Professional Documents
Culture Documents
PDF Tu Chat Nghe Si Nguon Thekivn - Compress
PDF Tu Chat Nghe Si Nguon Thekivn - Compress
Ðối tượng quan sát của nhà văn không chỉ là hiện thực khách quan bên ngoài nhà văn, mà
có một phương diện không kém phần quan trọng là chính bản thân nhà văn. Ðể có cơ sở
cho sự quan sát hiện thực bên ngoài, trước hết, nhà văn phải tự quan sát bản thân mình, là
sự thể hiện mình. Thơ trữ tình, văn tự truyện là nơi bộc lộ tự quan sát của người sáng tác rõ
nhất. nhưng yếu tố tự truyện còn bộc lộ khá rõ trong phương pháp sáng tác của nhà văn. Ví
dụ, Dickens với Ðêvit copơphin, Rousseau khẳng định nhân vật của ông là bản sao của chính
đời ông và Ibsen khẳng định: Sáng tác, có nghĩa là tiến hành một cuộc xét xử không giả dối
về chính mình.
Tự quan sát là tự phân tích, mổ xẻ mình đồng thời đây là con đường tự mình đến với người,
từ tự quan sát đến quan sát, từ cây mà thấy rừng. Muốn hiểu người khác, trước hết phải
hiểu mình, từ chỗ hiểu mình mà nhà văn đi đến hiểu người.
3. Người nghệ sĩ cần có trí tưởng tượng phông phú.
Trí tưởng tượng sáng tạo là dấu hiệu quan trọng nhất của tài ba nghệ thuật, là một trong
những sức mạnh chủ yếu của quá trình sáng tạo.
Mặc dầu vậy, năng lực tưởng tượng không phải là vương quốc riêng của người nghệ sĩ. Năng
lực tưởng tượng tồn tại trong mọi con người. Theo Lénine thì tưởng tượng là phẩm chất có
giá trị vĩ đại nhất. Trong Bút ký triết học, Lénine viết: Trong sự khái quát dù dơn giản nhất,
trong một ý niệm dù sơ đẳng nhất cũng đều có một mẫu nhất định của trí tưởng tượng.
Như thế, trí tưởng tượng sáng tạo tồn tại trong mỗi con người từ người bình thường cho đến
nhà khoa học. Tại đại hội lần thứ IX của Ðảng cộng sản Liên Xô, Lénine khẳng định: Thật là
sai lầm khi nghĩ rằng tưởng tượng chỉ cần cho nhà thơ. đấy là một định kiến ngu xuẩn. Ngay
trong toán học, tưởng tượng cũng cần thiết, nếu không có tưởng tượng thì ngay sự phát
minh ra các phép tính vi phân và tích phân cũng không thể có được. Tưởng tượng là ước
đoán, là mơ ước, là đoán định, là vượt lên phía trước, không có tưởng tượng con người ta
không sáng tạo ra được gì hết, và do đó, con người ta sẽ không tồn tại và phát triển được.
Tuy vậy, đối với sáng tạo nghệ thuật, tưởng tượng (hay sức hình dung) là đặc biệt quan
trọng. Gorky coi sức tưởng tượng như là một trong những biện pháp quan trọng nhất của kỹ
thuật xây dựng hình tượng.
tượng. Viatsexla
Viatsexlap
p siskov viết: Nếu không
không có tưởng tượng thì không
không có
nghệ thuật.
là óc tưởn
tưởng Metvedev
g tượng xây viết:
dựng, Ðặc diểm
sáng tạocơvớibản
tư nhất, dấu
cách là hiệulực
năng chủtích
yếucực
củaliên
hoạt
hợpđộng sángquát
và khái tạo
hóa các khái niệm và các hình ảnh của những hồi ức vốn là hồi quang của thực tại khách
quan và thực tiễn xã hội của người nghệ sĩ.
Không có tưởng tượng thì không thể xây dựng được hình tượng. Từ dòng thác của những
cảm xúc những điều quan sát về hiện thực, trí tưởng tượng vẽ nên những hình tượng có
tượng có tính sáng tạo của hư cấu. Nhờ trí tưởng tượng sáng tạo mà hình tượng nghệ thuật
hư cấu trở nên đúng hơn và trung thực hơn cả sự thật cuộc sống.
Nếu không có trí tưởng tượng, nghệ thuật sẽ trở thành sao chép tự nhiên, sao chép cuộc
sống một cách máy móc vụn vặt, hời hợt là tẻ nhạt, chụp ảnh những biểu hiện bề ngoài của
hiện thực. Flaubert thực hiện những cuộc du lịch vòng quanh trái đất mà vẫn không bước ra
khỏi căn phòng của mình và để xây dựng các kế hoạch – nghĩ ra các cảnh tưởng bằng cách
làm cho Tâm hồn chìm đắm vào tưởng tượng.
Chính Flaubert phải hóa thân vào nhân vật để sáng tạo: Thật là một điều kỳ diệu, viết, không
phải là sống thu hẹp lại trong bản thân mình mà phải quay trở về với toàn bộ cuộc sống mà
mình nói đến. Chẳng hạn hôm nay tôi vừa là đàn ông lại vừa là đàn bà, kiêm cả đôi trai gái
yêu nhau cưỡ ngựa dạo quanh trong rừng, giữa buổi trưa mùa thu, dưới lá vàng giữa heo
may, vang rộn tiếng cười và ánh mặt trời đỏ tía, làm những đôi mắt say sưa vì yêu đương
phải nhắm lại, và Cứ từng phút từng giây tôi đặt mình vào địa vị của những người mà tôi ác
cảm, tôi phải hết sức cố gắng mới hình dung nổi các nhân vật của mình và nói thay cho họ,
khốn nổi họ lại làm cho tôi ghê tởm một cách sâu sắc. Balzac tưởng tượng
tượng về những người
dưới đáy xã hội đến mức: cảm thấy trên lưng mình có những quần áo rách nát, còn dưới
chân thì có những đôi giày há mõm, thủng lỗ của những con người nghèo đói mà tác giả
đang viết về họ.
4. Người nghệ sĩ cần có cảm hứng sáng tạo mãnh liệt.
Bằng những
những tình cảm mãnh liệt trước nhữn
nhữngg điều quan sát được từ cuộc sống và trí tưởng
tượng, nhà văn, trong quá trình sáng tác thường có sự căng thẳng tối đa của ý chí, sự trào
dâng của mọi năng lực sáng tạo. Trạng thái sẵn sàng tạo lớn nhất này của nhà văn được gọi
là cảm hứng.
Trong những giờ phút có cảm hứng, quá trình sáng tạo của nhà văn diễn ra với cường độ
mạnh
Người nhất và hiệu
ta quên quảthứ,
hết mọi caongười
nhất. ta
Chaikovski
Chaikov ski điên,
như hóa nói vềngười
trạngtathái
nhưcủa
hóamình
điên,khi
tấtcảm
cả ởhứng đến:
bên trong
đều rung chuyển, chưa kịp bắt đầu ghi phác thì ý này sẽ chuyển sang ý khác. Balzac cũng tự
nhận rằng: “Chưa bao giờ dòng thác lại cuốn tôi đi một cách nhanh chóng như vậy”. Puskin
viết: “Các dòng thơ cứ vang lên, tuôn ra”. Lermontov nói: “Các vần thơ cứ nhịp nhàng đến, chẳng
khác nào các làn sống cứ kế tiếp nhau” . Nguyễn Công Hoan, viết “ Bước đường cùng” trong
một tuần lễ, nhưng Xuân Diệu, có lúc viết một câu thơ đến 20 năm.
Như vậy, cảm hứng không phải là một trạng thái thường trực trong con người nghệ sĩ.
Những nhà mĩ học duy tâm (Platon chẳng hạn) xem cảm hứng là cuồnghứng xâm nhập –
một thứ cuồng loạn trong nghệ thuật. Nhiều nhà sáng tác cũng có lời giải thích tương tự.
Gogol cho rằng: Có một sưc mạnh vô hình nào đấyviết trước mặt tôi bằng chiếc gậy thần
quyền lực. Chateaubriand cho rằng cảm hứng là sức mạnh huyền bí của thế giới.
Nekrasov kêu gọi: “Hỡi nàng thơ, hãy đem đến cho ta thần hứng” . Cảm hứng thường
thường đến đột
ngột, khiến cho người ta tưởng thần hứng xâm nhập, nhưng thực chất, nó là một hành động
của tư duy. Nó đến đột ngột, nhưng không phải là một lực lượng siêu hình từ bên ngoài
nhập vào nhà thơ. Thực chất, cảm hứng chỉ là sự kết tinh của quá trình tích lũy, quá trình
chuẩn bị, là quá trình làm việc căng thẳng của tư duy và óc tưởng tượng.
Vì vậy, sáng tác không có nghĩa là ngồi chờ giây phút cảm hứng, mà là một quá trình lao
động kiên trì bền bỉ. Chính Turgenev đã khẳng định: Ở đây không có gì để mà chờ đợi cái gọi
là những giây phút cảm hứng cả, nó đến càng tốt còn dù sao anh vẫn cứ làm việc đi đã.
Tài năng sáng tạo không chỉ là sáng tạo có cảm hứng mà là năng lực lao động hằng ngày
căng thẳng, có hệ thống, vất vả, nặng nhọc. Goethe đã thừa nhận: Người ta luôn coi tôi là
6. Người
Trí nhớ tốtnghệ
là cầnsĩ thiết
cần có
chomọt trímọi
tất cả nhớngười
tốt. và là phẩm chất quan trọng cho những người
hoạt động trên lĩnh vực tinh thần nói chung: các nhà khoa học và nghệ thuật. Nhưng nếu
như đối với các nhà khoa học có trí nhớ tốt là người có khả năng ghi giữ lâu bền những số
liệu, những kết luận, những công thức định lí, định luật v.v… nói chung là những tri thức khái
quát trừu tượng thì, đối với nhà văn, trí nhớ tốt là khả năng ghi giữ lâu bền những ấn tượng,
những hình ảnh, những chi tiết … những hiện thực đời sống do mình đã kinh qua.
Trí nhớ của nhà văn là một cái kho chứa giữ những ấn tượng về thế giới của anh ta, đó là kho
vật liệu để từ đó nhà văn cơ cấu nên tác phẩm nghệ thuật. Những nhà văn lớn thường là
những nhà văn có trí nhớ tốt. Balzac nhớ rõ họ tên 2000 nhân vật do ông sáng tác và hình
dung được một cách rõ ràng đậm nét những sự vật và con người như đang chứng kiến.
Xtandal đã tự nhận: “Chỉ nhớ lại mà thôi, tôi viết dễ dàng và thoả
thoảii mái” . Nekrascov có một trí
nhớ rất kỳ lạ. Ông ghi lại cả một câu chuyện chỉ bằng một từ thôi và dựa vào từ ấy ông nhớ
lại câu chuyện suốt đời. Pautovski khẳng định: Một trong những điều kiện của việc làm văn
là trí nhớ tốt.
Tác phẩm nghệ thuật là kho tàng kinh nghiệm sống của nhà văn, nó chẳng qua là những hồi
tưởng của cái quá khứ đã diễn ra. Một nhà văn có trí nhớ tốt, trước hết, là nhớ lâu và nhớ dai
những điều tai nghe mắt thấy. Ðồng thời, trí nhớ đó có chọn lọc, tức là nhớ những cái gì
đáng nhớ và để cho những cái được chọn lọc trở nên thuần khiết. Gorki đã nói : “Sáng tác
chính là hoạt động của trí nhớ căng thẳng tới mức sự nhanh chóng của hoạt động này rút từ cái
vốn trí thức ấn tượng ra những sự việc, những cảnh, những tình tiết nổi bật và tiêu biểu nhất” .
đó ở chẳng
triển từng nhà
hạnvăn
nhưlàtríkhông
nhớ. đồng đều, thậm chí có những nhà văn lớn có tư chất kém phát