Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 64

KHOA LUẬT HÌNH SỰ

LỚP LUẬT HÌNH SỰ K48A

BUỔI THẢO LUẬN BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ


Môn học: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản, thừa kế
Giáo viên hướng dẫn: Đặng Lê Phương Uyên
Thành viên thực hiện

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ


1 Thái Nghi An 2353801013007 Bài tập 2
2 Huỳnh Gia Hân 2353801013066 Bài tập 4
3 Trần Thị Mỹ Duyên 2353801013055 Bài tập 1
4 Lê Việt Hằng 2353801013071 Bài tập 2
5 Phạm Hương Giang 2353801013060 Bài tập 4
6 Trần Ngọc Hân 2353801013069 Bài tập 5
7 Trần Quang Huy 2353801013088 Bài tập 2
8 Lê Khánh Huyền 2353801013089 Bài tập 1
9 Hoàng Lê Ngọc Ánh 2353801013026 Bài tập 2
10 Trần Đồng Đại Hải 2353801013065 Bài tập 3
11 Đặng Văn An 2353801013001 Bài tập 2
12 Đinh Võ Bình 2353801013036 Bài tập 2

MỤC LỤC
1
BÀI TẬP 1....................................................................................................................9
* Căn cứ xác lập đại diện..............................................................................11
1.1 Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.
.....................................................................................................................11
1.2 Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại
diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.................................................................................................................19
* Hoàn cảnh của người được đại diện.........................................................19
1.3 Trong Quyết định số 09, Hội đồng thẩm phán theo hướng Ngân hàng
phải chịu trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên cơ
sở các quy định về đại diện hiện nay, anh/chị cho biết hướng như vừa nêu
của Hội đồng thẩm phán có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.................................................................................................................19
* Hoàn cảnh của người đại diện...................................................................20
1.4 Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm đối
với giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?
.....................................................................................................................20
1.5 Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa ông
H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời ?.........21
1.6 Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của
Hội đồng thẩm phán (về vai trò của người đại diện)...................................21
*Quyền tự xác lập,thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện................22
1.7 Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện có quyền tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Nêu
ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết...........................................22
1.8 Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Vì
sao?..............................................................................................................22
1.9 Trong Quyết định số 44, theo Tòa giám đốc thẩm, người ủy quyền có
được tự xác lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác không? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?...................................................................24
1.10 Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người được đại diện tự xác
lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện (phân
tích đối với đại diện theo pháp luật và đối với đại diện theo ủy quyền).....24
BÀI TẬP 2..................................................................................................................25
*Hình thức sở hữu tài sản.............................................................................29
2
2.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở
hữu tài sản...................................................................................................29
2.2. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong
thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377
(sau đây viết gọn là Quyết định 377) cho câu trả lời...................................30
2.3. Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay
sở hữu riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
.....................................................................................................................30
2.4. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu
chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn
nào của Quyết định 377 cho câu trả lời.......................................................30
2.5. Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao?..................................................................................................31
2.6. Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu
có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý
khi trả lời.....................................................................................................31
*Diện thừa kế.................................................................................................32
2.7. Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông
Lưu không ? Vì sao?...................................................................................32
2.8. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho
câu hỏi trên có khác không? Vì sao?...........................................................33
2.9. Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không?
Vì sao?.........................................................................................................33
2.10. Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở
hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời.33
2.11. Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào
người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì
sao?..............................................................................................................34
* Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc..............................34
2.12. Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc
toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?......................................................34
2.13. Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì
sao?..............................................................................................................34
2.14. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của
ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?..................................35
3
2.15. Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông
Lưu? Vì sao?...............................................................................................36
2.16. Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được
hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?.....................................................36
2.17. Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của
bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?..............................................37
2.18. Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản
án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?............37
2.19. Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
.....................................................................................................................37
2.20. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành
niên của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?..............37
2.21. Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án
cho câu trả lời?............................................................................................38
2.22. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án..............38
2.23. Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức
lao động? Vì sao?........................................................................................38
2.24. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.
.....................................................................................................................39
2.25. Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc
mà, trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản
của ông Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như
trên không?..................................................................................................41
2.26 Suy nghĩ của/anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu
cho cả hợp đồng tặng cho............................................................................41
*Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản....................................................45
2.27. Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt
và những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.......................................................................45
2.28. Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
quá cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..........................................................45
2.29. Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi
trưởng thành không?....................................................................................45
2.30. Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương
từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?..........................................................46
4
2.31. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có
phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp
công sức nuôi dưỡng con chung không?.....................................................46
2.32. Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản,
anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.........................................46
2.33. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng
người quá cố khi họ còn sống?....................................................................47
2.34. Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?............47
2.35. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm
(trong mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố).
.....................................................................................................................48
2.36 Trong vụ việc liên quan đến ông Định (năm 2015), nghĩa vụ nào của
ông Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của
ông Định (ông Lĩnh và bà Thành)?.............................................................48
2.37. Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những
người thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ
thuộc vào việc những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản
hay chưa? Hướng như vậy của Tòa án có thuyết phục không, vì sao?.......48
2.38.Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người để lại di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..........................................................49
2.39.Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến
hạn thực hiện chưa? Đoạn nào Quyết định cho câu trả lời?........................49
2.40. Vì sao Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản
của người quá cố vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi
kiện chỉ được tiến hành năm 2019? Hướng của Tòa án như vậy như vậy có
thuyết phục không, vì sao?..........................................................................49
2.41.Thông qua Quyết định năm 2021, suy nghĩ của anh/chị về tính thuyết
phục của quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
về tài sản của người để lại di sản (có nên giữ hay không)?.........................50
BÀI TẬP 3..................................................................................................................51
3.1. Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di
chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ)....................53
3.2. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm
định (tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di
chúc) không? Vì sao?..................................................................................54

5
3.3. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân
thủ hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?..............54
3.4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03
quyết định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.
.....................................................................................................................54
3.5. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc
là có điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?..........................55
3.6. Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều
kiện ở Việt Nam?.........................................................................................56
3.7. Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp
ứng...............................................................................................................57
3.8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có
nên luật hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội
dung nào?)...................................................................................................57
BÀI TẬP 4..................................................................................................................58
4.1. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận
phân chia di sản?.........................................................................................59
4.2. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân
chia di sản đã được Tòa án chấp nhận.........................................................59
4.3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di
sản trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình
thức và về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản............................60
4.4. Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản......60
4.5. Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo
thỏa thuận trên là tranh chấp về di sản và tranh chấp về tài sản.................61
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Án lệ số 24/2018/AL..........................................................................61
BÀI TẬP 5..................................................................................................................62
5.1 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7
kỷ phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?....................62
5.2 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải
được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có
thuyết phục không? Vì sao?........................................................................63
5.3 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được
hưởng công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?..................63

6
TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Bộ luật dân sự 2005


- Bộ luật dân sự 2015
- Giáo trình “ Những vấn đề chung về Luật dân sự của ĐH Luật TP. HỒ CHÍ
MINH, Nxb. Hồng Đức 2018.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.77 và tiếp theo
- Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
- Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bản án số 13 và tiếp theo
- Bản án số 148 và tiếp theo
- “ Quyền của người được đại diện trong việc xác lập, thực hiện giao dịch thuộc
phạm vi của người đại diện” - GS. TS. ĐỖ VĂN ĐẠI - Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh – Nghiên cứu lập pháp
- Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
- Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
- Điều 611, Điều 614, Điều 669, Điều 676 Bộ luật dân sự 2005.
- Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật
TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2023; Đỗ Văn Đại.
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 153-156;
- https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/an-le/21708/an-le-so-
24-2018-al-ve-di-san-thua-ke-chuyen-thanh-tai-san-thuoc-quyen-so-huu-quyen-
su-dung-hop-phap-cua-ca-nhan
- https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/ShowProperty?nodeId=/UCMServer/
TAND164310//idcPrimaryFile&revision=latestreleased&rid=1
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
- Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/09/2009 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh
- Điều 457,624,644 Bộ luật dân sự 2015
- Nghị quyết số 03/2006/NQ-NĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao

7
BÀI TẬP 1
Tóm tắt Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

8
- Nguyên đơn: Bà Đinh Thị T
- Bị đơn: Ngân hàng A do bà Hoàng Lan H là đại diện theo ủy quyền

Ngày 20/07/2011 bà Đinh Thị T và Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển M.N (viết tắt là
Công ty M.N) có ký kết Hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất kinh doanh số 02/07-
2011/HĐVT, Công ty M.N vay bà với số tiền 7.000.000.000 đồng thời hạn vay 06
tháng, lãi suất 13,5%/ năm. Việc cho vay có sự đảm bảo của Ngân hàng A – Chi nhánh
T.H phát hành Thư bảo lãnh thanh toán cho bà (Đinh Thị T) số tiền 7.483.000.000
đồng. Khi hết thời hạn vay Công ty M.N không thanh toán đúng hạn số tiền vay, Ngân
hàng A không đồng ý thanh toán theo thư bảo lãnh nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án
buộc ngân hàng A phải thực hiện nghĩa vụ, Ngân hàng A không biết và không được
thông báo về Thư bảo lãnh nêu trên và cho rằng Thư bảo lãnh này đã được phát hành
trái thầm quyền và trái pháp luật vì Ngân hàng A xác định ông H1 (nguyên Giám đốc
Ngân hàng A - Chi nhánh T.H) không có quyền đại diện cho Ngân hàng A ký phát
hành bảo lãnh vay vốn trong nước nên đối với yêu cầu của bà T ngân hàng không đồng
ý thực hiện trách nhiệm bảo lãnh, đề nghị tòa án đưa ông H1 (giám đốc ngân hàng chi
nhánh T.H) buộc ông Hồ thực hiện nghĩa vụ đối với bà T.

Ngày 24/11/2017 bản án sơ thẩm quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
bà T ngân hàng A thanh toán cho bà T là 11.776.372.000 đồng, Ngân hàng A kháng
cáo bản án sơ thẩm, 02/5/2019 Tòa án phúc thẩm quyết định chấp nhận toàn bộ yêu
cầu của bà T ngân hàng A thanh toán cho bà T là 11.770.759.000 đồng. Sau khi xét xử
phúc thẩm ngân hàng A có đơn đề nghị xem xét vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tại
quyết định kháng nghị giám đốc thẩm ngày 22/11/2019 Viện trưởng VKSNDTC
kháng nghị đối với bản án phúc thầm, ngày 17/02/2020 Ủy ban Thẩm phán Tòa án
quyết định hủy bản án sơ thẩm giao lại hồ sơ vụ án xét xử lại sơ thẩm theo quy định.
Bà T đề nghị Chánh án TANDTC xem xét lại quyết định giám đốc thẩm tại quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm ngày 30/5/2020 Chánh án TANDTC kháng nghị giám đốc
thẩm đối với quyết định giám đốc thẩm ngày 17/02/2020 đề nghị hủy bản án giám đốc
thẩm nêu trên và giữ nguyên bản án phúc thẩm. Tòa án quyết định hủy bản án giám
đốc thẩm và giữ nguyên bản án phúc thẩm.

Tóm tắt Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án


nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

9
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai
- Bị đơn: Công ty TNHH N

Ngày 10/9/2010 Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai có ký hợp đồng tín dụng
với Công ty TNHH N cho Công ty TNHH N vay số tiền 2.000.000.000 đồng, thời hạn
vay 08 tháng tính từ ngày giải ngân vay vốn đầu tiên, lãi suất linh hoạt. Tài sản thế
chấp gồm: quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B và
công trình xây dựng trên đất do bà Nguyễn Thị T đứng tên; quyền sử dụng thửa đất số
313, tờ bản đồ 42 phường C, thành phố B và công trình xây dựng trên đất do bà Phạm
Thị D đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà để bảo đảm thanh toán cho Ngân hàng. Ngày 14/9/2010, Ngân hàng TMCP K
- Chi nhánh Đồng Nai đã giao Công ty TNHH N 2 tỷ đồng. Công ty TNHH N vi phạm
nghĩa vụ thanh toán, Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai yêu cầu Công ty
TNHH N thanh toán nợ, nhưng vẫn không thực hiện. Ngày 14/12/2010 Ngân hàng đã
chuyển toàn bộ số tiền vốn vay thành khoản nợ quá hạn. Nay Ngân hàng TMCP K yêu
cầu Công ty TNHH N phải thanh toán số tiền gốc. Ngân hàng yêu cầu: Nếu Công ty N
không có tài sản thanh toán thì yêu cầu các tài sản thế chấp dùng bảo đảm thanh toán.
TAND cấp cao nhận định: Căn cứ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất do UBND tỉnh cấp thì cụ T là chủ sở hữu hợp pháp đối với nhà đất nên cụ T
có quyền ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh để đảm bảo cho khoản vay của Công ty
TNHH N đối với Ngân hàng TMCP K. Và, do cụ T là chủ sở hữu nhà đất nên dù cụ T
có ủy quyền cho ông T2 toàn quyền sử dụng với thời hạn 5 năm, thì cũng không làm
hạn chế hoặc làm mất đi quyền về tài sản theo quy định của pháp luật của cụ T. Do đó,
TAND cấp cao quyết định: Hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án để giải
quyết sơ thẩm lại.

* Căn cứ xác lập đại diện


1.1 Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.
Nội dung BLDS 2005 BLDS 2015
Khái Khoản 1 Điều 139: “ Đại diện là việc một Khoản 1 Điều 134: “ Đại
niệm đại người (sau đây gọi là người đại diện) nhân diện là việc cá nhân, pháp
diện danh và vì lợi ích của người khác (sau đây nhân (sau đây gọi chung là
gọi là người được đại diện) xác lập, thực người đại diện) nhân danh và
hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại vì lợi ích của cá nhân hoặc

10
diện.” pháp nhân khác (sau đây gọi
chung là người được đại
diện) xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự.”
-Ở BLDS 2015 nêu rõ pháp
-Ở BLDS 2005 thì người được đại diện chi nhân có quyền trở thành
có thể là cá nhân mà không thể là pháp người đại diện cho pháp nhân
nhân, theo đó cá nhân chỉ có thể ủy quyền khác, làm rõ được tư cách đại
cho cá nhân và pháp nhân chi có thể ủy diện của pháp nhân.
quyền cho cá nhân mà không cho phép
pháp nhân ủy quyền cho một pháp nhân
khác đại diện mình tham gia một quan hệ
pháp luật.
Điều kiện Khoản 2 Điều 139: “ Cá nhân, pháp nhân, Khoản 2 Điều 134: “ Cá
về chủ chủ thể khác có thể xác lập, thực hiện giao nhân, pháp nhân có thể xác
thể trở dịch dân sự thông qua người đại diện” lập, thực hiện hiện giao dịch
thành dân sự thông qua người đại
người đại diện”
diện -Ở BLDS 2015 đã bãi bỏ cụm
từ "chủ thể khác", việc xác lập
và thực hiện giao dịch dân sự
thông qua người đại diện chỉ
có cá nhân và pháp nhân mới
được xác lập giao dịch thông
qua người đại diện còn các
chủ thế khác theo quy định
của BLDS thì không có quyền
này.
Số lượng Một người Một hay nhiều người cùng đại
người đại diện
diện Khoản 3 Điều 141: “ Một cá
nhân, pháp nhân có thể đại

11
diện cho nhiều cá nhân hoặc
pháp nhân khác nhau nhưng
không được nhân danh người
được đại diện để xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự với
chính mình hoặc với bên thứ
ba mà mình cũng là người đại
diện của người đó, trừ trường
hợp pháp luật có quy định
khác.”
-Ở BLDS 2015 việc quy định
cho phép một cá nhân, pháp
-Ở BLDS 2005 thì không bao quát được nhân có thể có nhiều người
trường hợp có nhiều người đại diện như đại diện theo pháp luật, đảm
cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên bảo được việc trong nhiều
trường hợp một cá nhân, pháp
nhân cần nhiều người đại diện
Phân loại Phân loại dựa vào tiêu chí xác lập quyền: Phân loại dựa vào cả căn cứ
đại diện + Đại diện theo pháp luật. pháp luật quyền và chủ thể đại
+ Đại diện theo uỷ quyền. diện:
+ Đại diện theo pháp luật của
cá nhân.
+ Đại diện theo pháp luật theo
pháp nhân.
+ Đại diện theo uỷ quyền.
Phạm vi Điều 144: Phạm vi đại diện Điều 141: Phạm vi đại diện
đại diện 1. Người đại diện theo pháp luật có quyền 1. Người đại diện chỉ được
xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì xác lập, thực hiện giao dịch
lợi ích của người được đại diện, trừ trường dân sự trong phạm vi đại diện
hợp pháp luật có quy định khác. theo căn cứ sau đây:
2. Phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác a) Quyết định của cơ quan có
lập theo sự ủy quyền. thẩm quyền;

12
3. Người đại diện chỉ được thực hiện giao b) Điều lệ của pháp nhân;
dịch dân sự trong phạm vi đại diện. c) Nội dung ủy quyền;
4. Người đại diện phải thông báo cho d) Quy định khác của pháp
người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về luật.
phạm vi đại diện của mình. 2. Trường hợp không xác
5. Người đại diện không được xác lập, thực định được cụ thể phạm vi đại
hiện các giao dịch dân sự với chính mình diện theo quy định tại khoản 1
hoặc với người thứ ba mà mình cũng là Điều này thì người đại diện
người đại diện của người đó, trừ trường theo pháp luật có quyền xác
hợp pháp luật có quy định khác. lập, thực hiện mọi giao dịch
dân sự vì lợi ích của người
được đại diện, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
3. Một cá nhân, pháp nhân có
thể đại diện cho nhiều cá
nhân hoặc pháp nhân khác
nhau nhưng không được nhân
danh người được đại diện để
xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự với chính mình hoặc
với bên thứ ba mà mình cũng
là người đại diện của người
đó, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác.
-Ở BLDS 2015 nêu rõ căn cứ
để xác định phạm vi đại diện
tương ứng với từng hình thức
đại diện. Đối với đại diện theo
pháp luật, phạm vi ủy quyền
được xác định căn cứ vào
-Ở BLDS 2005 tại khoản 1, khoản 2 xác quyết định của cơ quan nhà
định phạm vi đại diện là chưa rõ ràng, còn nước có thẩm quyền hoặc xác

13
có sự trùng lặp giữa quy định về phạm vi định theo điều lệ của pháp
đại diện với căn cứ xác lập quan hệ đại diện nhân; đối với đại diện theo ủy
quyền phạm vi ủy quyền xác
định căn cứ vào nội dung ủy
quyền. Bổ sung thêm quy
định tại khoản 2 để xác định
phạm vi đại diện cho những
trường hợp không xác định
được cụ thể phạm vi đại diện
theo căn cứ.
Thời hạn Thời hạn đại diện quy định tại Điều 582: Thời hạn đại diện quy định tại
đại diện “Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận khoản 1, khoản 2 Điều 140
và chấm hoặc do pháp luật quy định; nếu không có
1. Thời hạn đại diện được xác
dứt đại thoả thuận và pháp luật không có quy định
định theo văn bản ủy quyền,
diện thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực một năm,
theo quyết định của cơ quan
kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.”
có thẩm quyền, theo điều lệ
Việc chấm dứt đại diện
của pháp nhân hoặc theo quy
+ Chấm dứt đại diện của cá nhân: Điều 147
định của pháp luật.
“1. Đại diện theo pháp luật của cá nhân
chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 2. Trường hợp không xác

a) Người được đại diện đã thành niên hoặc định được thời hạn đại diện

năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục; theo quy định tại khoản 1
b) Người được đại diện chết; Điều này thì thời hạn đại diện

c) Các trường hợp khác do pháp luật quy được xác định như sau:

định. a) Nếu quyền đại diện được


2. Đại diện theo ủy quyền của cá nhân chấm xác định theo giao dịch dân
dứt trong các trường hợp sau đây: sự cụ thể thì thời hạn đại diện
a) Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được tính đến thời điểm chấm
được ủy quyền đã hoàn thành; dứt giao dịch dân sự đó;
b) Người ủy quyền hủy bỏ việc ủy quyền
b) Nếu quyền đại diện không
hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy
được xác định với giao dịch
quyền;
dân sự cụ thể thì thời hạn đại
14
c) Người ủy quyền hoặc người được ủy diện là 01 năm, kể từ thời
quyền chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực điểm phát sinh quyền đại
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi diện.
dân sự, mất tích hoặc là đã chết.
Chấm dứt đại diện quy định
Khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, người
tại khoản 3, khoản 4 BLDS
đại diện phải thanh toán xong các nghĩa vụ
2015
tài sản với người được đại diện hoặc với
người thừa kế của người được đại diện. ” 3. Đại diện theo ủy quyền

+ Chấm dứt đại diện của pháp nhân: Điều chấm dứt trong trường hợp

148 sau đây:

“1. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân a) Theo thỏa thuận;

chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt. b) Thời hạn ủy quyền đã hết;

2. Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân c) Công việc được ủy quyền
chấm dứt trong các trường hợp sau đây: đã hoàn thành;

a) Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc d) Người được đại diện hoặc
được ủy quyền đã hoàn thành; người đại diện đơn phương

b) Người đại diện theo pháp luật của pháp chấm dứt thực hiện việc ủy

nhân hủy bỏ việc ủy quyền hoặc người quyền;

được ủy quyền từ chối việc ủy quyền; đ) Người được đại diện,

c) Pháp nhân chấm dứt hoặc người được người đại diện là cá nhân

ủy quyền chết, bị Toà án tuyên bố mất năng chết; người được đại diện,

lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực người đại diện là pháp nhân

hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết. chấm dứt tồn tại;

Khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, người e) Người đại diện không còn
đại diện phải thanh toán xong các nghĩa vụ đủ điều kiện quy định
tài sản với pháp nhân ủy quyền hoặc pháp tại khoản 3 Điều 134 của Bộ

nhân kế thừa. ” luật này;

g) Căn cứ khác làm cho việc


đại diện không thể thực hiện
được.

15
4. Đại diện theo pháp luật
chấm dứt trong trường hợp
sau đây:

a) Người được đại diện là cá


nhân đã thành niên hoặc
năng lực hành vi dân sự đã
được khôi phục;

b) Người được đại diện là cá


nhân chết;

c) Người được đại diện là


pháp nhân chấm dứt tồn tại;

d) Căn cứ khác theo quy định


của Bộ luật này hoặc luật
-Ở BLDS 2005 chỉ xác định thời hạn đối khác có liên quan.
với hình thức đại diện diện theo ủy quyền
- Ở BLDS 2015 bổ sung quy
còn hình thức đại diện theo pháp luật lại
định về việc xác định thời hạn
chưa có điều khoản nào quy định, việc quy
đại diện nhằm tạo cơ sở pháp
định về chấm dứt đại diện được được chia
lý rõ ràng hơn cho việc xác
ra làm 2 trường hợp, tương ứng với 2 điều
lập và thực hiện các giao dịch
luật riêng là chấm dứt đại diện của cá nhân
dân sự có liên quan, từ đó góp
và chấm dứt đại diện của pháp nhân.
phần bảo vệ tốt hơn quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên
có liên quan. Ngoài ra, BLDS
2015 còn khắc phục điểm
chưa chặt chẽ trong kỹ thuật
lập pháp của BLDS 2005
bằng việc quy định chấm dứt
đại diện được xem xét trong
hai trường hợp, tương ứng với
hai hình thức đại diện là chấm
dứt đại diện theo pháp luật và
16
chấm dứt đại diện theo ủy
quyền.

Năng lực Khoản 5 Điều 139: “ Người đại diện phải Khoản 3 Điều 134: “ Trường
của người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ hợp pháp luật quy định thì
đại diện trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 người đại diện phải có năng
của Bộ luật này.” lực pháp luật dân sự, năng
lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác
lập, thực hiện.”
-Ở BLDS 2005 chỉ quy định về năng lực -Ở BLDS 2015 giải thích một
hành vi dân sự, chỉ nói đến năng lực của cá cách rõ ràng tư cách làm
nhân, vì năng lực hành vi dân sự của pháp người đại diện của pháp nhân
nhân không có bằng việc thêm “ năng lực
pháp luật dân sự ” và người
đại diện không12 nhất thiết
phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ trong mọi trường
hợp mà chỉ cần trong trường
hợp “ pháp luật quy định ”
Hậu quả Khoản 4 Điều 139: “ Người được đại diện Điều 139
pháp lý có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch 1. Giao dịch dân sự do người
của hành dân sự do người đại diện xác lập.” đại diện xác lập, thực hiện với
vi đại người thứ ba phù hợp với
diện phạm vi đại diện làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ đối với
người được đại diện.
2. Người đại diện có quyền
xác lập, thực hiện hành vi cần
thiết để đạt được mục đích

17
của việc đại diện.
3. Trường hợp người đại diện
biết hoặc phải biết việc xác
lập hành vi đại diện là do bị
nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe
dọa, cưỡng ép mà vẫn xác
lập, thực hiện hành vi thì
không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ đối với người được
đại diện, trừ trường hợp
người được đại diện biết hoặc
phải biết về việc này mà
không phản đối.
-Chưa rõ ràng, có thể gây bất lợi cho người -Bảo vệ triệt để hơn quyền và
đại diện, cho bên thứ 3, làm phát sinh tranh lợi ích của người được đại
chấp giữa các bên diện, bổ sung quy định ở
khoản 1, 3 Điều 139 nhằm
tránh việc thông đồng giữa
người đại diện và bên thứ ba
nhằm xác lập, thực hiện giao
dịch bất lợi cho người được
đại diện.

1.2 Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại diện theo
pháp luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại diện theo ủy
quyền

Cơ sở pháp lý: khoản 5 Điều 84 BLDS 2015: “ Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng
đại diện thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn
được ủy quyền. ”

18
Khoản 1 điều 138: “ Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân
khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. ”

* Hoàn cảnh của người được đại diện


1.3 Trong Quyết định số 09, Hội đồng thẩm phán theo hướng Ngân hàng phải
chịu trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên cơ sở các quy
định về đại diện hiện nay, anh/chị cho biết hướng như vừa nêu của Hội đồng
thẩm phán có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trên cơ sở các quy định về đại diện hiện nay, hướng vừa nêu của Hội đồng thẩm
phán là thuyết phục.

+ Ông H1 kí thư bảo lãnh với tư cách là người đại diện của Ngân hàng A, có đóng dấu
của Ngân hàng A – Chi nhánh T.H vì vậy là nghĩa vụ của Ngân hàng A nên ông H1
không phải chịu trách nhiệm dân sự về giao dịch nhân danh Ngân hàng A. Cơ sở pháp
lí Điều 87 BLDS 2015:

1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.

Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của
sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm
thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác
lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với
nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác.

* Hoàn cảnh của người đại diện


1.4 Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm đối với
giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?
- Trong pháp luật hiện hành, người đại diện phải chịu trách nhiệm đối với giao dịch do
mình xác lập với tư cách là người đại diện, vì: Trong trường hợp giao dịch dân sự do
người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, giao dịch dân sự do người
đại diện xác lập , thực hiện thực chất là để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người được đại diện trên cơ sở tự do, ý chí của người được đại diện và theo quy định
của pháp luật. Do đó, giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực nếu giao dịch được thực hiện

19
trong phạm vi đại diện. Nếu giao dịch vượt quá phạm vi đại diện thì không làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện mà đồng thời buộc người đại diện phải
có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với người đã giao dịch nhằm bảo vệ quyền lợi của
bên thứ ba, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá
phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch theo khoản 2 Điều 143 BLDS 2015 “ Trường hợp
giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch
được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện
nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại
diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi
đại diện mà vẫn giao dịch.” Trong trường hợp người đại diện cố ý thông đồng với
người thứ ba để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây
thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt
hại nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được đại diện và khôi phục lợi ích
đã bị xâm phạm của người được đại diện theo khoản 4 điều 143 BLDS 2015 “ Trường
hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì
phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.”.

1.5 Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa ông H1
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời ?
- Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán thì không cần thiết đưa ông
H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án .

- Đoạn thể hiện Quyết định cho câu trả lời này là: “ Thư bảo lãnh do ông H ký
với tí cách là Giám đốc Ngân hàng A - Chi nhánh T.H, có đóng dấu của Ngân hàng A
– Chi nhánh T.H nên Thư bảo lãnh là văn bản do Ngân hàng A phát hành, trong đó
ông H1 chỉ ký với tư cách là người đại diện của Ngân hàng A. Do đó, Tòa án cấp giám
đốc thẩm nhận định việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà T có liên quan đến trách
nhiệm của ông H1 trong việc ký thư bảo lãnh nên cần thiết đưa ông H1 vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không phù
hợp với các quy định của pháp luật.”

20
1.6 Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng
thẩm phán (về vai trò của người đại diện).
-Hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán là chính xác và hợp lý.

- Cụ thể, Hội đồng thẩm phán xác định ông H1 tham gia ký kết Thư bảo lãnh
với tư cách chỉ là người đại diện của Ngân hàng A nên không cần đưa vào tham gia tố
tụng và không cần chịu trách nhiệm thanh toán thay cho tức Ngân hàng A.

- Căn cứ theo khoản 3 Điều 92 BLDS 2005: “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của
pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể
cả chức năng đại diện theo ủy quyền” và khoản 5 Điều 92: “Pháp nhân có các quyền,
nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác
lập, thực hiện”. Theo đó, Ngân hàng A – Chi nhánh T.H là đơn vị phụ thuộc của Ngân
hàng A, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân là
Ngân hàng A, đồng thời khi Chi nhánh T.H của Ngân hàng A xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng A. Trong trường hợp
này, Thư Bảo lãnh do ông H1 ký với tư cách là Giám đốc chi nhánh của Ngân hàng A,
có đóng dấu của Ngân hàng A – Chi nhánh T.H nên Thư bảo lãnh là văn bản do Ngân
hàng A phát hành, trong đó ông H1 chỉ ký với tư cáchlà người đại diện của Ngân hàng
A. Do đó, Ngân hàng A phải có trách nhiệm thực hiện camkết bảo lãnh tại Thư bảo
lãnh do Ngân hàng A – Chi nhánh T.H phát hành theo quy định tại Điều 93 BLDS
2005: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân”.

 Do đó, ông H1 với tư cách chỉ là người đại diện xác lập giao dịch dân sự nên
không cần tham gia vào quá trình tố tụng và chịu trách nhiệm thanh toán thay cho
pháp nhân là Ngân hàng A.

*Quyền tự xác lập,thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện
1.7 Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Nêu ít nhất một
hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện không có / còn quyền tự xác
lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện, nhưng có/còn
quyền khi có người đại diện theo thoả thuận.

21
- Hệ thống pháp luật Pháp. Điều 1159 BLDS Pháp (sửa đổi, bổ sung năm
2016): “Trong trường hợp thẩm quyềnđại diện được xác lập theo quy định của pháp
luật hoặc theo quyết định của tòa án thì trongthời hạn đại diện, người được đại diện
không có các quyền hạn đã được trao cho người đại diện. Trong trường hợp đại diện
theo thỏa thuận, người được đại diện vẫn được thực hiện các quyền của mình.”

- Với Điều 1159, BLDS Pháp đã có sự phân biệt giữa đại diện theo thỏa thuận
với đại diện theo luật hay tư pháp. Liên quan đến quyền của người được đại diện,
“điều luật này đã làm rõ sự phân biệt thiết yếu giữa đại diện theo luật và tư pháp với
đại diện theo thỏa thuận” theo hướng “đại diện theo thỏa thuận là một cách thức thực
hiện quyền tự chủ pháp lý của người được đại diện, còn đại diện theo luật và tư pháp
thể hiện sự hạn chế đối với tự chủ pháp lý của người được đại diện”

1.8 Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Vì sao?
- Hiện nay trong pháp luật hiện hành, chưa có quy định về người được đại diện
có quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện.

- Ở đây, chúng ta có quy định theo hướng người đại diện theo ủy quyền có
quyền xác lập, thực hiện giao dịch cho người đại diện như quy định, theo đó “Cá nhân,
pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự” (khoản 1 Điều 138 BLDS năm 2015) và người đại diện “được xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” (khoản 1 Điều 141 BLDS năm 2015).
Tuy nhiên, chúng ta lại chưa có quy định cho biết là sau khi ủy quyền cho người đại
diện, người được đại diện có được tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại
diện của người đại diện hay không? Nói cách khác, chúng ta chưa có hướng xử lý rõ
ràng như Pháp trong văn bản, chúng ta không có văn bản cho biết hướng xử lý rõ ràng
về quyền của người được đại diện đối với giao dịch sau khi ủy quyền cho người khác.

- Đối với pháp nhân là một chủ thể pháp luật do con người tạo ra, tự thân pháp
nhân không thể tự xác lập, thực hiện giao dịch với người khác. Do là chủ thể hư cấu,
pháp nhân không thể tự xác lập, thực hiện giao dịch cho mình khi dù có đại theo pháp
luật hay không có đại diện theo pháp luật.

22
 Do đó, pháp nhân không thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch nên pháp
nhân (người được đại diện) không thể tự thực hiện các giao dịch thuộc về người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân.

- Đối với cá nhân: Nếu pháp nhân luôn cần có người đại diện do không thể tự
xác lập, thực hiện các giao dịch thì cá nhân có thể cần người đại diện nhưng cũng có
thể không cần người đại diện mà tùy vào hoàn cảnh. Có trường hợp cá nhân cần có
người đại diện theo pháp luật như trường hợp của người mất năng lực hành vi dân
sự (người đại diện có cả vai trò là người giám hộ theo khoản 2 Điều 136 BLDS năm
2015). “Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện” (khoản 2 Điều 22) và “Khi giao dịch dân sự do
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập,
thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch
đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của
họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý” (khoản 1 Điều 125)

 Như vậy, nhóm chủ thể trên về nguyên tắc không được tự thực hiện các giao
dịch trong phạm vi đại diện của người đại diện. Tuy nhiên, vẫn có ngoại lệ. Đó là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có thể thực hiện các giao dịch dân sự
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày ( CSPL: khoản 2 Điều 24 BLDS 2015)

1.9 Trong Quyết định số 44, theo Tòa giám đốc thẩm, người ủy quyền có được tự
xác lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác không? Đoạn nào của Quyết định
cho câu trả lời?
- Trong Quyết định số 44, theo Tòa giám đốc thẩm, người ủy quyền được tự xác
lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác

- Đoạn thể hiện Quyết định cho câu này là : “ Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và
phúc thẩm còn nhận định rằng vào ngày 09/9/2010, cụ Nguyễn Thị T đã lập hợp đồng
ủy quyền cho ông T2 toàn quyền sử dụng nhà đất với thời hạn 05 năm, trong khi hợp
đồng ủy quyền chưa chấm dứt thì cụ Nguyễn Thị T đã ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh
là không đúng với Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự. Do cụ Nguyễn Thị T là chủ sở hữu nhà đất nêu trên nên dù
cụ T có ủy quyền cho ông T2 toàn quyền sử dụng thì cũng không làm hạn chế hoặc

23
làm mất đi quyền về tài sản theo quy định của pháp luật của cụ T. Do đó, nhận định
của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng là không chính xác.”

1.10 Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người được đại diện tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện (phân tích đối với
đại diện theo pháp luật và đối với đại diện theo ủy quyền).
Đối với đại diện theo pháp luật: khả năng người được đại diện tự xác lập và
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện là hữu hạn. Người được
đại diện chỉ có thể thực hiện các hành động mà pháp luật cho phép đại diện thực hiện.
Việc đại diện phải hoàn toàn tuân thủ pháp luật và hàn gắn với trách nhiệm pháp lý
của mình. Người được đại diện không được tự do quyết định và thực hiện các hành
động giao dịch mà không có sự chấp thuận, ủy quyền của người đại diện. Theo em,
nhìn chung, việc không cho người được đại diện khả năng tự xác lập, thực hiện giao
dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật là tương đối thuyết
phục. Nhưng đối với trường hợp người được đại diện khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi thì chúng ta chưa thực sự rõ là việc có đại diện theo pháp luật có làm mất
quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch của họ hay không.

Đối với đại diện theo uỷ quyền: khả năng người được đại diện tự xác lập và
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện là rộng hơn. “Quyền đại
diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây
gọi là đại diện theo ủy quyền)” (Điều 135 BLDS 2015) nên đại diện theo ủy quyền
khác với đại diện theo pháp luật ở việc đại diện theo ủy quyền được hình thành trên cơ
sở ý chí của người được đại diện và, để đại diện có thể được thực hiện, việc ủy quyền
này phải được người đại diện đồng ý. Đối với các tổ chức không có tư cách pháp nhân,
một hộ gia đình hay một tổ hợp tác có nhiều thành viên, tổ viên, do đó sẽ là bất khả thi
nếu như toàn thể những thành viên của hộ gia đình hay tổ hợp tác đều phải tham gia
vào tất cả các giao dịch dân sự nhằm mục đích sản xuất kinh doanh của hộ gia đình
hay tổ hợp tác đó. Vì vậy, việc người được đại diện có khả năng tự xác lập, thực hiện
các giao dịch sẽ đảm bảo hơn về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chỉ bản thân
người được đại diện hiểu rõ về tình trạng sức khỏe, tinh thần và khả năng tư duy nên
người được đại diện có thể tự quyết định bản thân có đủ năng lực để xác lập, thực hiện
các giao dịch dân sự hay không. Thêm vào đó người được đại diện xác lập, thực hiện
giao dịch thuộc phạm vi của người đại diện lại càng thêm đảm bảo quyền và lợi ích

24
hợp pháp của người được đại diện khi có cả bản thân và người đại diện đều biết về rõ
về giao dịch đó, đảm bảo quyền và lợi ích đôi bên.

BÀI TẬP 2
Tóm tắt quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Bà Cao Thị Xê

Bị đơn: Chị Võ Thị Thu Hương

Anh Nguyễn Quốc Chính

Nội dung quyết định: Bà Xê kết hôn với ông Võ Văn Lưu năm 1996, làm thủ tục
đăng ký kết hôn và không có con chung nhưng trước đó ông Lưu đã kết hôn với bà
Thắm vào năm 1964. Trước khi mất, ông Lưu có để lại di chúc. . . Để lại toàn bộ tài
sản thừa kế cho bà Xe. Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2005/DSST chấp nhận yêu cầu
của bà Xe khởi kiện bà Hương và ông Chính, cho phép bà được hưởng toàn bộ di sản
thừa kế ông Lưu để lại theo di chúc. Tuy nhiên, tại Quyết định số 208/2008/KN-DS,
Tòa án xác định di chúc của ông không đảm bảo quyền lợi của bà Thắm với tư cách là
vợ hợp pháp của ông Lưu. Cuộc hôn nhân giữa anh Lưu và chị Xe là trái pháp luật. Bà
Thắm không được hưởng 2/3 kỷ thừa kế theo pháp luật là không đúng. Hội đồng giám
đốc thẩm quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án để giải
quyết theo quy định của pháp luật.

Tóm tắt quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Nguyễn Thị Ơn

Bị đơn: Nguyễn Thị Chắc

Nội dung quyết định:Bà Ơn kiện yêu cầu bà Chắc trả lại nhà đất và một số hiện vật
trong nhà; Vì cha chồng bà Ơn là ông Nguyễn Kỳ Huệ trước lúc mất có để lại di chúc
định đoạt toàn bộ phần tài sản cho ông Nguyễn Kỳ Hà ( con ruột ông Huệ), là chồng
bà Ơn. Khi ông Hà chưa san tên chuyển quyền thì năm 2008 ông Hà mất và để lại di
chúc. 03/2011, bà Ơn đã được cấp giấy quyền sử hữu nhà và đất. Mà bà Chắc là người
sống nhờ để trong coi nhà mà tự tiện gọi các cháu của bà đến ở mà chưa có sự đồng ý
của bà Ơn. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa lầm rõ được bà Chắc
25
vào ở nhà đất của cụ Huệ từ khi nào, trước hay sau ngày 01/7/1991, nhưng lại áp dụng
các quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết là chưa đủ căn cứ.

Quyết định: Chấp nhận Kháng nghị số 132/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 26/11/2012 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số
282/2012/DS-PT ngày 04/7/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang. Hủy toàn bộ
Bản án dân sự phúc thẩm số 282/2012/DS-PT ngày 04/7/2012 của Tòa án nhân dân
tỉnh Tiền Giang và hủy toàn bộ Bản án dân sự sợ thẩm số 243/2011/DS-ST ngày
23/12/2011 của Toà ản nhân dân huyện Cai Lậy, tính Tiền Giang về vụ án "Đòi tài sản
bị chiếm giữ" giữa nguyên đơn là bà Phan Thị Ơn với bị đơn là bà Lý Thị Chắc và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân huyện Cại Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm lại vụ án.

Tóm tắt bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân
Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: Bà Nuyễn Thị Khót

Ông An Văn Tâm

Bị đơn: Ông Nguyễn Nhật Tài

Nội dung bản án: Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Khót và ông An Văn Tâm yêu cầu
chia tài sản theo diện hưởng thừa kế không phụ thuộc vào di chúc với bị đơn là ông
Nguyễn Tài Nhật. Bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là 3 người con của cụ Khánh. Năm
2000 cụ Khánh chết và di chúc để lại di sản của cụ là căn nhà số 88 Lương Định Của,
phường An Khánh, quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Nhật. Sau khi căn nhà
được giải tỏa và bồi thường, sau đó là thỏa thuận giữa các bên, giá trị di sản mà cụ
Khánh để lại được thống nhất là 1.800.000.000 đồng. Nay bà Khót yêu cầu được
hưởng thừa kế có trị giá là 400.000.000 đồng theo diện hưởng di sản không phụ thuộc
vào di chúc vì khi mở thừa kế, bà đã 71 tuổi không còn khả năng lao động. Ông Tâm
cũng yêu cầu được hưởng 400.000.000 đồng của phần di sản mà cụ Khánh để lại do
khi mở thừa kế, ông đã 68 tuổi, thuộc diện thương binh 2/4, không còn khả năng lao
động. Sau khi xem xét về yêu cầu của nguyên đơn và cả bị đơn, căn cứ vào các quy
định hiện hành.

26
Quyết định: Xác định di sản của cụ Nguyễn Thị Khánh là giá trị quyền sử dụng đất
căn nhà 83 Lương Định Của, phường Thảo Điền, quận 2, thành phố: Hồ Chí Minh
bằng 1.800.000.000 đồng. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bậ Nguyễn Thị Khót
và ông An Văn Tâm về việc được hưởng di sản của cụ Khánh mỗi người là
400.000.000 đồng theo diện những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung di chúc.

Tóm tắt Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao

Cụ Nguyễn Văn Phúc và cụ Phạm Thị Thịnh có 6 người con là các ông bà: Nguyễn
Hồng Vũ, Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Hồng Vân, Nguyễn Thị Kim Dung,
Nguyễn Thị Kim Thu, Nguyễn Hồng Vi (định cư tại Đức). Cụ Phúc mất năm 1999
không để lại di chúc, cụ Thịnh mất năm 2007 có di chúc để lại phần tài sản của cụ cho
ông Vân. Nay ông Vũ, bà Oanh, bà Dung đề nghị được chia phần tài sản của cụ Phúc
để lại gồm nhà và đất tại số 708 đường Ngô Gia Tự hiện vợ chồng ông Vân đang quản
lý.

Toà giám đốc thẩm nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định di chúc
của cụ Thịnh là hợp pháp, chia di sản của cụ Thịnh theo di chúc, phần di sản của cụ
Phúc được chia theo pháp luật là có cơ sở. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm chưa xác minh làm rõ, nhưng lại xác định 02 ngôi nhà một tầng là tài sản của cụ
Phúc, cụ Thịnh là chưa đủ cơ sở vững chắc. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm xác định
ông Vân có công chăm sóc cha mẹ và công quản lý di sản, ông Vi có công lớn trong
việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gửi tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà),
nhưng không xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà ông Vân,
ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các đồng thừa
kế là chưa hợp tình, hợp lý. Vì các lẽ trên Toà giám đốc thẩm quyết định hủy bản án
dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.

Tóm tắt quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân
dân TP. Hồ Chí Minh.
Người yêu cầu: Ông Nguyễn Văn Hởi, bà Nguyễn Thị Hồng Vân, ông Huỳnh Công
Lĩnh, bà Trần Thị Bông Thành.
27
Nội dung quyết định: Đây là việc dân sự về yêu cầu kinh doanh thương mại liên quan
đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp. Về nội dung và căn cứ
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài dựa vào:

- Thủ tục tố tụng trọng tài có sự vi phạm nghiêm trọng Luật Trọng tài thương mại,
HĐTT giải quyết những vấn đề khokng thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.

- Lý do đã hết thời hiệu để yêu cầu thực hiện các nghĩa vụ tài sản do ông Huỳnh Công
Định để lại nên HĐTT không thể giải quyết yêu cầu nguyên đơn được sở hữu cổ phần
Công ty Sao Mai của ông Định.

- Chưa đủ điều kiện để HĐTT giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của nguyên đơn.

- HĐTT không xem xét thẩm quyền của mình trước khi tiến hành giải quyết tranh
chấp.

- Lý do Phán quyết 101/19 HCM trái với nguyên tắc cơ bản của pháo luật Việt Nam.
Vì vậy, quyết định không hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 HCM của
HĐTT thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam lập ngày 02/12/2020 giữa nguyên
đơn là công ty Yue Da Mining Limited và bị đơn là ông Hời, bà Vân, ông Lĩnh, bà
Thành.

*Hình thức sở hữu tài sản


2.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài
sản.
- BLDS 2005 từ Điều 200 đến Điều 232 quy định các hình thức sở hữu sau: sở hữu
nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp;
- BLDS 2015 từ Điều 197 đến Điều 220 quy định các hình thức sở hữu sau: sở hữu
toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung;
- Theo đó, BLDS 2005 quy định cụ thể nhiều hình thức sở hữu, tuy nhiên không chặt
chẽ và thiếu tính ổn định vì nếu xuất hiện một thành phần kinh tế mới chưa được điều
chỉnh thì BLDS sẽ bị sửa đổi. BLDS 2015 đã tinh gọn lại các hình thức sở hữu, gồm
sở hữu riêng, sở hữu chung và sở hữu toàn dân.
- So sánh Điều 200 BLDS 2005:

28
“Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng
có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng
đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do
Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế,
văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản
khác do pháp luật quy định.”;
Và Điều 197 BLDS 2015: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn
lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu
tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý.”;
Có thể thấy, quy định về tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước và tài sản thuộc sở
hữu toàn dân gần như là tương tự nhau, tuy nhiên trong BLDS 2015, loại hình sở hữu
này đã được giải thích một cách ngắn gọn và rỡ ràng hơn.
- So sánh quy định về “Sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể” trong BLDS 2005 và “Sở hữu
riêng” trong BLDS 2015: Nếu trong BLDS 2005 quy định “Sở hữu tư nhân, sở hữu tập
thể” chia thành hai mục riêng lẻ thì trong BLDS 2015 chúng đã được gộp thành “Sở
hữu riêng”, tạo sự tinh gọn và chặt chẽ hơn trong các điều luật;
2.2. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn
là Quyết định 377) cho câu trả lời.
- Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với
bà Thẩm;
- Đoạn sau đây của Quyết định 377 đã cho câu trả lời: “... Căn cứ các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án thì ông Lưu kết hôn với bà Thẩm trên cơ sở tự nguyện, có
đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm là quan hệ hôn nhân
hợp pháp và vẫn đang tồn tại theo quy định của pháp luật. Tuy căn nhà số 150/6A Lý
Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập
trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm vẫn tồn tại, nhưng giữa ông Lưu và
bà Thẩm có kinh tế riêng và ông Lưu đứng tên riêng đối với nhà đất trên, hơn nữa
trong quá trình giải quyết vụ án bà Thẩm thừa nhận căn nhà là do ông Lưu tạo lập và
là tài sản riêng của ông Lưu.”.

29
2.3. Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu
riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
- Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà;

- Đoạn sau đây của Quyết định 377 đã cho câu trả lời: “Còn bà Thẩm cho rằng căn
nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt trên diện tích 101m2 đất là tài sản chung của vợ chồng
bà nên không nhất trí theo yêu cầu của bà Xê. Bà đề nghị Tòa giải quyết theo pháp
luật để bà được hưởng thừa kế tài sản của ông Lưu cùng với chị Hương.”.

2.4. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của
Quyết định 377 cho câu trả lời.
- Theo Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu riêng của ông
Lưu;

- Đoạn sau đây của Quyết định 377 đã cho câu trả lời: “... Tuy căn nhà số 150/6A Lý
Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập
trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm vẫn tồn tại, nhưng giữa ông Lưu với
bà Thẩm có kinh tế riêng và ông Lưu đứng tên riêng đối với nhà đất trên, hơn nữa
trong quá trình giải quyết vụ án bà Thẩm thừa nhận căn nhà là do ông Lưu tạo lập và
là tài sản riêng của ông Lưu. Thực tế, ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác từ
năm 1975; đến năm 1994 ông Lưu mới nhận chuyển nhượng đất của bà Nguyễn Thị
Bướm để cất nhà, còn bà Thẩm và chị Hương vẫn ở ngoài miền Bắc nên có cơ sở để
xác định căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho trên diện
tích 101m2 đất là tài sản riêng của ông Lưu.”.

2.5. Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao?
- Theo em, giải pháp trên của Tòa là hợp lý và đảm bảo được quyền lợi của những
người liên quan cũng như ý chí của người để lại di chúc;

- Theo khoản 1 và khoản 3 Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đinh năm 2000 có quy định
về tài sản chung của vợ chồng như sau:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.

30
...

3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.”;

- Theo Quyết định 377, Tòa xác định tài sản trên là tài sản riêng của ông Lưu là có căn
cứ, tuy căn nhà số 150/6A được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm
nhưng ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác từ năm 1975, đồng thời bà Thẩm
không có đóng góp kinh tế cũng như công sức vào căn nhà mà ông Lưu tạo lập trong
lúc sinh sống, công tác trong miền Nam. Theo đó, việc Tòa quyết định căn nhà số
150/6A là tài sản riêng của ông Lưu là hợp lí.

2.6. Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể
di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.
- Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không thể di
chúc định đoạt toàn bộ căn nhà;

- Căn cứ pháp lý: Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về “sở hữu chung của
vợ chồng” như sau:

“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi
người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung.

4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định
của Toà án.”.

- Bên cạnh đó, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về “sở hữu chung cửa vợ chồng” ở
Điều 213:

“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung.

31
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định
của Tòa án.

5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo
chế độ tài sản này.”.

*Diện thừa kế
2.7. Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
không ? Vì sao?

- Bà Thẩm, chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu;

- Bà Xê không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu;

- Vì bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, chị Hương là con ruột của ông Lưu và bà
Thẩm. Bà Xê tuy chung sống với ông Lưu như vợ chồng, đồng thời ông Lưu đã đăng
kí kết hôn với bà Xê tại UBND phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang vào
ngày 21-10-1976 nhưng ông Lưu chưa ly hôn với bà Thẩm nên quan hệ hôn nhân của
ông Lưu và bà Xê là bất hợp pháp (theo Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao);

- Căn cứ pháp lý: điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết.”;

Bên cạnh đó, điểm a khoản 1 Điều 651 quy định về “hàng thừa kế thứ nhất” tương tự
như trên.

2.8. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi
trên có khác không? Vì sao?

- Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên sẽ
khác. Vì:

- Trước ngày 25-3-1977 thì Luật Hôn nhân và Gia đình chưa có hiệu lực ở miền Nam,
mà ông Lưu và bà Xê sinh sống ở miền Nam vào khoảng thời gian này, nên việc ông
ông Lưu kết hôn với bà Xê (có nhiều hơn một vợ) vào cuối năm 1976 là hợp pháp,

32
quan hệ hôn nhân của hai người được pháp luật công nhận. Từ đó suy ra bà Xê cũng
thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với tài sản của ông Lưu.

2.9. Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì
sao?

- Trong vụ việc này, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu;

- Vì theo quyết định của Tòa, tài sản trên là tài sản riêng của ông Lưu, nên ông Lưu có
quyền quyết định đối với tài sản của mình, cũng như quyền chỉ định người thừa kế.
Theo đó, ông Lưu đã lập di chúc để lại tài sản cho bà Xê, đồng thời căn cứ theo Điều
669 BLDS năm 2005 (Điều 644 BLDS năm 2015), chỉ có bà Thẩm là “người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc” (vợ hợp pháp của ông Lưu) còn chị
Hương là con ruột nhưng đã thảnh niên và có khả năng lao động nên không thuộc
những “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”. Tóm lại, trong vụ
việc này, chị Hương không được chia di sản mà ông Lưu để lại.

2.10. Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu
đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời.
- Theo pháp luật hiện hành, thời điểm mà người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài
sản là di sản do người quá cố để lại là ngay sau khi người để lại di sản chết.
- Cơ sở pháp lý Khoản 1 Điều 611, Điều 614 BLDS 2015.
+ Khoản 1 Điều 611 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản
chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là
ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”.
+ Điều 614: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại.”.
2.11. Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?
- Trong Quyết định số 08, theo nội dung bản án, thời điểm người thừa kế của ông Hà
(vợ ông bà Lý Thị Ơn và các con ông) có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp là
ngay sau khi ông Hà chết ngày 12/05/2008.
- Vì theo Điều 614 BLDS 2015 quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người
thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.”. Thời điểm mở thừa kế
quy định tại Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm

33
người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm
mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”.
* Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
2.12. Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn
bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
- Trong Quyết định số 377, đoạn cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ
tài sản của ông cho bà Xê là:
“Công nhận di chúc ngày 27-7-2002 do ông Võ Văn Lưu viết có xác nhận của ông
Nguyễn Văn Thành, trưởng khu phố 10, phường 6, thành phố Mỹ Tho ngày 19-9-2002
là di chúc hợp pháp.
Bà Cao Thị Xê được hưởng thừa kế theo di chúc ngày 27-7-2002 do ông Võ Văn
Lưu viết gồm các tài sản, nhà và đất tọa lạc tại số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6,
thành phố Mỹ Tho đã được ghi nhận tại biên ban xác minh đo đạc ngày 26-5-2005 của
Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho.... Tổng giá trị nhà và đất và tài sản tủ bàn ghế
379.085.094 triệu đồng.”.
2.13. Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
- Chỉ có bà Thẩm thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc đối với di sản của ông Lưu. Bà Xê và chị Hương không thuộc diện trên. Người
thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo Điều
669 BLDS 2005 quy định:

“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn
hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại
Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”.

- Theo đó, bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu có đăng ký kết hôn ngày 26-10-1964,
nay đã già yếu là người thuộc Khoản 1 Điều 669 BLDS 2005 được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

34
- Bà Xê có đăng ký kết hôn với ông Lưu ngày 21-10-1996 nhưng hôn nhân của hai ông
bà là vi phạm quy định của pháp luật. Bà Xê không phải vợ hợp pháp của ông Lưu nên
không thuộc Khoản 1 Điều 669. Mặt khác, chị Hương là con ruột của ông Lưu và bà
Thẩm đã thành niên và hoàn toàn có khả năng lao động nên không thuộc Khoản 2
Điều 669 BLDS 2005.

2.14. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn
nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản cảu ông Lưu vì:
+ Bà Thẩm với tư cách là vợ hợp pháp của ông Lưu đã đăng ký kết hôn ngày 26-10-
1964, nay bà già yếu không còn khả năng lao động nên được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản cảu ông Lưu theo Khoản 1 Điều 669
BLDS 2005.
- Trong Quyết định 377, phần “Xét Thấy” có đề cập:
“ Tuy nhiên, do bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của ông Lưu đã già yếu, không còn
khả năng lao động, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự thì bà Thẩm được thừa
kế tài sản của ông Lưu mà không phụ
2.15. Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?
- Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì vẫn được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu.
- Vì bà là vợ hợp pháp của ông Lưu, căn cứ Khoản 1 Điều 669 BLDS 2005 quy định
về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc gồm có: con chưa thành
niên, cha, mẹ, vợ, chồng. Khoản 1 không yêu cầu về khả năng lao động như Khoản 2,
nên chỉ cần là một trong các nhân thân đã nêu tại Khoản 1 thì mặc nhiên được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
2.16. Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
- Giả định di sản của ông Lưu có tổng giá trị là 600 triệu đồng thì việc bà Thẩm
hưởng khoản tiền là bao nhiêu sẽ chia theo hai trường hợp sau đây:
+ Trường hợp thứ nhất, nếu ông Lưu lúc chết không để lại di chúc thì di sản sẽ được
chia theo pháp luật theo điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005. Khi đó hàng thừa kế
thứ nhất gồm có bà Thẩm, chị Hương chia đều mỗi người được hưởng 300 triệu đồng.
35
+ Trường hợp thứ hai, nếu ông Lưu lúc chết đã lập di chúc trước đó để lại hết di sản
cho bà Xê thì theo Điều 669 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn
hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại
Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”.
Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, theo Điều 669 bà sẽ được hưởng phần di sản
bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế theo pháp
luật của ông Lưu gồm hai người (bà Thẩm, chị Hương), suất của một người thừa kế
theo pháp luật chia đều sẽ là 300 triệu. Như vậy, trong trường hợp này bà Thẩm sẽ tối
thiểu được hưởng 200 triệu đồng, tức hai phần ba suất của một người thừa kế theo
pháp luật của ông Lưu (300 triệu đồng).
2.17. Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà
Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?
- Trường hợp bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà
Thẩm sẽ không được chấp nhận.
- Theo di chúc của ông Lưu thì toàn bộ di sản là căn nhà và đất của ông, bà Xê sẽ là
người thừa kế. Với nguyên tắc tôn trọng ý chí của người để lại di sản thì bà Xê sẽ là
người duy nhất thừa kế di sản là hiện vật của ông Lưu. Đương nhiên, quyền lợi của bà
Thẩm là được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Điều 669
BLDS 2005 sẽ được bảo đảm bằng việc chích giá trị từ phần di sản của ông Lưu để lại
cho bà Xê, trong trường hợp này di sản là hiện vật thì sẽ quy đổi ra giá tiền để phân
chia. Bà Xê có nghĩa vụ chích đủ phần bà Thẩm được hưởng theo Điều 669 BLDS
2005 từ phần di sản của ông Lưu để lại cho bà. Bà Thẩm chỉ có thể hưởng phần thừa
kế của mình theo hình thức là nhận tiền. Trừ trường hợp bà Thẩm có thể thỏa thuận
với bà Xê về vấn đề chia di sản bằng hiện vật.

36
2.18. Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án
cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
- Đoạn trong Bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh là:

“....Mặc dù các đương sự không xuất trình được giấy khai sinh một cách đầy đủ nhưng
đều thống nhất xác nhận các con của cụ Khánh là bà Khót, ông Tâm, ông Nhật và
không có tranh chấp gì về hàng thừa kế......”
2.19. Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
- Theo Bản án ở đoạn: “...Mặc dù theo di chúc cụ Khánh thì toàn bộ căn nhà này cụ
Khánh để lại cho ông Nguyễn Tài Nhật....” thì có thể thấy di chúc của cụ Khánh để lại
cho ông Nguyễn Tài Nhật được hưởng toàn bộ tài sản đang tranh chấp trong Bản án.

2.20. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên
của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Trong Bản án ở đoạn :”....Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ An Văn Lầm (chết năm 1938)
có 2 con là bà Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1932. Cụ
Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt ( chết năm 1973) có 01 con là ông Nguyễn Tài Nhật
sinh năm 1930. Năm 2000 cụ Khánh chết.....” thì tại thời điểm cụ Khánh mất năm
2000 bà Khót sinh năm 1929 đã 71 tuổi còn ông Tâm sinh năm 1932 đã 68 tuổi. Như
vậy bà Khót và ông Tâm đã là con thành niên của cụ Khánh.

2.21. Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc căn cứ ở đoạn :

”......Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà Khót,
ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cụ
thể là mỗi người được hưởng là 400.000.000 đồng....”

2.22. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án là không được hợp lí, dù xét theo luật thì 2 ông bà
không được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nhưng khoản
trợ cấp mà bà Khót và ông Tâm nhận được cũng là khá thấp so với mức sống của một
ngưởi trong một tháng, nhất là khi ông Tâm còn là thương binh 2/4. Nên việc bà Khót
và ông Tâm đòi được hưởng di sản là hợp lí.

37
2.23. Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao
động? Vì sao?
- Hướng giải quyết sẽ khác khi ông Tâm bị mất 85% sức lao động vì theo Nghị quyết
số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đưa ra những
trường hợp được coi là mất khả năng lao động tại phần II ở 1.4 có quy định :

” Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần
có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do
bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ
81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng
tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người
thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng
mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi
người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người
chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.”

- Thì khi này ông Tâm đã được coi là không còn khả năng lao động vì ông đã mất Tâm
85% sức lao động vượt quá 81% đề ra của Nghị định và phù hợp với Điểm b Khoản 1
Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, nên ông sẽ được hưởng di sản theo hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cụ thể là 2/3 của một phần thừa kế.

2.24. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.

* Giống nhau:

- Thể hiện ý chí tự do định đoạt của chủ sở hữu

- Bên sở hữu tài sản chuyển tài sản cho một bên khác mà không cần phải yêu cầu đền
bù.

* Khác nhau:

Di chúc Tặng cho tài sản

Khái niệm - Là sự thể hiện ý chí của - Là sự thỏa thuận giữa

38
cá nhân nhằm chuyển tài các bên, theo đó bên tặng
sản của mình cho người cho giao tài sản của mình
khác sau khi chết và chuyển quyền sở hữu
cho bên được tặng cho mà
không yêu cầu đền bù, bên
được tặng cho đồng ý
nhận.
- Cơ sở pháp lí Điều 624 - Cơ sở pháp lí Điều 457
Bộ luật dân sự 2015 Bộ luật dân sự 2015

Đặc điểm - Đây là một giao dịch dân - Là sự thỏa thuận, thể
sự thể hiện ý chí đơn hiện ý chí song phương
phương của một người giữa người cho và người
định đoạt tài sản của cá được tặng và họ phải còn
nhân người đó cho những sống tại thời điểm cho
người thừa kế nhận tài sản

- Người thừa kế thường là - Người được tặng cho có


người thân của người lập thể là người thân thích
di chúc như: cha, mẹ, con hoặc bất kỳ ai
cái,… - Khi tặng cho tài sản thì
- Khi người lập di chúc những người thừa kế
không để lại di sản cho không phụ thuộc vào nội
những người được hưởng dung của di chúc không
thừa kế không phụ thuộc được phép đòi chia di sản
vào nội dung của di chúc đã được tặng cho.
thì họ vẫn được hưởng 2/3
suất của một người thừa
kế theo pháp luật.

Đối tượng - Tài sản. - Phải là tài sản đang có,


đang tồn tại chứ không
phải tài sản hình thành

39
trong tương lai.

Thời điểm nhận được di - Phải được thể hiện rõ - Nếu hợp đồng tặng cho
sản trong di chúc, người thừa là động sản: Có hiệu lực
kế chỉ được nhận di sản kể từ thời điểm bên được
sau khi người lập di chúc tặng cho nhận được tài
chết. sản.

- Nếu đối tượng của hợp


đồng là bất động sản: Phải
lập thành văn bản có công
chứng, chứng thực hoặc
phải đăng ký và có hiệu
lực kể từ thời điểm đăng
ký.

Thực hiện nghĩa vụ tài - Người thừa kế được - Hơp đồng tặng cho tài
sản quyền nhưng đồng thời sản là hợp đồng không có
phải có trách nhiệm thực đền bù.
hiện nghĩa vụ tài sản do - Do đó, người được tặng
người chết để lại. cho không phải hoàn trả
một lợi ích hay thực hiện
một nghĩa vụ tài sản nào.

2.25. Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà,
trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông
Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không?

- Theo Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hợp đồng cho tặng tài sản “Hợp
đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản
của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù,
bên được tặng cho đồng ý nhận.”

40
- Ở trường hợp này bà Thẩm thuộc diện hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
di chúc, nhưng trường hợp này trước lúc ông Lưu chết ông đã làm hợp đồng tặng cho
toàn bộ tài sản cho bà Xê, vì vậy bà Thẩm không được hưởng di sản của ông Lưu

2.26 Suy nghĩ của/anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả
hợp đồng tặng cho.
- Theo nhóm em khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng tặng
cho là cần thiết vì còn một số vướng mắc:

Về vướng mắc:

Quy định Hợp đồng tặng cho tài sản và quy định tặng cho tài sản có điều kiện tại các
Điều 457, Điều 462 BLDS 2015 không phải là quy định mới. Vì các quy định này đã
quy định tại các Điều 465, Điều 470 BLDS 2005 mà quy định tại các Điều 457, Điều
462 BLDS 2015 về nội dung là căn bản giữ nguyên quy định tại các Điều 465, Điều
470 năm 2005. Tuy có sửa đổi một vài từ, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung chính
của điều luật.

Đầu tiên: về mặt nội dung, đối với cụm từ “không được bán” ghi trong hợp đồng tặng
cho tài sản là nhà ở, đất ở được hiểu như thế nào là đúng? Ví dụ ông A là bố của anh
H. Ông A viết giấy cho anh H căn nhà xây 2 tầng trên diện tích đất 200 m2. Trong
giấy cho nhà ở, ông A có ghi là: “cho nhà để ở, không được bán”. Nội dung ghi như
thế này hiện đang có hai ý kiến khác nhau như sau: Ý kiến (1) cho rằng: cụm từ
“không được bán” trong Giấy cho nhà là chấp nhận được. Vì không vi phạm điều cấm
của Luật, không trái đạo đức xã hội.

Ý kiến (2) cho rằng: từ “không được bán” trong Giấy cho nhà của ông A là ảnh hưởng
đến quyền định đoạt của anh H. Vì theo quy định tại Điều 457 BLDS hiện hành thì
hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng “chuyển quyền sở hữu”. Đối với căn nhà mà
ông A đã làm hợp đồng cho anh H, khi anh H đã đăng ký quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà ở, đất ở mà ông A đã cho anh H thì kể từ thời
điểm anh H đăng ký quyền sở hữu nhà ở thì anh H là chủ sở hữu căn nhà và là người
được sử dụng đất ở đối với căn nhà mà ông A đã cho. Nói cách khác là, ông A đã
chuyển quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở từ ông A sang anh H. Cũng kể từ
thời điểm anh H đăng ký quyền sở hữu nhà ở mà ông A cho, thì anh H toàn quyền định
đoạt căn nhà mà ông A đã cho anh H. Nếu có cụm từ: “không được bán” trong Giấy

41
cho nhà ở thì cụm từ này đã hạn chế quyền định đoạt căn nhà đối với anh H cho đến
khi ông thay đổi ý chí hoặc đến khi ông A chết. Như vậy, cụm từ: “không được bán”
trở thành điều kiện tặng cho tài sản mà không rõ thuộc trường hợp khoản nào của Điều
462 BLDS. Cụ thể là:

- Khoản 2 Điều 462 BLDS 2015 quy định về trường hợp người được nhận tài sản tặng
cho phải

thực hiện nghĩa vụ trước khi được nhận tài sản tặng cho.

- Khoản 3 Điều 462 BLDS 2015 quy định về trường hợp người được nhận tài sản tặng
cho phải

thực hiện nghĩa vụ sau khi nhận tài sản tặng cho.

- Còn khoản 1 Điều 462 BLDS quy định quyền được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ của
người được

tặng cho.

Tiếp theo, tên gọi của hợp đồng như thế nào là đúng đối với trường hợp tặng cho
quyền sử dụng đất? Cụ thể như sau:

- Điều 105 BLDS hiện hành quy định về tài sản như sau:

“1) Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2) Tài sản bao gồm: bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.

- Điều 115 BLDS hiện hành quy định về “quyền tài sản” như sau: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ, quyền sử dụng đất và cá quyền tài sản khác”. Theo quy định này thì quyền sử
dụng đất là “quyền tài sản” và theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS hiện hành mà
chúng tôi trình bày ở trên thì “quyền tài sản”

là tài sản. Do đó được nói (gọi) quyền sử dụng đất là tài sản.

- Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai hiện hành (Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11
năm 2013) quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừ kế, tặng cho, thế chấp góp vốn quyền sử
42
dụng đất theo quy định của Luật này”. Theo quy định này, thì người sử dụng đất có
quyền tặng cho quyền sử dụng đất và theo quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai
hiện hành thì việc tặng cho quyền sử dụng đất phải lập thành hợp đồng tặng cho và có
công chứ hoặc chứng thực. Vì vậy, vấn đề đặt ra là Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất có thể viết là Hợp đồng tặng cho

tài sản được không? Đây cũng là vướng mắc chưa có lời giải. Vì theo BLDS hiện hành
thì gọi là hợp đồng tặng cho tài sản (quyền sử dụng đất là tài sản). Còn theo Luật Đất
đai lại gọi là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Vậy thì gọi hợp đồng gì là đúng?
Vướng mắc này liên quan đến thời hiệu khởi kiện thì có tranh chấp, thời hiệu khởi
kiện tranh chấp hợp đồng là 03 năm (Điều 429 BLDS hiện hành quy định). Còn thời
hiệu tranh chấp quyền sử dụng đất không quy định. Do đó được hiểu là tranh chấp về
quyền sử dụng đất không bị hạn chế về thời gian nên khởi kiện lúc nào do đương sự tự
quyết định.

Về kiến nghị:

Để bảo sự thống nhất về nhận thức và thực hiện đúng quy định của pháp luật về tặng
cho tài sản có điều kiện, em nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản hướng
dẫn một số vấn đề sau đây:

a) Trường hợp hợp đồng tặng cho tài sản là nhà ở, đất ở mà trong hợp đồng có ghi điều
kiện là

“không được bán” thì hợp đồng tặng cho tài sản này thuộc khoản nào của Điều 462
BLDS hiện hành.

b) Trường hợp, hợp đồng ghi là: “Hợp đồng tặng cho tài sản” và trong hợp đồng ghi
nội dung là tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất có diện tích (cụ thể là bao
nhiêu m2 có số thửa đất, có số tờ bản đồ địa chính, sau khi đăng ký quyền sử dụng đất,
người được tặng cho tài sản thực hiện quyền sử dụng đất thì bị người sử dụng đất liền
kề với thửa đất được tặng cho quyền sử dụng đất tranh chấp và hòa giải ở cơ sở không
kết quả, người sử dụng đất liền kề với thửa đất tặng cho đã có đơn khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết. Vì người được tặng cho quyền sử dụng đất đã lấn chiếm đất.
Trường hợp này được áp dụng thời hiệu khởi kiện nào để giải quyết vụ án. Cụ thể là áp
dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 429 BLDS hiện hành (Thời hiệu khởi kiện

43
theo hợp đồng) hay áp dụng thời hiệu không hạn chế thời hiệu khởi kiện (BLDS hiện
hành không quy định thời hiệu khởi kiện về tranh chấp quyền sử dụng đất).

c) Về tặng cho tài sản hình thành trong tương lai. Điều 108 BLDS 2015 quy định “Tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai như sau:

“1) Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu quyền
khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.

2) Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm:

a) Tài sản chưa hình thành.

b) Tài sản đã hình thành, nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác
lập giao dịch.”

Tuy đã có quy định tài sản hình thành trong tương lai tại khoản 2 Điều 108 BLDS
2015, như nhóm em trình bày ở trên, nhưng trong thực tế, nhận thức về quy định tại
khoản 2 Điều 108 BLDS 2015 (tài sản hình thành trong tương lai) là không thống nhất
nên rất cần sự hướng dẫn để có sự nhận thức thống nhất.

*Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản


2.27. Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào khoản 8 Điều 372 BLDS 2015 quy định về căn cứ chấm dứt nghĩa vụ:
“Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải
do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện”. Nghĩa là nghĩa vụ gắn liền với thân nhân,
bắt buộc phải do chính người quá cố thực hiện nghĩa vụ mà không thể chuyển giao cho
người thừa kế thì nghĩa vụ đương nhiên chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết.

Ngược lại, nếu không phải là những nghĩa vụ nói trên thì có thể hiểu là những nghĩa
vụ của người quá cố này đương nhiên không chấm dứt. Căn cứ Điều 614 BLDS 2015:
“kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại.” Và dựa theo quy định tại Điều 658 BLDS 2015: “Các nghĩa vụ tài
sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây: 1.
Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc

44
mai táng; 2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu; 3. Chi phí cho việc bảo quản di sản; 4. Tiền trợ
cấp cho người sống nương nhờ; 5. Tiền công lao động; 6. Tiền bồi thường thiệt hại; 7.
Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước; 8. Các khoản nợ khác đối
với cá nhân, pháp nhân; 9. Tiền phạt; 10. Các chi phí khác.”

2.28. Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá
cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Những người thừa kế là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố.
Căn cứ pháp lý theo Điều 614 BLDS 2015: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người
thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.”

2.29. Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành không?
Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành, vì
ông Lưu là cha ruột của chị Hương.

Khoản 2 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ và quyền của
cha mẹ như sau: “Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.

2.30. Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ
khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?
Nội dung của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ
đến khi trưởng thành:

- Trong phần Xét thấy của Hội đồng giám đốc thẩm Toà dân sự Toà án nhân dân tối
cao: “Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm
là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung của ông bà từ lúc còn nhỏ cho đến khi trường
thành”.

2.31. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải
trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung không?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì phải trích cho bà
Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con
chung.

45
Cụ thể như sau: “Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công
tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung của ông bà từ lúc còn nhỏ cho
đến khi trường thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung
của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con
chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu)”.

2.32. Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị
hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.
Giải pháp trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con chung
cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu) của Toà án là dựa trên cơ sở quy định tại Điều
658 Bộ Luật dân sự 2015.

“Điều 658. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo
thứ tự sau đây:

1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.

4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

5. Tiền công lao động.

6. Tiền bồi thường thiệt hại.

7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

9. Tiền phạt.

10. Các chi phí khác.”

Trong vụ việc này, khoản tiền được trích từ di sản của ông Lưu cho bà Thẩm để bù
đắp công sức nuôi dưỡng con chung là ‘Tiền cấp dưỡng còn thiếu’-nghĩa vụ tài sản
của ông Lưu phải thanh toán theo quy định trên.

Do đó, giải pháp trên của Toà án là có cơ sở.

46
2.33. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người
quá cố khi họ còn sống?
Trong Quyết định số 26, ông Vân và ông Vi là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng
người quá cố khi họ còn sống.

Cụ thể như sau: “Đồng thời, Toà án cấp phúc thẩm xác định ông Vân có công chăm
sóc cha mẹ và công quản lí di sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ
(ông Vi là người gửi tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà)”.

2.34. Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng cha
mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như sau: xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và
quản lí di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại
mới chia cho các đồng thừa kế.

2.35. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối
quan hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố).
Hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp tình hợp lí dựa trên cơ sở quy định tại
Điều 658 BLDS 2015 về thanh toán nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan
đến thừa kế.

Công quản lí di sản của ông Vân được tính vào ‘Chi phí cho việc bảo quản di sản’.

Ông Vân có công chăm sóc cha mẹ và ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha
mẹ. Nhờ ông Vi gửi tiền cho cha mẹ chữa bệnh và lo cuộc sống nên toàn bộ nhà, đất
mới được giữ lại. Công chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được tính
vào ‘Các chi phí khác’ trong thứ tự ưu tiên thanh toán.

Hướng xử lý của Tòa giám đốc thẩm xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lí
di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng để đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các
đồng thừa kế là bảo đảm được quyền lợi của hai ông, nhờ vậy hai ông mới được hưởng
đúng theo phần công sức của mình.

47
2.36 Trong vụ việc liên quan đến ông Định (năm 2015), nghĩa vụ nào của ông
Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông Định
(ông Lĩnh và bà Thành)?
Trong vụ việc liên quan đến ông Định (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định được Tòa
án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông Định (ông Lĩnh và bà
Thành) là nghĩa vụ thanh toán nợ và nghĩa vụ bảo lãnh.

2.37. Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những người
thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc vào việc
những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa? Hướng
như vậy của Tòa án có thuyết phục không, vì sao?
Đoạn của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những người thừa kế (của ông
Định) thực hiện nghĩa vụ tài sản là: “Hội đồng xét đơn xét thấy: Người yêu cầu dựa
vào Khoản 2 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại để cho rằng ông Lĩnh, bà Thành chưa
thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế nên chưa có đủ điều kiện để HĐTT giải
quyết tranh chấp theo yêu cầu của nguyên đơn. Xét, lời trình bày này là không có căn
cứ để chấp nhận vì pháp luật không có quy định người thừa kế phải thực hiện thủ tục
khai nhận di sản thừa kế thì Hội đồng trọng tài mới được giải quyết tranh chấp.”

Hướng như vậy của Tòa án là thuyết phục vì chưa có căn cứ pháp lý nào quy định về
việc thực hiện thủ tục khai nhận di sản thì khi có tranh chấp dẫn đến kiện cáo thì Hội
đồng trọng tài mới được giải quyết. Thế nên, có thể thấy được rằng việc Tòa án buộc
những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản là vô cùng hợp lý.

2.38.Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để
lại di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời
Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản
có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ thực hiện.

- Căn cứ pháp lý: Khoản 3 Điều 623 BLDS 2015

“3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Theo đó thì khi mà người để lại di sản có khoản nợ nào đó (vay, mua trả góp....) thì
bên cho vay có thể yêu cầu người thừa kế trả nợ trong thời hiệu là 3 năm kể từ lúc mở
thừa kế. Sau 3 năm, nếu người cho vay không đòi lại khoản nợ thì không còn quyền để
có thể đòi lại khoản nợ đó nữa.

48
2.39.Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến hạn
thực hiện chưa? Đoạn nào Quyết định cho câu trả lời?
Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến hạn thực hiện.

Đoạn Quyết định cho câu trả lời: “Xét, theo quy định tại Khoản 3 Điều 623 Bộ luật
Dân sự 2015, thì “Thời hiệu yêu cầu người thừa kể thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

2.40. Vì sao Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của
người quá cố vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được
tiến hành năm 2019? Hướng của Tòa án như vậy như vậy có thuyết phục không,
vì sao?
Tòa án xác định yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quá cố vẫn còn mặc dù
ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được tiến hành năm 2019 vì do giữa
nguyên đơn với bà Soan với Công ty Sao Mai đã gia hạn nghĩa vụ thanh toán đến ngày
31/5/2017 nên thời điểm các bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình theo
thỏa thuận của các bên theo hợp đồng bảo đảm bằng cổ phần là 01/6/2017. Thế nên
mặc dù ông Định đã chết vào năm 2015 tùy nhiên nguyên đơn vẫn chưa thể kiện đơn
các bị đơn vì chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ của các bị đơn.

Hướng của Tòa án như vậy như vậy là thuyết phục, vì:

- Căn cứ pháp lý: Khoản 3 Điều 623 BLDS 2015

“3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Tuy từ khi mà ông Định chết tức là lúc mở thừa kế thì đã đến hạn để người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ tài sản là 3 năm nhưng bên nguyên đơn đã đã gia hạn nghĩa vụ
thanh toán nợ nên thời hạn này được tính từ năm 2017. Nên việc khởi kiện vào năm
2019 để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản do ông Định để lại là hợp lý, thỏa đáng.

2.41.Thông qua Quyết định năm 2021, suy nghĩ của anh/chị về tính thuyết phục
của quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người để lại di sản (có nên giữ hay không)?
Theo em thì nên giữ lại các quy định định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ về tài sản cảu người để lại di sản. Vì:

- Thời hiệu là 3 năm thì đối với em thì nó đủ hợp lý khi mà 3 năm đủ để yêu cầu người
thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản.

49
- Nếu như bỏ thì lại quá bất lợi cho người thừa kế khi phải thức hiện nghĩa vụ tài sản
của người để lại di sản đến hết đời.

Thế nên em nghĩ rằng thời hiệu 3 năm là vô cùng hợp lý để cho người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ tài sản và các cá nhân cũng như là các tổ chức có quyền và nghĩa vụ
phải chủ động trong việc nhận thức, tìm hiểu về việc người để lại di sản mất. Tuy
nhiên rằng có thể do nhiều lý do khách quan mà họ không biết được thông tin người để
lại di sản mất thì:

- Căn cứ pháp lý: Điều 156 BLDS 2015

“Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải
quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi
kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả
năng cho phép.

Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho
người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;

2. Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền
yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có
người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:

a) Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;

b) Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.”

Ta thấy theo Điểu 156 đã quy định để bảo vệ cho quyền lợi của những người có quyền
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản. Vì thế nên giữ lại các quy định về thời hiệu yêu cầu
người thừa kế thực hiện về nghĩa vụ tài sản của người để lại di chúc.

50
BÀI TẬP 3
Tóm tắt quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011.

Nguyên đơn: Anh Lê Quốc Toản


Bị đơn: Chị Lê Thị Thu
Anh Lê Quốc Tuấn

Nội dung: Ông Lê Gia Minh (chết năm 1997) có 2 người vợ: vợ cả là bà Lê Thị Bằng
(chết năm 1956) có 2 người con chung là Lê Văn Vinh và chị Lê Thị Xuyên; vợ hai là
bà Nguyễn Thị Lan (chết năm 2005) có 5 người con chung là chị Lê Thị Thu, anh Lê
Quốc Tuấn, chị Lê Hồng Thúy, chị Lê Thiên Hương và anh Lê Quốc Toản. Ngày
31/8/2005, bà Lan chết. Chị Thu và anh Tuấn cho rằng trước khi chết bà Lan đã làm
văn bản hủy di chúc do chính bà lập năm 1998. Xét thấy văn bản hủy di chúc này
không được công chức, chứng thực và không phải mẹ anh viết cũng như những người
làm chứng không đúng với quy định của pháp luật. Anh Toản yêu cầu anh chị em
trong gia đình trả lại cho anh căn nhà, yêu cầu anh Tuấn, chị Thu trả lại cho anh tiền
thuê căn nhà từ khi mẹ anh chết cho đến nay. Quyết định của Tòa sơ thẩm và Tòa phúc
thẩm đều bác yêu cầu xin chia thừa kế theo di chúc đối với phía bị đơn. Quyết định
của Tòa tối cao là hủy bán án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Tóm tắt quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011.

Nguyên đơn: Anh Dương Văn Đang


Bị đơn: Ông Dương Văn Sáu
Nội dung: Năm 1994, cụ Dương Văn Trượng(ông nội của nguyên đơn) cho Đang đất
thuộc thửa 543. Ngày 1/3/1997, cụ Trượng lập di chúc cho anh Đang 3000m2 đất.
Ngày 7/2/1999 cụ Trượng lại lập di chúc cho anh Đang 2000m2 đất, cho ông Sáu
quyền sử dụng 2542m2 đất. Anh Đang không thừa nhận di chúc của cụ Trượng được
lập vào năm 1999 nên khởi kiện yêu cầu ông Sáu hoàn trả lại cho anh phần đất 1500m2
đang được ông Sáu quản lý. Quyết định của Toàn sơ thẩm và phúc thẩm đều buộc ông
Sáu hoàn trả cho anh Đang phần đất diện tích 1336,8m2. Quyết định của Tòa tối cao là
hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Ngã
Bảy, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

51
Tóm tắt Quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: Ông Bùi Văn Nhiên


Bị đơn: Ông Bùi Văn Mạnh
Nội dung: Vợ chồng cụ Bùi Hữu Môn và cụ Hoàng Thị Giảng có 5 người con là Bùi
Thị My, Bùi Văn Đức, Bùi Văn Nhiên, Bùi Thị Lương và Bùi Văn Mạnh. Ngày
15/5/1998 cụ Môn lập di chúc có chứng thực của UBND xã Đức Thắng nhưng di chúc
này không có chữ ký của cụ. Ngày 8/5/1999 (âm lịch) cụ Giảng chết không để lại di
chúc. Ngày 11/4/2000 cụ Môn thống nhất nội dung di chúc ngày 15/5/1998. Nguyên
đơn là Nhiên trình bày rằng sau khi cụ Môn chết, do nội dung di chúc không rõ ràng
nên ông Mnahj đã lấn chiếm đất của cụ Môn. Nay ông Nhiên yêu cầu chia thừa kế theo
pháp luật với di sản của bố mẹ để lại cho 5 chị em. Quyết định của Tòa sơ thẩm: xác
định di chúc do cụ Bùi Hữu Môn lập ngày 15/5/1998 có hiệu lực một phần về nữa đất
thuộc quyền định đoạt của cụ Môn. Bản di chúc không có hiệu lực pháp luật phần đất
thuộc quyền định đoạt của cụ Giảng và phần đất của cụ Môn cho ông Bùi Văn Đức.
Quyết định của Tòa phúc thẩm: chấp nhận kháng cáo của ông Nhiên, bà My và anh
Cường, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân, sửa bản án sơ thẩm. Quyết
định của Tòa tối cao: hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm theo quy định của
pháp luật.

Tóm tắt Quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Chim


Bà Nguyễn Thị Bay

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Lên


Bà Nguyễn Thị Sáu
Nội dung: Cụ Nguyễn Văn Nhà và cụ Phạm Thị Viết có 5 người con là bà Nguyễn Thị
Bay, bà Nguyễn Thị Lên, bà Nguyễn Thị Chim, bà Nguyễn thị Sáu và ông Nguyễn
Văn Cu. Sau khi cụ Nguyễn Văn nhà chết, bà Sáu và bà Lên có dỡ căn nhà cũ của cụ
Nhà và dựng nhà mới, còn về diện tích đất tại xã Long Thượng hiện do con trai Sáu
quản lý. Bà Chim và bà Bay yêu cầu được chia thừa kế với hai diện tích này và không
52
công nhận tờ di chúc do cụ Nhà lập ngày 26/7/2000. Quyết định của Tòa sơ thẩm:
chấp nhận một phần yêu cầu chia thừa kế của bà Chim và bà Bay. Quyết định của Tòa
phúc thẩm: bác yêu cầu của bà Chim và bà Bay về việc yêu cầu bà Sáu và bà Lên chia
thừa kế quyền sử dụng đất. Quyết định của Tòa tối cao: Hủy bản án sơ thẩm và bản án
phúc thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An xét
xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

3.1. Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc
(về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).
Thực trạng văn bản pháp luật hiện nay, căn cứ Khoản 1 Điều 643 BLDS 2015 có quy
định rằng: “Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế”, theo Khoản 1 Điều 611
BLDS 2015 thì “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp
Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định
tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”. Vì vậy, khi trước khi người lập di chúc chết thì
di chúc sẽ không có hiệu lực pháp luật, không có giá trị ràng buộc bất cứ cá nhân hay
tổ chức nào. Do đó, người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế hay hủy bỏ di
chúc căn cứ tại Khoản 1 Điều 640 BLDS 2015: “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào.”

3.2. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định
(tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc)
không? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, người lập di chúc nếu muốn thay đổi hay hủy bỏ di chúc của
mình thì phải thể hiện việc thay đổi, hủy bỏ đó một cách minh thị. Việc thay đổi, hủy
bỏ di chúc là vì người lập di chúc muốn thay đổi nội dung của di chúc cũ hoặc muốn
đổi mới toàn bộ di chúc. Tuy nhiên, khi di chúc được thay đổi, hủy bỏ một cách minh
thị nhưng người lập di chúc không định đoạt lại tài sản trong một giao dịch khác hoặc
thành lập một bản di chúc mới thì số tài sản đó sẽ được xem là di sản được chia theo
pháp luật khi người này chết. Các yếu tố này được lý giải ở Quyết định 619, khi bà
Lan nhờ cháu Nguyệt Anh (con của chị Thu) để viết đơn xin hủy di chúc. Do đó, cần
chứng minh được nội dung trong đơn đúng với ý chí của bà Lan cũng như việc chứng
minh bà Lan có biết chữ hay không nếu đủ các yếu tố trên thì tờ di chúc này sẽ hủy bỏ
theo quy định của pháp luật.

53
3.3. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?
BLDS 2015 không quy định cụ thể về việc thay đổi, hủy bỏ di chúc phải tuân thủ theo
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ. Vì thế trong thực tiễn xét xử, việc thay
đổi hủy bỏ di chúc không phải tuân thủ theo hình thức của di chúc bị thay đổi, hủy bỏ.

3.4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết
định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.
Đối với Quyết định 619: Căn cứ theo Khoản 1 Điều 640 BLDS 2015: “Người lập di
chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào.”.
Nhưng trong trường hợp này là bà Lan nhờ cháu Nguyệt Anh (con của chị Thu) để viết
đơn xin hủy di chúc. Vì thế, theo em hướng quyết của Tòa án là hợp lý khi yêu cầu
xem xét bản di chúc thừa kế nhà ở của bà Lan có tuân thủ quy định của pháp luật hay
không và làm rõ việc và Lan có mù chữ hay không.

Đối với Quyết định số 767: Căn cứ theo các tình tiết của vụ án, ngày 1/3/1997 cụ
Trượng lập “Tờ ủy quyền để lại thay lời chúc ngôn” để lại tài sản cho anh Đang. Ngày
7/2/1999 cụ Trượng lại lập di chúc nhưng anh Đang không thừa nhận nên cần phải
xem xét, chứng minh tờ di chúc thể hiện đúng ý chí của cụ Trượng hay không. Tuy
nhiên, “Tờ cam kết” đề ngày 7/3/1999 đứng tên cụ Trượng thì chữ ký của cụ tại tờ
giấy này với chữ ký tại tờ di chúc có sự khác nhau. Qua đó, việc Tòa án yêu cầu làm rõ
tờ cam kết có phải do cụ Trượng lập hay không là hoàn toàn hợp lý nhằm mục đích
đảm bảo quyền lợi của người hưởng di sản và thể hiện đúng ý chí của cụ Trượng.

Đối với Quyết định số 194: Về di chúc của cụ Giảng, do cụ không đủ tỉnh táo nên
không ký tên và điểm chỉ vào di chúc. Xét thấy di chúc của cụ Giang không đáp ứng
đủ các điều kiện về mặt hình thức căn cứ theo Điều 633 BLDS 2015 thì “Người lập di
chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.”. Do đó, Tòa án xác định cụ Giang không để
lại di chúc là hợp lý. Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm không căn cứ
theo “Biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn” ngày 11/4/2000 để chia di sản là
chưa hợp lý. Vì vậy, việc xác định tờ di chúc 1998 có hiệu lực đối với phần tài sản của
cụ Môn, đồng thời chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản của cụ Giảng đã ảnh
hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Qua đó theo em, hướng giải quyết của Tòa án
khi nhất trí với nội dung kháng nghị, tức thừa nhận di chúc do ông Môn lập ngày
15/5/1998 có hiệu lực một phần với tài sản của ông là hợp lý.

54
3.5. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có
điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?
Đoạn cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có điều kiện: “Đối
với diện tích 2198m2 (đo thực tế là 1850m2) tại thửa đất số 10 tờ bản đồ số 15 ấp Lộc
Tiền xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An (được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 21/05/2002 đứng tên cụ Ngyễn Văn Nhà: Bà Nguyễn Thị Lên và bà
Nguyễn Thị Sáu xuất trình Tờ di chúc lập ngày 26/07/2000 của cụ Nguyễn Văn Nhà.
Theo văn bản này, cụ Nguyễn Văn Nhà cho bà Nguyễn Thị Sáu và bà Nguyễn Thị Lên
trọn quyền sử dụng phần đất này, đồng thời có trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên
nhưng không được quyền cầm cổ hoặc chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông
Nguyễn Văn Cu khi bị ốm đau, bệnh hoạn hoặc tuổi già. Như vậy, di chúc này thuộc
loại di chúc có điều kiện...”

Điều kiện di chúc này:

-Bà Sáu và bà Lên trọn quyền sử dụng phần đất này


-Bà Sáu và bà Lên có trách nhiệm tờ cúng ông bà tổ tiên nhưng không có quyền cầm
cố hoặc chuyển nhượng
-Bà Sáu và bà Lên phải nuôi dưỡng ông Nguyễn Văn Cu khi bị ốm đau, bệnh hoạn
hoặc tuổi già.

3.6. Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở
Việt Nam?
Pháp luật thừa kế ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có một khái niệm hay định nghĩa cụ
thể quy định “di chúc có điều kiện”.

Tuy nhiên, căn cứ theo:

Điều 624 BLDS 2015 thì:


“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết.”

Điều 626 BLDS 2015 thì:


“Người lập di chúc có quyền sau đây:

1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

55
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”

Điều 630 BLDS 2015 thì:

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
hình thức di chúc không trái quy định của luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập
thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp,
nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm
chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng
thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”

Qua đó, ta có thể thấy pháp luật không có quy định cấm “di chúc có điều kiện” cũng
như không có quy định nào về “di chúc có điều kiện”. Bởi vì, di chúc là sự thể hiện ý
chí của cá nhân lập di chúc và có thể chỉ định quyền thừa kế hay truất quyền thừa kế
của một cá nhân hay một tổ chức trong lúc bản thân người lập di chúc đang trong trạng
thái minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối hay đe dọa và nội dung không trái với điều
cấm của luật hay với đạo đức xã hội. Qua đó, nếu di chúc đáp ứng được các điều kiện
trên về mặt nội dung và hình thức thì các điều kiện được nêu trong di chúc được xem
là hợp pháp.

56
3.7. Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.
Hiện nay chưa có văn bản luật nào quy định về hệ quả khi điều kiện đối với di chúc
không được đáp ứng. Vì thế trên thực tế, khi xảy ra tranh chấp, các Tòa án thường giải
quyết theo suy nghĩ của bản thân dẫn đến tình trạng cảm thấy không thuyết phục của
các đương sự, người có liên quan.

3.8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên luật
hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?).
Bản thân em thấy để có thể tránh tình trạng cảm thấy không thuyết phục của các
đương sự, người có liên quan trong các vụ án thì việc luật hóa “Di chúc có điều kiện”
nên được xem xét vì điều này làm củng cố thêm sự chắc chắn cho pháp luật Việt Nam.
Đồng thời, sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội về “Di chúc có điều kiện”.

Nếu việc luật hóa “Di chúc có điều kiện” thì cần luật hóa những nội dung sau để đảm
bảo tính hợp pháp của di chúc.
-Nêu rõ khái niệm và phạm vi của “Điều kiện”, “Điều kiện” như nào là được pháp luật
chấp thuận

-Khả năng thực hiện “Điều kiện” của người được hưởng “Di chúc có điều kiện”.

-Người xem xét việc đáp ứng “Điều kiện” của người được hưởng “Di chúc có điều
kiện”.

-Thời hạn của “Điều kiện”.

-Trường hợp người được hưởng “Di chúc có điều kiện” không đáp ứng được “Điều
kiện” thì phần di sản đó được chia như thế nào?

BÀI TẬP 4
Tóm tắt Án lệ số 24/2018/AL
- Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-GĐT ngày 16-10-2015 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị H, bà Phạm
Thị H1, bà Phạm Thị H2 với bị đơn là ông Phạm Văn H3; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan gồm 12 người.

57
- Tình huống án lệ: Nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng mà một người chết trước.
Người còn lại và các thừa kế của người chết trước đã thống nhất phân chia nhà, đất.
Thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào.
Việc phân chia nhà, đất đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ
sách giấy tờ về đất đai. Sau khi người còn lại chết mới phát sinh tranh chấp.
- Nội dung vụ án:
+ Nguyên đơn: bà Phạm Thị H, Phạm Thị H1, Phạm Thị H2
+ Bị đơn: ông Phạm Văn H3
+ Cụ Phạm Văn H (chết năm 1978) và cụ Ngô Thị V (chết năm 1994) có bảy người
con. Năm 1991, cụ V đứng ra chia mảnh đất trên cho bảy con, bốn con trai mỗi người
1 phần, còn 1 phần chia chung cho ba con gái (bà H, H1 và H2). Thời điểm này các bà
đang ở miền Nam nên ông H3 trông nom cả phần đất các bà được cụ V chia và đất của
ông được chia. Năm 2002, khi các bà về sang cát cho mẹ, ông H3 vẫn đồng ý khi nào
các bà đủ điều kiện thì về nhận đất xây nhà ở. Nhưng đến năm 2004, khi ba chị em có
nhu cầu xây dựng nhà trên đất này thì ông H3 lại không thừa nhận là đất của ba chị em
và ông đã chia đất cho con của ông là anh Phạm Văn L và chị Phạm Thị T, không trả
đất cho các bà.
- Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, phải xác định nhà, đất đó đã chuyển thành quyền
sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân. Những người này chỉ có quyền khởi
kiện đòi lại nhà, đất được chia đang bị người khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp
mà không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.
4.1. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân
chia di sản?
- Trong Án lệ số 24/2018/AL, ở phần “Nhận định của Tòa án” có ghi :
“….Sau khi về, cụ đã họp các con và đứng ra phân chia toàn bộ thửa đất thành bốn
phần riêng biệt cho các con, không ai có ý kiến gì và đều thống nhất thực hiện việc
phân chia này. Như vậy, việc ông T, ông H3 đồng ý cùng với cụ V chia 464m2 đất đã
thể hiện việc ông T, ông H3 chỉ là người đứng tên trong giấy tờ sổ sách giấy tờ về địa
chính, nhà đất vẫn là của cụ V, cụ H chưa chia. Ông H3 cũng không đưa ra được
chứng cứ chứng minh 162m2 là tài sản riêng của ông.”.
“….Thực tế thời điểm cụ V chia đất, các con đều đã trưởng thành, một số có gia đình
riêng có nhu cầu về đất ở, riêng ông H3 đã có nhà đất; bà H, bà H1 và bà H2 đang ở

58
Bình Phước nên bốn người này chưa có nhu cầu xây dựng nhà ở. Ông T thừa nhận
việc cụ V chia đất, tất cả các con đều đồng ý…”
4.2. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di
sản đã được Tòa án chấp nhận
- Trong Án lệ số 24/2018/AL, ở phần “Nhận định của Tòa án” có ghi :
“[4] Với các chứng cứ trên, đủ cơ sở xác định nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V
và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ
cơ sở xác định phần đất 110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc
phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về
đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không
ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ
H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà
H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp
pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ không còn nên
không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa.
[5] Đơn khởi kiện ban đầu và các lời khai trước khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ
án vào năm 2010, các nguyên đơn chỉ đòi lại 44,4m2 đất này. Nhưng sau khi thụ lý sơ
thẩm lại vụ án, các nguyên đơn lại thay đổi lời khai, yêu cầu chia di sản thừa kế phần
110m2 đất là tài sản của cha, mẹ để lại đang do ông H3 quản lý, là không có cơ sở
chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ lời khai đương sự về việc thay đổi yêu
cầu khởi kiện này, quyết định chấp nhận yêu cầu chia thừa kế 110m2 đất; Tòa án cấp
phúc thẩm giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, đều không có cơ sở.”
4.3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản
trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và
về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản.
- Mối quan hệ về hình thức và về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản:
+ Về mặt nội dung: Cụ H (chết năm 1978) và cụ V (chết năm 1994) có 7 người con
chung. Trước khi cụ V mất thì cụ V đã họp các con lại (đều đã trưởng thành) và đứng
ra phân chia toàn bộ thửa đất thành bốn phần riêng biệt cho các con, không ai có ý
kiến gì và đều thống nhất thực hiện việc phân chia này. Vì vậy, theo Án lệ số
24/2018/AL thì chủ thể tham gia thì quyền lợi của những người thừa kế này đều được
đảm bảo và án lệ cũng đã khẳng định không có ai tranh chấp. Vậy xét về mặt nội dung,
thỏa thuận này đáp ứng các yêu cầu về chủ thể, Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia
di sản trên là hợp lý.
59
+ Về hình thức: Việc phân chia di sản ở đây không được lập bằng văn bản cũng không
được công chứng, chứng thực mặc dù di sản ở đây là nhà và đất. Theo án lệ số
24/2018/AL cho thấy thỏa thuận phân chia di sản có thể được xác định qua các sự kiện
cụ thể và không nhất thiết việc xác định phải thông qua chứng cứ văn bản. Hướng mà
Tòa án chấp nhận phân chia di sản ở Án lệ trên là thuyết phục vì thỏa thuận là sự thống
nhất ý chí và sự thống nhất ý chí này được thể hiện qua nhiều cách thức khác nhau nên
tùy vào hoàn cảnh,thỏa thuận đó sẽ được quy định. Vì vậy, ở góc độ hình thức thì theo
nhóm em là hợp lý.
 Theo nhóm em, việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản trên hoàn toàn
thuyết phục vì khi phân chia di sản các con ai cũng đủ trưởng thành để ra quyết định
của riêng mình, trong quá trình phân chia di sản trong tất cả các con ai cũng đồng ý và
không có ai ý kiến gì và đều thống nhất thực hiện phân chia này.
4.4. Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản
Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản là:
1. Chủ sở hữu: Người sở hữu di sản là người đã chết, còn người sở hữu tài sản là người
còn sống.
2. Nguyên nhân tranh chấp: Tranh chấp di sản thường phát sinh khi một người thừa kế
cảm thấy bị ảnh hưởng đến quyền lợi bởi một người thừa kế khác. Còn tranh chấp tài
sản thường phát sinh khi do từ mong muốn có được đối với tài sản đó mà quyền lợi
không bị ảnh hưởng bởi người cùng tranh chấp.
Nhìn chung, tranh chấp di sản thừa kế bao gồm tranh chấp buộc người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản hoặc
theo yêu cầu chia di sản thừa kế (theo di chúc hoặc theo pháp luật), xác nhận quyền
thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Còn tài sản đang tranh
chấp (tài sản là đối tượng của tranh chấp) là tài sản đang có hai hay nhiều người cùng
xác nhận quyền của mình đối với tài sản đó và phủ định quyền của người kia đối với
tài sản mà tài sản đó hiện không rõ thuộc về người nào. Đó có thể là tranh chấp về
quyền sở hữu đối với tài sản hoặc là tranh chấp về chia di sản thừa kế, tranh chấp về
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tranh chấp về chia tài sản chung của vợ
chồng…

60
4.5. Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa
thuận trên là tranh chấp về di sản và tranh chấp về tài sản
Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận trên là
tranh chấp về tài sản. Vì về phần đất tranh chấp, cả ông H3 và các bà H, H1, H2 cùng
xác nhận quyền của mình đối với tài sản. Đồng thời cụ V chia cho các con phần tài sản
của mình vào năm 1991 và cụ V chỉ mất năm 1994 nên, ở thời điểm cụ C chia cho các
con, phần tài sản của cụ C không là di sản. Nói cách khác, việc tranh chấp tài sản trong
Án lệ 24 về phần của cụ V không là tranh chấp về di sản, đồng nghĩa với việc đây là
tranh chấp về tài sản.
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Án lệ số 24/2018/AL.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lệ số 24/2018/AL là hợp lý,
thuyết phục. Việc phân chia đất trong diễn biến thừa kế đã diễn ra trên thực tế và
không có ai phản đối, tất cả đều đã đồng ý về quy trình phân chia. Do đó, việc phân
chia tài sản thừa kế có thể được coi là đã hoàn thành và tài sản đã được phân chia theo
quyền sở hữu của từng cá nhân nhận thừa kế. Tuy nhiên, xuất hiện một tranh chấp giữa
người quản lý tài sản, ông H3, và các bà H, H1, H2 về việc ông H3 đã chuyển nhượng
một phần đất đang quản lý của họ cho các con của mình. Dựa trên các chứng cứ có
sẵn, có căn cứ cho rằng trong diện tích 110m2 mà ông H3 đang quản lý, có một phần
diện tích là 44,4m2 thuộc về các bà H, H1, H2. Do đó, ông H3 đã chiếm đoạt tài sản
mà không có căn cứ pháp lý. Vì vậy, các bà H, H1, H2 có quyền khởi kiện yêu cầu trả
lại phần đất 44,4m2 mà ông H3 đã chiếm đoạt, vì đó là một yêu cầu hợp lý và công
bằng.

BÀI TẬP 5
Tóm tắt án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao

Nguyên đơn: Bà nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân.


Bị đơn: Ông Nguyễn Trí Trải, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, bà Nguyễn Thị Bích
Đào.
Nội dung: Vợ chồng cụ Hưng (chết năm 1978) và cụ Ngự (chết năm 1992) có 6
người con là bà Xê, ông Trải, bà Xuân, bà Thưởng, bà Trinh, ông Trai. Hai ông bà
chết không để lại di chúc. Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, phường 4, Quận 5
hiện do chị Phượng quản lý. Năm 2008, bà Xuân bà Thưởng khởi kiện yêu cầu chia

61
thừa kế di sản của 2 cụ để lại, và xin được nhận nhà, hoàn lại tiền cho các thừa kế
khác. Nhưng chị Phượng không đồng ý vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu
chia thừa kế và tuy không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự nhưng chị
có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa nhà. Chị Phượng không yêu cầu xem xét
công sức nhưng chị đề nghị xác định quyền lợi. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa
xem xét công sức cho chị Phượng là chưa giải quyết triệt để yêu cầu đượng sự.
Căn cứ theo Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH và Nghị quyết số 02/2004/NQ-
HĐTP, Toà xác định thời hạn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đối với di sản của
cụ Hưng và cụ Ngự vẫn còn, theo đó di sản của hai cụ sẽ được chia theo pháp luật.
5.1 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?
Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa
kế của cụ Hưng là thuyết phục. Vì ông Trải thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng
theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
chađẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.

5.2 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục
không? Vì sao?
Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ
Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư không thuyết phục. Vì đó là tài
sản mà ông Trải được thừa kế từ cụ Hưng, do ông Trải là con ruột còn bà Tư chỉ là con
dâu.
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Điều 43 khoản 1 quy định: “Tài sản
riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa
kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ,
chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu
thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu
riêng của vợ, chồng”.
5.3 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công
sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?
Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức
quản lý di sản là thuyết phục. Vì từ năm 1982, chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà
đất này, chị Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất và đã có công sức quản lý,

62
đã chi tiền sửa chữa nhà. Theo quy định tại khoản 1 Điều 618 BLDS 2015 về quyền
của người quản lý di sản:
“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có
quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di
sản thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.”
Đây cũng là lợi ích, quyền hạn của chị Phượng dù chị không yêu cầu xem
xét công sức quản lí di sản nhưng Tòa án vẫn phải xem xét công sức cho người
có quyền và lợi ích liên quan để đảm bảo tính triệt để của các vấn đề của
đương sự.

63
64

You might also like