Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 21

MỤC LỤC

1. Phân tích quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội (trang 2)
2. Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (trang 3)
3. Sinh viên cần làm gì để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò
của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ,
thiếu tính sáng tạo?( trang 3)
4. Phân tích đặc điểm đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay để làm rõ quan điểm trên. (trang 5)
5. Trách nhiệm của bản thân sinh viên trong việc phòng, chống âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa
mà Việt Nam đang xây dựng?(trang 5)
6. Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức (trang 6)
7. Vận dụng để giải quyết vấn đề học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn của bản
thân (trang 6)
8. Phân tích quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược(trang 9)
7. Phân tích cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả (trang 11)
8. Làm rõ nguyên nhân vấn đề thất nghiệp của một bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp Đại
học, Cao đẳng ở Việt Nam hiện nay? (trang 11)
8. Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (trang 14)
9. Sinh viên cần làm gì để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò
của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ,
thiếu tính sáng tạo? (trang 14)

1
1.Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống
trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì
cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”. (Nguồn: C.Mác và Ph.Ăngghen,
Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.66)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng của xã hội để làm rõ luận điểm trên.
b. Liên hệ với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
ĐÁP ÁN:
a)
Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các quan hệ xã hội, bao gồm các quan hệ vật chất
và các quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ
vật chất với các quan hệ tinh thần của xã hội được phản ánh trong quy luật về mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quy luật cơ
bản tác động ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện
thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Ví dụ, cơ sở hạ tầng của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một kết cấu
kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản,...)
trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kết cấu đó được xác lập trên
cơ sở hệ thống ba loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu toàn dân do nhà nước thống
nhất quản lý, sở hữu tập thể của những người lao động, sở hữu tư nhân với nhiều hình
thức cụ thể khác nhau; trên cơ sở đó, hình thành nên nhiều hình thức tổ chức kinh doanh
đan xen hỗn hợp với nhiều loại hình phân phối đa dạng.
Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của
xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận
động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực. C.Mác chỉ rõ: “Toàn bộ những quan
hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”. Các quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ bản,
đầu tiên, chủ yéu, quyết định mọi quan hệ xã hội khác.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: Quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư,
quan hệ sản xuất mầm mống. Mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí, vai trò khác nhau.
Trong đó quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.

2
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế
xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.
b)
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta
hiện nay
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần nhất và
thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao
hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và
tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao
động, không còn chế độ bóc lột.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang
tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình
kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang
tính cách mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần
kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể,
kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác
nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì
vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện pháp kinh
tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi
thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ
trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế
tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính
chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn cạnh
tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.
Câu 2: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật
chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ
gây ra những hậu quả tai hại khôn lường”. (Nguồn: Giáo trình Triết học Mác -
Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180-181)

3
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để làm rõ nguyên tắc
phương pháp luận trên.
b. Sinh viên cần làm gì để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ,
trì trệ, thiếu tính sáng tạo?
ĐÁP ÁN:
a)
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không
thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh
lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
Đặc điểm của vật chất:
– Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
– Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động;
– Vật chất vận động trong không gian và thời gian;
– Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và là
hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý
thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh
tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động
thực tiễn.
b)
Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát
từ thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh
hưởng đến học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan.Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời
khóa biểu, những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết
học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.

4
Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm
của dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quytắc 5K, ở yên
tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng.-Thứ hai, ý thức cũng có sự
tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức.
Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi dưỡng những kỹ
năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải tự phát huy
tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước
giáo trình của ngày hôm đó đểđánh dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi
thường xuyên tích cực phát biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ
tìm thêm bài tập và tàiliệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải
thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào
của các tổ chức xã hội. Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo
đức, phẩm chất của mình qua việc đọc sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo
luận.-Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo
thủ,không chủ quan trước mọi tình huống. Ví dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ
lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các thành viên góp ý cho mình để hoàn thành
công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học phần, tôi không chủ quan vào năng lực của
mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản thân không kham nổi. Trong cuộc sống,
trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với người đó và lắng nghe những
đánh giá của những người xung quanh về người đó, không thể chủ quan “trông mặt mà
bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó.
Câu 3: Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: “Nội dung chủ yếu cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống
áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu
cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá các thế lực
thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”. (Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.85-
86)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a,Anh (chị) hãy phân tích đặc điểm đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay để làm rõ quan điểm trên.
b.Trách nhiệm của bản thân sinh viên trong việc phòng, chống âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng?

5
ĐÁP ÁN:
a)
-Giai cấp :là những tập đoàn người có địa vị kinh tế -xã hội khác nhau trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.
-Đấu tranh gia cấp: là đấu tranh của bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác,
cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có
đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân
làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
-Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay đấu tranh giai cấp là tất
yếu, tính tất yếu của nó do chính các đặc điểm kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ quy
định. Mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội chưa hoàn thành. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
quá độ gián tiếp từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất còn thấp, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
-Đặc điểm đấu tranh giai cấp trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay:
+Thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội
giàu mạnh, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+Thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Về thực chất đây là cuộc đấu tranh
giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các nhân tố tác
động nhằm cản trở đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Về thực
chất đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa với các nhân tố tác động nhằm cản trở đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Việt Nam phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
+Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc
phục tình trạng kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội.
Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục
tình trạng nước kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu
tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc
lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

6
-Như vậy, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với các nội dung cụ thể khác nhau, nhằm giải
quyết nhiều mâu thuẫn của quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội
-Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được diễn ra
với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp và kết hợp nhiều
hình thức biện pháp linh hoạt.
-Để thực hiện thắng lợi nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay , đòi
hỏi khách quan phải giải quyết tốt các phương hướng và nhiệm vụ cụ thể của sự nghiệp
cách mạng hiện nay, đó là nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất nước, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội đất nước.
Ý nghĩa :
Như vây, Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
được diễn ra trong điều kiện mới, với nội dung và hình thức mới với tính chất phức tạp
khó khăn và lâu dài. Đối với đội ngũ cán bộ nhân dân cần thấu triệt sâu sắc quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc hiện nay. Nhận
thức rõ đặc điểm đấu tranh giai cấp ở Việt Nam và các âm mưu chống phá của kẻ thù
giáo dục nâng cao lập trường giai cấp và tinh thần cảnh giác Cách mạng cho đội ngũ cán
bộ và nhân dân trong tình hình mới.
b) Trách nhiệm của bản thân sinh viên:
-Phải có có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng ,có trình độ chuyên môn ,có phẩm
chất đạo đức và lối sống lành mạnh giản dị ,có ý chí vươn lên trong cuộc sống cũng như
trong học tập nghiên cứu khoa học có uy tín và tích cực trong công tác đoàn công tác hội.
-Kiên quyết lên án Tránh xa những hoạt động lôi kéo ,phản động với những thông tin trái
ngược với những lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh, các tin
tức bịa đặt sai trái phải gạt bỏ đồng thời hướng dẫn cho người thân tránh xa và không bị
các thế lực thù địch rũ và lôi kéo.
-Chấp hành nghiêm pháp luật của nhà nước tham gia tích cực vào các hoạt động tình
nguyện để giúp đỡ và tuyên truyền ,ý thức tự giác kỷ luật và xây dựng đất nước văn minh
giàu đẹp hơn bạn thân có ý thức tự giác không bị lôi kéo từ các chiêu bài diễn biến hòa
bình và các tệ nạn xã hộị
-Bản thân luận phải nhận thức được việc học tập là một trong những yếu tố góp phần cho
sự nghiệp không chỉ của riêng mình mà là của cả xã hội, học tập tốt để tạo nên nền móng
vững chắc cho những nghiên cứu, những sáng kiến cho phát triển đất nước .Trung thực

7
và không lười biếng, nỗ lực cho sự phát triển của bản thân cho xây dựng đất nước mai
sau.
Câu 4: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông”. (Nguồn: Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập
8, tr.496)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức để làm rõ luận điểm
trên.
b. Vận dụng để giải quyết vấn đề học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn của bản
thân.
ĐÁP ÁN:
a)
Vì đây là vận động theo chiều hướng tiến lên. Nên thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường,
dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý
luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn,
nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương
tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
-Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ
óc người trên cơ sở thực tiễn.
-Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
+Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây
là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát
triển của mình và xã hội. Ví dụ: Lao động của các công nhân trong nhà máy để sản xuất
ra sản phẩm.
+Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Ví
dụ: Bầu cử đại biểu quốc hội, Hội nghị công đoàn.
+Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt động được
tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những

8
trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của
đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng
trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại.
Ví dụ: Các nhà khoa học đã nghiên cứu và thí nghiệm cho ra loại vaccine để phòng bệnh
covid 19
-Sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn
vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
*Nội dung, vai trò của thực tiễn……
-Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc (điểm xuất phát), động lực của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc, tính chất và các mối
quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ
sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuya hường vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải
thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng
hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ: Với tình hình dịch bệnh hiện nay, xuất phát từ nhu cầu của con người và của đất
nước là mau chóng chiến thắng đại dịch, không để dịch bệnh lây lan các nhà khoa học
của nhiều nước trên thế giới đã bắt tay vào việc nghiên cứu ra các loại vaccine để hỗ trợ
thế giới chống đại dịch Covid-19.
-Thứ hai, thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm cải biến
thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lênin đã cho rằng: “Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Mục đích của mọi nhận thức không phải vì bản thân nhận thức, mà vì thực tiễn nhằm
cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội vì nhu cầu của con người. Mọi lý luận khoa học chỉ
có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn.
Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực
tiễn chứ không phải để trang trí hay phục vụ cho những ý tưởng viễn vông. Nếu không vì
thực tiễn, nhận thức sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học – kết quả của
nhận thức chỉ có ý nghĩa khi nó được áp dụng vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp
hay gián tiếp để phục vụ con người.
Ví dụ: Các nhà khoa học của nhiều nước trên thế giới cho ra đời các loại vaccine như
Astrazeneca, Venocell, Pfizer, ...nhằm mục đích ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh,

9
giảm số lượng người tử vong do dịch Covid 19 và các nước trên thế giới nhanh chóng
chiến thắng đại dịch Covid 19.
-Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
Làm sao để nhận biết được nhận thức của con người đúng hay sai? Tiêu chuẩn để đánh
giá cuối cùng không nằm trong lý luận, trong nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức
được xác nhận là đúng, nhận thức đó sẽ trở thành chân lý.
Tuy nhiên cũng có trường hợp không nhất thiết phải qua thực tiễn trải nghiệm mới biết
nhận thức đó là đúng hay sai, mà có thể thông qua quy tắc logic vẫn có thể biết được
nhận thức đó là thế nào. Nhưng xét đến cùng thì những nguyên tắc đó cũng đã được
chứng minh từ trong thực tiễn.
Ví dụ: Hiện đang có nhiều loại vaccine phòng Covid 19 hiệu quả và được tiêm cho
người dân trên thế giới. Trước khi đưa ra vaccine để tiêm cho người dân thì các nhà khoa
học phải thử nghiệm xem hiệu quả của vaccine đó như thế nào? Hiệu quả của các loại
vaccine hiện nay: Vaccine Pfizer có hiệu quả lên đến 95%, Vaccine AstraZeneca của Anh
khi đã được tiêm 2 mũi có hiệu quả lên đến 92%, Vaccine Vero Cell hiệu quả bảo vệ lên
đến 78,2%.... Để đạt được những thành tựu này các nhà khoa học đã đưa các loại vaccine
này vào trải nghiệm có kết quả rồi thì mới đưa ra tiêm cho người dân. Đó là một quá trình
rất kì công và vất cả của các nhà khoa học cả trong và ngoài nước.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vai trò của thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn.
Quan điểm này yêu cầu mọi nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, phải coi trọng công tác
tổng kết thực tiễn.
- Việc nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa
rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc. Ngược lại, nếu
tuyệt đối hóa thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
b)
Quan điểm của Hồ Chí Minh về gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành
-Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, con người muốn cải tạo được thế giới cần
phải có những hiểu biết về nó, nhưng những hiểu biết ấy không có sẵn trong con người.
Muốn có hiểu biết (tri thức), con người phải tác động vào thế giới khách quan thông qua
hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó con người tích lũy được những tri thức kinh nghiệm.
Tuy nhiên, những tri thức kinh nghiệm đó mới chỉ đem lại sự hiểu biết về từng mặt riêng
lẻ, bề ngoài của sự vật. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó
không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”. Do đó, để hiểu được tính tất
yếu, bản chất của sự vật, con người phải khái quát những tri thức, kinh nghiệm thành lý

10
luận. Thực tiễn là cơ sở góp phần rèn luyện giác quan của con người, làm cho chúng phát
triển tinh tế, hoàn thiện hơn. Trên cơ sở đó giúp con người nhận thức hiệu quả hơn, khái
quát lý luận đúng đắn hơn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người cũng cải biến chính
bản thân, phát triển năng lực, trí tuệ của mình. Ph.Ăngghen viết: “… Chính việc người ta
biến đổi tự nhiên chứ không phải một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là
cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người phát triển
song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.
-Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh cho rằng: “Lý luận là sự tổng kết
kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm thực
tiễn, nhưng không phải cứ có kinh nghiệm thực tiễn là có được lý luận. Vì vậy, lý luận
không thể ra đời một cách tự phát và luôn luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển
bằng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mới, phong phú.
-Để tránh tình trạng lý luận không phản ánh đời sống thực tiễn, thiếu tính khoa học và
cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt nhắc nhở cán bộ, đảng viên tránh tình trạng rất dễ mắc
phải là lý luận suông, lý luận thuần túy sách vở, xa rời cuộc sống, không có căn cứ, giáo
điều, kinh viện. Người chỉ rõ: “Lý luận mà không có liên hệ thực tiễn là lý luận suông”.
Câu 5: V.I.Lênin cho rằng: “Cuộc sống và sự phát triển trong giới tự nhiên bao gồm
cả sự tiến hóa chậm rãi và cả những bước nhảy vọt nhanh chóng, những sự đứt đoạn
trong liên tục”. (Nguồn: V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tập 16,
tr.319)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a.Anh (chị) hãy phân tích quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại để làm rõ luận điểm trên.
b.Vận dụng vào trong quá trình học tập và hoạt động thực tiễn của bản thân.
ĐÁP ÁN:
a)
Quy luật lượng chất là chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi
cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích lũy những thay đổi
về lượng đạt đến ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và
phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp
với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa có
những bước đột phá vượt bậc.
Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là
sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng làm cho sự vật,

11
hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác (trả lời cho câu hỏi sự vật,
hiện tượng đó là gì? Giúp phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác).
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy
mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ
phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay
nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt.
Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật, hiện
tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, chúng tác động biện chứng lẫn
nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở
một độ; nhưng cũng trong phạm vi độ đó, chất và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự
vật, hiện tượng dần biến đổi bắt đầu từ lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo
xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự
vật, hiện tượng; chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đến
sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả
là sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời.
Các khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy, xuất hiện trong quá trình tác động lẫn nhau giữa
chất và lượng. Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau
giữa chất với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó sự thay đổi về
lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa
thành sự vật, hiện tượng khác. Điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ
phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời
điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút. Độ được giới hạn bởi hai điểm
nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút trên sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự
thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ mới và điểm nút mới. Bước nhảy là
khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do
những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về
lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá
trình vận động liên tục của sự vật, hiện tượng.
Như vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng - chất là quan hệ biện chứng. Những thay
đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định,
lượng là mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất
mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ
chất cũ đang kìm hãm nó. Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên
sự vận động liên tục. Tùy vào sự vật, hiện tượng, tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và
vào điều kiện, trong đó diễn ra sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều
hình thức bước nhảy.

12
Ví dụ: Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện
ở chỗ: Trong một kỳ thi, nếu sau khi làm bài xong bạn nán lại thêm một chút để dò lại
bài, tìm sửa những lỗi nhỏ thì bài làm đó của bạn sẽ mắc ít lỗi hơn và sẽ được điểm cao
hơn.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại giúp chúng ta nhận thức được phương thức vận động và phát triển của sự vật.
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
-Cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật; đồng thời
phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.
-Cần khác phục tư tưởng nôn nóng, tả khuynh và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong
công tác thực tiễn.
-Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều
kiện, lĩnh vực cụ thể.
b. Vận dụng vào trong quá trình học tập và hoạt động thực tiễn của bản thân. Từ
việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận với
việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong môi trường Đại học Công Nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh như sau:. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ
kéo dài trong một năm, vì thế khối lượng kiến thức được chia đều ra kiến học sinh dễ
dàng tiếp nhận hơn. Chính vì vậy mà người sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới sao
cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại
học. Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng
cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng không nằm ngoài điều đó. Như vậy có
thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng mà điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước
nhảy và điểm số xác định quá trình tích lũy kiến thức đã đủ dẫn tới sự chuyển hóa về chất
hay chưa. Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những kiến
thức mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để làm việc ngay
được vì kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo để ta làm việc. Trong
thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự tích lũy về
lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đánh đổi bằng sức lao
động mà có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ nào khác. Bằng gian lận, ta có thể
qua được kỳ thi, nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến đổi nào về chất, khi học
những kiến thức sâu hơn, khó hơn chắc chắn ta sẽ không tiếp thu được, không đáp ứng
được yêu cầu công việc sau này và nếu ta giúp đỡ bạn bè theo theo cách của anh chàng
trong câu chuyện kia thì không khác gì chúng ta đang hại họ. Nhiều sinh viên trong quá

13
trình đi học tập do không tập trung, còn mải mê vui chơi, dẫn đến sự chậm chễ trong học
tập, rồi “nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi họ mới tập trung cao độ vào việc học.
Câu 6: Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân
nhất định gây ra.
Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã
được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con
người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thức.
(Nguồn: Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.234)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để làm rõ nhận
định trên.
b. Làm rõ nguyên nhân vấn đề thất nghiệp của một bộ phận sinh viên sau khi tốt
nghiệp Đại học, Cao đẳng ở Việt Nam hiện nay?
ĐÁP ÁN:
a) *Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó
- Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Ví dụ: Sự tác động qua lại giữa chiếc dùi và mặt trống là nguyên nhân của tiếng trống
kêu. Tiếng trống kêu là kết quả của sự tác động giữa chiếc dùi và mặt trống.
*Quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả, kết
quả xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện
- Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả, và một kết quả có thể do
một hoặc nhiều nguyên nhân sinh ra
- Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một kết quả có thể diễn
ra theo hướng thuận nghịch khách nhau
- Một sự vật hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân nhưng trong
mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại
*Ý nghĩa phương pháp luận:

14
- Thứ nhất, nếu bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó và do
nguyên nhân quyết định, thì để nhận thức được sự vật, hiện tượng ấy nhất thiết phải tìm
ra nguyên nhân xuất hiện của nó;
- Thứ hai, xét về mặt thời gian, nguyên nhân có trước kết quả nên khi tìm nguyên
nhân của một sự vật, hiện tượng cần tìm ở các sự vật, sự kiện, mối liên hệ đã xảy ra trước
khi sự vật, hiện tượng xuất hiện
- Thứ ba, một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và quyết định,
nên khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó không vội kết luận về nguyên nhân nào đã sinh
ra nó; khi muốn gây ra một sự vật, hiện tượng có ích trong thực tiễn cần phải lựa chọn
phương pháp thích hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể chứ không nên rập khuôn
theo phương pháp cũ
b) Hiện nay, một số lượng lớn cử nhân sau khi tốt nghiệp Đại Học, Cao Đẳng ra trường
nhưng không tìm được việc làm theo mong muốn bản thân. Theo khảo sát, có đến 70%
sinh viên lo lắng về vấn đề việc làm khi vừa bước chân ra khỏi cổng trường đại học. Với
con số hơn 225.000 cử nhân không tìm được việc làm, thậm chí những bạn tốt nghiệp thủ
khoa cũng rơi vào thực trạng này thì thất nghiệp chính xác “cơn ác mộng” ám ảnh giới trẻ
Việt Nam trước ngưỡng cửa thi Đại Học, Cao Đẳng hiện nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng sinh viên Đại học, cao đẳng thất nghiếp hiện nay là do một số nguyên nhân
chủ yếu như:
Nguyên nhân đầu tiên là là tình trạng “ thừa thầy thiếu nợ” : Theo thống kê, cả nước có
hơn
2.200.000 sinh viên đang theo học ở các ngành học tại các trường ĐH, CĐ, TCCN. Tuy
nhiên, với phương pháp giảng dạy thiếu thực tiễn, chú trọng vào lý thuyết hơn thực
hành đã dẫn đến số lượng sinh viên tốt nghiệp rất nhiều nhưng ít người có thể đáp ứng
nhu cầu công việc thực tế ở các doanh nghiệp. Nguyên nhân Thứ hai là sinh viên yếu về
kĩ năng mềm:
Sinh viên Việt Nam thường bị các nhà tuyển dụng, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài
đánh giá giỏi về lý thuyết nhưng yếu về kỹ năng mềm (hay còn gọi là kỹ năng thực hành
xã hội). Trong quá trình học trên ghế nhà trường, đa số sinh viên tranh thủ học ngoại ngữ
và tin học để lấy được bằng chứng nhận làm cơ sở cho xin việc sau khi ra trường. Tuy
nhiên, nhiều nhà tuyển dụng lại yêu cầu sinh viên có được nhiều kinh nghiệm thực
tiễn/các kinh nghiệm xử lý tình huống như: Giao tiếp tiếng Anh, đàm phán, xử lý vấn đề,
làm việc nhóm,… hơn là giấy từ chứng nhận đó. Có trường hợp nhiều sinh viên sau khi

15
được nhận vào thử việc trong công ty khoảng 1-2 tháng nhưng không thể tiếp thu và làm
việc hiệu quả do thiếu kỹ năng mềm này. Nguyên nhân Thứ 3 là thiếu định hướng nghề
nghiệp: Thiếu định hướng nghề nghiệp cũng chính là 1 trong những vấn đề lớn nhất mà
sinh viên gặp phải. Vì thế, đây cũng là nguyên nhân gây ra thất nghiệp nhiều như hiện
nay. Nguyên nhân thứ 4 là các công ty Việt Nam hiện nay chú trọng về kinh nghiệm và
ngoại hình: Qua nhiều mẫu tin tuyển dụng của các tổ chức, doanh nghiệp thì kinh nghiệm
và hình thức bề ngoài thường được yêu cầu từ các ứng viên. Nguyên nhân thứ 5 là tiếng
anh giao tiếp còn nhiều hạn chế : Đa số sinh viên đều được dạy môn Tiếng Anh trên ghế
nhà trường và có trong tay chứng chỉ nào đó nhưng không phải bạn nào cũng có thể sử
dụng ngoại ngữ phổ biến này một cách lưu loát trong giao tiếp. Các công ty yêu cầu ứng
viên phải có khả năng giao tiếp tiếng Anh và vận dụng kỹ năng đọc viết trong công việc
hàng ngày mà không chỉ là tấm bằng cấp ghi số điểm bạn đạt được. Nguyên nhân thứ 6 là
bị động trong quá trình làm việc: Đừng bao giờ bị động trong quá trình tìm việc vì mức
độ cạnh tranh ngày càng cao giữa những sinh viên mới ra trường hàng năm và số lượng
người thất nghiệp những năm trước nữa. Bạn nên chủ động mở rộng mối quan hệ và
không ngừng nâng cao kỹ năng của mình theo yêu cầu của xã hội để tạo ra lợi thế nổi bật
cho chính mình, gia tăng cơ hội việc làm so với các ứng viên khác. Nguyên nhân cuối
cùng là tuyển dụng chưa minh bạch: Quy tắc ngầm trong xin việc nhờ vào mối quan hệ
và tiền tệ như tại Việt Nam hiện nay chính là nguyên nhân không nhỏ gây ra tình trạng
thất nghiệp. Có những bạn ngay từ khi còn học trên ghế nhà trường đã được cha mẹ xin
cho công việc ổn định mà không cần lo lắng nhiều về xin việc.
Vậy để không phải rơi vào tình trạng thất nghiệp, ngay từ khi học Đại Học, Cao Đẳng,
các sinh viên nên học hành chăm chỉ, tham gia các chương trình hoạt động tập thể để rèn
luyện kỹ năng cần thiết. Không những thế, để chuẩn bị hành trang cho tương lai, các bạn
cũng nên tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ để nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên sâu
về ngành mình theo học. Ví dụ, các bạn học ngành khoa học kinh tế thì có thể tìm các
khóa học nghiệp vụ kinh tế như Quản trị kinh doanh, Quản trị nhân sự, Marketing hay
Logistics …

b.Nguyên nhân:
1. Sinh viên thiếu kĩ năng thực tế để đáp ứng công việc
Trên 80% sinh viên mới ra trường được cho là có kiến thức nhưng lại yếu kém về các kỹ
năng mềm - kỹ năng mà đa số nhà tuyển dụng, đặc biệt là các tập đoàn, tổ chức nước
ngoài đánh giá cao. Chính vì thế, nhiều bạn đã mất điểm trong lần gặp đầu tiên trong buổi
phỏng vấn ở các công ty. Trong quá trình học, đa số sinh viên đều tự chuẩn bị hành trang
cho mình là hai bằng ngoại ngữ và tin học và đều cho rằng đây là điều kiện đủ để có thể
trúng tuyển việc làm sau này. Tuy nhiên, đối với các nhà tuyển dụng, họ đánh giá cao các
kỹ năng sống như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết vấn đề, làm

16
việc nhóm... hơn là các giấy tờ chứng nhận. Đối với các ứng viên được nhận, họ thường
có thời gian khoảng 1 - 2 tháng học việc và thử việc tại công ty nhưng không có nhiều
ứng viên có thể tiếp thu và xử lý công việc. Ngay cả các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi,
thậm chí loại xuất sắc cũng không thể trụ vững làm nhân viên chính thức sau thời gian
thử việc như thế. Rất rõ ràng đây chính là yếu điểm mà các sinh viên cần khắc phục để
nâng cao cơ hội có việc sau khi tốt nghiệp.
2. Thiếu định hướng nghề nghiệp
Ở Việt Nam, việc chọn nghề nghiệp sau này chịu sự tác động, chi phối lớn từ các bậc phụ
huynh. Với tâm lý thương con và một phần vì danh danh dự gia đình, các bậc cha mẹ
thường khuyên con cái chọn các ngành có tiếng như: kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, ngân hàng,..
Ngoài ra, một số bạn trẻ chọn ngành học theo xu hướng "hot" của thị trường chứ không
thật sự yêu thích, đam mê với nghề và không đúng với khả năng của mình. Hệ quả của
việc học như thế dẫn đến sự lười học, học cho có lệ để qua kỳ kiểm tra và lấy được cái
bằng cho có. Chính vì thế, chất lượng nhân lực đầu ra trở nên hạn chế và tình trạng thất
nghiệp lại tiếp tục tăng.
3.Hạn chế trong trình độ Tiếng Anh
Tiếng Anh chính là tấm vé thông hành cho tất cả các ngành nghề hiện nay. Tất cả sinh
viên đều được học tiếng Anh trong trường và đa số các bạn đều có sẵn bằng cấp tiếng
Anh để ứng tuyển vào các công ty. Tuy nhiên, cách thức dạy và học thụ động, không áp
dụng thực tế làm cho kỹ năng ngoại ngữ chỉ còn là con số 0. Các công ty mong muốn
nhân viên phải vận dụng được tiếng Anh, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp vào công việc
nhưng đa số sinh viên không thể đáp ứng được.
4.Sự bị động trong quá trình tìm việc
Nhiều sinh viên mới ra trường còn thụ động trong công tác tìm việc cho bản thân. Họ chỉ
gửi hồ sơ đến các công ty trên Internet và chờ đợi nhà tuyển dụng gọi phỏng vấn. Chính
điều đó làm cho các bạn mất tính cạnh tranh và bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt. Hãy cố gắng mở
rộng mọi mối quan hệ mình thông qua nhiều kênh khác nhau để tạo thêm nhiều cơ hội
cho bản thân
5. Sự không minh bạch trong tuyển dụng
Một quy tắc ngầm trong xin việc mà ai cũng hiểu, đó chính là: mối quan hệ và tiền tệ. Có
những bạn may mắn khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã được ba mẹ vận dụng mối quan
hệ quen biết để xin được một công việc ổn định. Có những bạn năng lực học tập hay kỹ
năng làm việc hạn chế vẫn có được việc làm nhờ vào sự quen biết của gia đình. Ngược
lại, những bạn có hoàn cảnh bình thường thì phải chật vật để tìm được một công việc đủ
nuôi sống bản thân. Thực trạng này dù bất công như thế nào thì cũng đã được sự chấp

17
thuận từ lâu trong xã hội bởi lẽ không ai có thể phủ nhận sức mạnh của đồng tiền và địa
vị.
Câu 7: “Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục
tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu
quả tai hại khôn lường”. (Nguồn: Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180-
181)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để làm rõ nguyên tắc
phương pháp luận trên.
b. Sinh viên cần làm gì để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ,
thiếu tính sáng tạo?
(5.0 điểm)
ĐÁP ÁN:

a)*Vật chất: Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Ví dụ: khi đun sôi nước đến 100 ºC thì nước sẽ bị bốc hơi nên quy luật này cũng là vật
chất vì có tính khách quan, tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác và ý thức.
*Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan tác động vào bộ óc con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ví dụ, khi nhìn thấy ngôi nhà đẹp lúc đó hình ảnh đep của ngôi nhà đẹp chính là ý thức.
*Mối quan hệ vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại”. Tuỳ theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa
duy vật vả chủ nghĩa duy tâm. Khẳng định nguyên tắc tính đảng trong triết học, V.I.
Lênin đã viết:
“Triết học hiện đại cũng có tính đảng như triết học hai nghìn năm về trước. Những đảng
phái đang đấu tranh với nhau, về thực chất, - mặc dù thực chất đó bị che giấu bằng những
nhãn hiệu mới của thủ đoạn lang băm hoặc tính phi đảng ngu xuẩn – là chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm”
- Vật chất và ý thức quan hệ qua lại và chuyển hóa lẫn nhau :Vật chất có trước ý thức có
sau, vật chất quyết định ý thức, vật chất là nguồn gốc, là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và

18
phát triển của ý thức. Hay nói cách khác vật chất thế nào thì ý thức như thế ấy, vật chất
thay đổi đến đâu thì ý thức thay đổi đến đó.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
-Nếu thừa nhận vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức thì trong
hành động nhận thức cũng như hành động thực tiễn của con người phải luôn luôn xuất
phát từ thực tế khách quan tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
-Ý thức có tác động tích cực trở lại vật chất sinh ra nó cho nên ta phải biết phát huy tính
năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con người.
-Cần chống bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, ngồi chờ
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
* Vật chất quyết định ý thức.
+ Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Ví dụ, một người sinh ra mà bộ não không hoạt động được hoặc không có bộ não thì
không có ý thức được. Cũng như câu chuyện cậu bé sống trong rừng cùng bầy sói không
được tiếp xúc với xã hội loài người thì hành động của cậu khi trở về với xã hôi cũng chỉ
giống như những con sói, tức là hoàn toàn không có ý thức.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ví dụ, loài người nguyên thủy sống theo bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư
duy của họ đơn sơ, giản dị. Trải qua thời gian, sản vật thiên nhiên dần hao mòn dẫn đến
đói khát, theo đó sự tư duy, ý thức của họ phát triển và bắt dầu có bước tiến mạnh mẽ khi
từ săn bắt, hái lượm chuyển dần sang trồng trọt, chăn nuôi. Khi xuất hiện chủ nghĩa tư
hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý thức cộng đồng nguyên thủy.
Và chính những nội dung đó đã tác động ý thức của chúng ta hiện đại khi muốn có thức
ăn thì chúng ta vẫn phải trồng trọt và chăn nuôi từ đó tạo ra hàng loạt sự tư duy, sáng tạo
mới của con người.
-Thứ ba,vật chất quyết định bản chất của ý thức
Dựa theo ví dụ trên thì hiện nay con người thông qua hoạt động thực tiễn đã sáng tạo ra
rất nhiều hình thức trồng trọt, chăn nuôi mới. Có thể kể đến như lai các giống động –
thực vật để tạo ra giống có cả những đặc thù tốt của giống lai như giống cà chua bi siêu
quả màu vàng là giống cà chua F1 tập trung được những thế mạnh từ giống lai tạo, tạo
nên những chum quả cà chua siêu quả hiện nay . thời gian sinh trưởng ngắn. có thể trồng
quanh năm. Ít sâu bệnh và cho chất lượng quả cực tốt.

19
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
Ví dụ, hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động tâm sinh lý của thần
kinh bộ não người. Nhưng khi bộ não bị tổn thương thì ý thức cũng bị rối loạn. Hay ở
Việt Nam hiện nay, nhận thức về công nghệ thông tin của học sinh cấp 1, 2, 3 là kém sở
dĩ là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dạy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề
về cơ sở vật chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ thông tin của học sinh sẽ phát triển
hơn rất nhiều.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất vào trong đầu óc con người,
Ví dụ, nếu tâm trạng một công nhân không tốt thì làm giảm năng suất của một dây
chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng
ta thì dân tộc ta không thể giành thắng lợi ở hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ
cũng như Lênin đã nói: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách
mạng”.
-Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người, dựa trên những tri thức khách quan, hiểu biết những quy luật từ đó đề ra mục
tiêu xác định.
Ví dụ, hiểu tính chất vật lý của thép nóng chảy ở hơn 1000 độ C thì con người tạo ra các
nhà máy gang thép để sản xuất các loại thép với đủ kích cỡ chủng loại, chứ không phải
bằng phương pháp thủ công xa xưa.
-Thứ ba, vai trò cua ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thanh công
hay thất bại. Ví dụ, như nhà máy xử lí rác thải của Đồng Tháp từ việc không khảo sát
thực tế khách quan hay đúng hơn là nhận thức về việc xử lí rác vô cơ và hữu cơ chưa đẩy
đủ, vì vậy khi vừa khai trương nhà máy này đã không thể xử lí nổi và cho đến nay nó chỉ
là một dống phế liệu cần được thanh lý.
-Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời
đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại
Ví dụ, từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại hội VI, đảng ta
chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan lieu sang nền kinh tế thị trường, nhờ đó mà
sau gần 20 năm đất nước bộ mặt nước ta đã thay đổi hẳn.

20
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, ta rút ra được ý nghĩa phương
pháp luận:
Phải rút ra tính tôn trọng quy luật khách quan. Mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục
tiêu đều xuất phát từ thực tế khách quan. Phải biết tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan, nếu không phải gánh hậu quả, tai họa khôn lường. Nhận thức sự vật, hiện
tượng chân thực, đúng đắn, tránh bôi đen đối tượng, không gán cho đối tượng cái mà nó
không có. Ví dụ, trong ca dao tục ngữ “có thực mới vực được đạo” có nghĩa là vật chất có
quyết định nhiều tới ý thức của con người. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện
thực của cuộc sống một cách cụ thể. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, con người
sẽ biết những hành động, cư xử đúng mực.
Phát huy tính năng động, sáng tạo của con người, phát huy tác động tích cực của ý thức,
không trông chờ ý lại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Ví dụ, trước một trận đánh làm một quyết tâm thư, tự phê bình và phê bình, qua đó rút ra
những nhược điểm để tiến bộ, khắc phục các mặt tiêu cực, chưa tốt.
b) Học đi đôi với hành là cơ sở khoa học, phương pháp luận biện chứng, là quy luật của
sự phát triển toàn diện nhân cách con người, phát triển nền giáo dục Việt Nam hiện đại,
có ý nghĩa sâu sắc trong định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn giáo dục, đào tạo
ở các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay.
Tuy nhiên, đa số sinh viên vẫn còn dè dặt, thụ dộng với việc “học” lẫn việc “hành”, chưa
ý thức được việc rèn luyện, trau dồi, bổ sung thêm những kỹ năng và trải nghiệm thực tế.
Sinh viên có tư duy nước đôi, vừa muốn được trải nghiệm thực tiễn nhưng lại e ngại,
thiếu tự tin. Đây là một điều rất đáng tiệc cho ý thức của sinh viên hiện nay.
Môi trường đại học luôn tạo điều kiện cho các bạn sinh viên có thể tham gia các chuyến
đi thực tiễn đầy ý nghĩa. Chúng ta có thể kế đến chuyến đi 10 ngày (từ 15/01-25/01/2019)
của 18 sinh viên IUH được mời tham gia chương trình trao đổi sinh viên quốc tế –
Winter School Green Technology Camp do Đại học Quốc gia Nghị Lan (NIU) tổ chức.
Sinh viên sẽ được trải nghiệm nhiều hoạt động bổ ích và lý thú, cụ thể: Tham quan và
giao lưu với sinh viên quốc tế tại NIU. Học tập 05 chuyên đề; Tham qua một số Nhà máy
năng lượng tái tạo, Công ty khởi nghiệp thành công; Các trang trại nông nghiệp công
nghệ cao, gặp gỡ các nhà khoa học, các doanh nhân thành công tại đây. Đây là cơ hội để
nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường theo chuẩn AUN và thế giới.
Qua đó ta cũng có thể thấy được lợi ích của việc làm “học đi đôi với hành” sẽ giúp bản
thân sinh viên như thế nào. Kiến thức là vô tận, chúng ta chỉ là những hạt cát giữ sa mạc,
chính vì vậy ngay từ bây giờ phải bắt ngồi suy nghĩ nghiêm túc về quá trình học tập hiện
giờ của mình, đã làm tốt việc “học đi đôi với hành” hay chưa?

21

You might also like