổ quốc Việt Nam

22

You might also like