GDTC I

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

LÝ THUYẾT CHUNG

Thể dục thể thao (TDTT) là một hiện tượng của đời sống xã hội, một bộ phận
của nền văn hóa và giáo dục quốc dân, nó xuất hiện và phát triển cùng với xã hội
loài người và tuân thủ những quy luật vừa mang tính tự nhiên vừa mang bản chất
xã hội. Vì thế, muốn nghiên cứu nó trước hết chúng ta cần tìm hiểu một số khái
niệm cơ bản thuộc lĩnh vực này.
I. Một số khái niệm cơ bản
Việc xác định đúng đắn và hiểu biết chính xác một số khái niệm cơ bản sẽ tạo
cơ sở để giải thích và xác định đầy đủ tất cả các khái niệm khác có liên quan đến
đối tượng và nội dung của TDTT.
Một số khái niệm cơ bản trong lĩnh vực TDTT gồm có:
- Văn hóa thể chất.
- Giáo dục thể chất.
- Thể thao.
- Phát triển thể chất.
- Hoàn thiện thể chất.
1. Văn hóa thể chất
Văn hóa thể chất là bộ phận của nền văn hóa chung của nhân loại, là tổng
hợp các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội, được sáng tạo nên và sử dụng hợp
lí nhằm hoàn thiện thể chất cho con người.
- Giá trị vật chất: công trình TDTT phục vụ cho tập luyện, thiết bị dụng cụ
chuyên môn, tài chính, trình độ hoàn thiện thể chất và thành tích của con người
(bao gồm cả thành tích thể thao của họ).
- Giá trị tinh thần: thành tựu xã hội, chính trị, khoa học chuyên môn và thực
tiễn đảm bảo tính chất tiến bộ về tư tưởng, khoa học kĩ thuật, về tổ chức trong lĩnh
vực này.
Sự phát triển và sáng tạo không ngừng của giá trị vật chất và tinh thần ấy
không thể tách rời khỏi các hình thái kinh tế và chính trị của xã hội. Nhưng điều đó
không làm mất tính độc lập tương đối của VHTC.
Như vậy, VHTC là một hiện tượng xã hội đặc thù, tác động hợp lí tới quá
trình phát triển thể chất con người.
2. Giáo dục thể chất (GDTC)
Giáo dục thể chất là một quá trình giáo dục mà đặc trưng của nó thể hiện ở
việc giảng dạy các động tác và giáo dục (điều khiển sự phát triển) các tố chất thể
lực của con người.
Trong quá trình GDTC, hình thái và chức năng các cơ quan trong cơ thể được
từng bước hoàn thiện, hình thành và phát triển các tố chất thể lực, kĩ năng, kĩ xảo
vận động và hệ thống tri thức chuyên môn. GDTC có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hoàn thiện năng lực vận động của con người.
Giáo dục thể chất là bộ phận hợp thành của VHTC, GDTC gồm 3 khuynh
hướng cơ bản của một quá trình Sư phạm:
 Chuẩn bị thể lực chung.
 Chuẩn bị thể lực nghề nghiệp.
1
 Huấn luyện thể thao (huấn luyện cơ sở và thể thao nâng cao).
Như vậy, thể thao là một bộ phận cấu thành của văn hóa thể chất, một mặt
quan trọng của quá trình sư phạm. Thể thao còn là một bộ phận của GDTC (giai
đoạn huấn luyện cơ sở).
- Chuẩn bị thể lực chung: là một quá trình giáo dục thể chất không chuyên
môn hóa (hoặc chuyên môn hóa ít). Nội dung quá trình này là tạo tiền đề chung, rộng
rãi để đạt kết quả trong các loại hoạt động khác nhau của cuộc sống.
- Chuẩn bị thể lực nghề nghiệp: là một quá trình GDTC được chuyên môn
hóa mang tính chuyên biệt đối với một loại hoạt động nào đó. (phi công, cứu hỏa,
công an, công nhân, thể thao, …) .
3. Thể thao
Xét về mặt lịch sử, khái niệm thể thao ra đời muộn hơn GDTC. Trong thời kì
cổ sơ, thể dục được coi là một biện pháp rất có hiệu quả để rèn luyện thân thể, phát
triển toàn diện con người nói chung và cho quân đội nói riêng. Nhưng dần dần qua
thực tế người ta thấy cần phải kiểm tra, đánh giá kết quả của việc rèn luyện thể lực,
cũng như các phẩm chất ý chí, dũng cảm mưu trí… Vì thế mà các hình thức “đọ
sức”, “đua tài”, “thi đấu” ra đời, đó là thể thao.
Thể thao là bộ phận hữu cơ của VHTC, là toàn bộ giá trị và vật chất tinh thần
do xã hội sáng tạo nên và được sử dụng hoạt động vui chơi giải trí, chủ yếu của nó
là thể lực.
Đặc trưng của thể thao là hoạt động thi đấu. Thể thao đảm bảo sự phát triển
có tính chuyên môn hóa các năng lực, các kĩ năng - kĩ xảo vận động và tâm lí của
con người ở mức cao nhất.
Trong xã hội, thể thao được coi như một yếu tố có ý nghĩa giáo dục lớn lao.
Thể thao được phân ra: thể thao thành tích cao và thể thao quần chúng.
- Thể thao thành tích cao: là việc sắp xếp một cách hệ thống các bài tập, chu
kì huấn luyện, phương tiện hướng dẫn, và các cuộc thi đấu với mục tiêu nhằm giải
quyết nhiệm vụ nâng cao tối đa thành tích thể thao.
- Thể thao quần chúng: là các bài tập về một số môn thể thao theo hướng
tích cực về mở rộng phạm vi số lượng người tập, gồm những bài tập thể chất dưới
các hình thức đa dạng (thể dục thể hình, điền kinh nhẹ, bơi, du lịch, các bài tập
theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể…) với mục đích nghỉ ngơi tích cực, loại trừ sự
căng thẳng thần kinh, củng cố sức khỏe, nâng cao khả năng làm việc và đạt được
sự hoàn thiện thể chất trên cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và đẳng cấp VĐV.
4. Phát triển thể chất
GDTC được tiến hành có hệ thống qua các giai đoạn cơ bản của sự phát triển
cơ thể của mỗi người thì nó đóng vai trò là một trong các nhân tố quyết định quá
trình phát triển thể chất của người đó.
Sự phát triển thể chất của con người là quá trình hình thành và biến đổi có
quy luật các thuộc tính về hình thái, chức năng tự nhiên của cơ thể dưới ảnh hưởng
của điều kiện sống, trong đó có GDTC. Quá trình này phụ thuộc không những vào
các quy luật về sinh học, mà còn cả các quy luật về cuộc sống xã hội, trong đó giáo
dục luôn luôn giữ vai trò chủ đạo.

2
Các tiêu chí về mặt số lượng của phát triển thể chất, gồm: những thay đổi
các kích thước và trọng lượng cơ thể. Còn đặc điểm của phát triển thể chất về
mặt chất lượng thể hiện: sự biến đổi cơ bản các khả năng chức phận của cơ thể
theo các thời kì và các giai đoạn phát triển lứa tuổi; sự biến đổi này thể hiện: các
phẩm chất thể lực riêng lẻ và trình độ chung về năng lực hoạt động thể lực.
Các khả năng điều khiển có mục đích cho sự phát triển thể chất hoàn toàn có
thể thực hiện được trong quá trình GDTC.
5. Hoàn thiện thể chất
Khái niệm hoàn thiện thể chất là phát triển thể chất lên một trình độ cao nhằm
đáp ứng một cách hợp lí các nhu cầu của hoạt động lao động, xã hội, chiến đấu và
kéo dài tuổi thọ con người.
Các chỉ tiêu đặc trưng của quá trình hoàn thiện thể chất được xác định bởi
những nhu cầu và điều kiện sống xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử khác
nhau. Vì vậy có sự biến đổi thường xuyên phù hợp với mức độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội.
II. Vai trò của TDTT trong trường học
Giáo dục thể chất là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà
nước ta, và nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDTC được hiểu là: “Quá trình
sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách,
nâng cao khả năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ của con người”.
Giáo dục thể chất là một lĩnh vực TDTT xã hội với nhiệm vụ là: “Phát triển
toàn diện các tố chất thể lực, và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể chất, bảo
đảm hoàn thiện thể hình, củng cố sức khoẻ, hình thành theo hệ thống và tiến hành
hoàn thiện đến mức cần thiết các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng cho cuộc sống”.
Đồng thời chương trình GDTC trong các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học
chuyên nghiệp nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đó là: “Trang bị kiến thức,
kỹ năng và rèn luyện thể lực cho học sinh sinh viên”.
Nội dung chương trình GDTC trong các trường Đại học, Cao đẳng và Trung
học chuyên nghiệp được tiến hành trong cả quá trình học tập của sinh viên trong
nhà trường bằng các hình thức:
1. Giờ học TDTT chính khoá:
Là hình thức cơ bản nhất của GDTC được tiến hành trong kế hoạch học tập
của nhà trường. Vì việc đào tạo cơ bản về thể chất, thể thao cho học sinh sinh viên
là nhiệm vụ cần thiết, nên trước hết phải có nội dung thích hợp để phát triển các tố
chất thể lực và phối hợp vận động cho học sinh sinh viên. Đồng thời, giúp các em
có trình độ nhất định để tiếp thu được các kỹ thuật động tác TDTT.
Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao trong
trường học là: “Xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong thể chất và
thể thao của học sinh sinh viên, phát triển các tố chất thể lực, phát triển năng lực
tâm lý, tạo ý thức tập luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức tính cơ bản và
lòng nhân đạo cho học sinh”.
Bản thân giờ học TDTT có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt đối với việc quản
lý và giáo dục con người trong xã hội. Việc học tập các bài tập thể dục, các kỹ

3
thuật động tác là điều kiện cần thiết để con người phát triển cơ thể một cách hài
hòa, bảo vệ và củng cố sức khoẻ, hình thành năng lực chung và chuyên môn.
2. Giờ học ngoại khoá - tự tập:
Là nhu cầu và ham thích trong khi nhàn rỗi của 1 bộ phận học sinh sinh viên
với mục đích và nhiệm vụ là góp phần phát triển năng lực, thể chất một cách toàn
diện, đồng thời góp phần nâng cao thành tích thể thao của học sinh sinh viên.
Giờ học ngoại khoá nhằm củng cố và hoàn thiện các bài học chính khoá và
được tiến hành vào giờ tự học của học sinh sinh viên, hay dưới sự hướng dẫn của
giáo viên TDTT, HLV, hướng dẫn viên.
Ngoài ra còn các hoạt động thể thao quần chúng ngoài giờ học bao gồm:
luyện tập trong các câu lạc bộ, các giải thi đấu trong và ngoài trường được tổ chức
hàng năm, các bài tập thể dục vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, cũng như giờ tự
luyện tập của học sinh sinh viên, phong trào tự tập luyện rèn luyện thân thể.
Hoạt động ngoại khoá với chức năng là động viên lôi kéo nhiều người tham
gia tập luyện các môn thể thao yêu thích, góp phần nâng cao sức khoẻ phục vụ học
tập và sinh hoạt.
Tác dụng của GDTC và các hình thức sử dụng TDTT có chủ đích áp dụng
trong các trường học là toàn diện, là phương tiện để hợp lý hoá chế độ hoạt động,
nghỉ ngơi tích cực, giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động, học tập của học sinh
sinh viên trong suốt thời kỳ học tập trong nhà trường, cũng như đảm bảo chuẩn bị
thể lực chung và chuẩn bị thể lực chuyên môn phù hợp với những điều kiện của
nghề nghiệp trong tương lai.

4
BẢN CHẤT CỦA THỂ DỤC THỂ THAO
I. Thể dục thể thao là một hiện tượng của đời sống xã hội
1. Nguyên nhân xuất hiện và sự phát triển của TDTT
Cũng như giáo dục nói chung, TDTT xuất hiện cùng với xã hội và phát triển
tuân theo các quy luật phát triển của xã hội loài người. Về vấn đề này, có nhiều
quan điểm khác nhau.
Các nhà lí luận duy tâm cho rằng: GDTC là bản tính hay yêu cầu bản năng
của con người giống như các sinh vật khác, hầu như TDTT mang tính chất bẩm
sinh cũng tương tự như sự giáo dục bắt chước của loài vật vậy, như: đi, chạy, nhảy,

Với sự lập luận này, trên thực tế họ đã phủ nhận vai trò của lao động và tư
duy - một hiện tượng mới về chất đã làm cho con người vượt hẳn lên trên tất cả các
loài vật. Và như vậy họ đã xuyên tạc mối quan hệ khắng khít giữa xã hội và giáo
dục, xuyên tạc cả nội dung giáo dục nữa.
Vậy thì TDTT được hình thành và phát triển như thế nào?
a. Xét về mặt khách quan
Trong thời kì cổ sơ, con người đã sống thành từng bầy, sinh hoạt, lao động tập
thể kiếm ăn và chống chọi với thiên nhiên, dã thú.
Trong một giai đoạn lịch sử lâu dài, phương thức sống bằng săn bắt, hái lượm
là một cuộc “đọ sức”, “thi đấu” giữa người với thiên nhiên, với thú rừng về sức
mạnh, sức nhanh, sức bền, sự khéo léo và cả ý chí để tồn tại, phát triển và bảo vệ
chính bản thân mình.
Chính cuộc sống đó đã thúc đẩy mạnh mẽ mọi hoạt động cơ bản của con
người, đem lại cho họ những hiểu biết về thế giới xung quanh. Ngay việc sản xuất
và sử dụng công cụ lao động cũng đòi hỏi con người có thể lực. Đồng thời, qua
chính cuộc sống đó, năng lực phối hợp vận động của con người được phát triển.
b. Xét về mặt chủ quan
Sự xuất hiện của TDTT là kết quả của sự phát triển về mặt nhận thức xã hội
của con người. Khác hẳn hoạt động bản năng của động vật, hoạt động của con người
có ý thức. Nhờ vậy mà thế hệ sau đã học tập được thế hệ trước và kế thừa qua các
hình thức truyền thụ những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo vận động.
Chính trong quá trình lao động và do yêu cầu của lao động mà con người đã
nhận thức được sự cần thiết của TDTT, nó được chuẩn bị trước (nhất là thể lực)
cho công việc lao động của mình. Những kinh nghiệm được lặp lại nhiều lần trong
cuộc sống thực tế con người nhận thức hiện tượng tập luyện điều kiện để lao
động có kết quả đã ra đời và củng cố.
Từ những kinh nghiệm sử dụng công cụ lao động hàng ngày, con người nhận
thức rằng, kết quả lao động phụ thuộc vào sự tập luyện và sự chuẩn bị trước những
động tác tương tự với những động tác lao động.
Bài tập thể chất sơ khai là những động tác lao động thực tế (chạy, nhảy, ném,
leo trèo, mang vác,…). Nhưng nhờ có tư duy trừu tượng, tích lũy kinh nghiệm
con người đã tách một số động tác tập luyện ra khỏi vô số thao tác lao động. Về
sau các BTTC đã mang tính chất tượng trưng; khi xã hội loài người ngày càng phát
5
triển thì các động tác tập và các hình thức tập luyện cũng ngày càng phát triển và
phong phú thêm.
Với ý nghĩa đó, chỉ khi nào con người tự giác tập luyện các bài tập thể chất
nhằm phát triển cơ thể và chuẩn bị cho những hoạt động thực tiễn nhất định (sản
xuất, chiến đấu,…) thì TDTT mới thể hiện đúng bản chất đích thực của nó.
2. TDTT trong xã hội có giai cấp
Hệ thống TDTT có quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác của xã hội: kinh
tế, chính trị, văn hóa, khoa học… Là một trong những mặt biểu hiện mối quan hệ
của xã hội, TDTT được phát triển và biến đổi theo đời sống xã hội, mang tính lịch
sử cụ thể. Vì vậy mà TDTT vừa phản ánh được đặc trưng của chính hoạt động giáo
dục, lại vừa có tất cả các tính chất cơ bản của một hệ thống xã hội.
a. TDTT trong xã hội nô lệ
Do sức sản xuất phát triển, kinh nghiệm sản xuất ngày càng phong phú, của
cải vật chất được dư thừa chế độ tư hữu về công cụ lao động và phương tiện sản
xuất ra đời. Kết quả là dẫn đến sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy loài
người bước vào chế độ có giai cấp, xã hội mà trong đó số ít bọn thống trị chiếm
đoạt hầu hết tài sản của xã hội - còn đa số nhân dân lao động bị bóc lột.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chứng minh: giáo dục (trong đó có TDTT) trong xã
hội có giai cấp đã trở thành công cụ đặc biệt của nhà nước trong cuộc đấu tranh để
cũng cố quyền lợi của giai cấp thống trị. Trong các quốc gia có chế độ chiếm hữu
nô lệ, do sự phân chia lao động và sự phân hóa giai cấp, giai cấp thống trị giữ độc
quyền về giáo dục- còn lao động bắt buộc và khổ sai thuộc về người lao động.
Giai cấp thống trị tiếp thu sự giáo dục đầy đủ về mọi mặt, chuẩn bị toàn diện
về thể lực, có năng lực sử dụng vũ khí để tàn sát nô lệ và tiến hành chiến tranh mở
rộng bờ cõi TDTT đã trở thành phương tiện chủ yếu để huấn luyện cho quân
đội.
Sự sùng bái đối với cơ thể phát triển cân đối, cường tráng, lòng dũng cảm,
không kêu ca và sự chịu đựng khổ nhục về thân thể… đã chiếm một vị trí chủ yếu
trong hệ thống các giá trị của con người thời nô lệ. Các giá trị văn hóa thể chất đã
ảnh hưởng đến triết học, khoa học, nghệ thuật…
Đặc trưng của TDTT thời kì này là kết hợp chặt chẽ với quân sự và phục vụ
giáo dục cho quân đội.
b. TDTT trong xã hội phong kiến
Khi xã hội phong kiến thay thế chế độ nô lệ, chế độ người bóc lột người càng
được củng cố, hình thức bóc lột cũng đa dạng hơn.
Giai cấp phong kiến tiếp thu giáo dục về mặt thể lực mang tính chất “Kị sĩ”
và ưu tiên cho quân đội sử dụng vào việc mở rộng lãnh thổ và đàn áp phong trào
nông dân.
Nội dung giáo dục “thất nghệ” của chế độ phong kiến: cưỡi ngựa, săn bắn,
bơi lội, đấu kiếm, ném lao, đánh cờ, làm thơ TDTT chiếm vị trí rất quan trọng
trong giáo dục.
Song, mặc dầu bị cấm đoán hoặc không được khuyến khích, nhưng trong
quần chúng nhân dân cũng đã hình thành một hệ thống TDTT của mình, bao gồm:

6
các loại trò chơi, các điệu múa dân gian, các bài tập thể lực và chiến đấu, võ dân
tộc,….
c. TDTT trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Do điều kiện hoạt động xã hội đã thay đổi và phát triển, đặc biệt là nền sản
xuất hiện đại, giai cấp thống trị không thể không chú ý đến sự phát triển thể lực và
trí tuệ quần chúng lao động TDTT đã đạt đến một trình độ cao.
Tuy nhiên, TDTT được sử dụng không ngoài mục đích chính trị và phục vụ
cho mục đích củng cố địa vị của giai cấp tư sản. Điều đó được thể hiện ở một số
đặc điểm sau đây:
- Chuẩn bị thể lực cho người lao động để nhằm bóc lột sức lao động của họ ở
mức cao nhất.
- Huấn luyện thể lực cho quân đội, cảnh sát,… để bảo vệ chế độ chính trị của
giai cấp tư sản hoặc đi xâm lược nước khác.
- Lôi kéo hoặc đối lập giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau, chia rẽ
dân tộc, màu da,…
- TDTT đã trở thành một hoạt động kinh doanh: vận động viên và huấn luyện
viên đã trở thành hàng hóa.
d. TDTT trong chế độ xã hội chủ nghĩa
TDTT được sử dụng vào việc giáo dục con người phát triển toàn diện, phục
vụ cho lao động sản xuất và quốc phòng, cải thiện dời sống tinh thần cho nhân dân.
(các phần học tiếp theo sẽ đi sâu, cụ thể hơn).
Tóm lại: TDTT là một bộ phận quan trọng của giáo dục nói chung, nằm trong
kho tàng văn hóa chung của nhân loại. TDTT là một hiện tượng của đời sống xã
hội, nó xuất hiện cùng với xã hội và phát triển tuân theo các quy luật phát triển của
xã hội. Các tư tưởng chỉ đạo thực tiễn của TDTT và các hình thức tổ chức hoạt động
của nó luôn luôn bị chi phối bởi các mối quan hệ cụ thể. Ngoài yếu tố lao động là
yếu tố quyết định phương hướng, tính chất, quy mô và nhịp độ phát triển của TDTT
thì các yếu tố khác như: khoa học, quân sự, kinh tế, văn hóa,… cũng có ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển của hoạt động này.
TDTT đã ra đời cùng với xã hội loài người và tồn tại, phát triển mãi mãi với ý
nghĩa là một trong những điều kiện tất yếu của nền sản xuất xã hội và nhu cầu của
cuộc sống bản thân con người.
Trong xã hội có giai cấp thì TDTT mang tính giai cấp rõ rệt, phục vụ cho
quyền lợi của giai cấp thống trị.
Hệ thống TDTT Việt Nam có các quy luật hình thành và phát triển, cũng như
các đặc điểm cấu trúc và chức năng riêng của mình. Hệ thống TDTT Việt Nam là
một bộ phận cấu thành của tổ chức xã hội, là một loại hình lịch sử mới của XH. Có
đặc điểm nổi bật: bằng mọi cách bảo đảm việc hoàn thiện thể chất cho nhân dân,
thể hiện được tính năng XH, nhằm bảo đảm một cách hợp lí giữa hình thức và nội
dung của TDTT với các nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, có một mối
quan hệ hữu cơ với các mặt giáo dục tiến bộ khác. Kết hợp chặt chẽ giữa tính dân
tộc và tính hiện đại, bảo đảm tính cân đối giữa thể chất và tinh thần, giữa thể lực và
trí lực của mỗi một nhân cách.

7
II. Các khuynh hướng cơ bản của TDTT
TDTT là một bộ phận hợp thành của văn hòa thể chất, gồm có 3 khuynh
hướng cơ bản:
- Chuẩn bị thể lực chung.
- Chuẩn bị thể lực nghề nghiệp.
- Huấn luyện thể thao.
1. Chuẩn bị thể lực chung
Nhằm củng cố và tăng cường sức khỏe, nâng cao sức đề kháng đối với bệnh
tật và ngoại cảnh, cố gắng tiếp thu nhiều kĩ năng- kĩ xảo vận động, phát triển các
phẩm chất thể lực cơ bản, tạo cơ sở cho thể lực chung và cho huấn luyện chuyên
môn sâu này.
Phương tiện tập luyện:
- Các bài tập thể chất khác nhau.
- Các yếu tố thiên nhiên và vệ sinh có lợi cho sức khỏe.
Chuẩn bị thể lực chung được tiến hành trong tất cả các giai đoạn của GDTC,
song thường là trong lĩnh vực GDTC ở trường học, trong công tác TDTT quần
chúng và trong các hình thức cá nhân sử dụng các BTTC.
2. Chuẩn bị thể lực nghề nghiệp
Đó là quá trình chuyên môn hóa của GDTC, nhằm chuẩn bị thể lực cho các
loại hoạt động cụ thể: lao động, quân sự, thể thao,… Chủ yếu sử dụng các bài tập
thích hợp với hoạt của nghề nghiệp.
Việc chuẩn bị thể lực nghề nghiệp có tác dụng tăng nhanh quá trình tiếp thu và
hình thành kĩ xảo vận động, nâng cao năng suất lao động, tăng sức đề kháng của cơ
thể đối với ảnh hưởng của các nhân tố không có lợi của ngoại cảnh.
3. Huấn luyện thể thao
Nhiệm vụ của huấn luyện thể thao là nhằm đạt được thành tích cao trong môn
thể thao tự chọn. Trong quá trình GDTC, huấn luyện thể thao được sử dụng rộng
rãi ở giai đoạn hoàn thiện các khả năng chức phận của cơ thể và trong giai đoạn mà
thành tích thể thao trở thành tiêu chuẩn đánh giá trình độ huấn luyện thể thao của
con người và là tiêu chí để định hướng trong GDTC- phát hiện năng khiếu và bồi
dưỡng nhân tài TDTT.
Ngoài ra, GDTC còn có khuynh hướng đặc biệt là điều trị hồi phục thể lực.
Nhiệm vụ là hồi phục các chức năng bị mất đi bằng các bài tập thể lực Thể dục
chữa bệnh.
III. Các nguyên tắc cơ bản của hệ thống thể dục thể thao Việt Nam
Các nguyên tắc của hệ thống TDTT nhằm phản ánh các quy luật chủ yếu của
TDTT. Một số trong các nguyên tắc đó mang tính chất chung, vừa có liên quan đến
toàn bộ hoạt động TDTT, vừa giữ nguyên được tính chất khái quát của mình mà
không phụ thuộc vào nhiệm vụ, các hình thức và các điều kiện cụ thể của hoạt
động này. Đó là nguyên tắc cơ bản của hệ thống TDTT.
1. Nguyên tắc phát triển con người cân đối toàn diện.
Nguyên tắc này biểu hiện khuynh hướng chủ yếu của toàn bộ hệ thống giáo
dục CSCN, biểu hiện sự cần thiết phải phối hợp chặt chẽ các mặt khác nhau của

8
giáo dục trong hoạt động sư phạm nhằm chuẩn bị cho con người thích ứng nhanh
với cuộc sống.
Ý nghĩa thực tiễn của nguyên tắc này trong lĩnh vực TDTT biểu hiện ở 2 yêu
cầu cơ bản sau đây:
- Khi giải quyết các nhiệm vụ đặc trưng của TDTT, cần thường xuyên bảo
đảm mối liên hệ chặt chẽ giữa các mặt của giáo dục, nhằm góp phần đào tạo con
người mới “phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức”.
- Bảo đảm tính toàn diện của hoạt động TDTT, sự thống nhất giữa chuẩn bị
thể lực chung và chuẩn bị thể lực chuyên môn.
2. Nguyên tắc kết hợp giữa TDTT với thực tiễn lao động và quốc phòng
Nguyên tắc này nhấn mạnh chức năng thực dụng cơ bản của TDTT là chuẩn
bị cho các thành viên của xã hội hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực lao động sản
xuất và khi cần thiết thì thực hiện nghĩa vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Khi thực
hiện nguyên tắc này, cần quán triệt các yêu cầu sau:
- Đảm bảo hiệu quả thực dụng tối đa của TDTT; tức là cấn phải ưu tiên giảng
dạy các kĩ năng, kĩ xảo vận động có ý nghĩa thực dụng: đi, chạy, nhảy, ném, leo
trèo, mang vác, vượt chướng ngại vật,… cũng như huấn luyện các tố chất thể lực
phục vụ đắc lực cho cuộc sống.
- Xây dựng các tiền đề rộng rãi cho việc tiếp thu các hình thức hoạt động khác
nhau. Điều này chỉ có thể đạt được trên cơ sở giáo dưỡng thể chất toàn diện, nâng
cao năng lực hoạt động thể lực chung và phát triển các tố chất thể lực toàn diện.
3. Nguyên tắc tăng cường sức khỏe của TDTT
Ý nghĩa chung của nguyên tắc này thể hiện yêu cầu hợp lí hóa quá trình
TDTT với mục dích đạt hiệu quả cao nhất về tăng cường sức khỏe.
Là một trong những quan điểm quan trọng nhất của toàn bộ hoạt động TDTT.
Nguyên tắc tăng cường sức khỏe đòi hỏi:
- Khi lựa chọn phương tiện và phương pháp TDTT, phải xuất phát từ các giá
trị nâng cao sức khỏe của chúng như những tiêu chuẩn bắt buộc.
- Việc lập kế hoạch tập luyện và điều chỉnh lượng vận động sao cho phù hợp
với các quy luật nâng cao sức khỏe.
- Bảo đảm tính liên tục và sự thống nhất của việc kiểm tra y học - sư phạm.

9
MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA THỂ DỤC THỂ THAO
I. TDTT trong các học thuyết về giáo dục con người phát triển toàn diện
1. Các tư tưởng tiến bộ về giáo dục toàn diện
Tư tưởng về con người phải được phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần
đã xuất hiện trong kho tàng văn hóa chung của xã hội loài người từ nhiều thế kỉ
trước đây.
Từ nhà triết học cổ Hy Lạp Aris-tôt Mông-ten (chủ nghĩa nhân đạo thời
phục hưng) Xanh-xi-mông, Ô-oen (chủ nghĩa xã hội không tưởng) những nhà
bác học và giáo dục học nổi tiếng của Nga (M.V. Lômônôxốp, V.G. Bêlinski, K.Đ.
Usinski, P.Ph. Lecgáp,…) và nhiều người khác nữa đã ra sức phát triển và bảo vệ
tư tưởng của học thuyết về phát triển hài hòa giữa năng lực thể chất và tinh thần
con người.
Tuy nhiên, do tính chất của quan hệ xã hội và lịch sử trong tất cả các chế độ
ấy thực tế đã không vượt ra khỏi giới hạn của những ước mơ tuy cao đẹp, nhưng
không có điều kiện khách quan để biến thành hiện thực.
2. Các Mác, Ăng-ghen và Lê-nin về giáo dục cộng sản chủ nghĩa
Trên cơ sở nghiên cứu các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, Các
Mác và Ăng-ghen đã chứng minh sự phụ thuộc của giáo dục vào điều kiện sống
vật chất, khám phá ra bản chất xã hội và giai cấp của giáo dục. Đồng thời còn chỉ
ra rằng, trong xã hội chủ nghĩa cộng sản tương lai - con người phát triển toàn diện
là một tất yếu khách quan, vì nó là nhu cầu của xã hội.
Về hệ thống giáo dục Các Mác xác định hệ thống giáo dục gồm 3 mặt:
- Trí dục.
- Thể dục, như trong trường thể dục và quân sự dạy.
- Giảng dạy kĩ thuật, nhằm giới thiệu với các em thiếu niên và nhi đồng các
nguyên lí cơ bản của toàn bộ quá trình sản xuất, đồng thời dạy cho các em có
những kĩ năng sử dụng được tất cả các công cụ sản xuất đơn giản nhất.
Như vậy, Các Mác và Ăng-ghen không những đã xác định rằng giáo dục toàn
diện là điều tất yếu, mà còn phân tích một cách khoa học quy luật phát triển của xã
hội và đã chứng minh rằng vấn đề con người phải được phát triển toàn diện là do
quy luật phát triển của xã hội quyết định. Nhưng trong xã hội có giai cấp, những
người lao động không có điều kiện và phương tiện cần thiết để phát triển toàn diện
năng lực của mình. Tình trạng thoái hóa về thể chất và tinh thần của họ luôn luôn
bị đe dọa. Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa phát triển và chủ nghĩa cộng sản tươi đẹp
mới có thể thực hiện được giáo dục toàn diện, bởi vì mọi mâu thuẩn cơ bản của xã
hội cũ đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Các Mác đã nhấn mạnh rằng: Giáo dục trong
tương lai sẽ “kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục, đó không những là
biện pháp để tăng thêm sức sản xuất của xã hội, mà còn là biện pháp duy nhất để
đào tạo con người phát triển toàn diện”.
Học thuyết về giáo dục toàn diện của Các Mác và Ăng- ghen đã được Lênin
đi sâu và phát triển sáng tạo. Người đã khẳng định: tính biện chứng của sự phát
triển hài hòa giữa thể chất và tinh thần, rằng “tinh thần khỏe mạnh phụ thuộc vào
một thân thể khỏe mạnh”.
10
Không những bằng lí luận khoa học mà ngay trong sinh hoạt của mình Các
Mác và Ăng-ghen, Lê-nin đều rất coi trọng việc rèn luyện thân thể. Họ vừa là
những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân, vừa là những tấm gương sáng ngời
trong việc tập luyện TDTT, giữ gìn sức khỏe để làm cách mạng và trên thực tế Các
Mác, Ăng-ghen, Lê-nin là những người rất am hiểu TDTT, rất khỏe mạnh và rất
giỏi các môn thể thao.
3. Những chỉ thị của Đảng và Chủ tịch Hồ chí Minh về TDTT
Trung thành với học thuyết Mác- Lênin, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
chú ý giáo dục toàn diện cho thế hệ thanh thiếu niên, quan tâm đến TDTT, coi đó
là một mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh
thiếu niên. Với tư tưởng chỉ đạo đó, Đảng và Nhà nước ta không ngừng tạo ra
những điều kiện kinh tế và xã hội thuận lợi để biến học thuyết phát triển con người
toàn diện thành hiện thực.
Tư tưởng học thuyết Mác- Lênin về TDTT đã được cụ thể hóa trong các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, chính phủ và Hồ chủ tịch.
Bác Hồ - lãnh tụ vĩ đại của đân tộc Việt Nam, là một nhà tư tưởng lớn, văn
hóa lớn. Sinh thời Bác rất quan tâm đến hoạt động TDTT. Lịch sử đã chứng minh,
Bác Hồ là người khai sinh, người sáng tạo nền TDTT cách mạng của nước ta.
Tư tưởng bao trùm của Bác Hồ trong việc đặt nền tảng xây dựng nền TDTT
mới của nước ta là sự khẳng định có tính cách mạng của công tác TDTT, là nhu
cầu khách quan của một xã hội phát triển, là nghĩa vụ của mọi người dân yêu nước.
Mục tiêu cao đẹp của TDTT là bảo vệ, tăng cường sức khỏe của nhân dân, góp
phần cải tạo nòi giống làm cho dân cường, nước thịnh. Những ý tưởng đó được
xuyên suốt trong lời huấn thị, bài viết và văn kiện của Bác Hồ.
Ngay từ tháng 3/1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận Việt Minh,
Bác đã nêu rõ: “Khuyến khích và giúp đỡ nền thể dục quốc dân, làm cho nòi giống
thêm khỏe mạnh”. Sau khi nước nhà vừa mới độc lập, chính quyền cách mạng còn
non trẻ phải đương đầu với muôn vàn khó khăn: thù trong, giặc ngoài, đói kém, xã
hội chưa ổn định… Vậy mà 30/1/1946 với tầm nhìn chiến lược Hồ Chủ tịch đã ký
sắc lệnh thành lập Nha thể dục trung ương thuộc Bộ thanh niên, trên cơ sở: “Xét
vấn đề thể dục rất cần thiết để tăng bổ sức khỏe quốc dân và cải tạo nòi giống Việt
Nam”. Sắc lệnh còn chỉ rõ: “Nha thể dục trung ương có nhiệm vụ liên lạc mật thiết
với Bộ Y tế và Bộ Giáo dục để nghiên cứu phương pháp thể dục Việt Nam và thực
hành một chương trình thể dục riêng trong toàn quốc, hợp với hoàn cảnh và kinh tế
xã hội”. Đó là một văn kiện lịch sử về TDTT rất quý giá. Nó không những đánh
dấu sự ra đời của ngành TDTT Việt Nam, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Bác
Hồ đối với TDTT, mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống tổ chức và
định hướng lâu dài cho nền TDTT Việt Nam.
Ngay sau đó, 27/3/1946 Hồ Chủ tịch lại ra lời kêu gọi tập thể dục. Trong thư,
lần đầu tiên Người chỉ cho nhân dân ta thấy rằng: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước
nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công”. Và Người
cũng đã chỉ rõ, muốn có sức khỏe thì “nên luyện tập thể dục” và coi đó là “bổn phận
của mỗi người dân yêu nước”. Từ 1991, theo quyết định của Hội đồng Bộ trưởng
lấy 27/3 hàng năm là “Ngày thể thao Việt Nam”.
11
Một sự kiện nữa của lịch sử TDTT Việt Nam đáng ghi nhớ là 26/3/1946, Bác
Hồ đến châm ngọn lửa truyền thống tại ngày hội “Thanh niên vận động” ở Thủ đô
Hà Nội, phát động phong trào toàn dân khỏe vì nước. Ngày đó mãi mãi được ghi
vào lịch sử TDTT của dân tộc ta. Kể từ ngày đó ngọn lửa của phong trào rèn luyện
thân thể trong nhân dân bắt đầu bùng lên ở Hà Nội và lan tỏa đến nhiều thành phố,
thị xã, làng quê trong cả nước.
Ngày 31/3/1960 Bác Hồ tự tay viết thư gửi hội nghị cán bộ TDTT toàn miền
Bắc. Trong thư Người dạy: “Muốn lao động sản xuất tốt, công tác và học tập tốt,
thì cần có sức khỏe. Muốn có sức khỏe thì nên thường xuyên luyện tập TDTT. Vì
vậy, chúng ta nên phát triển phong trào thể dục thể thao cho rộng khắp”. Đồng thời
Bác còn căn dặn: “Cán bộ TDTT phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ và
hăng hái công tác nhằm phục vụ sức khỏe nhân dân’. Về vị trí của TDTT trong xã
hội, Bác Hồ đã khẳng định “là một công tác trong những công tác cách mạng
khác”.
Cuộc sống của Người là một tấm gương mẫu mực về lòng kiên trì rèn luyện
thân thể cho khỏe mạnh để làm cách mạng. Đó là trong những chặng đường bôn ba
ở hải ngoại, đến những ngày sống trong lao tù của giặc Tưởng, dù là sống ở chiến
khu Việt Bắc gian khổ hay trong hoàn cảnh hòa bình, lúc mà tuổi của Người đã
cao, Người vẫn luôn luôn bền tâm tập luyện thể dục. Nhờ vậy mà Người đã trở
thành “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” và “tinh thần đầu óc vẫn sáng suốt” cho đến
phút cuối cùng của cuộc đời.
Sau hòa bình, trước yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, Ban bí thư TW Đảng đã đề ra chỉ thị 106 về công tác
TDTT, trong đó khẳng định ý nghĩa to lớn của TDTT đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Trong các báo cáo chính trị tại các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3 8,
trong thư của Hồ chủ tịch gửi hội nghị cán bộ TDTT ngày 31/3/1960, huấn thị của
cựu thủ tướng Phạm văn Đồng tại các hội nghị TDTT 1966 - 1972, chỉ thị 108
ngày 26/8/1970 của Ban bí thư TW Đảng về công tác TDTT trước tình hình mới,
… đều xác định vai trò to lớn của TDTT.
Qua các chỉ thị của Đảng và Hồ Chủ tịch chúng ta thấy, Đảng và Hồ Chủ tịch
rất coi trọng TDTT, coi công tác TDTT cũng là một công tác cách mạng như các
công tác cách mạng khác, coi GDTC là một bộ phận khắng khít của giáo dục cộng
sản chủ nghĩa.
II. Ý nghĩa, tác dụng của TDTT đối với giáo dục
Học thuyết Mác – Lê-nin cũng như Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã khẳng định
TDTT là một bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp giáo dục cộng sản chủ
nghĩa. TDTT không những chỉ giải quyết nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thiện về mặt
thể chất, mà còn có tác dụng tích cực thúc đẩy các mặt giáo dục khác phát triển.
1. Tác dụng của TDTT đối với đức dục
Nội dung của giáo dục đạo đức rất rộng, bao gồm: trình độ giác ngộ về tư
tưởng, chính trị, trình độ giác ngộ về các hành vi phẩm chất cụ thể, về tác phong và
nếp sống của con người. Như vậy, nhiệm vụ của đức dục rất to lớn, nội dung
phong phú.
12
Tác dụng của TDTT đối với đức dục là thông qua việc học tập và rèn luyện
TDTT giúp mọi người nhận thức sâu sắc về bản chất của TDTT, nhằm mục đích
mang lại sức khỏe cho nhân dân để học tập, lao động sản xuất và chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc, sống một cuộc sống vui tươi lành mạnh.
Ngoài ra, trong quá trình tập luyện TDTT còn là quá trình hình thành phát
triển và thử thách nhiều phẩm chất tốt đẹp, cụ thể:
- Ý thức tổ chức kỉ luật trong các buổi tập, thái độ chấp hành quy tắc, luật lệ
thi đấu và thi đấu.
- Tính kiên trì, chịu khó trong tập luyện, ý chí vượt gian khổ. Quá trình tập
luyện TDTT là quá trình rèn luyện tinh thần dũng cảm, linh hoạt, mưu trí,… những
phẩm chất đó rất cần thiết cho con người mới năng động và sáng tạo.
- Sự thống nhất giữa quyền lợi cá nhân và tập thể trong tập luyện, đặc biệt là
trong thi đấu; đòi hỏi người tập phải tự chủ, phải phối hợp chặt chẽ giữa kĩ thuật và
chiến thuật, cá nhân với đồng đội mới có thể giành được thành tích cao, mang lại
vinh dự cho tập thể và bản thân.
- Thông qua tập luyện và thi đấu, biểu diễn TDTT làm tăng cường tình đoàn
kết hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các tập thể, các địa phương, các dân tộc và
giao lưu quốc tế.
2. Tác dụng của TDTT đối với trí dục
Cơ thể con người là một khối thống nhất, trí lực và thể lực đều do hệ thống
thần kinh trung ương điều khiển. Cơ thể khỏe mạnh là tiền đề vật chất giúp con
người phát triển năng lực hoạt động trí óc.
Hoạt động TDTT luôn thay đổi theo tình huống và hành động, có ảnh hưởng
rất lớn đến việc phát triển các chức năng của vỏ não, tính linh hoạt của hệ thần
kinh, sự hoàn thiện của bộ máy phân tích, ảnh hưởng đến tốc độ và sự vững chắc
của sự hình thành phản xạ có điều kiện,… Nhờ quá trình hưng phấn và ức chế
mạnh mẽ, giúp học sinh dễ tập trung tư tưởng, có sức chú ý bền vững, có khả năng
tưởng tượng phong phú, có óc phân tích - tổng hợp nhanh, khả năng khái quát hóa
- trừu tượng hóa, trí nhớ tốt.
Đó là tất cả những đặc trưng tâm lí để con người có tiềm lực dồi dào về hoạt
động trí óc, có cơ sở để phát triển trí thông minh và năng lực của mình. TDTT còn
có ý nghĩa rất lớn trong việc kéo dài năng lực lao động trí óc của con người.
TDTT có tác dụng đến việc nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức khoa học
cho thế hệ trẻ. Nhất là đi sâu vào khoa học TDTT, sẽ cần phải vận dụng đến các
kiến thức: sinh lí, giải phẫu, vật lí, toán học, hóa học, sinh vật học,… Nhờ vậy,
kiến thức văn hóa và khoa học có điều kiện củng cố và phong phú thêm, được vận
dụng vào thực tiễn, nhớ lâu, hiểu sâu hơn.
Ngoài ra, nhờ tham gia hoạt động TDTT mà giúp các em hiểu sâu hơn về cơ
thể con người, về vệ sinh trong tập luyện, về phương pháp rèn luyện thân thể, theo
dõi kiểm tra sức khỏe cho bản thân và những người xung quanh, hiểu rõ và biết
thưởng thức nghệ thuật TDTT. Bên cạnh đó, những buổi hành quân cắm trại, các
trò chơi, những buổi tham quan hoặc trực tiếp tham gia thi đấu… đều là những bài
học sinh động về tự nhiên và xã hội.

13
3. Tác dụng của TDTT đối với mỹ dục
Nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục thẩm mỹ là bồi dưỡng cho học sinh năng lực
thưởng thức cái đẹp trong nghệ thuật, cái đẹp trong cuộc sống, trong lao động,
trong thiên nhiên và trong hành vi đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa.
Với ý nghĩa đó, TDTT được coi là một phương tiện góp phần tích cực vào việc
giáo dục thẩm mỹ cho học sinh.
- TDTT làm cho thế hệ trẻ nhận thức đúng đắn và có tình cảm với những
hành vi cử chỉ đẹp, lành mạnh của con người sống có mục đích, luôn lạc quan yêu
đời, tin tưởng ở tương lai tươi sáng.
- Đó là cái đẹp của những hành vi dũng cảm, ý chí kiên cường vượt khó
khăn trong tập luyện và thi đấu, tư tưởng lành mạnh của vận động viên gắn tài
năng của cá nhân vào sự nghiệp chung của đất nước.
- Hoạt động TDTT, du lịch, hành quân cắm trại, thi đấu,… tạo điều kiện cho
học sinh mở rộng tầm mắt, nhìn xa hơn, nhìn thấy quê hương đất nước đẹp hùng
vĩ, thấy cái đẹp trong lao động sản xuất,… Từ đó, hình thành lòng yêu nước, quê
hương dân tộc mình.
- Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của con
người, cơ thể phát triển cân đối, tư thế tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, sảng khoái
và lạc quan.
- Bản thân TDTT cũng chứa đựng nhiều yếu tố nghệ thuật: động tác của vận
động viên thi đấu; thể dục dụng cụ, thể dục tự do, thể dục nghệ thuật, thể dục nhịp
điệu, thể dục đồng diễn,… đó là các môn thể thao mang tính chất nghệ thuật cao.
4. Tác dụng của TDTT đối với lao động
TDTT ảnh hưởng đến lao động sản xuất được thể hiện trong khuynh hướng
cơ bản là chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực nghề nghiệp.
Các bài tập thể chất có tác dụng nâng cao thể lực toàn diện, hình thành kĩ
năng - kĩ xảo vận động cơ bản (hoặc động tác có liên quan dến các thao tác lao
động nghề nghiệp) nhằm con người thích ứng nhanh chóng với các điều kiện lao
động phức tạp, nặng nhọc.
Nhiệm vụ chủ yếu của TDTT: mang lại sức khỏe cho con người, hình thức
nghỉ ngơi tích cực do đó không những nâng cao được năng suất lao động, mà
còn kéo dài tuổi thọ sáng tạo của con người.
III. Mục đích và nhiệm vụ của TDTT
1. Mục đích của TDTT
Mục đích của hệ thống TDTT Việt nam xuất phát từ yêu cầu có tính quy luật
của công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước ta đang chuyển sang
một giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa, làm cho dân giàu
nước mạnh, xây dựng một xã hội công bằng và văn minh. Để thực hiện được mục
tiêu đó, nhân tố con người có ý nghĩa quyết định.
Mục đích của TDTT là nhằm tăng cường thể chất, nâng cao trình độ TDTT và
làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân; góp phần tích cực
vào sự nghiệp “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” để xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và giao lưu quốc tế.

14
Mục đích này của TDTT có tính chất khách quan vì nó phản ánh được yêu
cầu có tính chất quy luật của xã hội là con người cần phải dược chuẩn bị đầy đủ về
các mặt tinh thần và thể chất để có điều kiện tham gia vào các hoạt động của xã
hội. Các nhân tố chủ yếu để xác định mục đích của TDTT hiện nay và sắp tới là
các điều kiện của nền sản xuất công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các mối quan hệ
xã hội khác. Đó là do sự biến đổi về tính chất và nội dung của lao động, là yêu cầu
của công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, củng cố các mối quan hệ xã hội
cũng như giao lưu quốc tế.
2. Nhiệm vụ của TDTT
Mục đích của TDTT được thể hiện và cụ thể hóa trong các nhiệm vụ chung
của nó. Các nhiệm vụ chung ấy chính là các phương hướng cơ bản và chương trình
hành động để thực hiện mục đích. Các nhiệm vụ chủ yếu cùa TDTT gồm có:
a. Nhiệm vụ bảo vệ và tăng cường sức khỏe
Sức khỏe là tài sản thiêng liêng, là vốn quý nhất của mỗi người và cộng đồng
xã hội. Chúng ta nhận thức được rằng, sức khỏe của con người phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau, như: tập luyện TDTT, dinh dưỡng, vệ sinh, môi trường và
xã hội,…
Yêu cầu chủ yếu của việc tập luyện TDTT theo hướng sức khỏe là nhằm phát
triển hài hòa về mặt hình thái- chức năng cơ thể, nâng cao khả năng thích ứng đối
với ngoại cảnh và chống đỡ bệnh tật, đạt trình độ thể lực tốt nhằm đảm bảo cho
con người thể hiện ở mức cao nhất các năng lực của mình trong các lĩnh vực hoạt
động khác nhau.
b. Nhiệm vụ giáo dưỡng
Nhằm hình thành hệ thống các kĩ năng- kĩ xảo vận động, các phẩm chất thể
lực cơ bản cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Trong đó, có kĩ năng- kĩ xảo thực
dụng trực tiếp và các kĩ năng- kĩ xảo thể thao. Đồng thời trang bị cho học sinh
những tri thức về lĩnh vực TDTT với mục đích sử dụng có hiệu quả các phương
tiện giáo dục thể chất vào trong sinh hoạt, học tập, lao động và chiến dấu khi cần
thiết.
c. Nhiệm vụ giáo dục
Nhằm hình thành các phẩm chất ý chí và đạo đức, thấm nhuần các chuẩn mực
và hành vi đạo đức của con người mới, góp phần tích cực vào giáo dục trí dục, lao
động và thẩm mỹ.
d. Nâng cao trình độ khoa học TDTT
Trang bị và nâng cao tri thức khoa học chuyên ngành TDTT, từng bước vươn
lên tiếp cận với đỉnh cao của thế giới. Đồng thời góp phần làm phong phú và lành
mạnh đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần tích cực vào sự nghiệp
“nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, mở rộng mối giao lưu quốc tế.
Tóm lại: Trong quá trình thực hiện tất cả các nhiệm vụ nêu trên chúng thường
có liên quan mật thiết với nhau. Mỗi một giờ lên lớp hoặc một giai đoạn dạy học
thực chất là một quá trình giải quyết đồng thời các nhiệm vụ đã nêu trên.
Trong quá trình GDTC, nhiệm vụ giáo dục được giải quyết giống như tất cả
các mặt giáo dục khác; chúng có mối liên hệ mang tính quy luật giữa TDTT với
15
các mặt giáo dục khác. Điều đó còn chứng tỏ khả năng của TDTT đối với việc tác
động toàn diện đến con người. Qua đó TDTT bằng các phương tiện và phương
pháp đặc trưng của mình có thể giải quyết các nhiệm vụ có liên quan đến nội dung
giáo dục đạo đức, trí tuệ, lao động và thẩm mỹ.

16

You might also like