Ảnh Hưởng Của Tín Ngưỡng Thờ Thành Hoàng Làng -Luận Án Trần Thị Hà Giang

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 266

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả

Trần Thị Hà Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN 6
1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng đến đời sống tinh thần cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay 6
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng đến đời sống tinh thần cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay 14
1.3. Những công trình nghiên cứu về quan điểm và giải pháp nhằm phát huy
những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng
thờ Thành hoàng làng đến đời sống tinh thần cư dân ngoại thành Hà Nội
hiện nay 17
1.4. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những
vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án 23
Chương 2: TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG VÀ ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 28
2.1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng và tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở
ngoại thành Hà Nội hiện nay 28
2.2. Đời sống tinh thần và những nhân tố ảnh hưởng tới đời sống tinh thần của cư
dân ngoại thành Hà Nội hiện nay 52
Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 74
3.1. Phương thức ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến đời sống
tinh thần cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay 74
3.2. Nội dung ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến đời sống tinh
thần cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay 79
3.3. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng
thờ Thành hoàng làng đến thần cư dân ngoại thành hiện nay 113
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN
NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CƯ
DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY 124
4.1. Quan điểm nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến đời sống tinh thần cư dân
ngoại thành Hà Nội hiện nay 124
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến đời sống tinh thần
cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay 135
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150
PHỤ LỤC 162
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH - HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá


ĐSTT Đời sống tinh thần
NTHN Ngoại thành Hà Nội
Nxb Nhà xuất bản
TNTTH Tín ngưỡng thờ Thành hoàng
UBND Ủy ban nhân dân
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Việt Nam vốn được biết đến là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng.
Hầu hết cư dân từ nông thôn đến thành thị, từ trí thức đến người nông dân
nói chung đều tín và hướng đến một tín ngưỡng nhất định. Hầu hết các tín
ngưỡng đều có đặc điểm chung là thể hiện sự biết ơn, kính trọng đối với tổ
tiên, dòng họ trong phạm vi huyết thống (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên); biết
ơn các vị anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm hoặc những người có công
với dân làng như dạy dân biết chữ, biết sản xuất nông nghiệp… trong phạm
vi làng xã (tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng) và cao hơn là biết ơn người
“đã có công dựng nước” trong phạm vi quốc gia, dân tộc (tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương). Từ đó có thể thấy, tín ngưỡng thờ Thành hoàng
(TNTTH) làng chính là sự phóng to của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sự thu
nhỏ của thờ cúng Hùng Vương và cũng chính nó trở thành dấu gạch nối giữa
hai thờ cúng này khi đều thể hiện lòng biết ơn của các thế hệ sau với các thế
hệ trước. Chính vì vậy, các tín ngưỡng nói chung, TNTTH làng nói riêng đã
trở thành một giá trị truyền thống văn hoá tâm linh ăn sâu bám rễ trong tiềm
thức, nó luôn thường trực trong đời sống tinh thần (ĐSTT) của nhân dân ta
từ ngàn đời nay mà chúng ta cần phải tiếp tục bảo tồn, gìn giữ, phát huy góp
phần xây dựng ĐSTT lành mạnh, phong phú cho cư dân ở những vùng mà
tín ngưỡng này còn thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia
thực hành thờ cúng.
Dù cho lịch sử thăng trầm, nhưng Hà Nội vẫn là nơi mang đậm dấu ấn
TNTTH làng, tín ngưỡng này sau đó được lan truyền đến các vùng nông thôn
- nơi cư dân sống chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa nước và nó đã trở thành một
trong những nét đặc trưng về văn hóa của cư dân nông nghiệp ở nhiều làng
quê ngoại thành Hà Nội (NTHN).
2

Hiện nay, TNTTH làng vẫn ảnh hưởng khá sâu sắc, phong phú đến
ĐSTT của cư dân NTHN ở cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Về mặt
tích cực, TNTTH làng đã góp phần đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu về tinh thần
của người dân trên địa bàn và là nhân tố quan trọng để gắn kết cộng đồng;
góp phần duy trì, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, cũng như tiếp
biến những giá trị văn hóa mới và cũng đã góp phần giáo dục lòng tự tôn, tự
hào dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, nhân văn cho người dân. Tuy nhiên,
việc thực hành TNTTH làng cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế khi có không
ít địa phương tiến hành trùng tu, xây dựng lại đình, nghè, miếu thờ Thành
hoàng không chỉ gây tốn kém, mà còn làm mất đi nét kiến trúc cổ xưa. Bên
cạnh đó, nội dung văn hóa truyền thống của TNTTH làng cũng đang bị mai
một, biến tướng. Các hiện tượng mê tín dị đoan, và các vấn đề xã hội phức tạp
khác,… đã gây ra nhiều khó khăn trong việc quản lý an ninh trật tự, an toàn
xã hội, gây tâm lý bất an trong cộng đồng cư dân trên địa bàn.
Trước thực trạng trên, việc phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng để giáo dục, giúp đỡ cư
dân NTHN, nhất là thanh thiếu niên hiểu và sống đoàn kết, hướng thiện, có
niềm tin, qua đó góp phần gìn giữ những nét đặc sắc trong văn hóa tâm linh
nói riêng và đời sống tinh thần của cư dân NTHN là một việc làm cần thiết.
Nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng đến đời sống tinh thần của cư dân ngoại thành Hà Nội
hiện nay” cho luận án tiến sĩ triết học của mình, với hy vọng góp phần
nghiên cứu, làm sáng tỏ thực trạng ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT
của cư dân NTHN hiện nay, qua đó đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH
làng đến ĐSTT của người dân nơi đây.
3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án


2.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của TNTTH làng đến
ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp
chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân nơi đây.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về TNTTH làng và ĐSTT cư dân
NTHN hiện nay.
- Phân tích phương thức, nội dung và thực trạng ảnh hưởng của
TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng
tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân
NTHN hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của cư dân NTHN hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu ảnh hưởng của TNTTH làng đến một số
lĩnh vực của ĐSTT, cụ thể là: quan điểm, tư tưởng; đạo đức, lối sống; văn
hóa nghệ thuật, tín ngưỡng tôn giáo của cư dân 1 thị xã và 17 huyện NTHN
hiện nay.
- Về thời gian: đề tài giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 2008 khi Hà
Nội có quyết định mở rộng địa giới hành chính cho đến năm 2019.
- Về đối tượng khảo sát: cư dân đang sinh sống, học tập, làm việc trên
địa bàn thị xã Sơn Tây và 17 huyện NTHN hiện nay (cụ thể là cán bộ làm
công tác văn hoá, công chức Nhà nước; nông dân, những người làm nghề tự
4

do; học sinh, sinh viên; người già và hưu trí; các chủ từ, chủ đình, chủ đền,
người trông coi hương khói tại các đình, đền ở NTHN hiện nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về ĐSTT, về tôn giáo,
tín ngưỡng. Đồng thời luận án còn dựa vào các điển tích, sự tích các
Thành hoàng, phong tục thờ tự các Thành hoàng qua khảo cứu lịch sử và
thực tế. Bên cạnh đó, luận án còn kế thừa có chọn lọc, học hỏi, tiếp thu
những công trình khoa học đi trước như các sách, báo chí, tư liệu trong và
ngoài nước có nội dung hữu ích cho luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các
phương pháp cơ bản khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch, quy
nạp, logic - lịch sử. Bên cạnh đó luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu ngành và liên ngành như: sử học, văn hóa học, tôn giáo học, Hà Nội học,
điều tra xã hội học, thống kê,… nhằm thực hiện nhiệm vụ, mục đích đề ra.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm rõ TNTTH làng ở NTHN, dưới góc độ ảnh
hưởng của nó đến một số lĩnh vực của ĐSTT cư dân Hà Nội từ 2008 (từ khi
Hà Nội mở rộng địa giới hành chính) đến năm 2019.
- Luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến
ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy các môn học như: triết học, Tôn giáo học, Văn hóa học,
5

Cơ sở văn hóa Việt Nam, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Lịch sử tư tưởng Triết
học Việt Nam,… ở các cơ sở nghiên cứu, đào tạo thuộc khối ngành khoa học
xã hội và nhân văn.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình khoa học của tác
giả liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 11 tiết.
6

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG


CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN
CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
Phan Kế Bính, với công trình Việt Nam phong tục [14], qua 47 mục
thuộc 3 thiên trong cuốn sách, đã dày công tìm hiểu những lề thói, tập quán xa
xưa của cha ông mang tính làng xã ở các vùng nông thôn Việt Nam. Tác giả
cho rằng đất lề quê thói hay những lễ nghi, phong tục luôn thường trực trong
tâm hồn cư dân Việt, nó không chỉ có ảnh hưởng đến việc hướng con sống
thiện, sống hoà thuận yêu thương gắn kết mà còn giúp cho dòng tộc, quê
hương, làng xã mang bản sắc, cốt cách riêng. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh
những hủ tục còn đâu đó vô hình kìm hãm sự phát triển của xã hội. Thực chất
những yếu tố mà tác giả chỉ ra trong đó phải kể đến những lễ nghi thờ cúng
Thành hoàng còn in đậm trong ĐSTT của cư dân làng quê mà Bắc bộ là điển
hình. Công trình này được tác giả tìm hiểu, khai thác rất công phu, mang tinh
thần khoa học sâu sắc, rất hữu ích cho tác giả luận án nghiên cứu sự ảnh
hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT của người dân NTHN hiện nay.
Leopold Cadiere, với Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo ở
người Việt do Đỗ Trinh Huệ dịch [16]. Cuốn sách dày hơn 630 trang, với
nhiều nội dung phong phú. Bàn đến nội dung tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng,
Leopold Cadiere đã thể hiện sự am hiểu của ông về văn hoá, tín ngưỡng cũng
như đức tính, lối sống cư dân Việt một cách tường tận, trân quý nhất. Qua đây
tác giả cũng lan toả những giá trị mang âm hưởng tinh thần, hồn cốt đặc sắc
chỉ có ở Việt Nam. Tác giả chỉ ra rằng TNTTH làng ở các miền quê có từ rất
sớm và rất được coi trọng luôn được người dân gìn giữ, bảo tồn và phát huy
7

từ nhiều thế hệ. Từ đó, tác giả mong muốn một hướng phát triển bền vững
cho bản sắc văn hoá có từ bao đời của dân tộc. Đây là cuốn sách có ý nghĩa về
mặt khoa học to lớn để nghiên cứu sinh tiếp tục làm rõ, sâu sắc hơn cơ sở lý
luận cho việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách công phu nghiêm túc cơ sở lý
luận cho sự ảnh hưởng của TNTTH đến ĐSTT cư dân vùng NTHN.
Hoàng Hồng Cẩm, với Bà Chúa Kho Thành hoàng làng Giảng Võ
[15]. Cuốn sách là sự giới thiệu khá chi tiết về Bà Chúa Kho ở Đình Giảng
Võ (Hà Nội). Để tri ân người con gái mang dòng máu anh hùng, người dân
đã tôn thờ Bà làm Thành hoàng làng, và lập đền thờ. Đền thờ Bà được nhân
dân quen gọi là Đình thờ Bà Chúa Kho. Hiện nay, ngoài nơi thờ chính là
Giảng Võ, nhiều địa phương khác cũng lập đền thờ Bà. Thông qua nghiên
cứu này thì vị trí, vai trò của TNTTH làng trong đời sống đương đại đã được
làm sáng tỏ; đồng thời mang đến cho tác giả luận án những chứng cứ lịch sử
quan trọng để lý giải nguồn gốc hình thành TNTTH làng của cư dân vùng
NTHN hiện nay.
Lại Văn Toàn, Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Như Diệm, trong
cuốn Thần tích thần sắc Hà Nam [137] đã ghi lại dấu ấn các Thành hoàng
làng gồm các vị thần có công bảo hộ dân làng, các anh hùng đánh giặc bảo
vệ Tổ quốc hoặc người có công dạy dân biết chữ, biết sản xuất nông nghiệp.
Cuốn sách bước đầu đã cung cấp những dẫn chứng khoa học tin cậy, đầy đủ
mang đến một góc nhìn đa chiều về gốc tích, tục thờ các vị Thành hoàng. Đó
chính là chỉ dẫn quý báu cho tác giả luận án đi sâu nghiên cứu vai trò của
các các vị Thành hoàng trong ĐSTT của cư dân vùng nông thôn nói chung
và đời sống gia đình nông thôn vùng NTHN nói riêng.
Trần Huy Đĩnh và các cộng sự, trong Sự tích Thành hoàng làng ở Phú
Xuyên [24], đã giới thiệu truyện kể về các vị Thành hoàng làng được lưu
truyền trong dân gian ở huyện Phú Xuyên, bảng tra tên địa danh kèm theo
8

một số bản chữ Hán ghi chép về gốc tích các vị Thành hoàng làng ở huyện
Phú Xuyên, Hà Nội. Cuốn sách là một nguồn tư liệu bổ ích giúp tác giả làm
rõ một số nội dung tín ngưỡng của người dân NTHN.
Nguyễn Duy Hinh, trong cuốn sách Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam
[39] đã chỉ rõ nguồn gốc, ý nghĩa, hình thức biểu hiện; sự tích và việc thờ
cúng các vị Thành hoàng ở Việt Nam. Xuyên suốt công trình, với cách diễn
đạt súc tích, dễ hiểu, tác giả đã cho người đọc tiếp cận với những kiến thức cơ
bản về TNTTH - một nhu cầu tinh thần phổ biến ở các vùng nông thôn ở nước
ta. Tuy nhiên, căn cứ vào việc xác định đối tượng nghiên cứu, nên cuốn sách
mới chỉ dừng lại phương diện lý thuyết, nhiều vấn đề thực tiễn như ảnh hưởng
của TNTTH làng đến ĐSTT của người dân Việt Nam, những biện pháp khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực của loại hình tín ngưỡng này trong đời sống sinh
hoạt hàng ngày,... chưa được làm rõ. Kết luận lại công trình có nhiều đóng
góp để nghiên cứu sinh có thể học hỏi bổ sung cho luận án của mình được đầy
đủ hơn.
Nguyễn Duy Hinh, với bài viết Thần làng và Thành hoàng [40], đã
phân tích làm rõ khái niệm về thần làng, Thành hoàng, phân biệt và so sánh
sự giống, khác nhau giữa thần làng, Thành hoàng, nêu ra một vài vấn đề cần
nghiên cứu có đề cập đến việc thực hành thờ cúng các vị thần này. Với những
tư liệu thu lượm được qua bài viết, tác giả của luận án có thể vận dụng để
triển khai, làm rõ một số nội dung lý luận được trình bày trong luận án.
Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Duy Hinh, với cuốn Thần tích Hà Nội và
tín ngưỡng thị dân [104]. Cuốn sách gồm 7 chương, ra đời trước bối cảnh còn
nhiều hạn chế trong việc nghiên cứu, tìm hiểu những giá trị tâm linh Hà Nội.
Cuốn sách với những nghiên cứu cụ thể, giúp người đọc đi sâu khám phá về
vùng đất kinh kỳ xưa cũ, qua đó, sẽ thêm hiểu, thêm trân trọng những giá trị
văn hóa của Hà Nội nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung. Tuy
9

nhiên, những kết quả đã đạt được trong công trình nêu trên mới chỉ là những
khám phá bước đầu, cần được nghiên cứu bổ sung, phát triển.
Nguyễn Duy Hinh, với cuốn sách Bách khoa thư Hà Nội: Kỉ niệm
1000 năm Thăng Long - Hà Nội 1010 - 2010 [41]. Cuốn sách bao gồm
nhiều nội dung phong phú trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội in
đậm dấu ấn một Hà Nội văn hiến ngàn năm. Trong tập 16 (tổng 18 tập) đã
giới thiệu về một số loại hình tín ngưỡng lâu đời của Thăng Long - Hà Nội,
tiêu biểu như thờ cúng Vua Hùng, thờ Trời, các vị Thành hoàng có công
khai phá, lập làng, thờ Tổ của các nghề, thờ tổ tiên. Đây là những tư liệu
quý báu mà tác giả luận án tiếp tục vận dụng trong quá trình đi sâu tìm hiểu
lĩnh vực mà luận án đang nghiên cứu.
Đỗ Quang Hưng, với cuốn sách Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng Thăng
Long - Hà Nội [47], đã cung cấp cho chúng ta góc nhìn đầy đủ nhất về đời
sống, nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo phong phú của cư dân thủ đô. Cuốn sách
đặc biệt dày công nghiên cứu những công trình đi trước của các tác giả nước
ngoài, trên cơ sở đó tác giả cuốn sách đã đưa ra kết quả nghiên cứu mới có giá
trị rất to lớn về “không gian tín ngưỡng, tôn giáo” của Thăng Long - Hà Nội.
Có thể thấy cuốn sách này rất bổ ích cho tác giả luận án trong quá trình
nghiên cứu, triển khai nội dung của luận án ở chương 2 và chương 3.
Nguyễn Quang Khải, trong Một số nghi lễ, hội thi, trò diễn dân gian và
phong tục tập quán có liên quan đến tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở Bắc
Ninh [54], đã trình bày sơ lược về TNTTH tại các làng ở Bắc Ninh. Tác giả
cũng đã nêu lên một số nghi lễ phục vụ cho tín ngưỡng này; mô tả một số trò
diễn, trò chơi có liên quan đến tín ngưỡng,... Đây chính là tri thức hữu ích góp
phần hoàn thiện hơn công trình nghiên cứu TNTTH ở vùng NTHN hiện nay.
Vũ Ngọc Khánh, trong cuốn sách Tín ngưỡng dân gian [56] đã phân
tích khá chi tiết nguồn gốc, từng bước phát triển, sự thăng trầm của một số
10

loại hình tín ngưỡng dân gian Việt Nam như: Tín ngưỡng phồn thực; Tín
ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ; Tín ngưỡng thờ động, thực vật; Tín ngưỡng sùng
bái con người. Việc luận giải làm rõ nguồn gốc cũng như sự phát triển của
các tín ngưỡng bản địa này chính là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả luận
án tham khảo trong nghiên cứu TNTTH làng ở vùng NTHN.
Lê Tâm Đắc, Tạ Quốc Khánh, trong bài viết “Tính hỗn dung của người
Việt thể hiện qua đối tượng thờ trong các ngôi chùa ở Hà Nội” [23] đã phân
tích tương đối kỹ về sự giao thoa các tín ngưỡng ở Việt Nam, được trình bày
thông qua quan niệm, nghi lễ, tục thờ, hình thức thờ ở các chùa Hà Nội; từ đó
chỉ ra những nguyên nhân ảnh hưởng chủ yếu đến sự giao thoa đó và bản sắc
văn hóa tâm linh đa dạng, phong phú trong sự hỗn dung của người Việt Nam.
Mặc dù chỉ mới tiếp cận vấn đề dưới góc độ tôn giáo, nhưng tác giả cuốn sách
đã làm được nhiều hơn mục đích ban đầu đặt ra, thể hiện được tư duy triết học
về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Đây chính là nguồn tri thức khoa học quý giá
để luận án nghiên cứu sâu hơn về TNTTH làng.
Nguyễn Đức Lữ, với cuốn sách Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian
ở Việt Nam [75] bước đầu đã đem đến cho độc giả những hiểu biết về tín
ngưỡng bản địa, dân gian như: lễ hội, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thành
hoàng, thờ Mẫu, tín ngưỡng phồn thực và mê tín dị đoan. Từ đó Nguyễn Đức
Lữ đã nêu rõ thực trạng và biểu hiện đặc điểm của các tín ngưỡng bản địa,
dân gian trên ở Việt Nam hiện nay. Đây là một công trình đầy giá trị khoa học
thiên về khai thác tín ngưỡng dân gian, nên ảnh hưởng của các loại hình tín
ngưỡng này, đặc biệt TNTTH tới ĐSTT của người dân chưa được làm rõ.
Vấn đề này cần được triển khai tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện.
Lam Khê, Khánh Minh, trong cuốn 36 thần tích, huyền tích Thăng
Long - Hà Nội [59], đã đề cập đến những sự tích, những vị thần, tích của các
vị thần được nhân dân suy tôn, được sắc phong và thờ phụng trên đất Thăng
11

Long: thần Kim Quy, Thánh Gióng, Mẫu Liễu Hạnh, thánh Tản Viên, và các
vị thần giữ vị trí trấn tứ phía Hà Nội như Linh Lang Đại Vương (được thờ ở
đền Voi Phục), Cao Sơn Đại Vương (thờ ở đền Kim Liên), Thần Long Đỗ
(thờ ở đền Bạch Mã), Huyền Thiên Trấn Vũ (thờ ở đền Quán Thánh)… ngoài
ra còn thờ các vị Thành hoàng làng ở các địa phương, các vị Tổ nghề. Cuốn
sách giúp cho tác giả luận án có thêm nhiều tư liệu thực tiễn để tiếp tục khảo
sát, nghiên cứu về tục thờ cũng như sự ảnh hưởng của TNTTH làng đến
ĐSTT cư dân NTHN.
Nguyễn Hữu Minh, trong cuốn Đời sống văn hoá của cư dân Hà Nội
[86], đã phân tích, làm sâu sắc sự phong phú, đa dạng trong nhu cầu tâm linh
tinh thần không thể thiếu của cư dân Hà Nội; phân tích phong tục, nghi lễ và
các hoạt động thờ cúng, sinh hoạt hàng ngày có liên quan đến đời sống văn
hóa của người dân trên địa bàn. Cuốn sách đi sâu về lĩnh vực đời sống xã hội
dưới góc nhìn từ phương diện nhà nghiên cứu văn hóa, song nó vẫn được coi
là một tài liệu quan trọng để tác giả luận án khai thác, làm rõ hơn đầy đủ hơn
một số nội dung trong luận án của mình.
Minh Thảo, Xuân Mỹ, trong cuốn sách Truyền thuyết các vị thần Hà
Nội [120], đã giới thiệu cho người đọc những hiểu biết nhất định về một số vị
thần được thờ trong các đình, đền ở Hà Nội thông qua việc nghiên cứu các
câu chuyện lịch sử, sự thêu dệt của nhân dân để tái hiện lên hình ảnh về
những vị thần có gốc gác và sự tích từ những con người cụ thể, những gây
dựng, bảo vệ làng xóm, rộng hơn là quốc gia xã tắc và khi họ mất đi, để tri ân
công trạng, nhân dân đã phong thần và thực hành thờ cúng. Cuốn sách cũng
chỉ ra danh tính, công trạng, thời gian và địa điểm được phong thần của các vị
thần này. Mặc dù không đề cập nhiều đến hướng nghiên cứu của đề tài luận
án, nhưng đây là tài liệu khoa học có giá trị giúp tác giả nắm rõ hơn về nguồn
gốc hình thành của các vị thần, trong đó có Thành hoàng làng của người Việt
ở vùng NTHN.
12

Nguyễn Minh Ngọc, trong Bách thần Hà Nội [94], đã nhìn nhận, tiếp
cận nguồn gốc các vị thần, Thành hoàng được thờ cúng ở các ngôi đình, đền
Hà Nội chẳng hạn có công xây dựng làng, có công truyền nghề cho dân, có
công chống ngoại xâm,… Công trình của tác giả Nguyễn Minh Ngọc tuy
thiên về phân tích truyền thuyết lịch sử, song nó có giá trị về mặt thực tiễn
khoa học rất lớn cho tác giả luận án trong việc nghiên cứu vấn đề TNTTH
làng ở vùng NTHN.
Vũ Thanh Sơn, với cuốn sách Những vị thần được thờ ở Hà Nội [115].
Trong cuốn sách này, bằng những hiểu biết và khám phá của bản thân (thông
qua kết quả của phương pháp nghiên cứu điền dã), tác giả đã giới thiệu cho
người đọc những đặc trưng cơ bản nhất của các vị thần được nhân dân suy
tôn, thực hành việc cúng bái, thờ tự ở Hà Nội. Trong đó chúng ta sẽ thấy rõ
những công trạng, đóng góp của các vị thần ở các cấp độ khác nhau từ làng xã
đến quốc gia qua các thời kỳ lịch sử. Tuy bị giới hạn bởi đối tượng nghiên
cứu, song cuốn sách là một nguồn tư liệu tham khảo cần thiết cho tác giả luận
án khi tiếp tục tìm hiểu về đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân Hà
Nội nói chung, cư dân ở vùng NTHN nói riêng.
Nguyễn Gia Thiều, trong bài Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng Việt Nam [123], đã khái quát đôi nét về nguồn gốc, ý nghĩa và tục
thờ Thành hoàng ở Việt Nam. Ở nước ta từ xa xưa việc cúng bái, thờ tự các vị
Thành hoàng đã xuất hiện rất sớm có nguồn gốc ngoại lai và bản địa, nó có
mặt khắp nơi khắp vùng miền cả nước. Mỗi thời kỳ, việc thực hành thờ cúng
tín ngưỡng này lại có sự biến đổi theo những xu hướng khác nhau. Bằng dẫn
chứng khoa học đa dạng, tác giả cũng đã cho chúng ta thấy được rằng, sự tồn
tại của TNTTH trong đời sống cộng đồng người Việt là mang tính khách quan
và có nguồn gốc từ chính nhu cầu được thoả mãn về mặt tâm linh của quần
chúng. Những nội dung triển khai trong công trình khoa học này, mặc dù
không sát gần với đề tài luận án, nhưng nó đã cung cấp cho tác giả luận án cái
13

nhìn toàn diện hơn về TNTTH làng, từ đó tiếp tục đi sâu nghiên cứu luận án
một cách có hiệu quả.
Ngô Đức Thịnh, trong Tín ngưỡng & văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam
[125], đã khái quát những vấn đề cơ bản cả nguồn gốc lý luận và thực tại thờ
cúng trong hệ thống tín ngưỡng Việt Nam nói chung và TNTTH làng nói
riêng. Tác giả cũng nhấn mạnh việc duy trì các hoạt động, lễ nghi, phong tục
thờ cúng Thành hoàng có liên quan mật thiết và có ảnh hưởng sâu rộng đến
ĐSTT và các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của cư dân. Những
nội dung triển khai trong công trình khoa học này, mặc dù không sát gần với
đề tài luận án, nhưng nó đã cung cấp cho tác giả tri thức, góc tìm hiểu toàn
diện hơn về văn hóa, về tín ngưỡng bản địa, từ đó có thể áp dụng một cách
hiệu quả vào quá trình nghiên cứu của mình.
Doãn Đoan Trinh, trong bài viết “Một dạng Thành hoàng ở Hà Nội”
[140], đã vẽ nên một bức tranh sinh động về các tín ngưỡng bản địa, tín
ngưỡng dân gian ở Hà Nội, trong đó Doãn Đoan Trinh đề cập chủ yếu đến
loại hình TNTTH. Theo tác giả, TNTTH ở Hà Nội có nhiều điểm khác so với
TNTTH nơi làng xã. Có nhiều nguyên nhân mang đến sự khác nhau độc đáo
ấy, trong đó tác giả chú ý luận giải nhiều về các điều kiện kinh tế - xã hội và
tâm lý người dân. Bài viết là một nguồn tư liệu tham khảo bổ ích cho tác giả
luận án trong quá trình triển khai các quan niệm về TNTTH làng ở chương 2
của đề tài.
Nguyễn Tọa, trong Hội ba làng Kẻ [136], đã khái quát về làng Kẻ xưa
nay, Thành hoàng làng và các di tích ở đó có thờ vị Thành hoàng của người
làng Kẻ thuộc huyện Từ Liêm - Hà Nội. Tác giả giới thiệu về sự tích và diễn
tích trong các lễ hội của ba làng Kẻ là: làng Đống Đa, làng Thượng Cát và
làng Đại Cát. Công trình khoa học nêu trên là một gợi ý cho tác giả luận án
khi nghiên cứu về gốc tích, nội dung, thực hành và thực chất của việc thờ
cúng các vị thần, trong đó có TNTTH làng ở NTHN.
14

Như vậy, trên cơ sở tổng quan những công trình đi trước có nghiên cứu
lý luận về ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay, là
cơ sở khoa học cho tác giả luận án khái lược về nguồn gốc, quá trình hình
thành, các hình thức thờ tự của TNTTH. Hầu hết, các nhà khoa học đều cho
rằng, TNTTH trở thành hệ thống và phát triển mở rộng từ khi có sự giao thoa
văn hóa với người Trung Quốc. Chính vì thế, các vị thần ở nước ta mang tên
gọi Thành hoàng theo nghĩa Việt hóa. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng,
TNTTH của người Việt có điểm khác biệt cơ bản, đó chính là yếu tố làm nên
bản sắc trong tư duy tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt Nam. Các công trình
khoa học đó là tư liệu thực tiễn sinh động để tác giả luận án tiếp tục tìm hiểu,
tham khảo khi nghiên cứu, khái quát về TNTTH của cư dân vùng NTHN, với
tư cách là một trong những tín ngưỡng phổ biến và đặc trưng của địa bàn.

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG ẢNH


HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG ĐẾN ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Duy Hinh, với Thần tích Hà Nội và tín
ngưỡng thị dân [104], đã giới thiệu cho người đọc về các giá trị phi vật thể
mang dấu ấn tâm linh gồm các thần tích và nghi lễ, tục thờ Thành hoàng ở
Hà Nội. Tác giả cũng cho thấy sự ảnh hưởng của TNTTH Hà Nội đến lối
sống, tính cố kết vùng, tâm lý coi các vị Thành hoàng làng là nơi nương náu
của tâm hồn, giúp cho tinh thần cư dân được bình an hơn. Những minh
chứng này giúp tác giả luận án tiếp tục mở rộng nghiên cứu sự ảnh hưởng
của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân ở các vùng hành chính mới sát nhập Hà
Nội từ năm 2008 đến nay.
Đỗ Quang Hưng, với Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng Thăng Long - Hà
Nội [47]. Tác giả tập sách đã dày công nghiên cứu và đưa ra được một
phương án tốt nhất khi kết hợp phương pháp lịch sử tôn giáo trong việc dựng
15

lại lịch sử các tôn giáo chính như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao
Đài,... cũng như các loại hình tín ngưỡng ở Thăng Long - Hà Nội và đặt nó
trong tổng thể không gian tâm linh tín ngưỡng. Tuy nhiên, những hình ảnh
của tín đồ mỗi tôn giáo, những cộng đồng tín ngưỡng ở Thăng Long - Hà
Nội vẫn chưa được phục hiện đầy đủ trong cuốn sách. Nhưng đối với tác giả
luận án, đây được coi là nguồn tư liệu hữu ích cho tác giả khi phân tích, tìm
hiểu và làm rõ sự ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN
hiện nay.
Vũ Ngọc Khánh, với Tín ngưỡng dân gian [56] đã cho thấy: Tín
ngưỡng này nó đã phản ánh sự hiểu biết ban đầu của con người về thế giới
con người sinh sống, về bản thân con người và các mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, xã hội một cách lệch lạc, cảm tính, được lý giải bằng
những câu chuyện thần thoại, những sự tích, điển cố,… mang tính chất là
những dạng nhận thức ban đầu và đơn giản nhất của con người về thế giới.
Bên cạnh đó, ông cũng chỉ rõ rằng tín ngưỡng dân gian nói chung và
TNTTH nói riêng có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh - văn hóa -
tinh thần của cư dân ở các vùng miền. Nó đã ăn sâu, tồn tại lâu đời trong
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân và trở thành bản sắc độc đáo,
văn hóa riêng của người Việt. Luận điểm này cung cấp tác giả luận án có
được cách nhìn sâu sắc trong lý giải nguồn gốc và sự ảnh hưởng của TNTTH
làng đến ĐSTT của cư dân ở vùng NTHN.
Nguyễn Đức Lữ, trong cuốn sách Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam [75], có trình bày đến sự ảnh hưởng của tín ngưỡng bản địa,
dân gian, trong đó có TNTTH đến ĐSTT người Việt. Song do giới hạn bởi
đối tượng nghiên cứu, tác giả mới chủ yếu đề cập đến nội dung, hình thức và
nghi lễ thờ cúng của các tín ngưỡng. Đây chính là khoảng trống để tác giả
luận án tiếp tục khai thác, làm sâu vấn đề luận án cần nghiên cứu.
16

Nguyễn Hữu Hiếu, trong Tìm hiểu văn hoá tâm linh Nam Bộ [37], trên
cơ sở khái quát về văn hoá tinh thần, tâm linh, trong đó có TNTTH làng đã
chỉ ra sự tồn tại lâu bền của chúng trong tâm linh của người Việt ở Nam Bộ.
Những kết quả nghiên cứu đó đã giúp tác giả luận án có cái nhìn phong phú,
đa dạng và sâu sắc, súc tích hơn về nội dung đang nghiên cứu.
Đỗ Thị Minh Thuý, với bài viết “Biến động của tín ngưỡng dân gian
Thăng Long - Hà Nội và những ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hóa
đô thị hiện nay” [134]. Bài viết đã làm rõ sự biến động trong tín ngưỡng dân
gian của Thăng Long - Hà Nội từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX,
trong đó nhấn mạnh đời sống tín ngưỡng của Hà Nội từ năm 1954 đến nay.
Tác giả còn chỉ ra thực trạng biến động của TNTTH làng qua khảo sát tại
cụm đình thuộc khu vực làng xã phía tây, tây nam kinh thành Thăng Long,
qua đó khẳng định: Vấn đề văn hóa các sinh hoạt tín ngưỡng với mục tiêu
xây dựng một đời sống tâm linh tích cực còn phù hợp và có giá trị cho đến
quá trình đô thị Hà Nội hiện nay. Những ý kiến đề cập trong bài viết có thể
coi là nguồn tư liệu tham khảo quý báu tác giả luận án tiếp tục đi sâu nghiên
cứu những vấn đề đặt ra trong luận án.
Trịnh Cao Tưởng, với cuốn sách Thành hoàng ở Việt Nam và Shinto
ở Nhật Bản: Một nghiên cứu so sánh [148]. Trong công trình này, tác giả
đã hệ thống, phân tích sự hình thành, các nghi lễ, tục thờ cúng của Thành
hoàng ở Việt Nam so sánh với tục thờ Shinto ở Nhật Bản. Tác giả cũng cho
thấy, dù có nguồn gốc hay hình thức khác nhau thì cả Thành hoàng ở Việt
Nam hay thờ Shinto ở Nhật Bản đều có sự ảnh hưởng sâu rộng đến ĐSTT
của cư dân mỗi quốc gia, đặc biệt là yếu tố tinh thần, văn hoá, tâm linh và
cách sống. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này được thể hiện cụ thể như thế nào?
Ảnh hưởng của nó tới ĐSTT của người dân Nhật Bản và Việt Nam ra
17

sao?,… thì chưa được tác giả làm rõ. Mặc dù vậy, những nghiên cứu so
sánh đã đạt được của công trình đi trước này vẫn là căn cứ thực tiễn bổ ích
để tác giả luận án triển khai nội dung chương 3 của đề tài.
Đinh Khắc Thuân, với bài viết “Thờ cúng Thành hoàng ở Việt Nam
qua tài liệu Hán Nôm” [129]. Trong bài viết, tác giả đã khẳng định: Thờ
cúng Thành hoàng ở Việt Nam từ lâu có nguồn gốc cả ngoại lai (Trung
Quốc) và bản địa người Việt, nhằm tưởng nhớ người có công với làng và
mong muốn được thần che chở, phù trì. Xuyên suốt bài viết, là sự giới thiệu
khái quát những nghi lễ, phong tục thờ Thành Hoàng từ xa xưa của cư dân
Việt được ghi chép qua tài liệu Hán Nôm. Tác giả tiếp thu và so sánh đối
chiếu sự ảnh hưởng qua các tài liệu đi trước và tiếp tục khái quát đánh giá sự
ảnh hưởng của tín ngưỡng này đến ĐSTT của cư dân vùng NTHN hiện nay.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về thực trạng ảnh hưởng của
TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay còn nằm rải rác trong
các nghiên cứu. Hầu hết kết quả nghiên cứu của các tác giả đều chỉ ra
nguồn gốc, nghi lễ, tục thờ cúng các vị Thành hoàng ở Việt Nam. Những
nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu yếu tố triết học về tự
nhiên trong loại hình tín ngưỡng dân gian nói chung. Song, đó là cơ sở
khoa học để tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu theo hướng mới về TNTTH
làng của người Việt vùng NTHN.

1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI


PHÁP NHẰM PHÁT HUY NHỮNG ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH
HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG ĐẾN ĐỜI
SỐNG TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
Mai Quang Hiện, Mai Diệu Anh, trong bài viết “Về vấn đề bảo tồn
những giá trị văn hóa và bảo đảm an ninh trật tự trong các lễ hội tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay” [36], đã khẳng định: “Lễ hội là một loại hình sinh hoạt
18

văn hóa cộng đồng phổ biến và đậm đà bản sắc dân tộc, là tài sản vô giá
trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, làm giàu và phát huy giá trị nền
văn hóa dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội, nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo
văn hóa. Bài viết cũng đã chỉ ra thực trạng bảo tồn những giá trị văn hóa và
bảo đảm an ninh trật tự trong các lễ hội tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và nêu
ra một số biện pháp tổ chức có hiệu quả các hoạt động lễ hội này: Cần chú ý
bảo tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc trong lễ hội, loại
bỏ dần các yếu tố lạc hậu, xây dựng thêm các tiêu chí văn hóa mới phù hợp;
khôi phục, giữ lại nét riêng của mỗi lễ hội, gắn với truyền thống của vùng,
miền. Chính quyền địa phương các cấp cần quản lý chặt chẽ việc quy hoạch
sắp xếp các hàng quán, dịch vụ vui chơi giải trí hợp lý, tạo điều kiện để nhân
dân địa phương có thêm thu nhập, nhưng vẫn bảo đảm tính văn hóa trong
các hoạt động dịch vụ, không tạo kẽ hở nảy sinh các hiện tượng tiêu cực,
làm mất đi bản sắc văn hóa, ý nghĩa tốt đẹp của lễ hội,…” [36]. Những giải
pháp này chính là căn cứ thực tiễn cho tác giả luận án suy nghĩ, đưa ra các
giải pháp góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực, bên cạnh đó hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT vùng NTHN hiện nay.
Micrcea Eliade, với công trình khoa học Bàn về nguồn gốc các tôn
giáo [28]. Cuốn sách gồm 13 chương, với 515 trang. Từ sự hỗn tạp của
những biểu tượng, thần thoại, nghi lễ và những tư tưởng tôn giáo khác nhau
trên thế giới, Eliade đã tạo nên một bức tranh tầm vóc về mối quan hệ chặt
chẽ giữa con người và thế giới thần thánh, trải dài hàng nghìn năm. Đối với
Eliade, thay vì nghiên cứu lịch đại, tuân thủ nguyên tắc niên biểu cứng nhắc,
ông nghiên cứu đồng đại với sự so sánh (so sánh mô thức giữa các tôn giáo)
trên một phạm vi rộng lớn. Eliade nghiên cứu đa dạng từ các nền văn minh
cổ đại như Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Hoa, Hy - La, cho tới các vùng văn
hóa như châu Phi, châu Úc (Australia và New Zealand), Indonesia, Bắc cực,
19

các tộc người như người Iroquois, người Esquimo, Polynésian, Melanesian,
tộc Khond,… Những dẫn chứng mà Eliade đưa ra trong cuốn sách một cách
tự nhiên gợi cho người đọc những liên tưởng đến các tín ngưỡng bản địa trên
bản đồ văn hóa của Việt Nam. Ông đã đề cập đến nguồn gốc của “vua” hay
“thánh” ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có giải thích về Lạc Long Quân,
“vua rồng” - vị vua huyền thoại đầu tiên của Việt Nam. Đó chính là chỉ dẫn
quý báu cho tác giả luận án đi sâu tìm hiểu các vấn đề tín ngưỡng ở Việt
Nam, trong đó có TNTTH làng.
Jame George Frazer, với cuốn sách Cành vàng (Bách khoa thư về văn
hoá nguyên thuỷ) [29]. Cành Vàng với 1126 trang, J.Franzer đã trình bày sự
tiến hoá về mặt văn hoá của nhân loại dự trên mối quan hệ cả ma thuật, tôn
giáo và khoa học. Trong đó tác giả cũng đi sâu phân tích kỹ đời sống tôn
giáo, tín ngưỡng có sự ảnh hưởng nhất định đến đời sống tâm lý của con
người. Xét về phương diện tư liệu, Cành Vàng vẫn là một công trình khoa
học đây giá trị thực tiễn để tác giả luận án đi sâu tìm tòi luận cứ thực tiễn
cho luận án của mình.
Vũ Ngọc Khánh, trong Thờ cúng Thành hoàng làng ở đồng bằng Bắc
bộ [55], đã cho thấy, từ xưa đến nay, việc thờ cúng Thành hoàng ở vùng
nông thôn miền bắc Việt Nam rất phổ biến. Mỗi loại thờ cúng lại có những
hình thức, nghi thức thờ cúng không giống nhau. Trải qua bao thời gian, việc
thờ cúng Thành hoàng làng cũng bị mai một và thường ẩn dưới hình thức lễ
hội. Đề tài đi sâu phân tích, khái quát hiện trạng thờ cúng Thành hoàng ở
vùng nông thôn miền bắc Việt Nam, qua đó đề xuất các giải pháp để phát
huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của TNTTH làng ở
đồng bằng Bắc bộ, góp phần gìn giữ, tôn tạo, phát huy các giá trị văn hoá mà
cha ông để lại từ bao đời nay. Công trình khoa học này tuy chưa nêu ra được
các giải pháp mới cho vấn đề nghiên cứu, nhưng là tài liệu hữu ích tác giả
20

luận án định hướng, trình bày một cách khoa học và kỹ lưỡng đề tài của
mình, góp phần làm cơ sở cho việc phát huy những ảnh hưởng tích cực của
TNTTH làng ở vùng NTHN hiện nay.
Hoàng Thị Lan, trong Tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần
của người dân vùng Đồng bằng sông Hồng hiện nay [64] đã dày công
nghiên cứu những ảnh hưởng của các loại hình tín ngưỡng đến đời sống văn
hóa - tâm linh - tinh thần của cư dân đồng bằng sông Hồng trong đó có
TNTTH làng. Tác giả cũng chỉ rõ vai trò thủ lĩnh tinh thần của tín ngưỡng
bản địa mang đậm yếu tố dân gian trong đó có TNTTH làng với cư dân nói
chung, từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghị cơ bản nhằm gìn giữ, bảo tồn,
phát huy giá trị, sức sống lâu bền của văn hoá, tín ngưỡng bản địa dân gian.
Các giải pháp tuy còn sơ lược, nhưng đã gợi mở cho tác giả luận án hướng
đánh giá về tín ngưỡng nói chung, TNTTH làng nói riêng (trên hai phương
diện chứa đựng cả yếu tố tích cực và tiêu cực) đến ĐSTT của cư dân vùng
NTHN hiện nay.
Nguyễn Nga Mỹ, với bài viết “Giáo dục và đời sống văn hoá, tinh
thần ở vùng ven đô Hà Nội” [91]. Bài viết đã cho thấy một bức tranh khá
hoàn chỉnh về một xã hội mang hơi thở của đô thị hiện đại xen kẽ với một xã
hội in đậm dấu ấn nông thôn nguyên vẹn giá trị truyền thống đang trong quá
trình đô thị hóa những năm qua ở các vùng NTHN. Sự đan xen này xảy ra ở
nhiều lĩnh vực khác nhau của ĐSTT và xã hội, đặc biệt là trong đời sống văn
hóa, sinh hoạt tinh thần hàng ngày (trong có có tín ngưỡng, tôn giáo), quan
hệ gia đình, xã hội, giáo dục cộng đồng,... Cư dân ở NTHN hiện không còn
đơn thuần là những người dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước,
những người công nhân làm nghề thủ công, hay các nghề truyền thống,
những thương nhân buôn bán quy mô nhỏ lẻ như trước đây, mà là một tập
hợp đa dạng bao gồm nhiều nhóm người, có nguồn gốc, công việc và thậm
chí cả vị trí, địa vị cũng rất khác nhau trong xã hội thời đó. Sự nhập cư ồ ạt
21

đến NTHN từ các tỉnh khác về đã khiến cho cộng đồng dân cư ven đô phức
tạp hơn, không còn tính thuần nhất, đơn giản của xã hội nông thôn cổ
truyền. Với nỗ lực nghiên cứu, tác giả đã cố gắng làm rõ các vấn đề: mức
sống tăng cao có khiến cho đầu tư vào giáo dục văn hóa tăng lên? Phải
chăng có sự kết hợp hài hòa giữa đời sống sinh hoạt vật chất và ĐSTT
phong phú,… Đây là những tư liệu quan trọng để tác giả luận án tiếp tục vận
dụng, học hỏi, đi sâu nghiên cứu giải pháp góp phần phát huy được những
ảnh hưởng tích cực và cũng hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH
làng đến ĐSTT cư dân NTHN.
Trần Đăng Sinh, với cuốn sách Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” - cơ
sở triết học và giá trị trong lịch sử dân tộc [112]. Mở đầu nội dung cuốn
sách, tác giả cho rằng: TNTTH làng của người Việt là biểu hiện của đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn”, tấm lòng tri ân và sự tôn thờ của thế hệ con cháu
sau này với đấng tổ tiên đi trước. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” giữ một vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành lối sống biết ơn tổ tiên,
nguồn cội, điều chỉnh các nghi lễ, cũng như hoạt động thờ cúng trong
TNTTH làng. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” dạy con người phải sống
hướng thiện, biết kính trên nhường dưới, yêu thương con trẻ, kính trọng, thờ
tự tổ tiên và luôn ghi nhớ công lao của những người đã có công với xóm
làng, với đất nước, dân tộc. Những nội dung trong cuốn sách mặc dù chỉ tìm
hiểu ở những quan điểm mang tính lý thuyết, xoay quanh việc làm rõ giá trị
đạo đức của đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, nhưng có thể coi là những gợi
ý về mặt phương pháp luận để tác giả luận án phân tích, đánh giá nhằm kiến
nghị một số giải pháp góp phần phát huy phát huy ảnh hưởng tích cực của
TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân vùng NTHN.
Nguyễn Hữu Thức, trong cuốn sách Tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội
dân gian Hà Tây [135], đã quan niệm rằng, lễ hội chính là dịp từ đó mỗi cư
dân trong làng xã có thể thấy rõ được nền văn hoá của địa phương mình. Hạt
22

nhân trung tâm của lễ hội chính là phần lễ, phần trực tiếp liên quan và phản
ánh các tín ngưỡng mang đậm yếu tố dân gian. Với một xã hội mà sản xuất
nông nghiệp có ưu thế trong đời sống kinh tế - xã hội như Việt Nam đã tạo
dựng nên một hệ thống tín ngưỡng bản địa phản ánh đời sống văn hóa, đời
sống tinh thần, đặc biệt là về tâm linh, vô cùng phong phú, nhiều chiều nhiều
vẻ, nhiều hình thức của người Việt cổ, đó là tín ngưỡng thờ nữ thần, thờ tổ
tiên, thờ anh hùng văn hóa, anh hùng lịch sử,… được lưu truyền trong các lễ
hội cổ truyền và còn tồn tại, tiếp tục phát triển cho đến ngày nay. Nội dung
cơ bản của cuốn sách chủ yếu xoay quanh các hình thức tín ngưỡng mang
đậm yếu tố dân gian của người Việt, ở đó có đề cập một phần đến TNTTH
làng. Không đi sâu vào các nghi lễ và ảnh hưởng theo hai chiều của tín
ngưỡng này, song Tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội dân gian Hà Tây của
Nguyễn Hữu Thức đã mở ra cái nhìn đầy đủ hơn cho tác giả luận án khi triển
khai nội dung chương 3 của luận án.
Chu Quang Trứ, với công trình khoa học Di sản văn hóa dân tộc trong
tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam [141]. Theo tác giả, tín ngưỡng và tôn
giáo không thể thiếu và có quan trọng trong di sản văn hóa dân tộc. Những
di sản đó cần được nhận diện, bảo tồn và tiếp tục được phát huy trong quá
trình xây dựng nền văn hóa của dân tộc thời kỳ mới. Vì lý do đó, tác giả đã
đi sâu phân tích, chỉ ra những yếu tố tích cực cần tiếp thu và những cái tiêu
cực cần loại bỏ trong di sản văn hóa ở nước ta từ xa xưa cho đến hiện nay.
Các quan điểm lý luận và giải pháp mà cuốn sách nêu ra có ý nghĩa quan
trọng đối với việc tiếp tục phát huy những ảnh hưởng mang giá trị tích cực
của TNTTH làng, đồng thời góp phần làm rõ thêm định hướng nghiên cứu
thực tiễn của luận án.
Như vậy, có thể thấy rằng, đa số các công trình, sách báo khoa học
trước đó, khi đề cấp đến quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát
23

huy những ảnh hưởng mang tính tích cực và hạn chế những ảnh hưởng mang
tính tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay đều xoay
quanh các quan niệm về tín ngưỡng, đời sống tôn giáo và lễ hội mang đậm
yếu tố dân gian gắn với nhu cầu văn hóa - tâm linh - tinh thần của người dân
và các mối quan hệ xã hội. Nội dung của nó đề cập chủ yếu đến vấn đề về
tín ngưỡng, tôn giáo, đời sống văn hóa, tinh thần, thờ cúng Thành hoàng
làng,... Tuy nhiên, những công trình đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
các loại hình tín ngưỡng dân gian nói chung, loại hình TNTTH làng mặc dù
có được đề cập đến, nhưng còn mờ nhạt, và đặc biệt những nghiên cứu mới
về ảnh hưởng của TNTTH tới ĐSTT cư dân NTHN chưa có. Đây chính là
“khoảng trống” để tác giả luận án tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện.

1.4. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN
CỨU TRONG LUẬN ÁN
1.4.1. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là một trong những tín ngưỡng tiêu
biểu trong tín ngưỡng dân gian truyền thống ở Việt Nam. Ngay khi mới ra
đời cho đến nay, tín ngưỡng bản địa, dân gian, truyền thống, TNTTH làng
đã có ảnh hưởng lâu dài, sâu rộng, toàn diện và khá đậm nét đến mọi khía
cạnh của đời sống xã hội ở chính nơi xuất hiện tín ngưỡng cũng như ở các
vùng có Thành hoàng riêng. Vì thế, các công trình khoa học về tín ngưỡng
dân gian nói chung, về ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT của xã hội
nói riêng, đều ít nhiều đã đề cập đến ở mức độ nhất định.
Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án rất phong
phú, đa dạng và đã đạt được những kết quả quan trọng:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu lý luận về ảnh hưởng của
TNTTH làng đến ĐSTT của người dân NTHN hiện nay được nhiều tác giả
24

quan tâm, trình bày trong các công trình nghiên cứu chung về tín ngưỡng,
tôn giáo, văn hóa và trong các công trình nghiên cứu riêng về Thành hoàng
làng Việt Nam. Cách tiếp cận và luận giải các vấn đề ở các khía cạnh với
nhiều góc độ khác nhau, các công trình nghiên cứu đã khá thống nhất về
cách xem xét, nhìn nhận TNTTH làng Việt Nam. Thành hoàng làng Việt
Nam được quan niệm là vị thần làng được dân làng suy tôn, có công với dân
làng, được vua phong tước vương, đại diện cho vua đứng đầu chư thần trong
dân làng. Còn TNTTH làng thực chất là tín ngưỡng phúc thần đóng vai trò
kiên kết cộng đồng, là nơi quy y tâm linh cho cư dân [38, tr.410]. Mặc dù
bàn nhiều đến TNTTH làng, nhưng những nhận định đưa ra của các tác giả
về vấn đề này còn đa chiều, chưa thống nhất vì truyền thuyết và sự tích về
các Thành hoàng làng chủ yếu do truyền miệng để lại. Tuy nhiên, từ các
công trình nghiên cứu trước, tác giả có thể tham khảo, khái quát được thế
nào là Thành hoàng làng, TNTTH làng và nêu lên bức tranh chung về
TNTTH làng ở Việt Nam.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về thực trạng ảnh hưởng của
TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân vùng NTHN hiện nay đã đưa ra và
phân tích khá rõ những vấn đề rất cơ bản, như khái niệm, cấu trúc của
ĐSTT và chỉ ra vai trò, vị trí, cũng như ảnh hưởng của TNTTH làng đến
ĐSTT của xã hội Việt Nam. Từ đó, phân tích ảnh hưởng của TNTTH làng
đến các lĩnh vực của ĐSTT xã hội Việt Nam suốt chiều dài lịch sử, từ đạo
đức, lối sống, hay văn hóa, cách thờ tự,… Tuy chưa có công trình nào đánh
giá một cách toàn diện và hệ thống về ảnh hưởng của TNTTH làng đến
ĐSTT xã hội Việt Nam, nhưng các công trình khoa học trước đã cung cấp
những dữ liệu quan trọng, là nguồn tài liệu nhiều giá trị tham khảo đầy bổ
ích đặc biệt về mặt thực tiễn tạo điều kiện gợi mở hướng tiếp cận cho tác
giả luận án thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận án.
25

Thứ ba, những công trình khoa học nghiên cứu về quan điểm và giải
pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay cho thấy, đến
nay vấn đề này các công trình tìm hiểu đến không nhiều, chưa trở thành hệ
thống; các công trình chủ yếu nghiên cứu TNTTH làng và sự ảnh hưởng của
TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân Thăng Long - Hà Nội nói chung, chưa
nghiên cứu sự ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN
(bao gồm cả vùng hành chính sát nhập từ năm 2008 cho đến năm 2019) một
cách cụ thể. Hơn nữa, việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của TNTTH làng đến
ĐSTT của cư dân NTHN vẫn còn nằm rải rác khắp nơi trong các công trình
khoa học trước và chủ yếu dưới góc độ nghiên cứu về lĩnh vực tinh thần văn
hóa của cư dân NTHN nói chung.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Đề tài luận án là hướng nghiên cứu về ảnh hưởng của TNTTH làng
khu biệt trên một vùng cụ thể ở nước ta, đó là NTHN. Các công trình khoa
học đi trước nêu trên tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, chủ yếu khai
thác dưới góc độ khảo cứu, lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội học. Hà Nội là thủ
đô, là vùng đặc biệt quan trọng của cả nước, gắn với nền văn hóa Đại Việt
trong lịch sử. Các vấn đề nêu ra có liên quan đến nội dung luận án song các
công trình trên chưa thành hệ thống, chưa giải quyết thật sự thấu đáo, nhất là
đặt trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển như hiện nay.
Việc quan niệm một cách rõ ràng, có cơ sở lý luận và thực tiễn với
một phương pháp tiếp cận khoa học, tìm đáp số câu hỏi thế nào là Thành
hoàng làng, là TNTTH làng, ảnh hưởng của nó đến ĐSTT như thế nào, làm
thế nào để có thể phát huy ảnh hưởng mang tính tích cực, hạn chế những ảnh
hưởng mang tính tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN,
cho đến nay đó vẫn là “khoảng trống” mà tác giả luận án cần phải giải quyết.
26

Hơn nữa, bản thân TNTTH làng ở Việt Nam nói chung, ở NTHN nói
riêng cũng có sự phát triển, biển đổi trước sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các
yếu tố khách quan, bên ngoài và chủ quan, bên trong của xã hội Việt Nam
hiện tại. Vì thế, sự ảnh hưởng của nó đến ĐSTT của cư dân NTHN trong các
giai đoạn khác nhau cũng có sự khác nhau.
Tác giả luận án sẽ tiếp thu có chọn lọc, kế thừa những giá trị, những
thành quả trong những công trình khoa học của các tác giả, nhà nghiên cứu,
các học giả đi trước, tiếp tục triển khai nghiên cứu vấn đề, đặt trong bối cảnh
của tình hình mới, làm rõ những vấn đề thuộc nội dung trọng tâm của đề tài
luận án, cụ thể là:
Thứ nhất, từ cách tiếp cận triết học làm rõ vấn đề Thành hoàng làng,
quan niệm, nội dung và ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân
NTHN hiện nay.
Thứ hai, khảo sát, đánh giá đúng thực trạng ảnh hưởng của TNTTH làng
đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay. Trên cơ sở đánh giá, khảo sát thực
trạng, tác giả luận án sẽ rút ra một số vấn đề đã và đang đặt ra cần giải quyết từ
sự ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay.
Thứ ba, tác giả luận án sẽ đề xuất những quan điểm cơ bản và một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng mang tính tích cực, hạn chế ảnh
hưởng mang tính tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN
hiện nay.

Tiểu kết chương 1

Ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay là
vấn đề quan trọng mang tính lý luận và thực tiễn cao, phạm vi nghiên cứu
rộng, do đó đã có nhiều tác giả, nhà khoa học cả trong và ngoài nước tiếp cận,
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tác giả luận án đã cố gắng tổng
quan những công trình khoa học tiêu biểu của các nhà khoa học trong và
27

ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án của mình, từ đó chỉ ra những vấn
đề mà các công trình đã thực hiện được và những vấn đề mà các công trình đó
chưa đề cập đến hoặc đề cập chưa đầy đủ. Nhìn chung, các nhà khoa học,
bằng nhiều cách tiếp cận và hướng nghiên cứu khác nhau đã luận giải một
cách sâu sắc, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về ảnh hưởng của
TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay, từ đó có cơ sở khoa học
đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH
làng và phát huy tốt hơn nữa ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng này trong
đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay.
Tuy nhiên, do giới hạn về mục đích, phạm vi nghiên cứu, đến nay vẫn
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ và có
hệ thống dưới góc độ chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
về ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay.
Vì thế, đề tài “Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến
đời sống tinh thần của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay” có đối tượng,
phạm vi, nội dung nghiên cứu riêng, có nhiều vấn đề mới về lý luận và thực
tiễn, không trùng lặp với bất cứ một công trình nào đã công bố.
28

Chương 2
TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG VÀ ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ
THÀNH HOÀNG LÀNG Ở NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1.1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng là một nét trong văn hóa, tinh thần, tâm
linh độc đáo trong đời sống của cư dân làng, xã Việt Nam. Là một bộ phận
của TNTTH làng ở Việt Nam, TNTTH ở khu vực đồng bằng Bắc bộ các đặc
điểm cơ bản là: lịch sử hóa, phàm tục hóa, dân gian hóa, thần bảo hộ, thờ các
hiện tượng, các vị thần của tự nhiên, những người có công với cộng đồng làng
xã, quốc gia, dân tộc thể hiện sự sùng bái, ngưỡng vọng của nhân dân trước
cái thiêng.
2.1.1.1. Tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
Tín ngưỡng (belief) là một phương diện, một phần quan trọng trong đời
sống tâm linh, tinh thần của con người, đồng thời nó còn là một hiện tượng
thể hiện sự độc đáo trong văn hoá, phản ánh lòng kiêu hãnh, niềm tin, khát
vọng của con người từ xưa đến nay. Theo Từ điển Tôn giáo, tín ngưỡng “là
lòng tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu nhiên, thần
bí” [32, tr.634]. Theo Bách khoa toàn thư thì, tín ngưỡng là một niềm tin có
hệ thống mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình
yên cho bản thân và mọi người; tín ngưỡng còn là thể hiện giá trị của cuộc
sống, ý nghĩa của cuộc sống bền vững, đôi khi được hiểu là tôn giáo.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đưa ra quan niệm:
Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua
những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang
lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. Song, đó là
29

niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu
nhiên, thần bí, hay gọi là cái thiêng, cái đối lập với cái trần tục, hiện
hữu mà con người có thể, quan sát được. Một lực lượng mang hình
thức trừu tượng, có sức mạnh hư ảo, vô hình mà người ta thường gọi
là trời, Phật, thần thánh. Lực lượng đó ảnh hưởng đến đời sống nội
tâm, tư tưởng, tâm lý, tình cảm của con người, được con người tin là
có thật, sùng bái và tôn thờ. Lòng tin và tình cảm đó của con người
cũng là cơ sở cho phát triển những hiện tượng mê tín dị đoan [109].
Điều cốt lõi, căn bản của tín ngưỡng là niềm tin mãnh liệt vào cái
không có thực hay còn gọi là siêu thực, vào đấng thiêng liêng. Tuy rất khác
nhau về nội dung, hình thức, nhưng khi đã trở thành đối tượng tôn thờ, các
hiện tượng của tự nhiên, xã hội và các nhân vật có thật trong lịch sử đều
được thần hóa, thánh hóa. Bản chất của niềm tin siêu thực trong tín ngưỡng
nói chung là khẳng định sự tồn tại, cứu giúp, chở che, độ trì của thần, thánh,
lực lượng siêu nhiên đối với con người.
Sự phong phú, mới mẻ, đa dạng của tín ngưỡng là cơ sở tạo nên nhiều
cách phân loại tín ngưỡng khác nhau. Dựa trên cơ sở thời gian, có tín ngưỡng
nguyên thủy, tín ngưỡng hiện đại; phân chia theo đối tượng ngưỡng mộ, có tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người, tín ngưỡng sùng
bái phồn thực,…
Tín ngưỡng không có tổ chức chặt chẽ, không có hệ thống giáo lý điều
hành, và giáo luật như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ, rời rạc và
thiếu tính chặt chẽ. Là một tôn giáo, phải có đủ các yếu tố cấu thành như
giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ. Còn trong các loại hình tín ngưỡng
dân gian các yếu tố đó nếu có thì không điển hình. Tín đồ tôn giáo, trong
một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo, thì một người dân có thể
đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Các tôn giáo có hệ
30

thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài
văn tế (đối với TNTTH), bài khấn (đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ
Mẫu). Trong trường hợp đặc biệt, khi tín ngưỡng có bước phát triển cho
đến một mức độ nhất định thì có thể trở thành tôn giáo.
Tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian. Niềm tin vào các lực lượng
siêu nhiên, huyền bí, vào sự bất tử của linh hồn là nguồn gốc để từ đó hình
thành nên tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng dân gian tồn tại dưới nhiều hình
thức như: Tín ngưỡng thờ thần, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ
Mẫu, tín ngưỡng phồn thực. Theo Võ Thanh Bằng, “Tín ngưỡng dân gian là
một hình thức văn hóa tâm linh và cũng là một mặt của lối sống của con
người và cộng đồng người dưới các mức độ khác nhau khá nhạy cảm, có
truyền thống lâu đời không chỉ ở nông thôn mà còn thẩm thấu khắp thành
thị” [9, tr.11].
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, hay còn gọi là tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam, là tín ngưỡng của các dân tộc bản địa sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Đây là loại hình tín ngưỡng quan trọng, giải quyết được cơ bản nhu cầu về
mặt tâm lý, tinh thần của đại đa số người dân Việt Nam. Kể từ khi hình thành
các tín ngưỡng dân gian cho đến nay, người Việt Nam đã biết tiếp thu các mặt
tích cực, cải biến những mặt không phù hợp của tín ngưỡng, tôn giáo ngoại
lai, góp phần tạo nên giá trị mang nét đặc sắc văn hóa truyền thống của dân
tộc ta.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Truyền thống sinh
hoạt, thờ cúng, tín ngưỡng đã xuất hiện từ lâu đời trong các làng quê của
người dân Việt Nam. Gắn với đời sống kinh tế, xã hội và yếu tố tâm linh của
từng dân tộc trong cộng đồng người Việt ở nhiều vùng khác nhau, sẽ có
những tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu thống kê, ở
Việt Nam, phần trăm dân số có đời sống tín ngưỡng lên đến 95%. Mỗi năm có
31

khoảng trên dưới 8.500 lễ hội, hoạt động thờ cúng, sinh hoạt tâm linh hoặc tín
ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ chức.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở Việt Nam từ Kinh Thành dần lan
truyền đến các vùng quê và trở thành một trong những dấu ấn văn hóa đặc
trưng, mang dấu ấn của người dân nông nghiệp trồng lúa nước. Cơ sở của
mọi loại hình tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng nói chung đều là niềm tin và sự
ngưỡng mộ, kính vọng của con người vào cái “siêu nhiên”, cái “cái thiêng”.
Các loại tín ngưỡng đều có sức sống mãnh liệt, dai dẳng và ảnh hưởng sâu
đậm, lâu dài. Thành hoàng mà nhân dân tôn thờ thường là những nhân vật
trong lịch sử từng có công đánh đuổi quân xâm lược, đem lại cuộc sống hòa
bình cho nhân dân, như: Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản,…
Hay những vị thần xuất hiện trong truyền thuyết, sự tích đã từng giúp người
dân chống lại các thiên tai, dịch bệnh như Thần núi Tản Viên; hoặc những
người có công khai sinh ra các làng xã, sáng tạo và truyền dạy cho nhân dân
các nghề thủ công, như: Vị Tổ nghề gốm Bát Tràng, làng Phù Lãng là Hứa
Vĩnh Kiều, vị Tổ nghề đúc đồng ở Đại Bái là Nguyễn Công Truyền, ở
Quảng Bố là Nguyễn Công Nghệ. Cũng có một vài trường hợp ngoại lệ, một
số nơi dân làng vẫn còn giữ vững tục thờ các vị Thành hoàng làng vốn làm
những nghề không mấy vinh quang như nghề ăn xin, ăn trộm,… Điều đó cho
thấy tính chất khá đa dạng, hấp dẫn, phong phú của các vị Thành hoàng và
TNTTH làng ở nông thôn Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng là một cấp độ thứ hai của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên (trên phạm vi rộng hơn là làng xã); là niềm tin của một cộng đồng
người vào sự che chở, phù hộ của một vị thần linh được dân làng coi là thần
trông coi vận mệnh của cộng đồng, thường được nhà nước phong kiến sắc
phong. Niềm tin đó được thể hiện thông qua các lễ thức nhất định và hội làng
hàng năm. TNTTH làng đã xuất hiện từ lâu và ngày càng được phổ biến rộng
rãi đến các làng, xã trong cả nước.
32

“Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm những
người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần thánh, biểu tượng có
tính chất truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu
cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội” [108, tr.8]. Đối
tượng tôn thờ có thể là những hiện tượng tự nhiên được thần thánh hoá như:
mây, mưa, bão gió, núi, sông, biển, đất, trời…; những hiện tượng xã hội
như: chiến tranh, tình yêu…; những người thân kính như: tổ tiên, ông bà…;
những người có công với nhân dân, được nhân dân suy tôn như: Hùng
Vương, Thánh Gióng, Hai Bà Trưng…
Trong Việt Nam phong tục, tác giả Phan Kế Bính cho rằng mỗi làng
thường thờ một vị Thành hoàng làng, cũng có làng thờ hai, ba thậm chí năm,
bảy vị Thành hoàng; tuy nhiên, trong đó có một vị làm chủ thần. Mỗi vị
Thành hoàng đều có một thần tích và thần phả riêng gắn liền với những đặc
điểm, điều kiện xã hội, kinh tế, tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của làng đó.
Từ quan niệm về tín ngưỡng nêu trên, tác giả luận án cho rằng:
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở Việt Nam là hình thức tín ngưỡng
dân gian, thờ cúng thần bản mệnh của cộng đồng làng, là nhiên thần hoặc
nhân thần, mang đậm dấu ấn tâm linh, tồn tại lâu dài, thể hiện quan niệm
“Uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở Việt Nam là một hình thức tín
ngưỡng dân gian, tồn tại lâu dài, từ đời này quan đời khác. Trong quan
niệm của người dân Việt, Thành hoàng làng là vị thần có khả năng siêu việt,
có thể làm cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, giúp cho cuộc sống
của người dân bình yên, tốt đẹp. Thành hoàng làng là biểu tượng tâm linh
được người dân tôn sùng, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho họ. Tương
truyền các vị Thành hoàng rất thiêng nên người dân truyền tai nhau đã xây
dựng bia, hã mã trước cửa các đình, đền; sau đó có căn dặn con cháu phải
33

nghiêm túc thực hiện những quy ước của làng, nếu ai có hành vi chống lại
ngay lập tức gặp sự trừng phạt thích đáng của các vị Thành hoàng làng. Điều
này thể hiện mức độ thiêng liêng, cao quý đầy trọng vọng của người dân
dành cho Thành hoàng làng.
Mỗi làng phụng sự một hay nhiều vị Thành hoàng. Thông thường, mỗi
làng phụng sự một vị Thành hoàng làng nhất định; nhưng cũng có làng thờ
nhiều hơn - hai ba hoặc năm bảy vị Thành hoàng, gọi chung là phúc thần. Các
làng xã ở vùng đồng bằng Bắc bộ, hầu hết đều thờ hai loại Thành hoàng. Vị
Thành hoàng thứ nhất là biểu tượng cho sức mạnh tự nhiên (nhiên thần), còn
vị Thành hoàng thứ hai là một nhân vật trong lịch sử hoặc người có công với
làng xã (nhân thần). Nhiều làng, vị Thành hoàng được thờ thường là một hiện
tượng nào đó của tự nhiên, như thần núi, thần sông, thần mây, thần sấm, thần
sét, thần mưa. Đối với các vị Thành hoàng là một hiện tượng nào đó của tự
nhiên, nơi nào thờ loại thần gì tùy thuộc vào đặc điểm cư trú, điều kiện tự
nhiên của làng đó. Có những vùng, những làng quê làm nghề sản xuất nông
nghiệp thường hay thờ các vị Thành hoàng cầu cho mưa thuận gió hoà, còn
cư dân ven sông, các làng chài thờ thuỷ thần, hoặc cư dân ở các vùng miền
núi non thường thờ sơn thần,.. tất cả đều mong muốn được che chở, làm ăn
được thuận buồm xuôi gió, gia đình mạnh khoẻ, bình an. Tuy nhiên, Thành
hoàng làng không phải ở bất cứ nơi nào của các miền quê đều có. Trong Nếp
cũ - Tín ngưỡng Việt Nam, Toan Ánh cho biết:
Nhiều làng hoặc vì lý do này, lý do khác không có Thành hoàng. Có
những làng trước đây cũng đã có thần, nhưng theo sự tin tưởng,
thần này đã được dời đi cai quản nơi khác, hoặc được đem lên dự
vào hàng Thiên thần. Lại có nhiều thần bị phế truất, có thể do một
đạo sắc của Nhà vua, có thể do một vị Ác thần khác đánh bại đi, rồi
sau dân làng cầu khấn các vị Thượng đẳng thần khác tới trị vị Ác
thần, vị Ác thần phải bỏ đi, mà vị thần cũ chưa triệu trở lại được.
Cũng có những làng mới lập, nên chưa có thần [4, tr.133-134].
34

Có làng không thờ Thành hoàng, vì những người có công được nhân
dân tôn sùng nhưng không được nhà vua phong hiệu. Ở một số làng xã Việt
Nam và vùng NTHN, nhân dân vẫn nói với nhau những câu thành ngữ:
“Chuông làng nào làng ấy đánh, Thánh làng nào làng ấy thờ”. Nhiều làng
cùng thờ một vị Thành hoàng, như thần Tản Viên được rất nhiều làng NTHN
thờ, mặc dù vậy những thần tích của vị Thành hoàng này ở mỗi địa phương
lại mỗi khác. Ở Quốc Oai, Tản Viên được thờ vì công ơn của ngài trong việc
dạy dân làm ruộng, mở hội, ca hát; ở Ba Vì ngài lại được thờ bởi công đức
dạy dân làm ra lửa, săn bắn, làm liềm cắt cỏ, gặt lúa, người đã dạy dân đan sọt
từ mây, tre để làm dụng cụ gánh cỏ, gánh lúa …
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có tổ chức, lễ nghi, mang đậm yếu
tố tâm linh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh cho rằng đại đa số sự tích về
Thành hoàng làng đều là những truyền thuyết, sau này những truyền thuyết ấy
được các địa phương chú trọng và trở thành văn bản chính thức được Nhà
nước công nhận, từ đó xuất hiện các Thần tích, Thần phả, Sắc phong. Để việc
thờ Thành hoàng làng được kế tiếp từ đời này sang đời khác, việc làm không
thể thiếu được là phải soạn thần tích (còn gọi là Thần phả hay Ngọc phả).
Thời kỳ đầu, Thành hoàng làng được thờ ở đền (hay miếu), sau này, được thờ
cả ở đền và hậu cung đình làng. Vì là nơi Thành hoàng làng ngự, nên đền hay
miếu, hậu cung đình làng, không ai cũng có thể tự do đến được; mặt khác,
việc thờ tự Thành hoàng là việc tối hệ trọng của làng, phải được thực hiện
thường xuyên.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng là một hệ thống tín ngưỡng đa nguyên, vừa
mang đậm dấu ấn của bản địa, với truyền thống, lối sinh hoạt của cư dân nông
nghiệp; vừa tồn tại song hành cùng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị
anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa,… hay các vị “tiên hiền”, “hậu hiền” có
công khai hoang, mở đất,... TNTTH của người Việt, về thực chất là thờ phúc
35

thần, nó góp phần không nhỏ và quan trọng vào việc gìn giữ sự đoàn kết, gắn
kết cộng đồng, cư dân, làng xóm; giáo dục lòng yêu quê hương, làng xã, đất
nước, lòng tự tôn, tự hào dân tộc,… Đó là những giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp của dân tộc mà chúng ta cần gìn giữ và phát huy.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đóng vai trò quan trọng, không thể
thiếu trong ĐSTT của cư dân làng, xã Việt Nam và được thể hiện cụ thể
như sau:
Một là, TNTTH làng có vai trò quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng ở
làng quê Việt Nam
Thành hoàng là đấng tối cao của làng xã. Vị trí, vai trò của Thành
hoàng không chỉ ở phương diện tinh thần mà còn được thể hiện cụ thể ở
phương diện đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Thành hoàng là vị thần
tối linh, có thể bao quát, như một nhân chứng lịch sử chứng kiến toàn bộ đời
sống, sinh hoạt hàng ngày của dân làng, đồng thời cũng bảo vệ và phù hộ cho
cư dân có sức khỏe, làm ăn may mắn, thuận lợi và phát đạt. Thờ phụng Thành
hoàng, xét cho cùng, đó là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của
làng. Người ta quan niệm rằng, vị Thành hoàng làng mình là người có quyền
lực siêu nhiên, có đủ khả năng ngăn chặn mọi sự xâm hại đến làng, bảo vệ
hữu hiệu cho cả làng và đồng thời cũng thực thi quyền lực trong việc thưởng
phạt dân làng để duy trì đạo lý riêng của làng mình, tức lệ làng.
Hai là, TNTTH làng có vai trò liên kết, gắn bó cộng đồng dân cư làng.
Việc cư dân trong làng cùng thờ cúng một vị Thành hoàng, gửi gắm
niềm kiêu hãnh, sự tin tưởng, kính yêu của mình vào vị Thành hoàng làng
đó đã tạo thành một sợi dây vô hình kết nối những con người trong làng.
Trên cơ sở gắn kết tâm linh, con người trở nên sống chan hòa với nhau, cởi
mở với nhau hơn, cùng mục tiêu phấn đấu nhằm góp phần củng cố tinh
thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng làng xã, quê hương giàu đẹp. Xét
36

về mặt tác dụng, TNTTH làng là nơi gắn kết, mang mọi người cộng đồng
xích lại gần nhau, xây dựng khối đoàn kết trong các làng xã và giáo dục
truyền thống đạo lý “Uống nước - nhớ nguồn” cho mỗi cư dân trong toàn
thể cộng đồng.
Có thể nói, ở làng quê Việt Nam TNTTH làng là “chất keo” tâm linh
gắn kết, hội tụ tất cả các thành viên một cách bền chặt. TNTTH làng biểu hiện
sinh động ở lễ hội Thành hoàng làng. Lễ hội Thành hoàng làng là một hình
thức trong đời sống sinh hoạt văn hóa hàng ngày, là biểu tượng hàng đầu cho
sức mạnh đoàn kết, yêu thương, gắn bó của các thành viên trong một cộng
đồng. Lễ hội Thành hoàng làng đã tạo điều kiện cho mọi tầng lớp cư dân làng
xích lại gần nhau hơn. Tôn kính, thờ phụng Thành hoàng làng là một nhu cầu
không thể thiếu xuất phát từ tâm lý của con người. Người dân thờ Thành
hoàng làng nhằm phục vụ cho cuộc sống hiện thực của mình, là nơi tinh thần
được che chở, dựa dẫm, ban phúc lành, là nguồn cổ vũ, động lực cho con
người hăm hở trong làm ăn, sản xuất thậm chí là nguồn an ủi khi con người sa
cơ lỡ bước. Việc có chung tín ngưỡng này là sợi dây kết nối vô hình, giúp gắn
kết dân làng lại với nhau, hình thành nếp sống đồng cam cộng khổ hoà đồng,
những phong tục, những bản sắc riêng của mỗi vùng quê đều được bảo tồn,
gìn giữ, phát huy thậm chí làm mới mẻ phong phú thêm.
Ba là, TNTTH làng có vai trò quan trọng trong việc duy trì, bảo tồn và
phát triển những giá trị văn hóa mang đậm yếu tố truyền thống của dân tộc.
Trong TNTTH làng, các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, thần
tích,... đều thể hiện yếu tố nghệ thuật cả nội dung và hình thức rất cao. Khi
kể chuyện, đúc kết thực tiễn hay diễn tả lại đời sống, sinh hoạt, công trạng
của các vị thần linh trong loại hình tín ngưỡng này luôn có sự kết hợp với
âm nhạc và nhảy múa. Các nghi thức của TNTTH làng thường được thực
hiện trong không gian trang nghiêm, kính cẩn và linh thiêng (trước cửa
đình, cửa đền hay trước cửa các miếu thờ). Nhiều hình thức văn nghệ dân
37

gian như hát quan họ, hát chầu văn, hát ả đào, hát xoan, diễn xướng, trò
chơi, đấu vật, kéo co, đuổi bắt,… cũng được thể hiện sinh động trong
TNTTH làng. Vì vậy, việc cư dân nuôi dưỡng tinh thần yêu mến và tự hào
quê hương nguồn cội thông qua tục sùng bái TNTTH làng trở thành một
nét truyền thống của dân tộc.
Thờ Thành hoàng làng là một trong những hình thức tín ngưỡng dân
gian của người Việt được lưu truyền từ đời này sang đời khác qua nhiều thế
hệ, qua nhiều thăng trầm của lịch sử. Cùng với phần lễ là phần hội - một
hoạt động văn hóa truyền thống mang những nét riêng có độc đáo của từng
địa phương, làng, xã. Vài năm trở lại đây, các làng xã ở Việt Nam nở rộ
phong trào khôi phục sinh hoạt văn hóa lễ hội. TNTTH làng gợi lên ý thức
hướng về tổ tiên, cội nguồn nơi người dân được sinh ra, lớn lên, trưởng
thành bằng những biểu hiện cụ thể trong đời sống hàng ngày tuy giản dị,
không cầu kỳ nhưng đậm nét văn hoá truyền thống. Bản sắc của từng làng
tạo thành bản sắc của dân tộc, nên sức mạnh của nước là hội tụ tổng thể sức
mạnh của từng làng - văn hóa của dân tộc, là sự kết tụ và thăng hoa văn hóa
làng của nước.
Ngày nay, xu hướng khôi phục các lễ hội, các nghi thức thờ cúng, các
tục lệ có liên quan đến Thành hoàng làng đang diễn ra ở nhiều nơi với nhiều
hình thức trên khắp cả nước và nhận được sự hưởng ứng. Lễ hội ấy không chỉ
đem lại sự phấn khởi, tái tạo một không gian mà ở đó duy trì nhiều hoạt động
sinh hoạt văn hoá cộng đồng mà còn khơi gợi lại các giá trị xưa cũ dường như
bị phủi mờ bởi thời gian. Hơn thế, TNTTH làng, đặc biệt là thờ các vị nhân
thần thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, thể hiện
lòng biết ơn với tổ tiên, dòng tộc; phát huy, gìn giữ các giá trị của đạo làm
con và cao hơn là đạo làm người,.. giúp cho con người, nhất là các thế hệ
thanh niên hiện nay hòa nhập vào nhịp sống văn hóa hiện đại, song vẫn gìn
giữ, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng một nền văn
38

hoá Việt Nam vừa tiếp thu được những yếu tố tiên tiến của các nước phát
triển, vừa mang đậm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Bốn là, TNTTH làng là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cư dân làng.
Làng quê ở Việt Nam là cấp cơ sở của nước; là một chỉnh thể kinh tế,
văn hóa, xã hội, có tính cộng đồng cao; có cơ cấu tôn giáo, tín ngưỡng được
định hình vững chắc. Bên cạnh sở hữu cộng đồng của làng bao gồm các cơ sở
kinh tế, xã hội, những cơ sở tôn giáo phổ biến, thì mỗi làng Việt, đặc biệt hơn,
còn sở hữu ngôi đình làng làm nơi thờ các vị Thành hoàng có công riêng với
làng xã đó mà thôi; trở thành một chỗ dựa tinh thần khá vững chắc cho cư dân
làng. Ngôi đình làng còn là cơ sở biểu tượng của lòng nhân nghĩa, đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn”; lễ hội hằng năm thường được diễn ra ở đình làng
nhằm liên kết con người gắn bó với cộng đồng dân tộc.
Những người có công với nước là những tướng lĩnh, những chiến sĩ
anh dũng trên trận mạc, là những người đỗ đạt làm quan hay khai hoang, lập
ấp, mở mang đất đai, lập làng, hay truyền dạy cho cư dân biết làm ăn, biết
sản xuất kinh doanh làm giàu cho làng xã quê hương, được tôn vinh làm
Thành hoàng làng. Trong TNTTH làng, người Việt luôn lấy sự tôn kính, biết
ơn với những người có công làm cơ sở để bảo ban nhau ứng xử, tôn kính với
cái “thiêng” vì mục đích cầu mùa màng bội thu, cầu sức khoẻ, cầu bình an
cho bản thân và cộng đồng làng, nước. Đó là những người thực có công tích
được ghi trong sử sách, hay được nhân dân đồn đại lưu truyền, tôn thờ từ
ngàn xưa cho đến ngày hôm nay, là một chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cư
dân làng.
2.1.1.2. Phân loại Thành hoàng làng
Thành hoàng là một thuật ngữ có nguồn gốc từ Hán Việt: Thành hoàng
có nghĩa là thành hào, hào có nước gọi là trì, không có nước gọi là hoàng.
Đắp đất làm “thành”, đào hào làm “hoàng”. Thành hoàng làng xuất hiện đầu
tiên ở Trung Quốc vào thời nhà Chu thế kỷ VI - V trước công nguyên, với
39

nghĩa ban đầu là một vị thần bảo vệ thành, hào. Để bảo vệ thành, hào, các bá
vương, quan lại, chư hầu nhà Chu đã đặt ra vị thần Thành hào.
Nguồn gốc đầu tiên phải kể đến của TNTTH làng ở Việt Nam là từ
Trung Quốc. Theo Nguyễn Duy Hinh: “Thành hoàng là một phạm trù ngoại
lai, nhưng lại mang một nội hàm bản địa Việt không hoàn toàn giống nguyên
bản. Đó là một đặc điểm vay mượn ngôn từ và khái niệm ngoại quốc một
cách sáng tạo của người Việt” [39, tr.22]. Tuy nhiên, TNTTH của làng xã
người Việt không giống TNTTH của làng xã Trung Quốc, mà có những khác
biệt. “Nói đến Thành hoàng, ai cũng rõ là tên gọi từ Trung Quốc, chỉ vị thần
bảo hộ nơi đô hội và thành trì. Còn Thành hoàng ở Việt Nam là Thành hoàng
làng, thần bảo hộ của làng xóm, thường gắn với ngôi đình” [67, tr.440].
Việc thờ cúng Thành hoàng làng bắt đầu được mang đến truyền bá
vào Việt Nam từ thời nhà Đường rồi phát triển qua các triều đại, các thời
kỳ phong kiến độc lập, tự chủ. Không giống như nguyên nghĩa Trung
Quốc, các vị Thành hoàng ở các miền quê Việt Nam xưa kia không hẳn là
những vị bảo vệ các thành trì, các hào mà đó là những anh hùng dân tộc,
những nhân vật lịch sử, theo truyền thuyết, họ là những người có công với
dân, với nước.
Các nghiên cứu cho rằng, danh hiệu Thành hoàng xuất hiện đầu tiên
ở Việt Nam vào năm 822, thời Đường Mục Tông và vị Thành hoàng đầu
tiên có tên là Tô Lịch. Lý Nguyên Gia - Thái thú nhà Đường có nhìn thấy
một dòng nước chảy ngược mà vị trí rất đắc địa ở phía bắc thành Long
Biên, nên đã tìm đến và chọn nơi thoáng mát, sạch sẽ, cao ráo và di chuyển
phủ của mình đến đó… Lý Nguyên Gia đã tổ chức giết trâu, đặt rượu làm
lễ, mời các vị kỳ lão khắp hương thôn đến dùng và ông thuật rõ, nêu ý định
cho mọi người biết là muốn tâu với vua nhà Đường để xin thần sông Tô
Lịch suy tôn làm Thành hoàng.
40

Nguồn gốc tiếp theo phải kể đến của TNTTH là nguồn gốc bản địa. Đó
là dấu gạch nối thể hiện một bên là sự phóng to của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên và một bên là sự thu nhỏ của thờ cúng Hùng Vương.
Ở nước ta trong tâm thức mỗi người dân đều một lòng biết ơn, hướng
về tổ tiên, cội nguồn cùng chung huyết thống. Vì thế trong mỗi gia đình,
làng xã đều thực hành việc thờ cúng ông bà, tiên tổ để thể hiện tấm lòng tri
ân của con cháu với các thế hệ tổ tiên đời trước. Điểm chung của TNTTH và
thờ cúng tổ tiên đó là đều thể hiện sự biết ơn với người có công (Thành
hoàng, hoặc cha ông thế hệ trước), và thực tế nhiều vị Thành hoàng được
nhân dân suy tôn thờ tự đã góp phần làm vẻ vang dòng tộc, họ hàng, làng
xóm, quê hương như: Hai Bà Trưng hay Thánh Gióng hay Lý Nam Đế,…
Và trước khi trở thành các vị Thành hoàng có công ơn với quê hương, làng
mạc thì bản thân các vị Thành hoàng đó đều có tổ tiên để hướng về, để
phụng sự và báo đáp.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng cũng là sự thu nhỏ của tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương. Bởi việc thờ cúng các vị Thành hoàng có công với từng
miền quê riêng biệt nên mỗi miền quê thường xây đình và thờ tự một vị
Thành hoàng khác nhau. Nhưng sự phóng to ở đây thể hiện việc thờ các vua
Hùng là sự tiếp nối qua nhiều thế hệ gìn giữ truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn”, đòi hỏi mỗi người con đất Việt đều hướng về biết ơn cội nguồn, biết
ơn các vị vua Hùng đã có công khai mở bở cõi và dân tộc Việt. Ở đây không
chỉ dừng lại ở việc thờ cúng trong phạm vi hẹp làng xã nữa mà mở rộng ra
phạm vi cả quốc gia.
Thành hoàng làng là một khái niệm mang yếu tố tâm linh, tín ngưỡng,
được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở những điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hóa nhất định, là vị thần được một cộng đồng dân cư tôn vinh, tôn
thờ để phù hộ, độ trì, che chở và cao hơn là ban phúc cho cộng đồng cư dân
của một làng. Do vậy, mỗi làng thờ một Thành hoàng làng riêng. Ở Việt Nam,
41

Thành hoàng làng là một danh từ chung dùng để chỉ vị thần được nhân dân
suy tôn, thờ tự trong một làng xã Việt Nam, có vai trò quyết định, cai quản
mọi mặt phúc hay hoạ, thuận lợi hay khó khăn, bình an hay sóng gió,… của
một làng giống như Táo công và Thổ công trong mỗi gia đình và thường được
thờ ở đình làng; đó là những nhân vật lịch sử hay những nhân vật truyền
thuyết trong thần thoại Việt Nam.
Thành hoàng xuất hiện ở đô thị Việt Nam ban đầu là do nhu cầu của
người dân cần có một vị thần bảo hộ cho một thành trì nhất định. Theo truyền
thuyết, khi Lý Công Uẩn chọn Thăng Long để đóng đô (1010), đến đây ông
mơ thấy có một cụ già đầu tóc bạc, xuất hiện trước bệ rồng. Sau khi hỏi rõ lai
lịch của cụ, vua Lý Thái Tổ đã sai quan Thái Chúc đưa đồ đến tế, phong làm
Quốc Đô Thăng Long Thành hoàng Đại Vương. Từ đó, dân cư trong thành
đến cầu xin ban phước, hay may mắn trong cuộc sống, tai qua nạn khỏi thì lập
tức họa phúc linh ứng ngay.
Thành hoàng ở Việt Nam được phân làm hai loại: Đô Thành hoàng
được thờ ở kinh đô và Thành hoàng làng. Phan Kế Bính viết:
Cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn, đại xuyên,
triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên ấy để làm chủ tể cho việc
âm ti một phương mà thôi. Kế sau triều đình tinh biểu những bậc
trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng
lập đền cho dân xã ở gần đâu thờ đấy. Từ đó, dân gian bắt chước
nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tế trong làng mình.
Làng nào có sẵn người anh hùng hào kiệt mất đi rồi thì thờ ngay
người ấy, làng nào không có thì cầu lấy một vị thần linh khác rước
về nhà thờ. Hoặc nơi thì nhân việc mộng mị, việc bói khoa, việc tá
khẩu, tin là một sự linh dị mà thờ. Hoặc nơi thì vì một sự ngẫu
nhiên, cho là thiêng liêng mà xin duệ hiệu để thờ... Tổng chi là dân
42

ta tin rằng: đất có thổ công, sông có hà bá, cảnh thổ nào phải có
Thành hoàng ấy, vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế
mỗi ngày việc thờ thần một thịnh [14, tr.98].
Sự xuất hiện Thành hoàng là một hiện tượng mang đậm yếu tố tín
ngưỡng, tâm linh, do con người sáng tạo ra, thể hiện sự nhớ ơn, ghi lòng tạc
dạ công đức đối với những người có công với dân, với nước, nhằm mục đích
bảo hộ và che chở cho con người trong phạm vi một thành, một làng nhất
định. Thành hoàng làng ở Việt Nam về cơ bản, được sắc phong bởi các triều
đình phong kiến. Thần sắc là sắc phong của các triều đình phong kiến phong
tặng cho các vị thần; được làm bằng giấy màu vàng phủ nhũ, nội dung ghi
nhận công lao đóng góp của vị thần đó đối với dân làng, với nước.
Thông qua sắc phong, nhà nước phong kiến thời kỳ đó ở Việt Nam
nhằm thực hiện quản lý được tốt nhu cầu, mong muốn tâm linh của cư dân
cộng đồng làng. Thần tích của các làng xã người Việt được lưu giữ đến nay,
hầu hết được Viện Viễn đông Bác cổ Pháp sưu tập và sao chép làm thành
những bộ sách thần tích riêng, hiện nay được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Kho thần tích này
có 568 sách, ghi chép sự tích các thần được thờ cúng ở 95 huyện, phủ, châu,
thuộc 22 tỉnh phía Bắc từ Nghệ An trở ra [129, tr.121]. Thần thánh hóa là hiện
tượng phổ biến trong thần tích. Sắc phong thể hiện uy nghiêm và tính thiêng
của vị thần, nên dân làng coi như một vật quý giá và cất giữ rất cẩn thận. Điều
này thể hiện sự thừa nhận (thể chế hóa) của giai cấp thống trị đối với các giá
trị của các cộng đồng làng. Ở Việt Nam, cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn
chưa thể xác minh chính xác thời điểm xuất hiện của các Thành hoàng. Theo
một số nguồn tư liệu, có thể Thành hoàng xuất hiện ở các vùng quê nước ta từ
khoảng thế kỷ 13 đến thể kỷ 15. Tuy nhiên, đặc điểm chung của các Thành
43

hoàng ở nông thôn Việt Nam là những người đã được nhân dân tôn thờ trước
khi nhà vua phong danh vị Thành hoàng làng.
Ở nông thôn Việt Nam, Thành hoàng làng được thờ tự ở các miếu, đình
làng; được nhân dân tôn thờ với tư cách là vị thần cai quản thôn xã, làng mạc,
ấp xóm, là vị thần có vai trò hộ mệnh, ban phúc đức cũng như che chở cho cư
dân vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Ở làng quê Việt Nam, nói đến
Thành hoàng làng thì không thể không nói đến đình làng, làng nào cũng có
đình. Đình là nơi cư ngụ của vị thần bảo hộ làng và là trung tâm của đời sống
cộng đồng làng. Đến thế kỷ XV, Thành hoàng làng có sự thay đổi về lượng
lẫn diện mạo, “Đình làng trở thành trụ sở của thần linh ở mỗi làng quê, và
cũng mang chức năng mới - là công sở của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của
Nhà nước” [155, tr.176].
Xu thế linh thiêng hóa Thành hoàng làng thể hiện ước nguyện của
người dân làng quê Việt Nam về một đấng linh thiêng có đủ sức mạnh để che
chở, phù hộ cho mình. Thành hoàng làng thực sự đã trở thành một biểu tượng
tâm linh của làng. Xu thế lịch sử hóa Thành hoàng làng cũng đã cho thấy,
mong muốn gắn kết làng - nước, dân tộc của người dân Việt Nam. Cả hai xu
thế này có thể cùng thể hiện ở sự tích về một vị thần cụ thể mà nhân dân suy
tôn làm Thành hoàng làng.
Theo Nguyễn Duy Hinh, Thành hoàng làng “là dòng chủ thể phản ánh
bản chất tư duy tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam” [39, tr.97]. Vị thần được nhân
dân của làng xã ngưỡng vọng, biết ơn và gọi là Thành hoàng làng phải là chúa
tể trên cõi thiêng của làng, từ thời này sang thời khác, là một chỗ dựa tinh
thần cho cộng đồng làng, mang tính chất hộ nước giúp dân ở làng đó. Không
mang tính chất hộ nước giúp dân, thì không thể gọi là Thành hoàng làng.
Theo Đào Duy Anh, “Thần Thành hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục,
đạo đức, pháp lệ cùng hy vọng chung của cả làng, lại cũng là một thứ quyền
44

uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình, khiến cho hương thôn thành một đoàn
thể có tổ chức và hệ thống chặt chẽ” [2, tr.248].
Tùy theo đặc điểm lịch sử - văn hóa từng làng mà Thành hoàng có thể
phân chia Thành hoàng làng ở Việt Nam thành hai nhóm (loại) thần chính
nguồn gốc khác nhau: Nhóm nhiên thần và nhóm nhân thần:
Nhóm nhiên thần bao gồm một số vị thần: Thần sông, thần núi, thần
sấm, thần sét, thần mây, thần mưa, thần gió.
Nhóm nhân thần bao gồm những người có công với nhân dân, với đất
nước, với làng xã,…
Xét theo công trạng mà các thần đã giúp nhà vua đánh giặc, giúp dân
trừ thiên tai dịch hoạ, lập ấp dạy nghề mà triều đình ra sắc phong cho các
Thành hoàng cũng có thể phân chia Thành hoàng ra hai loại thần: phúc thần,
tà thần:
Phúc thần có ba hạng: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng thần.
Thượng đẳng thần bao gồm cả thiên thần và nhân thần. Thiên thần
như các bậc thiên thần như Tản viên Sơn thánh, Cao sơn, Quý
Minh Đổng thiên vương, Sóc thiên vương, Chử đồng tử, Liễu
Hạnh công chúa,... Các vị thiên thần có sự tích linh dị, không rõ
tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là thiên thần. Nhân thần là
những người có công lao to lớn đối với dân, với nước; lúc mất đi,
được nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ, hoặc được dân
nhớ đến công đức mà suy tôn, thờ cúng. Các nhân thần đều có sự
tích công trạng hiển hách, được phong làm Thượng đẳng thần.
Cũng có vị nhân thần nhưng lại không được nhắc tới nhiều trong
chính sử, mà được nhắc tới nhiều trong dã sử và truyền thuyết như
Đức thánh Tam Giang… [39, tr.38].
Trung đẳng thần là những vị thần được dân làng thờ phụng đã lâu, có
họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ
45

tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ
đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà
phong làm Trung đẳng thần.
Hạ đẳng thần là do cư dân làng xã thờ phụng, mà không có sự tích rõ
ràng, nhưng cũng thuộc về bậc chính thần, thì triều đình cũng theo
lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần [39, tr.38].
Tà thần “là những vị thần không được ghi vào tự điển, không có phong
tặng, do người dân một số nơi tin tưởng mà thờ cúng, như: thần bán lợn, thần
trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết,... Các
hạng thần này gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần…” [14, tr.75].
2.1.2. Đặc trưng tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của cư dân
ngoại thành Hà Nội hiện nay
* Khái quát về NTHN hiện nay
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
cũng là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến Việt Nam trước đây.
Hiện nay, lịch sử Hà Nội gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam qua
các thời kỳ. Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá và khoa học kĩ
thuật, đồng thời là trung tâm lớn về giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước.
Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất cả nước từ
khi tỉnh Hà Tây sáp nhập vào năm 2008; đồng thời, Hà Nội cũng là địa
phương đứng thứ nhì về dân số với gần 8 triệu người (năm 2018), sau thành
phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký thì
dân số thực tế của thành phố Hà Nội, năm 2017 là hơn 9 triệu người. Hiện
nay, thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai đô thị loại đặc biệt của
Việt Nam.
Hà Nội nằm giữa đồng bằng sông Hồng màu mỡ, phì nhiêu; nơi đây đã
sớm trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi
đầu của lịch sử Việt Nam. Hà Nội có vị trí từ 20º53′ đến 21°23′ vĩ độ bắc và
46

105º44′ đến 106º02′ kinh độ đông. Phía bắc thành phố Hà Nội tiếp giáp với
các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc; phía nam giáp tỉnh Hà Nam; phía đông giáp
Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp Hòa Bình và Phú Thọ. Diện
tích Hà Nội sau khi mở rộng là 3.342,92km². Thành phố Hà Nội hiện tại có 30
đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện. Địa
hình thành phố Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây
sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Ở Hà
Nội, đồi núi tập trung ở phía bắc và phía tây thành phố. Nhờ phù sa bồi đắp,
ba phần tư diện tích tự nhiên là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên
sông Hồng và chi lưu của các con sông khác.
Ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị
quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ
01 tháng 8 năm 2008. Theo Nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh
của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được sáp
nhập về Hà Nội. Ngoại thành là khu vực bao quanh bên ngoài thành phố Hà
Nội, nhưng thuộc về thành phố Hà Nội về mặt hành chính; phân biệt với nội
thành Hà Nội. Như vậy, NTHN đã được mở rộng hơn từ năm 2008 cho đến
nay bao gồm: 01 thị xã: Sơn Tây; 17 huyện: huyện Thanh Trì, Đông Anh, Gia
Lâm, Ba Vì, Đan Phượng, Hoài Đức, Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai,
Thanh Oai, Sóc Sơn, Chương Mỹ, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hoà, Mỹ
Đức và Mê Linh đều được xem là khu vực NTHN.
* Những đặc trưng cơ bản trong TNTTH làng của cư dân NTHN
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của vùng đồng bằng Bắc bộ, theo
một số các nhà khoa học trước đây đã chỉ ra: “Có thần điện mở, không có
Đấng Tối Cao, có nội hàm tư tưởng Kính và Sợ, nhằm mục đích Cầu an cho
hiện thế, không đạt đến lý luận về thế giới bên kia, có một số nghi thức thực
hiện Hèm, nhưng không dừng ở đó mà tiếp thu hệ thống nghi thức phong
47

kiến, có một tổ chức tín ngưỡng (cộng đồng tôn giáo) đồng nhất với tổ chức
xã hội, nhưng đã tiếp thu hệ thống tổ chức xã hội phong kiến khác với tổ chức
tín ngưỡng, tuy vẫn chấp nhận một phần nào chế độ dụng xỉ truyền thống.
TNTTH đã vượt quá phạm trù tôn giáo nguyên thủy mà không phát triển
thành tôn giáo nhân tạo, vì vậy được mệnh danh là hiện tượng tiền tôn giáo”
[39, tr.409-410].
Ngoại thành Hà Nội là khu vực thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, TNTTH
làng nơi đây mang những đặc điểm chung giống như ở đồng bằng Bắc bộ,
song nó cũng mang nhiều tính điển hình:
Một là, Thành hoàng làng được nhân hóa và lịch sử hóa.
Đây là đặc điểm mang một đặc tính chung như ở các vùng khác. Đặc
điểm này phổ biến ở các vị nhiên thần, trong đó Sơn Tinh - Tản Viên Sơn
Thánh chắc chắn là một trong những ví dụ điển hình nhất. Làng Bình Đà,
huyện Thanh Oai, Hà Nội có 13 ngôi đình, đền chùa, miếu đã có từ rất lâu
đời và trở thành di tích lịch sử các cấp. Nơi đây có một điểm đặc biệt đáng
lưu ý khác biệt so với nhiều vùng quê khác là thờ tới hai vị thành Hoàng ở
hai nơi đền nội (Lạc Long Quân) và đền ngoại (Linh Lang Đại Vương). Sơn
Tinh cùng với Cao Sơn và Quý Minh là những vị thần núi - sơn thần tiêu
biểu nhất của người Việt ở miền Bắc, đặc biệt là khu vực Hà Nội và Phú
Thọ, những khu vực xung quanh núi Ba Vì. Từ một vị thần núi, Sơn Tinh -
Tản Viên Sơn Thánh đã dần được nhân hóa và lịch sử hóa. Trong Đại Việt
sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, hình tượng Sơn Tinh vẫn chỉ là một vị thần
núi vô nhân xưng. Nhưng sang đến thế kỷ XVI - XVII, với công lao của
Nguyễn Bính và Nguyễn Hiền, biên soạn thần tích trên cơ sở lời khai của
các địa phương, nhằm phục vụ cho việc cấp bằng sắc và quản lý di tích cũng
như đưa ra các hình thức và quy mô tế lễ, thì Tản Viên đã có một lý lịch trần
tục khá đầy đủ và chi tiết: mẹ là Đinh Thị Điên và cha là Nguyễn Cao Hạnh
sinh ra và lớn lên ở động Lăng Sương, mẹ nuôi là Ma Thị, khi trưởng thành
48

lấy Mỵ Nương Ngọc Hoa (con gái vua Hùng), đem quân đánh quân Thục,
thắng trận được vua Hùng nhường ngôi báu, rồi trả lại ngôi báu cho vua
Hùng để chu du thiên hạ dạy nhiều nghề cho dân chúng. Hình tượng Tản
Viên được nhân hóa và lịch sử hóa một cách rõ ràng, có chủ đích.
Hai là, Thành hoàng làng được thần thánh hóa.
Con người đã thần thánh hóa, thiêng hóa đối tượng thờ cúng. Thần
thánh hóa đối tượng được nhiều người tôn thờ là xu hướng chung, phổ rộng
ở nhiều quốc gia, dân tộc người trên thế giới. Xu hướng này xuất hiện ở cả
nhân thần lẫn nhiên thần. Việc thần thánh hóa đối với nhân vật lịch sử trên
thế giới có lẽ không trường hợp nào điển hình hơn là Thánh Gióng, đặc biệt
là những chi tiết liên quan đến sự sinh nở của Ngài: bà mẹ thấy một vết
chân rất to bà đã ướm thử chân lên và sau đó có thai sinh ra cậu bé bụ bẫm
tên là Thánh Gióng. Nhưng lên ba chưa biết ngồi vẫn nằm ngửa ăn không
biết nói cười thế mà giặc Ân đến cướp nước ta cậu bé vươn vai xin sứ giả
cho ra trận đánh giặc. Sau khi đánh thắng giặc, cậu bé không trở về quê nhà
mà từ bỏ tất cả chỉ còn người và ngựa bay lên trời. Từ đó để tưởng nhớ
công người anh hùng đánh giặc cứu nước, vua Hùng sai lập đền thờ Thánh
Gióng ở quê và phong Thánh Gióng là Phù Đổng Thiên Vương.
Ba là, Thành hoàng làng được công tích hóa và địa phương hóa.
Đặc điểm này có ở cả nhân thần lẫn nhiên thần, nhưng ở nhiên thần thì
đặc điểm này thể hiện rõ nét hơn. Điều này có nghĩa là, các vị nhiên thần,
cùng với việc nhân hóa và lịch sử hóa, muốn được nhân dân thờ cúng, họ còn
phải được gắn với những công tích ở các làng xã, miền quê cụ thể nào đó, chủ
yếu là đánh giặc ngoại xâm (đánh giặc thực hay giặc ảo), đánh giặc thiên
nhiên (chống hạn hán hoặc lũ lụt), dạy nghề cho dân chúng, v.v...
Trường hợp này, Sơn Tinh - Tản Viên là ví dụ tiêu biểu nhất, bởi vị
thần này được coi là “Ông tổ trăm nghề”. Theo khảo sát của Hà Kỉnh và
49

Đoàn Công Hoạt (trong cuốn “Truyền thuyết Sơn Tinh, Ty Văn hóa Thông
tin Hà Tây”, 1973), ngoài công lao đánh quân Thục, Tản Viên còn có những
công tích: cứu nhân dân thoát khỏi nạn lũ lụt, dạy dân đào ao, đào giếng,
khơi mương ngòi lấy nước để ăn uống, tắm giặt, làm ruộng, thả cá, dạy dân
cách trồng lúa, cách săn bắt thú rừng, cách tạo ra lửa và giữ lửa, cách đánh
cá và chế biến món ăn từ cá,... Công tích của Tản Viên gắn liền với những
địa phương mà vị thần này đi qua, chủ yếu là khu vực phía Tây Bắc của Hà
Nội hiện nay như: xã Cam Thượng, huyện Ba Vì; xã Liệp Tuyết, huyện Ba
Vì; xã Cẩm Lĩnh, huyện Ba Vì; xã Trung Hưng, huyện Ba Vì; xã Tích
Giang, huyện Phúc Thọ; các làng Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thuần Nghệ và Phú
Nhi, thị xã Sơn Tây,... [46, tr.283]. Trên khắp các địa phương thuộc vùng
đồng bằng Bắc bộ Việt Nam, có rất nhiều nơi thời Linh Lang Đại vương. Có
nơi cho rằng Ngài là con vị tướng có công đánh giặc bảo vệ dân làng nên khi
mất được thờ ở Thanh Oai. Có nơi ông lại được tương truyền kể lại rằng
giúp dân đắp đê làm hào chống lũ lụt thiên tai nên ông được coi như một vị
thuỷ thần.
Ở xã Phù Lưu, huyện Ứng Hòa, Hà Nội, xưa nay xã tách thành hai thôn
Phù Lưu Thượng và Phù Lưu Hạ. Đình Phù Lưu Thượng và đình Phù Lưu Hạ
thờ Không Bảng đại vương triều Đinh, có công giúp Vua Đinh Tiên Hoàng
dẹp loạn 12 sứ quân. Có thuyết nói, Không Bảng đại vương chính là Không
Thần đại vương có tên húy là Cao Quang Vương, cũng được thờ tại đền làng
Ngoại Hoàng xã Lưu Hoàng bên cạnh xã Phù Lưu.
Tại thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội có một ngôi đình mang tên
của chính địa phương đó - đình Tây Đằng. Ở đây là nơi làm việc của các vị có
chức có quyền. Đình Tây Đằng còn là nơi diễn ra các lễ hội của làng. Hơn
nữa, đây chính là nơi thờ tự, cúng vọng các vị Thành hoàng mà dân tôn sùng,
là Sơn Tinh, Thánh Gióng và Thần Nông.
50

Bốn là, TNTTH làng ở NTHN gắn bó chặt chẽ với văn hoá cổ truyền, lễ
hội, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng là loại hình tín ngưỡng mang màu sắc
bản địa khá phổ biến ở các làng quê nông thôn vùng NTHN. Trong khá nhiều
trường hợp, rất khó phân biệt đâu là tín ngưỡng và đâu là văn hoá. Nhiều khi,
tín ngưỡng còn là môi trường nảy sinh, tích hợp và lưu truyền các hiện tượng
văn hoá cổ truyền. Thành hoàng làng ở NTHN đa dạng, phong phú, thể hiện
nét đặc trưng tiêu biểu cho TNTTH vùng đồng bằng Bắc bộ Việt Nam. Việc
thờ cúng thực hiện đan xen giữa những vị nhiên thần, nhân vật huyền thoại là
các vị thần núi như Cao Sơn, Quý Minh và thần nước như Linh Lang, và
những vị nhân thần, nhân vật lịch sử như Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi,…
Thành hoàng làng ở NTHN phản ánh những đặc điểm cơ bản nhất của Thành
hoàng vùng đồng bằng Bắc bộ.
Có sự đa dạng trong điện thờ Thành hoàng ở các làng quê NTHN. Rất
ít làng chỉ thờ một Thành hoàng, mà thường có từ hai hay ba hoặc đến năm vị.
Trong số các vị được thờ Thành hoàng gồm những vị có công đánh giặc giữ
nước hoặc cứu tế hộ dân, có vị khai làng lập ấp, hay người tạo nghề nghiệp
mới,... Có nhân thần, nhưng cũng có nhiên thần; có chính thần nhưng cũng có
cả tà thần, dị thần. Thành hoàng có thể là nhân vật lịch sử, có người lại là
nhân vật huyền thoại là nam, nhưng cũng có cả Thành hoàng là nữ.
Làng Cự Đà, xã Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội là ngôi làng cổ mang
những đặc trưng cơ bản của làng Việt cổ ven sông. Cho đến nay,
trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử, làng giữ được gần
như vẹn nguyên so với thuở ban đầu,… Làng Cự Đà vẫn còn giữ
được một nền kiến trúc xây dựng cổ xưa, đặc biệt trên vùng châu
thổ sông Hồng như chùa Linh Minh, đình Thượng, đình Trung; Vũ
Lôi thần uy Đại vương (người có công đánh giặc Ân thời Hùng
51

Vương thứ VI) và Hoàng Thông phả độ Đại vương (tướng nhà Đinh
thời Vua Đinh Tiên Hoàng) được dân làng Cự Đà thờ làm Thành
hoàng. Hằng năm, vào đúng ngày 14 tháng giêng âm lịch, người
dân làng Cự Đà lại nô nức tổ chức lễ hội Đại kỳ phúc, rước Thành
hoàng làng; lễ Đại đám tổ chức 5 năm một lần. Hội Bình Đà được
mở chính thức từ ngày 24 tháng hai đến ngày mùng 6 tháng Ba Âm
lịch hàng năm; trong đó, ngày 26 tháng hai là ngày giỗ Thành
hoàng Linh Lang Đại vương, còn ngày 06 tháng ba là ngày lễ giỗ
Đức Thánh tổ Lạc Long Quân [13].
Khái niệm lễ hội là một khái niệm khá phổ biến ngày nay. Lễ là tế lễ,
thể hiện niềm tin tôn giáo. Hội là vui chơi giải trí, sinh hoạt văn hóa trong dân
chúng. Thế nhưng, trong ý thức nhân dân, hội cũng mang đủ hai nội dung lễ
và hội. Bởi vì, nhân dân hiểu rõ mối liên quan giữa lễ và hội, rằng không có lễ
thì cũng chẳng có hội, có lễ ở đình, đền mới có hội làng, đình đám; hội làng là
hội của làng, biểu hiện tập trung văn hóa riêng có dân tộc ta mang dấu ấn
truyền thống. Các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống ở NTHN đều gắn với
một không gian văn hóa cụ thể, gắn bó mật thiết, khăng khít với văn hoá cổ
truyền, lễ hội, mang đậm những nét sinh hoạt tiêu biểu của địa phương và
vùng miền.
Ví dụ, làng Bình Đà từ xưa đến nay ai cũng biết đến là nơi có nhiều di
tích lịch sử cổ xưa, trong đó có huyền thoại kể về nguồn gốc của dân tộc ta từ
ngàn xưa. Hội chợ Chuông, huyện Thanh Oai, Hà Nội là sự kết hợp hài hòa
rất nhiều nét đặc sắc văn hoá suốt chiều dài phát triển của mình. Những trầm
tích của văn hóa chùa chiền thể hiện ở tháp chuông, của TNTTH làng, của đời
sống sinh hoạt hàng ngày gắn liền với sản xuất nhỏ, trồng lúa nước và văn
hoá làng nghề làm nón hoà quyện, đan xen tạo thành một bản sắc riêng để
mỗi khi nhắc tới làng Chuông, ai ai cũng nghĩ đến làng nghề nón. Vì vậy, mỗi
52

làng quê vùng NTHN luôn có sức sống lâu bền, mãnh liệt trong đời sống nhân
dân và cả trong xã hội hiện đại.

2.2. ĐỜI SỐNG TINH THẦN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI
ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
2.2.1. Đời sống tinh thần của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
2.2.1.1. Đời sống tinh thần và cấu trúc của đời sống tinh thần
* Đời sống tinh thần
Khái niệm “Đời sống tinh thần” chưa được chủ nghĩa Mác - Lênin định
nghĩa với tính cách là một phạm trù triết học, tuy nhiên, khi phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, các nhà kinh điển
mácxít cũng đã nhắc tới một số thuật ngữ liên quan đến bản chất của ĐSTT
như: “sản xuất tinh thần”, “hoạt động tinh thần”, “tinh thần thực tiễn”, và
“biểu hiện tinh thần”,... Đây có thể coi là những quan niệm xuất phát cho việc
xây dựng khái niệm “Đời sống tinh thần” của các nhà khoa học sau này.
A.K.Ulêđốp, trong cuốn sách Đời sống tinh thần của xã hội đã định
nghĩa: “Đời sống tinh thần, về bản chất là quá trình tồn tại hiện thực của mọi
người, còn thực tế thì đó là cách thức hoạt động sống có tính chất xã hội và là
lĩnh vực độc lập tương đối, có liên quan tới sản xuất và truyền bá ý thức, tới
việc thỏa mãn những nhu cầu tinh thần của mọi người” [127, tr.13].
V.X.Barulin quan niệm: “Đời sống tinh thần chính là lĩnh vực các hiện
tượng tư tưởng nằm trong sự thống nhất với những người mang, người sáng
tạo, người vận chuyển xã hội nhất định của chúng” [153, tr.13].
Hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm đời sống tinh thần cũng được nhắc
đến trong một số công trình khoa học:
Cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, đã đưa ra
khái niệm đời sống tinh thần với nghĩa là khái niệm ghép giữa khái niệm “đời
sống” và “tinh thần”, được giải thích như sau:
53

(1) Sự sinh sống, hoạt động diễn ra trong cơ thể một sinh vật: đời
sống con người, đời sống cây trồng;
(2) Hoạt động của con người về một lĩnh vực nào đó nói chung:
đời sống riêng, đời sống tinh thần;
(3) Lối sống, điều kiện sống, sinh hoạt của con người, xã hội
[159, tr.670].
Phùng Đông trong bài viết “Vị trí, ý nghĩa của phạm trù đời sống tinh
thần xã hội trong chủ nghĩa nghĩa duy vật lịch sử” đã cho rằng:
Đời sống tinh thần là tất cả những giá trị, những sản phẩm, những
hiện tượng, những quá trình, những hoạt động, những quan hệ
tinh thần của con người, phản ánh đời sống vật chất của xã hội và
được thể hiện như là một phương thức hoạt động và tồn tại tinh
thần của con người trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định [25, tr.34-37].
Trần Khắc Việt trong luận án “Đời sống tinh thần của xã hội và xây
dựng đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” cũng đã định nghĩa:
Đời sống tinh thần là khái niệm phản ánh một lĩnh vực đặc thù của
đời sống xã hội, nó bao gồm toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra các giá trị tinh thần; là sự tổng hòa các hoạt động tư tưởng,
khoa học, nghệ thuật, giáo dục và đào tạo, tín ngưỡng tôn giáo; nó
vừa là sự phản ánh, vừa ảnh hưởng tích cực trở lại đời sống vật chất
và đời sống chính trị của xã hội [153, tr.36].
Như vậy, có thể hiểu: ĐSTT là khái niệm bao trùm toàn bộ lĩnh vực
hiện thực tinh thần của xã hội, bao gồm ý thức cá nhân và ý thức của các tập
đoàn người (giai cấp, dân tộc,…). ĐSTT còn bao hàm toàn bộ quá trình của
đời sống sản xuất, phát triển, phổ biến, mô phỏng, trao đổi, phân phối, sử
dụng các giá trị về mặt tinh thần. Vì là tổng hòa tất cả các hiện tượng tinh
54

thần, cho nên bao gồm cả những hiện tượng đã trở thành phổ biến, chiếm ưu
thế, cả những hiện tượng mới phôi thai, đang trong quá trình hình thành, lại
có những hiện tượng tinh thần (các quan niệm, thói quen, truyền thống) cũ
vần tồn tại trong đời sống xã hội với tính cách là những tàn dư, có cả những
hiện tượng phát triển hợp quy luật, có cả những hiện tượng lệch lạc, trì trệ.
Chính C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã cho chúng ta thấy rằng, trong lúc khẳng
định sản xuất vật chất quyết định sản xuất tinh thần, không được phép rơi vào
quan điểm giản đơn, máy móc khi nghiên cứu về đời sống ý thức, tinh thần
của xã hội. Các ông viết: “càng đi xa lĩnh vực kinh tế mà chúng ta nghiên cứu,
lĩnh vực đó càng gắn với tư tưởng trừu tượng thuần túy, thì chúng ta sẽ càng
thấy tính ngẫu nhiên trong sự phát triển của nó, đường biểu diễn của nó càng
dích dắc hơn” [83, tr.273].
Khi nghiên cứu khái niệm ĐSTT cần thấy rõ mối quan hệ biện chứng
giữa khái niệm ĐSTT với khái niệm ý thức xã hội. Một số công trình đi trước
cho thấy có sự đồng nhất giữa ĐSTT với ý thức xã hội. Tuy nhiên, trong thực
tế thì mối quan hệ biểu hiện nhiều chiều nhiều và không hẳn là vậy. Thứ nhất,
ý thức xã hội thuộc ĐSTT của xã hội, tức là một bộ phận của ĐSTT chứ
không đồng nhất với ĐSTT. Thứ hai, ý thức xã hội là cái phản ánh sự tồn tại
của xã hội, trong mối quan hệ với mặt đối lập với nó là tồn tại xã hội, còn
ĐSTT là phạm trù đối lập với phạm trù đời sống vật chất. Ngoài ra, cần phải
tìm hiểu mối quan hệ giữa hai khai niệm cụ thể là khái niệm ĐSTT với khái
niệm đời sống văn hóa tinh thần. Giữa ĐSTT và đời sống văn hóa tinh thần có
mối quan hệ mật thiết với nhau, song chúng không phải là đồng nhất, cũng
không phải cái này rộng hơn cái kia, mà quan hệ giữa chúng là quan hệ giữa
quá trình hoạt động tinh thần (ĐSTT) và giá trị đã đạt tới của quá trình đó
(văn hóa tinh thần), trong đó, với khái niệm ĐSTT chúng ta đề cập tới tất cả
các bộ phận, các lĩnh vực của hoạt động thuộc lĩnh vực tinh thần, còn với khái
55

niệm đời sống văn hóa tinh thần thì ở đây chúng ta nói về giá trị của ĐSTT,
của các hoạt động tinh thần với tính cách là một hệ thống giá trị đang trong
quá trình biến đổi, phát triển và hoàn thiện.
Bên cạnh đó, cũng cần phân biệt hai khái niệm sau: khái niệm ĐSTT
với khái niệm ĐSTT của cá nhân. ĐSTT cá nhân là hoạt động tinh thần của
từng cá nhân, nó vừa phản ánh điều kiện sống của cá nhân, vừa chịu sự chi
phối một cách chặt chẽ của đời sống xã hội. Còn khái niệm ĐSTT bao trùm
toàn bộ các lĩnh vực hiện thực tinh thần của cả xã hội và bao gồm cả ý thức cá
nhân, ý thức của các tập đoàn người (giai cấp, dân tộc, lứa tuổi,…). ĐSTT nó
gắn kết chặt chẽ và phản ánh một cách đầy đủ nhất đời sống vật chất sản sinh
ra nó, đó là đời sống vật chất của xã hội. Khi đời sống sinh hoạt vật chất của
bất kỳ một xã hội nào đó thay đổi thì ĐSTT sẽ phải thay đổi theo cho phù
hợp, sự thay đổi này có thể sớm hoặc muộn tuỳ điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ
thể “lịch sử tư tưởng chứng minh gì, nếu không phải là chứng minh rằng, sản
xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất” [79, tr.625]. Tuy nhiên,
ĐSTT cũng có tính độc lập tương đối, bản thân ĐSTT sẽ đóng vai trò thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của thực tiễn tuỳ theo sự phù hợp của mình,
qua đó cũng góp phần cải tạo hiện thực.
Từ sự tìm hiểu, phân tích ở trên, có thể khẳng định, “Đời sống tinh
thần là toàn bộ hoạt động, quan hệ tinh thần, phản ánh đời sống vật chất của
xã hội và được thể hiện như là một phương thức hoạt động, tồn tại tinh thần
của con người trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định”.
* Cấu trúc của ĐSTT
Về cơ bản, ĐSTT bao gồm các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, với tính cách là một quá trình vận động và phát triển, ĐSTT
bao gồm: nhu cầu tinh thần, sản xuất tinh thần, trao đổi tinh thần và tiêu dùng
các giá trị tinh thần.
56

Sản xuất tinh thần là cơ sở của toàn bộ các hoạt động tinh thần, nó sản
sinh ra ý thức xã hội (các tư tưởng, quan điểm, khái niệm, ý kiến,…) và các
giá trị tinh thần khác như tri thức khoa học, các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Tính đặc thù của sản xuất tinh thần thể hiện ở đặc điểm của sản phẩm tinh
thần và đặc tính của lao động tinh thần. Các nhu cầu tinh thần phụ thuộc trực
tiếp vào sản xuất tinh thần và gián tiếp vào nhu cầu và sản xuất vật chất, vào
chế độ chính trị - xã hội, ý thức và tâm lý xã hội, vào chủ thể có nhu cầu và
các nhân tố khác.
Giao tiếp tinh thần là được coi là một trong những nội dung biểu hiện
của giao tiếp xã hội, ngày càng trở thành điều kiện cần thiết của cuộc sống
con người, thông qua đó diễn ra sự trao đổi lẫn nhau những kết quả lao động
tinh thần, các nhu cầu tinh thần, thông tin, trạng thái tâm lý,…
Tiêu dùng tinh thần có mục đích mở ra khả năng sáng tạo, sự phát triển
toàn diện và hài hòa của con người. Tiêu dùng tinh thần gắn con người với xã
hội và hình thành nhân cách theo những đòi hỏi của xã hội. Con người tiếp
nhận các giá trị tinh thần thông qua lăng kính kinh nghiệm sống của mình,
gắn với lý trí và tình cảm, với thế giới nội tâm của mình.
Thứ hai, với tính cách là các lĩnh vực phát triển của xã hội, ĐSTT bao
gồm: các quan điểm, tư tưởng; hoạt động chính trị, pháp quyền; hoạt động
khoa học; hoạt động văn hoá, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng; đạo đức, lối
sống; hoạt động giáo dục và đào tạo... Các lĩnh vực này có mối quan hệ mật
thiết không thể tách rời, ảnh hưởng, đan xen lẫn nhau, trong đó, đời sống tư
tưởng giữ vai trò chỉ đạo toàn bộ định hướng, nội dung phương hướng phát
triển của ĐSTT.
Đời sống tinh thần là một phạm trù được thể hiện trên nhiều phương
diện. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi nghiên cứu ĐSTT
ở các phương diện: quan điểm tư tưởng; đạo đức, lối sống; văn hoá, nghệ
57

thuật; tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là sản phẩm trực tiếp của quá trình lịch sử và
giao tiếp, ứng xử xã hội. Từ các hoạt động tinh thần, hệ thống giá trị tinh thần
được tạo nên nhằm thoả mãn nhu cầu hưởng thụ tinh thần của người dân.
2.2.1.2. Đặc trưng đời sống tinh thần của cư dân ngoại thành Hà
Nội hiện nay
* Cư dân NTHN hiện nay
Đặc điểm nổi bật của bộ máy tổ chức làng xã ở vùng ngoại thành xưa
của Hà Nội là tính tự trị, tự quản khá cao. Nhà nước chỉ can thiệp vào công
việc của làng xã thông qua việc thu thuế, bắt lính; xử lý những vụ án hình sự,
hay những vụ tranh chấp dân sự mà làng không hòa giải được; can thiệp khi
có dịch bệnh lớn,… còn lại thuộc quyền tự trị, tự quản của các địa phương.
Cơ cấu tổ chức làng xã cũng tương đối đơn giản, nhưng chặt chẽ. Hệ thống tổ
chức gồm có Hội đồng hương chính và Lý trưởng do dân làng tự bầu, Nhà
nước phê chuẩn, nếu vị chức sắc nào thực hiện trách nhiệm không tốt, hay có
sai phạm, dân làng sẽ bầu người khác thay thế. Làng có đội ngũ tuần phiên, có
trách nhiệm bảo vệ an ninh, trật tự trong làng và ngoài đồng. Hầu hết, hương
ước các làng đều quy định, nếu tuần phiên lơ là để trộm đục tường, khoét
vách, ăn trộm hay gặt trộm lúa ngoài đồng, tuần phiên bị phạt và đền cho gia
đình mất trộm 100% số tài sản bị thiệt hại.
Do tính chất tự trị, tự quản cao, nên các làng ở NTHN ngày xưa được
ví như một nước cộng hòa thu nhỏ, với những thiết chế chặt chẽ, những quy
định bảo đảm “dân chủ làng xã” và cố kết cộng đồng rất cao.
Điều đáng quan tâm trong thời gian trước đây là, cư dân ở vùng NTHN
mặc dù trình độ dân trí thấp, đa số không biết chữ, nhưng nếp sống, việc giữ
gìn văn hóa lại khá cao, những người có chữ nghĩa trong làng rất được tin cậy
và tôn trọng. Người biết chữ được tham gia Hội đồng, được bầu làm chức
dịch và cũng vì thế mà người dân rất hiếu học, mong con cháu được học hành,
đỗ đạt thành tài. Những giá trị đó khiến các làng ngoại thành xưa của Hà Nội
58

bình yên, vững vàng trước các yếu tố ngoại lai suốt thời gian dài trong quá
trình dựng nước và giữ nước.
Bước vào giai đoạn hiện đại đất nước theo xu thế toàn cầu hóa, hội
nhập, phát triển nền kinh tế theo xu hướng quốc tế hiện nay, các làng xã ở
vùng NTHN có nhiều biến đổi to lớn. Mỗi làng không còn được bao bọc,
khép kín trong phạm vi làng, mà trở thành một đơn vị dân cư mở, mỗi xã là
một đơn vị hành chính cấp nhỏ nhất trong hệ thống hành chính bốn cấp hiện
nay. Đây là điều kiện để các địa phương trong vùng phát triển, nhất là phát
triển kinh tế hàng hóa, mở rộng làng nghề hay nông nghiệp sạch,… để nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho cư dân.
Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, bên cạnh những
thành tựu to lớn, là những mặt tiêu cực ảnh hưởng đến người dân rất khốc liệt.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH - HĐH) dẫn đến tình trạng
chuyển đổi đất nông nghiệp sang công nghiệp là một bước ngoặt mới, đã làm
biến dạng không ít làng xã vùng NTHN, biến nhiều khu nông thôn thì người
dân trở thành người thành thị, làng mạc thành phường quận. Nhiều người dân
không còn đất đai để sản xuất, nghề nghiệp trong tay không có nên họ vô hình
sau đó trở nên lạc lõng trước thời cuộc, khiến họ phải ra các thành phố lớn, đi
giúp việc, đi xuất khẩu lao động, tham gia một số đường dây làm ăn phi pháp
hoặc kết hôn với người nước ngoài để kiếm sống. Những ảnh hưởng tiêu cực
ban đầu khi cơ chế thị trường nảy sinh khiến một bộ phận cư dân vùng NTHN
lao vào cuộc tranh đoạt đất đai, nhà cửa thậm chí cha mẹ anh em, vợ con
chém giết lẫn nhau vì giá đất ngày càng lên cao dẫn đến sự suy thoái về đạo
đức, văn hóa, hiện tượng lấn chiếm đất công, tranh chấp từ đường,… thường
xuyên xảy ra.
Điều kiện kinh tế - xã hội trên đã và đang ảnh hưởng sâu sắc, hình
thành nên những đặc trưng cơ bản về đời sống vật chất, cũng như ĐSTT của
người dân vùng NTHN hiện nay.
59

* Một số nét cơ bản về ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay


Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ quá trình hội
nhập và giao lưu quốc tế, cũng như tất cả các vùng khác trong cả nước,
trong ĐSTT của cư dân vùng NTHN hiện nay thì yếu tố truyền thống không
chiếm vai trò chủ đạo, mà đã có sự xâm nhập của những tư tưởng mang dấu
ấn thời đại.
Thực tế, việc đánh giá đặc điểm ĐSTT của cư dân vùng NTHN hiện
nay không hề đơn giản. Để có những luận giải khoa học, đúng đắn, khách
quan về ĐSTT của cư dân vùng NTHN, theo tác giả luận án phải bắt đầu từ
sự phân tích những thay đổi về mặt kinh tế, vì suy cho đến cùng, kinh tế chính
là yếu tố quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất cho ĐSTT của người dân.
Có thể thấy, những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội
nói chung, vùng NTHN nói riêng ở mức tương đối cao. Năm 2018, 20 chỉ
tiêu phát triển mà Hà Nội đề ra đều đạt và vượt kế hoạch. Thu hút đầu tư
nước ngoài lần đầu đứng đầu cả nước sau hơn 30 năm mở cửa và hội nhập.
Tăng trưởng kinh tế của Hà Nội năm 2018 đạt khá, cơ cấu chuyển dịch đúng
hướng. GRDP tăng 8,56% và duy trì ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ qua
các năm cụ thể như sau (năm 2016 tăng 8,20%; năm 2017 tăng 8,48%); bình
quân ba năm 2016 - 2018 tăng 8,41%, cao hơn mức 7,3% của giai đoạn 2011
- 2015. “Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỷ
trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp, xây dựng và giảm tỷ trọng ngành
nông nghiệp. GRDP bình quân đầu người năm 2018 đạt 4.080 USD/người,
gấp 1,12 lần năm 2015. Khách du lịch quốc tế đạt 5,74 triệu lượt, tăng 16%,
về đích trước hai năm so với mục tiêu đặt ra. Nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao và liên kết sản xuất được khuyến khích phát triển. An sinh xã hội
được bảo đảm, tích cực hỗ trợ nhà ở cho người có công, người nghèo và
hoàn thành trước hai năm mục tiêu giảm nghèo. Ðến nay, Hà Nội đã có 70
cụm công nghiệp đang hoạt động, diện tích là 1.337 ha với khoảng 3.100 cơ
60

sở sản xuất đang hoạt động; nộp ngân sách tám tháng đầu năm 2018 khoảng
631 tỷ đồng; thu hút khoảng 60 nghìn người lao động. Trong số đó, có ba
cụm công nghiệp tập trung gồm: cụm công nghiệp Chương Mỹ rộng 50 ha;
cụm công nghiệp Sơn Tây rộng 70 ha; cụm công nghiệp Phúc Thọ rộng 55
ha. Ðây là điều kiện cơ bản để phát triển làng nghề, kinh tế nông thôn và kêu
gọi đầu tư phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế của Hà Nội” [7]. Đời
sống vật chất được cải thiện, kéo theo ĐSTT của người dân cũng có những
thay đổi và phát triển.
Có thể khẳng định rằng, “đang trong quá trình chuyển từ xã hội nông
nghiệp, nông thôn sang xã hội công nghiệp, đô thị và hiện đại” là đặc trưng
có tính bản chất nhất của cư dân vùng NTHN hiện nay
Nhìn dưới góc độ của các nhà nghiên cứu văn hoá, quá trình đó chính
là sự chuyển đổi những giá trị của đời sống, sinh hoạt xã hội từ một đất nước
thuần nông gắn với văn minh nông nghiệp sang phát triển đô thị với nhiều
khu công nghiệp lớn nhỏ gắn với văn minh công nghiệp. Vì thế, trên tất cả các
lĩnh vực của ĐSTT đều có sự thay đổi, phát triển. Cụ thể:
Trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống: Hệ tư tưởng chủ đạo, đóng
vai trò nền tảng, quy định đến mọi lĩnh vực hoạt động tinh thần của cư dân
vùng NTHN hiện nay là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
cùng với các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Quyền làm chủ
của người dân được thể hiện trước hết ở sự dễ dàng tiếp cận thông tin và
tham gia vào việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển của thành phố.
Các giá trị truyền thống của dân tộc vẫn tiếp tục được phát huy trong tư
tưởng của đa số cư dân. Những “bông hoa” đẹp xuất hiện ngày càng nhiều
trong cuộc sống và những gương điển hình trong việc làm theo lời Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy được nhân rộng đã góp phần thúc đẩy việc giáo dục tư
tưởng, đạo đức, lối sống của dân cư trong vùng.
61

Bên cạnh những thành tựu mà bước đầu đã đạt được, còn nhiều hạn chế
trong xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống của cư dân vùng NTHN hiện nay
cần được khắc phục, như: trong tư tưởng của một bộ phận người dân xuất
hiện sự ngộ nhận, tôn sùng kinh tế, dẫn đến lý tưởng về chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bị phai nhạt trong mục tiêu phấn đấu. Tình
trạng xuống cấp về phẩm chất đạo đức chưa được ngăn chặn, xu hướng coi
nhẹ, phủ nhận các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc có chiều hướng gia
tăng,... Do ảnh hưởng mạnh mẽ bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường, nên
một bộ phận dân cư NTHN đã tuyệt đối hóa vật chất, sống thực dụng và vô
cảm. Đây chính là những hạn chế cần phải khắc phục nhằm góp phần xây
dựng lối sống văn minh, lành mạnh cho người dân.
Trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo: So với các tỉnh thành khác trong cả
nước, giáo dục Hà Nội được xếp vào loại vượt trội cả về mặt số lượng cũng
như chất lượng. Đối với các vùng NTHN, từ chỗ không có trường cấp 3, thì
nay mỗi huyện đều có ít nhất từ 4 - 5 trường trung học phổ thông. Từ chỗ cả
thủ đô có khoảng 500 sinh viên, thì nay Hà Nội có khoảng 3 triệu sinh viên
học tập và sinh sống với hàng trăm trường đại học, cao đẳng và trung cấp
chuyên nghiệp. Đặc biệt, hệ thống trường lớp của Hà Nội, kể cả vùng ngoại
thành đã được đầu tư khang trang, sạch đẹp. Bên cạnh đó, nhiều địa phương
đã có số trường đạt chuẩn quốc gia tăng 50% so với 10 năm trước. Từ sự phát
triển của các quận, huyện đã góp phần giúp ngành giáo dục thủ đô có tổng số
1.372 trường đạt chuẩn quốc gia tính đến năm 2018, chiếm 52%, trong đó
công lập có 1.336 trường đạt chuẩn chiếm 62% [8]. Trong công tác phổ cập
giáo dục, ngành giáo dục Hà Nội đã triển khai nhiều giải pháp nhằm duy trì
và nâng cao kết quả ở các cấp học. Năm 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo công
nhận Hà Nội hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức 2. Cùng
với việc tiếp tục duy trì xóa mù chữ và phổ cập giáo dục Trung học cơ sở, Hà
62

Nội hoàn thiện các bước chuẩn bị phổ cập giáo dục bậc trung học. Đối tượng
từ 18 - 21 tuổi đã phổ cập trung học đến nay đạt tỷ lệ 92% [8].
Bên cạnh thành tựu đó thì vẫn tồn tại một số những khó khăn không
nhỏ đối với ngành giáo dục và đào tạo ở Hà Nội nói chung và các vùng
NTHN nói riêng. Hệ thống trường lớp hiện chưa theo kịp với sự gia tăng về
mặt dân số và phát triển về giáo dục. Nhiều trường ở vùng NTHN, các lớp
học thường có 50 - 60 học sinh, vì thế rất khó để đảm bảo chất lượng đồng
đều ở tất cả các quận, huyện. Cơ sở vật chất của một số trường còn hạn chế do
nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục hạn hẹp. Cùng với đó, đời sống sinh hoạt
hàng ngày của cư dân vùng NTHN còn khó khăn, nên sự nhận thức và quan
tâm đến việc học tập của con em còn không đồng đều.
Trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: Hà Nội hiện có 1.401 làng văn hóa,
giữ vai trò nòng cốt trong phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư. Quá trình đô thị hóa đang len lỏi về các vùng nông
thôn, nên việc giữ gìn và nhân rộng mô hình làng văn hóa lại càng có ý
nghĩa hơn bao giờ hết. Là mảnh đất ngàn năm văn hiến, Hà Nội là nơi kết
tinh, hội tụ những tinh hoa văn hoá của các vùng, miền trong cả nước. Tinh
hoa văn hoá của đất kinh kỳ còn là những di sản văn hoá phi vật thể có trữ
lượng khá lớn. Văn hoá phi vật thể Hà Nội là tổng hoà các yếu tố giao lưu,
hội nhập, dung hoà, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để tạo nên bản sắc Thăng
Long - Hà Nội, một vùng đất hội thuỷ, hội nhân và hội tụ văn hoá vô cùng
phong phú và đa dạng. Khi nhắc đến Hà Nội, một nét văn hoá không thể
thiếu còn kể đến các giá trị văn hoá ẩm thực. Những giá trị này đã góp phần
to lớn vào việc xây dựng bản sắc văn hoá đặc trưng cho Hà Nội nói chung và
người dân NTHN nói riêng. Bên cạnh đó, sự xuất hiện và phát triển của thế
hệ trẻ trên hầu hết các loại hình nghệ thuật cũng đem đến một luồng sinh khí
mới, tương lai mới trong văn hóa nghệ thuật cho NTHN thời kỳ CNH - HĐH
và hội nhập quốc tế.
63

Bên cạnh thành tựu đã đạt được, trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của
NTHN cũng còn không ít những hạn chế, yếu kém. Tuy số lượng các tác
phẩm văn hóa nghệ thuật xuất hiện ngày càng nhiều, song còn ít tác phẩm có
giá trị cao và bền vững trên cả hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật. Mặt
khác, do sức ép của kinh tế thị trường, nhu cầu của một bộ phận công chúng,
mục tiêu chạy theo lợi nhuận đơn thuần của một số đơn vị, công ty kinh
doanh dịch vụ văn hóa, nên xuất hiện ngày càng nhiều sản phẩm văn hóa nghệ
thuật tầm thường, câu khách,… nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí thuần túy, thị
hiếu thấp kém. Hiện tượng sách, băng đĩa lậu xuất bản và phát hành tràn lan
trên thị trường đến nay chưa có giải pháp và chế tài ngăn chặn. Một bộ phận
văn nghệ sĩ, do bị kích động bởi các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính
trị, do biến chất, thoái hóa về chính trị, lối sống đã cho ra đời những tác phẩm
xấu, độc, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử, bôi đen cách mạng, kháng chiến,
phủ định thành tựu của công cuộc đổi mới.
Trên lĩnh vực tín ngưỡng - tôn giáo: Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi
mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, không gian sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo gắn
với lễ hội và văn hóa tâm linh của người dân Hà Nội nói chung, người dân
vùng NTHN nói riêng cũng có nhiều biến đổi theo hướng ngày càng phát
triển hơn. “Theo thống kê của Cục Văn hóa Cơ sở - Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, ở nước ta hiện nay có 7.966 lễ hội, trong đó Hà Nội là địa phương có
nhiều lễ hội nhất cả nước với 1.095 lễ hội” [110, tr.61].
Cùng với bầu không khí của hội nhập để phát triển và đổi mới đất
nước, các tổ chức tôn giáo ở NTHN cũng ngày càng phát triển. Số lượng
tín đồ của các tôn giáo tăng nhanh và các hội quy, hội đoàn hoạt động
tương đối tích cực. Cho đến nay, hệ thống tôn giáo ở NTHN khá phong
phú, đa dạng, bao gồm cả những tôn giáo chính yếu của nước ta và các hiện
tượng tôn giáo mới.
64

Những năm gần đây, hệ thống tôn giáo ở NTHN càng thêm phần đa
dạng nhờ có sự xuất hiện của các hiện tượng tôn giáo mới. Trong sự phát triển
của hệ thống tôn giáo, Hà Nội vẫn luôn có vị thế là một trung tâm truyền giáo,
ảnh hưởng trực tiếp đến hầu hết các tỉnh phía Bắc.
Bên cạnh hệ thống tôn giáo ngày càng biểu hiện sự đa dạng, số lượng
đình, đền, miếu, phủ, điện thờ,… của các loại hình tín ngưỡng dân gian cũng
được xây, sửa ở khắp các địa phương trên địa bàn. Nhà nước cũng như chính
quyền các huyện, thị xã ở NTHN cũng rất quan tâm đến việc đào tạo những
nhà tu hành, những nhà nghiên cứu, hoạt động tôn giáo một cách nghiêm túc
và chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn. Thủ đô Hà Nội là nơi tổ chức
thành công các cuộc hội thảo, lễ hội tôn giáo ở tầm quốc gia, khu vực và thế
giới như Đại lễ Vesak diễn ra ở Hà Nội năm 2008.
Cùng với những kết qủa đã đạt được, việc thực hiện các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo ở thủ đô Hà Nội nói chung và vùng NTHN nói riêng hiện
nay cũng gặp nhiều khó khăn: hoạt động mê tín dị đoan đang có xu hướng gia
tăng làm cho hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng bị những kẻ “buôn thần bán
thánh” lợi dụng; một số người chưa thực hiện đúng pháp luật, còn hiện tượng
tổ chức truyền bá các loại đạo trái phép; việc trùng tu chùa chiền, phát triển lễ
hội một cách tràn lan, chưa phù hợp thực tại với kiến trúc hiện đại lai tạo, loè
loẹt, làm hao tốn tiền của vật chất, công sức của cư dân trong vùng. Có số ít
chức sắc Phật giáo còn sa ngã bởi cám dỗ trong cuộc sống đời thường vì ái
dục, chưa gỡ bỏ được “tham, sân, si”, dẫn tới những hành vi không chỉ phạm
giới luật, mà cả pháp luật,...
2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới đời sống tinh thần của cư dân
ngoại thành Hà Nội hiện nay
2.2.2.1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước nhằm
65

xây dựng xã hội mới với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Đó là nền kinh tế “với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh” [21, tr.73-74].
Trong những năm qua, vượt qua những khó khăn từ nhiều phía, nhiều
lĩnh vực của nền kinh tế thị trường, Hà Nội nói chung, vùng NTHN nói riêng
đã vận dụng sáng tạo, thực hiện đồng bộ quan điểm đổi mới của Đảng và đã
đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, làm biến đổi rõ rệt đời sống xã hội
của cư dân và đã thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm đặc biệt những
vùng đất mới ở NTHN. Kinh tế thị trường còn tạo ra sự cạnh tranh trong mọi
lĩnh vực hoạt động và lấy tiêu chí “năng suất - chất lượng - hiệu quả” làm
thước đo cơ bản, vì vậy, đã góp phần tích cực hình thành cách nghĩ, cách
hiểu, cách làm năng động, sáng tạo trong ĐSTT, tâm lý của người dân. Tuy
nhiên, bên cạnh mặt tích cực, nền kinh tế thị trường cũng có những mặt trái,
những thách thức đối với sự phát triển. Do ảnh hưởng của quy luật kinh tế
trong nền kinh tế thị trường, khoảng cách giàu nghèo giữa các địa phương ở
vùng NTHN hiện nay ngày càng rộng. Chính sự phân hóa mức sống giữa các
địa phương đã dẫn đến sự phân hóa về lối sống, trình độ học vấn, đạo đức
trong cư dân. Điều này dẫn tới một nghịch lý, trong đời sống xã hội của cư
dân vùng NTHN hiện nay không hiếm những người giàu lên về vật chất,
song lại nghèo đi về tinh thần, tình cảm. Ngoài ra, cơ chế thị trường do đề
cao lợi nhuận, tuyệt đối hóa các giá trị vật chất, dẫn tới việc con người dễ
xuất hiện tâm lý bất chấp luân thường đạo lý để chạy theo đồng tiền, những
giá trị đạo đức có nguy cơ bị băng hoại do những tính toán vị kỷ. Điều này
cũng dẫn tới việc “thương mại hóa” tất cả mọi phương diện của đời sống xã
hội, kể cả phương diện ĐSTT.
66

Trong sự cạnh tranh ngày càng diễn ra mạnh mẽ cơ chế thị trường, một
mặt người dân ở đây phải không ngừng vươn lên để đáp ứng những nhu cầu
thiết yếu và ngày càng gia tăng của xã hội. Khi những nhu cầu không được
đáp ứng đầy đủ tất yếu sẽ dẫn tới sự bi quan, chán nản, bất lực trước cuộc
sống. Sự cô đơn trong cuộc sống khiến cho một bộ phận cư dân phải đi tìm
chỗ dựa trong một thế giới tâm linh tôn giáo như một niềm an ủi tinh thần nơi
cuộc sống trần thế.
Như vậy, ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến ĐSTT của cư dân
vùng NTHN hiện nay đan xen cả yếu tố tích cực và tiêu cực. Vấn đề đặt ra là
phải có cơ chế, chính sách thích hợp và giải pháp đồng bộ để, một mặt, định
hướng và thúc đẩy sự phát triển ĐSTT cư dân vùng NTHN hiện nay lành
mạnh, tiến bộ; mặt khác hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế
thị trường.
2.2.2.2. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa “là một quá trình mang ý nghĩa cách
mạng, bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp sang công nghiệp, từ đời sống
cổ truyền sang đời sống hiện đại. Sự chuyển biến này không chỉ diễn ra trong
hoạt động kinh tế, mà trong mọi lĩnh vực của đời sống. Công nghiệp hóa và
hiện đại hóa với những thành tựu của khoa học kỹ thuật sẽ xóa bỏ dần nền sản
xuất lạc hậu với những hậu quả xã hội của nó, giảm bớt sự nhọc nhằn của lao
động cơ bắp để thực hiện trên nước ta mệt nền sản xuất tiên tiến, có năng suất
cao, tạo điều kiện cho sự phát triển về mọi mặt”.
Quá trình thực hiện CNH - HĐH ở vùng NTHN hiện nay, về cơ bản là
quá trình xây dựng và phát triển một nền kinh tế hiện đại, vững chắc, với mục
đích chuyển đổi nền kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch
vụ, thu hẹp sản xuất nông nghiệp; đồng thời chuyển xã hội từ truyền thống
sang xã hội ngày càng phát triển theo hướng hiện đại. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất đến một mức độ nhất định sẽ kéo theo sự biến đổi của quan hệ
67

sản xuất, và sự ra đời của các quan hệ sản xuất mới lại ảnh hưởng ngược lại
thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất của xã hội. Sự biến đổi và phát
triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không chỉ ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế, xã hội nói chung mà còn trực tiếp thúc đẩy sự phát triển
ĐSTT của con người.
Sau gần 30 năm thực hiện CNH - HĐH, “Hà Nội đã hoàn thiện kết cấu
cơ sở hạ tầng và lấp đầy 8 khu công nghiệp, 43 cụm công nghiệp; tạo điều
kiện phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp phụ trợ, công
nghiệp công nghệ cao; thúc đẩy sản xuất tại 1.350 làng nghề để nâng cao thu
nhập cho người dân nhằm thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định
hướng, đạt hiệu quả cao, trong lĩnh vực công nghiệp,.” [6]. Chính vì thế,
những năm qua, kinh tế Hà Nội (trong đó có vùng ngoại thành) “tăng trưởng
nhanh, bình quân đạt 7,41%/năm, giữ vững vị thế đầu tàu trong vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước, hằng năm đóng
góp 51,1% GDP của vùng và 16,46% GDP của cả nước; thu ngân sách bằng
54,1% của vùng và 19,05% của cả nước,...” [6]. Sự phát triển mạnh mẽ của
công nghiệp đã tạo ra năng suất cao trong sản xuất kinh doanh, và tạo ra lớp
người lao động mới với phong cách tư duy và lối sống công nghiệp.
Bên cạnh đó, quá trình CNH - HĐH cũng diễn ra mạnh mẽ và ngày
càng sâu rộng trên khắp các địa phương thuộc vùng NTHN, đặc biệt là ở các
huyện Hoài Đức, Thanh Trì, Đông Anh và Gia Lâm, nhằm sử dụng đất để
xây dựng các khu đô thị mới,… cho nên diện tích đất nông nghiệp tại các địa
phương này đang ngày càng có xu hướng bị thu hẹp. Quá trình đô thị hóa đã
khơi dậy được các tiềm năng, thu hút nhiều nguồn lực phát triển đối với
vùng NTHN, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội, tạo ra “làn
sóng” di dân từ các địa phương khác về vùng ngoại thành sinh sống, sản
xuất kinh doanh. Với khả năng thích ứng linh hoạt, sáng tạo trong sản xuất
nói chung nói riêng và tổ chức cuộc sống mới ở đô thị, bộ phận này góp
68

phần không nhỏ tạo ra sự biến đổi trong ĐSTT, tâm lý của cư dân NTHN
hiện nay.
Quá trình CNH - HĐH và đô thị hóa trong những năm qua ở vùng
NTHN, một mặt tạo ra những ảnh hưởng tích cực, nhưng mặt khác nó cũng
tạo ra những hiện tượng phức tạp, tiêu cực làm ảnh hưởng xấu đến ĐSTT
của cư dân. Tình trạng thất nghiệp do không còn đất để sản xuất, tình trạng
ô nhiễm môi trường công nghiệp và môi trường đô thị, các tệ nạn xã hội
như cờ bạc, mại dâm, trộm cướp, ma tuý… có nguy cơ lan rộng làm ảnh
hưởng xấu đến môi trường sản xuất, kinh doanh, giáo dục và cả chất lượng
cuộc sống của người dân.
2.2.2.3. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa, về thực chất “là xu hướng phát triển kinh tế - xã hội
mang tính tất yếu, có ảnh hưởng, ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ tới hầu hết
các lĩnh vực của con người trên bình diện thế giới. Tuy nhiên, do thời gian
tiến hành công nghiệp hóa, các điều kiện nguồn lực phát triển, thực trạng phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia không giống nhau. Do vậy, thực tế sự
tham gia, mức độ được hưởng lợi hoặc chịu ảnh hưởng tiêu cực từ quá trình
toàn cầu hóa cũng khác nhau giữa các quốc gia. Nhận thức rõ xu thế tất yếu,
cùng những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa, Việt Nam chủ động hội
nhập quốc tế để tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế, ra sức phát triển để vươn lên
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Trong gần 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, Hà Nội nói chung và
vùng NTHN nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận ở cả
phương diện vật chất cũng như phương diện tinh thần. ĐSTT của cư dân trở
nên phong phú và đa dạng hơn, ngoài những yếu tố truyền thống, còn có sự
du nhập của văn hóa phương Tây. Người dân bắt đầu coi trọng triết lý “Phi
thương bất phú”, “Thương trường là chiến trường”, và cũng quan tâm đến các
69

quy luật kinh tế, các công ước, các luật chơi quốc tế. Họ cũng tham gia
thường xuyên hơn vào các hoạt động chính trị, có ý thức điều chỉnh các quan
hệ xã hội - chính trị giữa các nhóm người, các tầng lớp người khác nhau trong
xã hội,…
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, toàn cầu hóa cũng tạo ra những
khó khăn, thách thức, ảnh hưởng không nhỏ đến ĐSTT của cư dân. Trong
ĐSTT của cư dân vùng NTHN hiện nay diễn ra quá trình va chạm văn hóa
giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa nội sinh và
ngoại lai. Vì vậy, xuất hiện nhiều biến đổi, cũng như xung đột trong quan
hệ gia đình, nhà trường cho đến ngoài xã hội. Đâu đó những giá trị mới tiến
bộ được du nhập, nhưng đồng thời cũng xuất hiện những hiện tượng phản
văn hóa như lai căng, thực dụng, cực đoan,… Do đó, vấn đề đặt ra là làm
thế nào để trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế, vùng
NTHN không bị hoà tan, không làm mất đi những giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc mà còn phải đổi mới những giá trị đó trên cơ sở kế thừa
những yếu tố cũ biến chúng thành nguồn cổ vũ tinh thần của cư dân đưa
vùng đưa vùng NTHN trở thành một vùng ổn định về chính trị, kinh tế và
văn hóa phát triển.
2.2.2.4. Sự ảnh hưởng của ý thức chính trị; pháp quyền; đạo đức;
tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán,…
Là một thành phố quan trọng thuộc khu vực đồng bằng Bắc bộ, đồng
thời giữ vai trò chủ đạo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng, Hà
Nội (trong đó có vùng ngoại thành) cũng là một sản phẩm của quá trình
tiếp thu, biến đổi các giá trị văn hóa lâu đời, có chiều sâu trong lịch sử.
Nền văn hóa ấy đã ăn sâu vào trong ĐSTT của người dân và thể hiện qua
lối sống, suy nghĩ hàng ngày của họ.
70

Được giao thoa bởi các nền văn hóa lớn của Châu Á như Ấn Độ,
Trung Quốc với văn hóa phương Tây, tiếp thu hệ tư tưởng Mác - Lênnin,
cùng với phong tục, truyền thống, nếp sống, tập quán, tín ngưỡng bản địa,
nên đã hình thành lối tư duy tổng hợp, biện chứng trong ĐSTT của cư dân
đồng bằng Bắc bộ nói chung và cư dân NTHN nói riêng. Đặc điểm này
làm cho ĐSTT của cư dân NTHN luôn được bồi đắp những giá trị văn hóa
tích cực trong suốt chiều dài lịch sử. Cùng với dòng chảy của thời gian,
những giá trị văn hóa ấy trở nên ổn định và được lưu truyền từ đời này
sang đời khác, trở thành động lực, bản sắc, sức mạnh của nhân cách con
người NTHN hiện nay.
Mặc dù, có nhiều yếu tố văn hóa phương Tây hiện đại đang du nhập
vào, nhưng ý thức về cội nguồn là một trong những giá trị văn hóa truyền
thống đặc trưng của ĐSTT cư dân NTHN, thể hiện trước hết ở sự gắn kết
thân thuộc giữa các thành viên trong một gia đình, tiếp đến là tinh thần họ
tộc, cao hơn là tinh thần cộng đồng làng và bao trùm lên tất cả là ý thức về
đất nước, quốc gia, dân tộc. Ngoài ra, ý thức về cội nguồn còn được thể
hiện trong việc thờ cúng tổ tiên. Tổ của gia đình, của dòng họ, của cả làng
và của cả nước. Do đó, hàng năm, cứ đến ngày lễ, tết, giỗ, kị, cư dân
NTHN lại hương khói tưởng nhớ đến những người đi trước đã xây dựng cơ
đồ cho làng xóm, cho đất nước. Vì thế, các giá trị đạo đức truyền thống
như: yêu nước, nhân nghĩa, nhân ái, đoàn kết, cần cù, yêu lao động, hiếu
học, “Tôn sư trọng đạo”, “Uống nước nhớ nguồn”,… vẫn là trụ cột quan
trọng trong nhận thức, hành vi, thái độ của mỗi cư dân NTHN hiện nay.
Bên cạnh những ảnh hưởng mang tính tích cực, văn hóa truyền thống
cũng còn có những ảnh hưởng tiêu cực đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện
nay. Với sự phong phú và đa dạng trong các loại hình văn hóa tín ngưỡng,
tôn giáo, nhất là với số lượng lễ hội diễn ra quá nhiều là mảnh đất màu mỡ
71

cho những hủ tục, mê tín tồn tại, hưng thịnh và phát triển. Sự ảnh hưởng
của phong tục, nếp sống, tập quán, văn hóa truyền thống quá mạnh đôi khi
làm cản trở quá trình tiếp biến những tư tưởng tiên tiến, hiện đại, ảnh
hưởng trực tiếp đến phong cách tư duy, lối suy nghĩ và lối sống của cư dân.
Đời sống tinh thần của cư dân NTHN hiện nay chịu ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố tín ngưỡng (đặc biệt TNTTH làng) có một
ảnh hưởng rất quan trọng trong việc xây dựng ĐSTT lành mạnh, nhân văn
cho cư dân. Giữa TNTTH làng và các loại hình sinh hoạt văn hoá truyền
thống ở vùng NTHN hiện nay có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau.
Phong tục tập quán và sinh hoạt văn hoá truyền thống tồn tại và phát triển
xung quanh biểu tượng thiêng là Thành hoàng làng và TNTTH. Tuy nhiên,
phong tục tập quán và các loại hình văn hoá truyền thống của làng cũng
ảnh hưởng trở lại đối với việc củng cố đức tin, với biểu tượng Thành hoàng
và TNTTH làng. Xét về mặt tác dụng, TNTTH làng là từ việc thiêng hoá
một biểu tượng, để từ đó làm chỗ dựa tinh thần và cũng là để quy tụ cộng
đồng, xây dựng khối đại đoàn kết trong làng, giáo dục truyền thống “Uống
nước nhớ nguồn” cho mỗi thành viên trong cộng đồng làng xã.
72

Tiểu kết chương 2

Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở Việt Nam là hình thức tín
ngưỡng mang đậm yếu tố dân gian, thờ cúng một vị thần tự nhiên (Nhiên
thần, Thiên thần) hoặc xã hội (Nhân thần), mang đậm dấu ấn tâm linh, tồn
tại lâu dài, thể hiện quan niệm “Uống nước - nhớ nguồn” của người dân
Việt Nam. TNTTH làng có vai trò hết sức quan trọng không thể thiếu trong
đời sống của cư dân làng, xã Việt Nam.
Là một bộ phận của TNTTH làng Việt Nam, TNTTH làng ở vùng
NTHN cũng mang các đặc điểm cơ bản là lịch sử hóa, phàm tục hóa, dân
gian hóa, thần bảo hộ, thờ các hiện tượng tự nhiên, thể hiện sự sùng kính của
nhân dân trước cái thiêng. NTHN là khu vực thuộc đồng bằng Bắc bộ,
TNTTH làng nơi đây có những đặc điểm chung giống như ở đồng bằng Bắc
bộ, song nó mang nhiều tính điển hình.
Đời sống tinh thần là một lĩnh vực rộng bao gồm nhiều yếu tố, không
chỉ phản ánh mà còn có sự ảnh hưởng tích cực trở lại đối với đời sống sinh
hoạt vật chất của xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu về ĐSTT phải tìm hiểu ở
nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Với tư cách là một hệ thống đang vận
động, phát triển và có nhiều biến đổi sâu sắc, ĐSTT bao gồm: đời sống tư
tưởng, hoạt động khoa học, nghệ thuật, giáo dục và đào tạo, sinh hoạt tôn
giáo - tín ngưỡng, đạo đức và lối sống. Vì thế, khi nghiên cứu cư dân vùng
NTHN cũng như ĐSTT của họ, xét trên bình diện là một hệ thống đang vận
động và biến đổi, cho thấy: Từ sau đổi mới (1986) cho đến nay, cư dân vùng
NTHN đã có những thay đổi lớn về dân cư và nghề nghiệp, cùng với sự biến
đổi này, lĩnh vực ĐSTT của họ cũng có những thay đổi từ tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, văn hóa nghệ thuật, giáo dục đào tạo, tín ngưỡng - tôn
giáo theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Có nhiều nguyên nhân dẫn
73

đến sự biến đổi này như: ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường; quá trình
CNH - HĐH và đô thị hóa; quá trình toàn cầu hóa, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế; ý thức chính trị; pháp quyền; đạo đức; tôn giáo, tín ngưỡng, phong
tục tập quán,… Trong đó, nói đến tín ngưỡng, phong tục, nếp sống, tập
quán, không thể bỏ qua TNTTH làng ở vùng NTHN, bởi với tư cách là “thần
bảo hộ”, “sự sùng kính của nhân dân trước cái thiêng”, loại hình tín ngưỡng
này đã có ảnh hưởng rất lớn đến ĐSTT của cư dân vùng NTHN từ quá khứ
cho đến hiện tại.
74

Chương 3
ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. PHƯƠNG THỨC ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH
HOÀNG LÀNG ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
HIỆN NAY
Thứ nhất, ảnh hưởng của TNTTH làng thông qua lễ hội, phong tục,
tập quán, hương ước của làng
Trong thực tiễn đời sống sinh hoạt hàng ngày của cư dân NTHN,
TNTTH làng có tác dụng trong việc điều chỉnh lẽ sống, cách đối nhân xử thế
giữa con người với cộng đồng làng xã, góp phần giải quyết tốt, có hiệu quả
các mối quan hệ của con người trên cơ sở niềm tin và noi theo những tấm
gương sáng của các vị Thành hoàng được tôn thờ, kính vọng trong tín
ngưỡng này. Sự điều chỉnh này không phải là bằng hệ thống pháp luật của
Nhà nước, mà chủ yếu là thông qua lệ làng, thông qua những quy định trong
các hương ước và dư luận xã hội, cộng đồng xóm làng. Ví dụ: lễ hội làng
Đại Phẩm, xã Đại Yên, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội là lễ hội tôn
vinh công trạng của các vị nhân Thần, những người anh hùng đã có công với
nước hóa thân trong hình tượng tôn kính được phong là Thành hoàng làng.
Lễ hội làng được tiến hành trong 3 ngày chính: mồng 02; mồng 04 và 05
tháng 3 âm lịch. Thời gian ba ngày diễn ra lễ hội có thể nói là quãng thời
gian linh thiêng, là dịp để toàn thể dân làng bày tỏ những ước mong cho bản
thân, gia đình và cho cả làng mình. Điểm đặc biệt ở Lễ hội năm 2019 là Ban
tổ chức của làng đã quán triệt rõ ràng dứt khoát: Một lễ hội 3 không: Một,
không cờ bạc; không rượu chè say xỉn dẫn tới có những hành vi, lời nói
khiếm nhã, vô văn hóa; thậm chí còn đánh cãi chửi nhau, gây mất trật tự an
toàn xã hội, mất an toàn giao thông. Hai, không xả rác bừa bãi gây mất vệ
75

sinh môi trường, nhất là những nơi chính cuộc tổ chức lễ hội, gồm đình
chùa; đền, miếu, nhà văn hóa, sân vận động trung tâm của xã. Ba, không đốt
vàng mã, không dâng cúng và thiêu đốt vàng mã ở các nơi thờ tự linh thiêng
của làng gây tốn kém lãng phí, hoặc có thể gây cháy nổ, tai nạn. Đây là nét
văn hóa văn minh tiêu biểu của lễ hội làng Đại Phẩm.
Mọi gia đình ở các làng xã tất cả các huyện NTHN đều rất quan tâm và
thực hiện với lòng tôn thờ và kính yêu đối với Thành hoàng làng. Trong tâm
thức của mỗi người dân, “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, có thể làm ăn
phát đạt, thịnh vượng, đề huề, có sức khỏe ổn định, cuộc sống bình yên cũng
một phần nhờ Thành hoàng đã che chở, ban phát tốt lành, phù hộ và luôn luôn
độ trì. Vì vậy, ngày lễ hội của làng vừa là dịp để mọi người dân trong làng tụ
tập cùng nhau, vừa là để báo công, tri ân, tạ ơn phù trì. Ở nhiều làng quê
NTHN, điều này không chỉ thể hiện trong những ngày lễ hội mà còn được duy
trì, thể hiện trong cuộc sống đời thường, trong hành vi đạo đức hàng ngày của
cư dân. TNTTH làng là sợi dây liên kết tâm linh giúp cư dân làng xã NTHN
sống đoàn kết, hoà đồng. Thành hoàng như một vị thần có quyền uy linh
thiêng, tối cao, khiến cho các vùng miền nông thôn cố kết thành một hệ thống
chặt chẽ.
Ví dụ: hội đình thờ Thành hoàng làng Yên Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà
Nội vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm, thể hiện sâu sắc truyền thống
“Uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của người Việt Nam. Thông qua lễ hội thờ
Thành hoàng, dân làng càng thêm gắn bó, sức mạnh cộng đồng làng Yên Mỹ
càng được bồi đặp, củng cố và phát triển.
Thứ hai, ảnh hưởng của TNTTH làng thông qua việc tự nghiên cứu, tư
duy, tìm hiểu gốc tích lập làng, người có công với làng
Mặc dù niềm tin của cư dân vào Thành hoàng làng là niềm tin vào một
lực lượng thần linh, là sự gửi gắm vào cái thiêng, nhưng niềm tin đó cũng có
những ảnh hưởng mang tính tích cực đến cuộc sống thường nhật hiện tại, đến
76

đạo đức của cư dân. Trong thực tiễn cuộc sống, sinh hoạt và lao động sản
xuất, cư dân NTHN đã tự giác thực hiện các quy chuẩn đạo đức được điều
chỉnh từ dư luận xã hội cộng đồng làng xã, làm cho cuộc sống của mỗi dòng
họ, gia đình được hoà thuận hơn, các thành viên trong gia đình sống có trách
nhiệm với nhau và với làng xóm, con người sống với nhau tình nghĩa hơn,
tình làng nghĩa xóm trở nên khăng khít, bền chặt. Điều này thể hiện rất rõ
trong những ngày hội làng thờ Thành hoàng, rước thánh, ai cũng muốn mình
được hòa vào không khí chung của làng, đóng góp dù một chút công sức nhỏ
bé của mình vào công việc của làng; con người gặp nhau trở nên chan hòa,
cởi mở với nhau.
Ở nhiều làng quê vùng NTHN, điều này không chỉ thể hiện trong
những ngày lễ hội, mà còn được duy trì trong cuộc sống đời thường, trong
hành vi đạo đức của cư dân. Trong các lễ hội thờ Thành hoàng làng ở NTHN
hiện nay, việc diễn lại thần tích, rước kiệu, diễn xướng, tế lễ đang được phục
hồi, nhằm khuyên răn, nhắc nhở cư dân làng thực hành những chuẩn mực đạo
đức như: sống lương thiện, hướng về cội nguồn, hiếu kính với cha mẹ, sống
có tình có nghĩa, không nghiện ngập, hút chích, rượu chè, cờ bạc; tiết kiệm,
tận tuỵ với công việc, sống định hướng vào gia đình và xã hội, cởi mở và dân
chủ, đề cao vai trò cá nhân trước cộng đồng,…
Ví dụ: Ngày 11 tháng 03 (Âm lịch hàng năm), Lễ hội truyền thống xã
Dương Liễu (huyện Hoài Đức) đã diễn ra tưng bừng, long trọng, với hàng
trăm người tham gia rước kiệu, nghiềm quân, múa cờ, tế lễ. Lễ hội diễn ra
tại Đình làng, nơi thờ vọng tướng quân Lý Phục Man - vị tướng tài đã có
nhiều công lao phò vua, giúp nước dưới thời nhà Lý. Lễ hội truyền thống
xã Dương Liễu là lễ hội tiêu biểu trong toàn Tổng Sấu - Giá từ trước tới
nay, góp phần tôn vinh nét đẹp truyền thống và lịch sử của người dân địa
phương. Theo sử sách để lại, cách đây 1.500 năm, tại ngôi Quán thờ (nay là
Đình làng Dương Liễu), Tướng công Lý Phục Man trên đường đi đánh giặc
77

đã tổ chức nghiềm quân tại Quán. Đoàn quân dưới lá cờ do Tướng công chỉ
huy sau đó đã đánh thắng giặc ngoại xâm dưới thời nhà Lý. Nhớ công lao
to lớn của vị tướng tài, người dân nơi đây phong tướng là Thành hoàng
làng. Lễ hội truyền thống xã Dương Liễu là hoạt động văn hóa mang đậm
bản sắc dân tộc, tưởng nhớ và tôn vinh truyền thống anh hùng dựng nước
và giữ nước của cha ông ta.
Thứ ba, ảnh hưởng của TNTTH làng thông qua việc giáo dục đạo
đức truyền thống của mỗi gia đình
Có thể khẳng định rằng, mặc dù sự hiểu biết của cư dân NTHN về
các vấn đề TNTTH làng có thể ở nhiều người còn chưa sâu sắc, chưa đầy
đủ, nhưng tín ngưỡng này đã góp phần không nhỏ trong việc định hướng,
điều chỉnh hành vi của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn trong các hoạt
động hàng ngày. Qua khảo sát cho thấy, có tới 92.3% cư dân trên địa bàn
cho rằng TNTTH làng có ảnh hưởng nhiều tới hành vi đạo đức của cư dân
trong vùng (biểu 2.7, phụ lục 2). Nguyên nhân là do TNTTH làng có nhiều
nội dung phù hợp với đạo đức truyền thống của người Việt Nam, với cách
suy nghĩ, quan niệm sống, tính cách của cư dân trên địa bàn, nó đã trở
thành nét văn hóa đặc sắc của cư dân NTHN.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng còn khích lệ người dân làm điều
tốt, không làm điều xấu, rất phù hợp với quan niệm sống, nét tính cách của
cư dân NTHN hiện nay, nên có ảnh hưởng mạnh mẽ, phù hợp đến đạo đức
và được cư dân ủng hộ. TNTTH làng còn chi phối hành vi ứng xử, giúp cư
dân NTHN nâng cao nhận thức về việc tương trợ, đùm bọc, giúp đỡ nhau
trong công việc và cuộc sống và thêm yêu quý miền quê, cánh đồng, mái
đình, cây đa, giếng nước, góp phần tạo nên trạng thái xã hội ổn định và
hướng thiện.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ảnh hưởng sâu sắc tới chuẩn mực
đạo đức gia đình, đề cao sự hiếu kính với ông bà, cha mẹ, sự chung thủy
78

giữa vợ chồng, tình nghĩa anh em, tình làng nghĩa xóm. Dưới ảnh hưởng
của nền kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, quan
hệ giữa các thế hệ khác nhau trong gia đình, cộng đồng dân cư đang có sự
chuyển biến sâu sắc. Với những nội dung giáo dục lành mạnh, TNTTH
làng đã có ảnh hưởng tích cực đến đạo đức mỗi cư dân, tạo sự gắn kết giữa
các thành viên, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng xã hội văn minh,
gia đình hạnh phúc.
Thứ tư, ảnh hưởng của TNTTH làng thông qua việc cư dân tham gia
vào hoạt động kinh tế, chính trị, hoạt động từ thiện, xã hội của làng
Lễ hội đình thờ Thành hoàng là sự kiện thể hiện sự gắn kết, xích lại
gần nhau của cộng đồng, quy tụ của người dân các địa phương vùng
NTHN. Hội làng tổ chức rước kiệu Thành hoàng du xuân từ đình làng này
sang đình làng khác, cách nhau gần chục cây số. Ở NTHN, có nhiều con
đường chật hẹp, nhưng việc rước Thành hoàng làng diễn ra linh đình với
nhiều người dân tham gia, chật cứng đường, song ai nấy đều phấn khởi.
Đến với lễ hội Thành hoàng, tham gia các chương trình của lễ hội là
nét biểu hiện bên ngoài của người dân NTHN, nhưng bằng sự tôn kính
Thành hoàng, người ta sẵn sàng bảo ban nhau dọn dẹp đường làng, cùng
nhau chuẩn bị chu đáo để lễ hội diễn ra được trọn vẹn, phấn khởi và thành
công nhất.
Hòa vào không khí của các hoạt động TNTTH làng, người dân
NTHN tự ý thức tham gia gánh vác công việc chung, từ việc bầu chọn các
ban lễ, đến việc chuẩn bị đồ lễ, rước kiệu,... Quá trình ấy dẫn đến sự liên
kết, gắn bó đồng cam cộng khổ giữa các thành viên trong làng, giúp họ
hiểu biết và xích lại gần nhau hơn, đem lại niềm an ủi, sự đùm bọc, sự
động viên cho những mảnh đời còn kém may mắn trong đời thường. Đó là
sự liên kết bên trong. Bên cạnh đó, lễ hội còn tạo ra sự liên kết bên ngoài.
79

Lễ hội gồm nhiều hình thức văn hóa nghệ thuật đặc sắc, tạo ra một sự thu
hút và tầm ảnh hưởng sâu rộng, vượt ra khỏi cộng đồng làng, có khả năng
hấp dẫn khách thập phương đến dự, tạo ra sự liên kết, gắn bó giữa các địa
phương, các vùng miền, các dân tộc và rộng hơn là gắn kết cộng đồng cư
dân trong cả một quốc gia rộng lớn.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng cũng ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt
động xã hội thiện nguyện của người dân. Ở vùng NTHN hiện nay, người
dân, bằng niềm tin vững chắc vào vị Thành hoàng làng của mình, về chân
lý “Nhân - Quả”, nên họ rất tích cực tham gia, vận động khuyên góp cho
các hoạt động xã hội, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Cụ thể,
những năm gần đây, các phong trào thiện nguyện do chính quyền địa
phương phát động, kêu gọi đã trực tiếp đi vào thực tiễn cuộc sống và cũng
là góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương,
củng cố an ninh, quốc phòng và lan toả một đời sống lành mạnh, văn hoá
của cư dân vùng NTHN. Đặc biệt hơn, phong trào tình nguyện, thiện
nguyện còn được đông đảo mọi người tham gia tạo ra một khí thế thi đua
sôi nổi ở từng vùng, hướng những hành động đẹp đầy nhân văn và thiết
thực đến với cộng đồng cũng là hiện thực hoá mục tiêu phát triển bền vững
cho từng vùng miền ở NTHN.

3.2. NỘI DUNG ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH
HOÀNG LÀNG ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
HIỆN NAY
3.2.1. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng trong lĩnh
vực quan điểm, tư tưởng của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
* Ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng thờ Thành hoàng trong lĩnh
vực quan điểm, tư tưởng của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
Một trong những giá trị cốt lõi của TNTTH làng là góp phần hình
thành, nâng cao quan điểm, tư tưởng của cư dân nói chung, cư dân NTHN
80

nói riêng về gia đình, dòng tộc, cộng đồng, dân tộc; phát huy truyền thống
“Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Tín ngưỡng dân gian và đặc biệt là
thực hành TNTTH vẫn phát huy những giá trị, sức sống của riêng nó đối với
các cư dân trong cộng đồng xã hội nói chung và cư dân NTHN nói riêng. Nó
là điểm tựa, nơi an ủi, bấu víu về mặt tinh thần cho con người khi gặp phải
những vấn đề bế tắc, khó khăn, trở ngại trong cuộc sống; là cốt lõi của văn
hóa làng xã. Trong bối cảnh các vấn đề xã hội có sự đan xen nhiều yếu tố
phức tạp, mọi người đang có xu hướng quay trở lại các giá trị truyền thống
trong tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng làng, thờ Mẫu..., là
biểu hiện đạo lý “Uống nước và nhớ nguồn” của dân tộc. Cũng giống như
hoạt động thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Thành hoàng của cư dân NTHN vừa là
tín ngưỡng, vừa thể hiện triết lý sống, đạo làm người của thế hệ sau với thế
hệ trước. Thờ cúng tổ tiên là hoạt động thể hiện ý thức hướng tiên tổ, ông
bà, cha mẹ, về cội nguồn của dòng họ mình, còn thờ cúng Thành hoàng làng
là sự tôn thờ, vinh danh những người có công ở cấp độ làng xã. Các làng xã
khác nhau, thì Thành hoàng làng cũng khác nhau “trống làng nào làng ấy
đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Việc thờ tự, cúng bái duy trì hàng năm do
nhu cầu của người dân được xuất phát từ sự sùng bái, tôn kính, lòng biết ơn,
sự tri ân của nhân dân với những người có công với làng. Chẳng hạn, lễ hội
đình làng Giang Xá - Hoài Đức - Hà Nội là nơi khẳng định vị trí của Lý
Nam Đế trong nhận thức và niềm tin của người dân, là một hình thức bảo
tồn lịch sử khi các vị anh hùng có công với làng xã, quốc gia, dân tộc được
thành kính và thiêng hoá trong lòng mỗi cư nơi đây dân. Với truyền thống
đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” thì lễ hội làng Giang Xá hàng năm diễn ra
trong nhiều ngày với nhiều nghi lễ, diễn xướng, hát hò, trò chơi dân gian,…
góp phần bồi đắp củng cố mặt tư tưởng nhận thức cho thế hệ con cháu nơi
đây về công ơn đức độ của vị Thành hoàng Lý Nam Đế. Do đó, hình ảnh Lý
81

Nam Đế xuất hiện rất đẹp và tuyệt vời, được lưu truyền và lưu giữ trong cõi
tâm linh từ đời này sang đời khác.
Thêm nữa, thực trạng cho thấy các đối tượng khảo sát trong luận án
không phân biệt địa vị, già trẻ, giàu sang hay quyền lực đều rất một lòng tôn
thờ tâm linh, hướng về đấng thiêng đã cho thấy việc tham gia vào các hoạt
động sinh hoạt tín ngưỡng nói chung và TNTTH nói riêng của cư dân NTHN
mong tìm thấy sự ổn định về mặt tư tưởng, sự bình yên và tự tin trong cuộc
sống. Bởi hiện nay, cuộc sống phải đối mặt với những điều kiện khó khăn,
thậm chí còn là sự khắc nghiệt của tự nhiên, cũng như sự biến đổi to lớn của
xã hội, nên không ít người cảm thấy lo sợ, hoang mang về một cuộc sống
bấp bênh, không ổn định. Điều đó đã làm nảy sinh nhu cầu xin được giúp
đỡ, bảo vệ, che chở của “thần linh”. Chính vì thế, Thành hoàng đã trở thành
một biểu tượng tâm linh, chỗ dựa tinh thần quan trọng trong cuộc sống của
mỗi người. Trong quan niệm của họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa
thuận gió hòa, làm ăn tốt tươi, từ đó mang lại một cuộc sống đủ đầy, bình an
và ấm no hơn.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng còn đóng vai trò rất quan trọng
trong liên kết, cố kết cộng đồng làng, xã, là nơi hội tụ đầy đủ nhất về mặt tâm
linh của cư dân. Điều này đã được luận chứng ở kết quả khảo sát (mẫu khảo
sát là 01 Thị xã Sơn Tây và 17 huyện ngoại thành), với câu hỏi: Ông (bà), cô
(chú), anh (chị) cho biết, TNTTH làng có vai trò như thế nào trong liên kết
cộng đồng làng?, kết quả thu được đã cho thấy, có 67.74% ý kiến cho rằng
TNTTH làng đóng vai trò rất quan trọng (Biểu 2.2, phụ lục 2).
Thành hoàng là người ban phúc, phù hộ độ trì cho những người hiền
lành, lương thiện và trừng phạt những kẻ độc ác, làm những điều trái luân
thường đạo lý. Khi cuộc sống có biến cố xảy ra, người ta lại đến lễ bái, cầu
xin được Thành hoàng che chở. Người dân trong các làng xã luôn tuân theo
82

những quy ước, luật lệ của địa phương và đạo đức của xã hội, vì với họ, vị
Thành hoàng là người giám sát tất cả những hoạt động của con người. Việc
thờ cúng tổ tiên là nền tảng để gắn kết những thành viên trong gia đình, dòng
họ; còn thờ cúng thần Thành hoàng lại gắn kết các thành viên trong phạm vi
rộng hơn, đó là làng, xã.
Tuy nhiên, ở vùng NTHN hiện nay, mỗi địa phương khác nhau, thì
người dân lại thờ các vị thần khác nhau. Những vị thần rất gần gũi nhưng
cũng vô cùng thiêng liêng với từng làng xã “người dân trong làng cùng
nhau tự phong, tự thờ vị Thành hoàng riêng của mình như vị thần bản
mệnh, chủ yếu đảm bảo mưa thuận gió hòa, đem lại sự bình yên cho cộng
đồng” [112, tr.60].
* Ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng trong lĩnh vực quan điểm, tư
tưởng của cư dân NTHN hiện nay
Trong bối cảnh các vấn đề xã hội phức tạp, cư dân NTHN đang có xu
hướng trở về các giá trị truyền thống trong tôn giáo, tín ngưỡng mà cụ thể là
ngưỡng thờ Thành hoàng như một biểu hiện đạo lý truyền thống “Uống nước
nhớ nguồn”. Tuy nhiên, bên cạnh biểu hiện tích cực này, một bộ phận người
dân khi tham gia vào hoạt động thờ cúng Thành hoàng còn tư tưởng thực dụng,
tâm lý ỷ lại dựa dẫm vào sự giúp đỡ của các vị Thành hoàng làng. Chẳng hạn
như tư tưởng tâm lý cúng bái mâm cao cỗ đầy, vàng mã tràn lan mới được phù
hộ, cứu vớt, ban lành, độ trì, che chở từ thần thánh. Theo ước tính của một số
nhà nghiên cứu, mỗi năm người Việt Nam đốt hàng trăm tỷ giấy tờ vàng mã.
Các hoạt động thờ tự nói chung như thờ người có công với dân làng,
thờ các anh hùng dân tộc, thờ thần tự nhiên,… cũng đã có nhiều thay đổi,
biến tướng khác nhau. Từ ý nghĩa tốt đẹp ban đầu, giờ đây các anh hùng,
những người có công với làng xã đang dần biến thành những vị thánh với bản
chất thực dụng để đáp ứng mong muốn trần tục của người dân. Hành vi rải
83

tiền khắp nơi mỗi khi đi lễ mà cư dân vẫn quan niệm là tiền giọt dầu đã làm
sai lệch giá trị của bản sắc văn hóa thờ cúng trong đời sống tín ngưỡng nói
chung, gây lãng phí lớn cho xã hội nói riêng. Tiền giọt dầu được sử dụng để
thể hiện tình cảm, đóng góp cho các đình làng để duy trì hoạt động và làm cho
ngôi đình đẹp hơn, không phải dâng cúng cho các vị thần thánh. Nhiều người
còn có quan niệm trần sao âm vậy, rải tiền càng nhiều càng được phù hộ.
Quan niệm đó là hoàn toàn sai lầm. Điều đáng buồn nhất là khi chứng kiến
cảnh tượng trên tay các bức tượng thờ các vị Thành hoàng được cài, cắm quá
nhiều thứ vật chất mà những người tham gia thực hành lễ hội để vào, có
những người tham dự buổi lễ vô tư giẫm lên những đồng xu rải rác. Vì thế, từ
vài năm nay lễ hội đền Sóc sẽ không thực hiện nghi lễ rước giò hoa tre và trầu
cau (cướp lộc hoa tre) từ đền Thượng tạ lễ đền Mẫu và đền Trịnh trong lễ hội
Gióng và nói không với lễ hội phản cảm.
Trong nhiều lễ hội, vẫn còn những phong tục cũ, ít hoặc không còn phù
hợp với điều kiện mới, có ảnh hưởng lớn đến tâm lý con người hiện đại.
Trong lễ hội ở Việt Nam, đặc biệt là lễ hội thờ Thành hoàng ở vùng NTHN
vẫn mang nhiều giá trị văn hóa, nếp sống, lối suy nghĩ của người Việt Nam cổ
đại. Hiện nay, bên cạnh các lễ hội mang các giá trị văn hóa truyền thống, có
một số phong tục cũ của không phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội mới.
Điển hình, đó là truyền thống chém một con lợn làng Duyên Tuy, xã Hồng
Thái, Phú Xuyên, Hà Nội. Nhiều người nghĩ rằng những phong tục này nên
được gỡ bỏ vì chúng không phù hợp với tinh thần nhân đạo của thời đại.
Nhưng một số nhà nghiên cứu và đặc biệt, người dân trong các ngôi làng
được đề cập ở trên - chủ đề của lễ hội, niềm tin nói rằng giữ gìn các nghi lễ cũ
là giữ gìn, phát huy, bảo tồn bản sắc văn hóa của cha mình, từ bỏ có nghĩa là
lễ hội không còn giá trị…
84

3.2.2. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng trong lĩnh
vực đạo đức, lối sống của cư dân NTHN hiện nay
* Trong lĩnh vực đạo đức
Ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng trong lĩnh vực đạo đức của cư
dân NTHN hiện nay
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng động viên, khuyến khích con người
sống hướng thiện, nhân văn, nhân đạo, đoàn kết cộng đồng
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là sợi dây gắn kết tuy vô hình mà
bền chặt - một sợi dây liên kết tâm linh, đã giúp cư dân làng xã NTHN đoàn
kết, biết yêu thương, sống chan hoà, đùm bọc lẫn nhau được bảo tồn, phát
huy. Thành hoàng thực sự có sức lan toả một cách vô hình, là vị thần khiến
cho làng quê trở thành một khối thống nhất, đồng tâm hiệp lực. Sự gắn kết
trong cộng đồng, đoàn kết cư dân trong làng, xã đã tạo nên một sức mạnh
tổng hợp.
Qua khảo sát thực tiễn ở một số địa phương NTHN cho thấy, ảnh
hưởng của TNTTH làng đến tư duy hướng thiện, đạo đức cá nhân luôn ở mức
khá cao (82.5%) (Biểu 2.6, phụ lục 2). Tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng
làng có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với nhau, giữa con
người với xã hội, với cộng đồng làng xã, giải quyết tốt các mối quan hệ của
con người trên cơ sở niềm tin và noi theo tấm gương của các vị Thành hoàng
được nhân dân tôn thờ và kính vọng.
Cùng với việc thờ cúng tổ tiên, TNTTH làng đã đem đến cho người dân
nơi đây niềm tin vào một lực lượng thần linh, là sự gửi gắm vào cái thiêng,
nhưng niềm tin đó cũng có những ảnh hưởng mang tính tích cực đến đời sống
hiện tại, đến đạo đức của cư dân. Trong thực tiễn cuộc sống sinh hoạt và lao
động sản xuất, cư dân NTHN đã tự giác thực hiện các quy chuẩn đạo đức
được điều chỉnh từ dư luận xã hội cộng đồng làng xã, làm cho cuộc sống của
85

từng gia đình được hoà thuận hơn, các thành viên trong gia đình sống có trách
nhiệm với nhau và với làng xóm, tình làng nghĩa xóm trở nên khăng khít, bền
chặt hơn.
Tinh thần đoàn kết từ bao đời nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng bậc
nhất đặc biệt khi có giặc ngoại xâm hay cần sự tương trợ lẫn nhau, vì thế nó
luôn có sức sống lâu bền trong đời sống tình cảm và quan hệ xã hội của con
người Việt Nam nói chung, cư dân NTHN nói riêng. TNTTH làng đóng vai trò
quan trọng trong liên kết mọi người thành một cộng đồng lãnh thổ nông nghiệp
- cộng đồng làng xã NTHN. Mỗi khi trong làng, muốn mở hội hoặc tổ chức xây
đình đền, mọi công to việc lớn gì đều phải báo cáo và có lễ cúng Thành hoàng
làng để xin phép. Với TNTTH làng, mỗi người dân không nhiều thì ít, không
lúc này thì lúc khác, tất thảy đều một lòng một dạ chăm lo cho ngôi đình làng
mình, vì sự thịnh suy của chính bản thân gia đình và làng quê mình. Đó chính
là ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng trong việc xây dựng ĐSTT tốt đẹp cho
cư dân NTHN.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng động viên, khuyến khích con người
vươn lên, nỗ lực phấn đấu góp phần làm rạng danh làng xã
Tin vào Thành hoàng làng thì cũng phải tin và thực hiện những điều mà
Thành hoàng làng mang lại. Theo đó, trước hết là trong mối quan hệ giữa con
người với con người phải thương yêu nhau, phải nỗ lực phấn đấu vươn lên vì
cộng đồng, tiếp theo là việc học hành được đặc biệt chú trọng. TNTTH làng
thông qua sự khích lệ của quê hương, dòng họ, gia đình, đã góp phần tạo động
lực tinh thần to lớn cho những con người nơi đây, nhất là thế hệ trẻ hiện nay,
khi thoát ly quê hương đi học, đi làm ăn, kiếm kế sinh nhai ở nơi xa, ở thành
phố, đều nỗ lực phấn đấu làm rạng danh cho làng xã, dòng họ, gia đình. Theo
khảo sát của tác giả ở một số địa phương vùng NTHN, có tới 93.4% ý kiến
được hỏi đã thừa nhận ảnh hưởng to lớn của TNTTH làng đến nỗ lực vươn
86

lên, góp phần làm rạng danh làng xã của cư dân (Biểu 2.6, phụ lục 2). Những
cư dân NTHN lớn lên và trưởng thành ở làng xã, đi xa học hành và làm ăn
phát đạt, có nhiều thành công trong cuộc sống, khi về đến quê hương, làng
xóm, nhất là trong những ngày lễ hội Thành hoàng làng, đều cảm thấy tự hào
vì mình đã có đóng góp công sức nào đấy làm rạng danh làng xã. Ví dụ: Làng
Tả Thanh Oai, thuộc xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, là làng có truyền
thống khoa bảng từ bao đời nay. Trong lịch sử, triều đình phong kiến Việt
Nam quy định làng nào có 10 người đỗ tiến sĩ trở lên thì đạt danh hiệu làng
khoa bảng, mà làng Tả Thanh Oai có tới 12 tiến sĩ. Làng Tả Thanh Oai đã
xuất bản cuốn sách Làng khoa bảng Tả Thanh Oai, ghi danh công lao các bậc
tiền nhân để con cháu noi gương.
Trong các hình thức thờ phụng thần linh của cộng đồng làng xã, nhân
dân NTHN còn xây dựng văn chỉ để thờ các vị khoa bảng. Văn chỉ là các cơ
sở thờ tự ở làng xã được dựng lên thờ Khổng Tử và tôn vinh những vị khoa
bảng ở các triều đại phong kiến, khuyến khích, động viên sự học hành của con
cháu. Trong thực tế, trong các hoạt động tín ngưỡng ở nhiều làng xã thuộc
NTHN, trong đó có TNTTH làng, công tác khuyến học của làng xóm, của các
dòng họ được phát triển, nhiều làng, nhiều dòng họ đã thành lập quỹ khuyến
học, tạo nên những dòng họ thành đạt với nhiều người tham gia các công tác
khác nhau trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, làm rạng danh làng xã, quê
hương. Ở làng Phù Lưu Thượng, xã Phù Lưu, Ứng Hòa, Hà Nội, dân làng đã
cho tu bổ lại văn chỉ của làng, nhằm khuyến khích, động viên sự học hành của
con cháu trong làng.
Việc thực hiện TNTTH làng đã góp phần quan trọng động viên,
khuyến khích con em trong làng đi học, để không thua chị kém em, tạo cho
cư dân làng có ý thức vươn lên tiếp thu những tri thức khoa học, kỹ thuật,
87

chăn nuôi, trồng trọt, kinh doanh, buôn bán, năng động đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Thông qua các hoạt động tín ngưỡng dân gian, thờ cúng Thành
hoàng làng giúp cho con cháu trong các dòng họ, thế hệ trẻ của làng có
cơ hội gặp gỡ, giao lưu trao đổi nhau, động viên, học hỏi lẫn nhau. Đình
làng và việc thực hiện các lễ nghi TNTTH làng, việc đón tiếp du khách,
bạn bè đến dự, tham quan lễ hội làng cũng là nơi, là một điều kiện thuận
lợi nhất định để cư dân các làng xã ở NTHN mở rộng quan hệ giao lưu
với cư dân các làng khác, vùng khác, qua đó có thể học hỏi, tăng cường
hiểu biết lẫn nhau.
Ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng trong lĩnh vực đạo đức của cư
dân NTHN hiện nay
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, sự phát triển và hoạt động của
TNTTH làng cũng ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức của cư dân NTHN:
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng hình thành nên tâm lý nhờ cậy,
trông chờ vào sự che chở, phù hộ của thần linh
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đã tạo cho một bộ phận dân cư
NTHN tư tưởng bảo thủ, thụ động; chấp nhận cuộc sống hiện tại, dù còn
nhiều khó khăn, thiếu thốn để tin tưởng, hy vọng vào sự phù hộ của cõi
thiêng, của thần linh. Hiện nay, đời sống của cư dân NTHN được nâng lên
nhiều, đời sống khá giả hơn, nhiều người được thăng quan tiến chức, con cái
đỗ đạt, tuy vẫn còn một số hộ nghèo, song nhiều người dân, dù vui mừng hay
lo lắng, cũng đều tìm đến với thần linh để chia sẻ và nương nhờ sự phù trợ.
Kết quả khảo sát của tác giả cho thấy, có tới 92.2% và 92.3% số người được
hỏi cho rằng, TNTTH có ảnh hưởng nhiều đến tri thức và hành vi đạo đức của
cư dân NTHN hiện nay. (Biểu 2.7, Phụ lục 2).
88

Nhiều người dân cho rằng, chẳng mất gì mà không kêu cầu, được là tốt,
chưa được có lẽ do chưa đến số, hay kêu cầu chưa thấu đến thần linh, trong đó
có Thành hoàng làng. Khi thành tâm kêu cầu các vị thần làng, người dân tự an
tâm rằng, có một thế lực siêu nhiên nào đó luôn ở bên cạnh che chở, phù hộ,
giúp đỡ họ trong cuộc sống hằng ngày. Cứ thế, quan điểm duy tâm, thói quen
dựa dẫm, ỷ lại ngấm sâu dần, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức cư dân NTHN.
Tính cố kết cộng đồng làng xã cũng là một yếu tố tạo nên tư tưởng bè phái,
cục bộ, cả nể, sợ va chạm, sợ mất lòng nhau. Điều này thể hiện khá rõ trong
các cuộc bầu cử ở xã, thôn trên địa bàn NTHN và cho thấy mặt ảnh hưởng
tiêu cực của TNTTH làng đến đạo đức của cư dân NTHN là không nhỏ.
Thực tế ở NTHN, qua nghiên cứu khảo sát đời sống cư dân nơi đây,
đặc biệt là ở một số huyện thuộc NTHN, có những hộ thuần nông còn thiếu
thốn, nghèo khó, nhưng họ vẫn thụ động, trông chờ, thiếu ý chí vươn lên thoát
nghèo. Theo Kế hoạch số 29/KH-UBND “Hỗ trợ nhà ở hộ nghèo trên địa bàn
Thành phố Hà Nội” của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội ngày 25 tháng
01 năm 2018, đến tháng 12 năm 2017 ở Hà Nội (chủ yếu là ngoại thành) có
4.046 hộ nghèo được đề nghị hỗ trợ xây dựng làm mới hoặc tu bổ, sửa chữa
nhà ở với kinh phí 25 triệu đồng/hộ. Ở NTHN, thủ đô của đất nước, tình hình
trên đã phản ánh một thực tế là tỷ lệ nghèo là khá cao. Nhưng nhiều người
dân vẫn không chủ động tạo dựng cuộc sống, mà chủ yếu còn chờ vào từ
nguồn bên ngoài, từ chính sách, thiếu ý chí vươn lên trong cuộc sống. Thậm
chí chính sách của Đảng và Nhà nước về cho vay vốn để xóa đói giảm nghèo
và được cán bộ cơ sở đến vận động, nhưng một số hộ vẫn không đưa vốn vào
sản xuất mà sử dụng vào việc khác, có trường hợp còn mang vốn về tiêu sài
quá mức, không trả lại được vốn.
Tính cố kết cộng đồng được thể hiện ở sự liên kết, gắn bó chặt chẽ giữa
các gia đình, dòng tộc, giữa các thành viên trong làng với nhau. Tính cố kết
89

cộng đồng làng xã đó là một trong những ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng
dân gian nói chung, của TNTTH làng nói riêng đối với ĐSTT của người dân
NTHN. Nhưng tính cố kết cộng đồng làng xã ấy cũng lại là một yếu tố gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống hàng ngày của người dân, như tạo
nên tư tưởng bè phái, cục bộ, cả nể, sợ va chạm, sợ mất lòng nhau. Điều này
thể hiện khá rõ trong các cuộc bầu cử ở xã, thôn trên địa bàn NTHN. Trong
các dịp bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, hay các cuộc bầu cử nhỏ như bầu
trưởng thôn, bí thư chi bộ, bầu chủ nhiệm hợp tác xã, không khó khăn để
nhận ra tính cục bộ thể hiện rõ trong các cuộc bầu cử này. Việc vận động bầu
cử mang tính chất dòng họ, địa phương, bầu cho người thân, bầu người cùng
xóm, cùng thôn, cùng xã dễ dẫn đến những mâu thuẫn trong bản thân nội bộ
mỗi làng quê khác nhau, mâu thuẫn địa phương, dòng họ, thậm chí mâu thuẫn
gia đình. Điều đó cho thấy mặt tiêu cực của tính cố kết cộng đồng làng xã
trong đạo đức của cư dân NTHN mà TNTTH làng có ảnh hưởng không nhỏ.
Việc thực hành TNTTH làng cũng góp phần nảy sinh những biểu hiện
đạo đức thiếu lành mạnh
Dưới sự ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian nói chung, TNTTH làng
nói riêng, điều dễ thấy ở người Việt Nam, cũng như ở cư dân NTHN, là tâm
lý dựa dẫm, nhờ cậy, trốn tránh, ỷ lại vào tập thể, cá nhân không dám nhận
trách nhiệm; tình trạng “cha chung không ai khóc”, “đắm đò chết chung”,
“có lụt thì lút cả làng” là khá phổ biến khắp các làng quê. Khi con người
sống dựa dẫm vào tập thể, vào cộng đồng, thì ý thức cá nhân bị mờ đi, bởi vì
“khôn độc không bằng ngốc đàn”; có xấu thì cả làng đều xấu: “toét mắt là tại
hướng đình, cả làng toét mắt riêng mình em đâu”. Từ tâm lý dựa dẫm, ỷ lại
vào tập thể đó mà nảy sinh tư tưởng cào bằng theo kiểu “xấu đều còn hơn tốt
lỏi”, “anh nhất thì tôi cũng nhì, ai hơn tôi nữa tôi thì thứ ba”, thiếu ý chí
vươn lên, nó dìm con người trong cái ao tù “trung bình chủ nghĩa”, không
90

khích lệ những sáng tạo; không tạo điều kiện cho những cá nhân có năng
lực, có trình độ có thể bứt phá. Điều này góp phần lý giải tại sao qua mấy
ngàn năm lịch sử, chúng ta không có những bác học lỗi lạc về khoa học hiện
đại, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến một lĩnh vực đòi hỏi những tư tưởng đột
phá mang tính cá nhân.
Bên cạnh đó, khá nhiều làng quê ở NTHN, việc phục hồi, phát triển quá
mức các di tích thờ cúng tín ngưỡng dân gian, di tích TNTTH làng là một
biểu hiện phú quý sinh lễ nghĩa, thiếu lành mạnh; đặc biệt là sự cạnh tranh
giữa các địa phương, các làng xóm, giữa các dòng họ theo kiểu “con gà tức
nhau tiếng gáy”. Khi địa phương khác, làng khác, dòng họ khác tôn tạo, xây
lại bất cứ di tích tín ngưỡng gì mà to đẹp hơn, khang trang hơn, thì địa
phương mình, làng mình, dòng họ mình cũng ngay lập tức phải huy động
nhân tài, vật lực để tôn tạo, tu sửa và tân tạo các di tích tín ngưỡng, nhất là di
tích Thành hoàng làng để “không thua chị kém em”.
Điển hình vụ án ông Đỗ Xuân Dục (sinh năm 1951, ngụ xã Xuân Phú,
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội), nguyên chủ tịch xã Xuân Phú lại dùng
số tiền Nhà nước cấp xây nhà văn hoá mang đi xây dựng đình làng thôn Xuân
Đông. Khi bị bắt ông khai với cơ quan điều tra việc làm này của ông tất cả là
vì dân làng, vì nguyện vọng chung của dân làng chứ không phải cho mục đích
cá nhân. Hành vi làm khống hợp đồng hỗ trợ cho người dân của ông gây thất
thoát tiền của nhà nước hơn 1,1 tỷ đồng.
* Trong lĩnh vực lối sống
Ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng trong lĩnh vực lối sống của cư
dân NTHN hiện nay
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng góp phần hình thành, phát triển
những nét tiến bộ trong lối sống của cư dân NTHN
Việc thực hành TNTTH làng thể hiện người dân có tinh thần tương
thân tương ái, yêu thương, đoàn kết, tương trợ, cưu mang đùm bọc lẫn nhau,
91

lá lành đùm lá rách, để cùng nhau vượt qua những khó khăn, trở ngại phía
trước trong cuộc sống. Đó là cơ sở tạo nên lối sống trọng tình, trọng nghĩa,
những nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt Nam nói chung và cư
dân vùng NTHN nói riêng. Kết quả khảo sát 5 nhóm đối tượng (cán bộ làm
công tác văn hoá, công chức Nhà nước; những người làm nghề tự do; học
sinh, sinh viên; người già và hưu trí; chủ từ, chủ đình, chủ đền, người trông
coi hương khói tại các đình, đền ở NTHN) ở vùng NTHN với nội dung:
Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), TNTTH làng ảnh hưởng đến lối sống của
cư dân vùng NTHN hiện nay như thế nào? cho thấy, có khoảng 95.5% ý
kiến khẳng định ảnh hưởng đến sự đoàn kết gắn bó; 96.6% ý kiến khẳng
định ảnh hưởng đến tương trợ, đùm bọc lẫn nhau; 96.6% ý kiến khẳng định
ảnh hưởng đến trọng tình, trọng nghĩa; 82.1% ý kiến khẳng định ảnh hưởng
đến sống hết mình vì cộng đồng và 74.6% ý kiến khẳng định ảnh hưởng đến
dân chủ bình đẳng (Biểu 2.8, Phụ lục 2).
Những biểu hiện tích cực từ sự ảnh hưởng của TNTTH làng biểu hiện
ở chỗ, người dân quan tâm với nhau hơn bằng những hành động thiết thực,
có hiệu quả và thật cụ thể; khi có thành công trong cuộc sống thì muốn khao
dân làng cùng vui. Ở các làng xã NTHN, mỗi thành viên đều có trách nhiệm
với các thành viên khác trong cộng đồng làng xã, có nghĩa vụ và trách nhiệm
với nhau trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mỗi khi vụ mùa đến, khi làm nhà, sinh
con, ốm đau, hoặc khi có người đỗ đạt, lên lão, làm quan, có thanh niên đi
bộ đội, việc vui việc buồn,… tất thảy đều thấy sự hiện diện của bà con trong
họ, ngoài làng. Tục lệ khao vọng dân làng mỗi khi một thành viên nào đó
thành đạt trên bước đường đời là một nét sinh hoạt văn hóa đẹp để khuyến
khích, biểu dương nhân tài, đồng thời cũng nhắc nhở, động viên con cháu
trong làng cố gắng phấn đấu vươn lên. Các thành viên làng xã cùng nhau
khai khẩn, chung sống trên một vùng đất thân quen, có cây đa, bến nước,
92

sân đình. Thờ chung Thành hoàng làng là niềm tự hào và nỗi nhớ thương
mỗi con người. Điều đó luôn nhắc nhở, khuyến khích, động viên, cổ vũ con
người sống tốt hơn, có tình nghĩa hơn, hình thành những nét đẹp trong lối
sống của họ. Việc thờ kính Thành hoàng góp phần mang lại một trật tự ổn
định của xã hội, một cuộc sống bình yên vốn có của các làng quê, một
truyền thống đạo lý từ ngàn đời, một phép tắc ơn nghĩa với những người có
công,… đó là những nét tiến bộ trong lối sống của cư dân NTHN. Chẳng
hạn lễ hội truyền thống tại đình làng Hoà Thượng, xã Bạch Hạ, huyện Phú
Xuyên, Hà Nội tổ chức vào ngày 12 tháng 8 âm lịch hằng năm. Tại lễ hội,
người dân địa phương được tham gia vào các nghi thức tế lễ thánh, lễ
Thành hoàng làng, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, làm ăn
phát đạt, thăng tiến gặp nhiều may mắn. Ví như lễ hội làng Hòa Thượng ở
Phú Xuyên là nét đẹp văn hóa truyền thống của nhân dân địa phương, qua
đó thế hệ trẻ trực tiếp được giáo dục niềm tự hào về quê hương, tình yêu
đất nước từ đó họ có ý thức chung trong việc giữ gìn, đồng thời làm mới
các giá trị truyền thống của quê hương, đó cũng là góp phần đưa quê hương
ngày càng phồn vinh.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng góp phần tạo nên nếp sống dân chủ
bình đẳng, lối sống trọng tình.
Góp phần tạo nên nếp sống dân chủ bình đẳng và tính tập thể hòa đồng
“Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; sự gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang
đùm bọc, yêu thương lẫn nhau, là cơ sở tạo nên lối sống trọng tình, một nét
đẹp trong cách sống, cách ứng xử của người Việt: “Chị ngã em nâng”, “Lá
lành đùm là rách”. Thông qua các hoạt động tín ngưỡng dân gian, cư dân
trong làng sẵn sàng xóa bỏ những hiềm khích không đáng có để cùng chung
sức sửa sang đình, chùa, đền, miếu, dọn dẹp đường làng ngõ xóm. Đồng thời,
cũng là nơi biểu dương sức mạnh cộng đồng thông qua các hình thức của lễ
93

hội. Người dân biết nhường nhịn, ưu ái, niềm nở, ân cần đón khách, con
người trở lên lịch sự trong ứng xử, trong giao tiếp, từ đó tạo một lối sống
trọng tình, nếp giao tiếp đẹp không chỉ trong ngày lễ hội mà thâm nhập trong
cuộc sống đời thường. Khi tham dự hội làng, mọi người đều ăn mặc đẹp đẽ,
nuột là hơn khác hẳn với ngày thường. Có thể nói, lễ hội truyền thống thờ
Thành hoàng thuộc về cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, nó khác xa thậm
chí còn có biểu hiện đối lập với đời sống hiện thực. Điều này càng đúng với
trường hợp với các làng xã NTHN hiện nay, một vùng có nền kinh tế năng
động với sự hợp tác đầu tư nước ngoài bên cạnh nông nghiệp truyền thống.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng hình thành, củng cố lối sống tích cực,
tuân theo pháp luật của cư dân.
Sự hiện diện của TNTTH làng, cùng với những lễ nghi của tín ngưỡng
này đã làm thay đổi lề lối sinh hoạt, cách sống và hành vi ứng xử, cách suy
nghĩ trong cuộc sống thường nhật của cư dân NTHN. Hình thành lối sống
bình dị, không chuộng xa hoa, cầu kỳ; trong ứng xử, bao giờ cũng tinh tế,
lịch sự, khiêm nhường với làng xóm, bạn bè. Thực hiện TNTTH làng, mỗi
hành vi của cá nhân đều luôn phải hướng đến người khác trong cộng đồng.
Cùng với đó, việc tuân thủ những quy định của làng xã, phải sống làm sao
cho tốt hơn để xứng đáng với những người có công với làng, đã làm cho con
người có ý thức cao hơn và chấp hành tốt hơn những quy định pháp luật,
cũng như những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của các cấp
chính quyền địa phương, ý thức chấp hành pháp luật được nâng cao. Ảnh
hưởng tích cực này là khá rõ trong hầu hết các làng xã NTHN có thờ Thành
hoàng làng.
Ở các làng xã NTHN, các vị chức sắc hoặc mỗi gia đình có công to
việc lơn hay tu sửa đình đền hoặc việc gia đình, việc làng xã đều phải dâng lễ
cúng bái Thành hoàng để xin phép trước. Trong tâm thức mỗi cư dân các làng
94

xã NTHN luôn cho rằng các vị thần linh chỉ phù hộ cho những người có hành
vi đúng, sống nhân ái, bao dung, độ lượng, còn những kẻ bất lương, làm ăn
phi pháp thì dù có sắm lễ vật ngàn vàng, có cầu cúng bao nhiêu cũng sẽ bị từ
chối. Thực tế là, ở làng nào mà việc thờ Thành hoàng làng phát triển và được
thực hiện có nề nếp, thì ở đó lối sống có nhiều mặt có tiến bộ hơn như: việc
ăn ở vệ sinh, khu vực nhà ở và nguồn nước sinh hoạt, đường vào các xòm
được làm tốt hơn, khang trang và quang cảnh sạch sẽ, các hủ tục lạc hậu giảm
bớt, trai làng giảm uống rượu, giảm hút thuốc lá, gia đình êm ấm, bớt đi việc
tổ chức ăn uống linh đình gây lãng phí.
Ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng trong lĩnh vực lối sống của cư
dân NTHN hiện nay
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, TNTTH cũng phần nào hạn chế
lối sống tích cực, năng động, sáng tạo của cư dân:
Khi cư dân chịu ảnh hưởng của những quan niệm Thành hoàng làng,
lúc đó họ không phải là chủ thể sáng tạo nữa, mà thụ động, phụ thuộc, có thể
dẫn đến đánh mất mình. Đây chính là một trong những hạn chế của cư dân
thực hành TNTTH làng. Kết quả khảo sát bằng phiếu trưng cầu cho thấy, có
tới 83.5% ý kiến thống nhất với nhận định này (Biểu 2.9, phụ lục 2). Điều
đáng chú ý là, tỷ lệ đánh giá tiêu cực ở số cán bộ làm công tác văn hóa cao
hơn cư dân trên địa bàn. Điều đó cho thấy, đội ngũ cán bộ đã nhìn thấy khá
rõ mặt tiêu cực của sự ảnh hưởng này; đồng thời, cũng nói lên phần nào
những khó khăn, lúng túng của đội ngũ cán bộ địa phương trong quản lý tín
ngưỡng dân gian nói chung, TNTTH làng nói riêng.
Thời gian gần đây, khi nền kinh tế đã ổn định, phát triển, đời sống của
đa số người dân NTHN được nâng lên, công việc được đảm bảo, có một số
người được thăng quan tiến chức, việc học hành của con cái và gia đình được
yên ổn. Mong muốn trở lên giàu có là niềm khát vọng của tất cả mọi người
95

hiện nay. Song ở những giai đoạn nhất định thì khát vọng này lại nảy sinh
mới những vấn đề nhất định. Tất cả những mong muốn đều đã được người
dân đem đến các cơ sở thờ tự tôn giáo, hay cơ sở tín ngưỡng hay bàn thờ tổ
tiên để chia sẻ với tổ tiên, với Thành hoàng. Không ít người cũng tự an ủi
rằng số phận bắt mình phải vậy nên họ lại đi lễ để tìm sự cứu giúp của thần
linh. TNTTH làng răn dạy con người ta học để làm quan, phải để lại danh,
điều này mang cả nghĩa tích cực và tiêu cực. Đây là yếu tố góp phần thúc đẩy
xuất hiện tình trạng “mua tước mua quan” như ngày xưa, “chạy chức, chạy
quyền” mà ngày nay chúng ta đang nói đến nhiều. Đây là một biểu hiện lối
sống tiêu cực, không dễ khắc phục.
Việc thực hành TNTTH làng cũng góp phần nuôi dưỡng, phát triển lối
sống cục bộ, địa phương, thiếu lành mạnh.
Trong một chừng mực nhất định, TNTTH làng, vì mỗi làng thờ một
thần, đã góp phần tạo nên tính tự trị, tự quản của làng xã, duy trì trật tự, nề
nếp ở trong làng xã; nhưng mặt khác, xét theo một góc độ nào đó, nó cũng tạo
một luồng suy nghĩ, tình cảm, hoạt động mang tính chất cục bộ, địa phương,
làm cho mỗi làng quê trở thành một “pháo đài” độc lập, rất khó du nhập, tiếp
thu tiến bộ văn minh từ bên ngoài. TNTTH làng làm nảy sinh thói cào bằng,
lối sống trọng tình, cả nể, lối ứng xử đặt tình cao hơn lý.
Ở NTHN hiện nay, xuất hiện một số hiện tượng như: có người đang
làm ăn tốt bỗng bị thần kinh, miệng kêu thần nhập, thánh hành; người bị
cho là “ma nhập”,... Hiện tượng “ma nhập” này mặc dù đã khám chữa,
nhưng chưa tìm ra căn nguyên cụ thể và không rõ bệnh gì. Nhiều người dân
NTHN gọi đó là “bệnh âm”, họ đã tìm đến ngôi đình, đền, miếu để kêu cầu
xin tha thứ và sự cứu giúp từ các vị thần linh. Ví dụ trẻ em mới sinh ở các
làng quê nói chung và ở làng xã NTHN nói riêng thường hay quấy khóc
đêm là do thiếu vitamin D, hoặc canxi song ông bà, cha mẹ thường có tâm
96

lý có bệnh thì vài tứ phương; một mặt sẽ đưa trẻ đi bệnh viện khám chữa;
mặt khác sửa lễ đến đình, miếu, chùa gần nhất trong thôn, làng bán khoán
đứa trẻ hoặc để cầu mong các vị thánh thần vuốt ve che chở, xua đuổi tà
ma trêu ghẹo trẻ.
Hiện nay, trong điều kiện phát triển xã hội, xây dựng kinh tế thị
trường, có không ít làng xã ở NTHN, nhiều người đi làm ăn nơi xa giàu
lên, họ về làng muốn thể hiện và bỏ số tiền khá lớn để công đức cho các
công việc của làng, chủ yếu là các công việc liên quan đến tín ngưỡng như
tu sửa đình, chùa, phục vụ lễ hội. Và điều quan trọng là, họ được nhân dân
trong làng trọng vọng, thường là trọng vọng hơn so với những người học
hành đỗ đạt cao, nhưng chưa giàu, chưa công đức được nhiều cho làng. Lối
sống trọng tiền trở lên lấn át lối sống trọng đức, trọng văn ở những làng
quê này.
Một bộ phận không nhỏ lợi dụng TNTTH làng gây khó khăn trong việc
giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật.
Trong ĐSTT xã hội vùng NTHN, từ xưa đến nay, các quan hệ về mặt
tâm lý tình cảm đặc biệt là mối quan hệ gia đình hay ơn nghĩa,… có sức mạnh
vô cùng to lớn, đôi khi vượt qua cả giới hạn cho phép của cái đúng, của lý lẽ,
của quy phạm đạo đức và thậm chí cả pháp luật. Mặt khác, trong làng bao giờ
cũng có các dòng họ khác nhau, nên nhìn bề ngoài không thể thấy hết được sự
cạnh tranh, bon chen, phân chia ngấm ngầm giữa các dòng họ và các thế lực
với nhau để giành quyền chi phối mọi hoạt động của làng xã. Tư tưởng trọng
tuổi tác, cây cao bóng cả là tư tưởng phổ biến rộng khắp, nó ngấm ngầm trong
tư tưởng dân cư ở các làng xã NTHN. Ví dụ trong vụ án Đồng Tâm ở Mỹ
Đức, người dân trong làng rất tin tưởng và coi ông Lê Đình Kình (71 tuổi)
đóng vai trò thủ lĩnh của xã trong vụ khiếu kiện vừa qua. Cụ thể Chủ tịch Hà
Nội khẳng định rằng bản thân ông Lê Đình Kình ở Mỹ Đức cũng có huy động
97

tiền đóng của một số đối tượng ở xã Đồng Tâm để đi khiếu kiện, lợi dụng
việc khiếu kiện nhằm mục tiêu cuối cùng muốn trục lợi, gây sức ép với chính
quyền xã, huyện, và thành phố Hà Nội dẫn đến sự việc thương tâm.
Trong vấn đề này, TNTTH làng của cư dân NTHN có ảnh hưởng
không nhỏ. Những biểu hiện “Phép vua thua lệ làng”, “Dĩ hòa vi quý”, “Ta về
ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, sự bó hẹp trong lũy tre làng,...
trong tư tưởng, tâm lý, tình cảm, gây khó khăn không nhỏ trong việc giáo dục,
nâng cao ý thức pháp luật cho cư dân, đều có sự ảnh hưởng nhiều ít bởi
TNTTH làng.
3.2.3. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng trong lĩnh
vực văn hoá, nghệ thuật; tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân ngoại thành Hà
Nội hiện nay
Ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng trong
lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật; tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân NTHN
hiện nay
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng góp phần làm đậm đà thêm bản sắc
văn hóa dân tộc; bảo tồn, giữ gìn các giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo
truyền thống của dân tộc. Theo nghiên cứu thì “Bản sắc dân tộc bao gồm
những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước” [20, tr.55-56]. Với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, lịch sử hình
thành và phát triển, TNTTH làng đã tạo cho cư dân NTHN có một truyền
thống văn hóa phong phú. Cụ thể, lễ hội làng Nành ở Ninh Hiệp - Gia Lâm có
một ý nghĩa to lớn trong truyền thống đoàn kết yêu thương lẫn nhau, giáo dục
thể chất và bồi dưỡng nhận thức tập thể cho các thành viên của làng - một
hình thức hoạt động văn hóa tinh thần với những đặc điểm riêng. Để giữ gìn
và phát huy lễ hội truyền thống của đất Gia Lâm, nhiệm vụ đầu tiên và cấp
98

bách là bảo trì và bảo trì các công trình di tích cũng như không gian cảnh
quan của di tích và tại đây là cơ sở tổ chức lễ hội theo truyền thống.
Bản sắc văn hoá dân tộc, các giá trị của tín ngưỡng truyền thống còn
thể hiện ở kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc, nghi lễ thờ cúng,… Thành hoàng.
Theo nghiên cứu của Phạm Thị Chỉnh thì ngôi đình thường được xây dựng ở
trung tâm làng hoặc ở đầu làng, nơi có khu nền đất cao ráo. Đình được xây
dựng từ gỗ, lợp ngói, có sàn gỗ cao 0,7m. Đình có không gian mở, gắn kết
với cảnh quan bên ngoài. Nếu có vách thì vách cũng có thể mở rộng bằng
cách cuộn hay lắp ghép dễ dàng. Đa số đình làng ở đầu thế kỷ 16 có kiến
trúc hình chữ nhất, chỉ với một nếp nhà ngang, bên trong chia thành nhiều
gian (số gian luôn là số lẻ theo truyền thống dựng nhà của người Việt). Gian
giữa là nơi thờ Thành hoàng, cũng là trung tâm cân đối bố cục cho các gian
bên. Bàn thờ được đẩy cao và lùi về hàng cột phía trong (đình Tây Đằng,
Chu Quyến).
Phần quan trọng nhất là toà Đại Đình, đây chính là nơi hành lễ sinh
hoạt cộng đồng nên đòi hỏi một diện tích lớn. Cột, vì kèo và các chi tiết cấu
thành khác luôn được hiển thị khéo léo trong sự đơn giản tự nhiên của nó.
Các đường mái thẳng hơi chùng xuống, các mặt bằng không cân đối hài hòa.
Dưới mái nhà rộng, ngôi nhà chung thể hiện sự hào phóng, khiến chúng ta
nghĩ đến một sự bảo vệ, che chở. Mái đình cũng là biểu tượng cho bức tranh
làng quê Việt Nam xưa dung dị, gần gũi, gắn bó và đầy kiêu hãnh tự hào.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhiều ngôi đình không còn nguyên vẹn
song giá trị văn hoá đã được Nhà nước bảo hộ, tôn tạo và giữ gìn. Ví dụ đình
Chu Quyến là một ngôi đình cổ có từ cuối thế kỷ 17. Đây là một ngôi đình
điển hình cho kiến trúc gỗ dân gian truyền thống Việt Nam thời Lê Trung
Hưng. Đình Chu Quyến có kiến trúc theo hình chữ Nhất, là hình chữ nhật
dài 30m với kiến trúc 3 cánh, diện tích 395m², cấu trúc khung gỗ truyền
99

thống với 6 hàng cột: 2 cột nữ (đường kính 60 -81cm), 2 hàng cột (50 cm), 2
hàng cột hiên (50 cm) đối xứng qua trục dọc của ngôi nhà. Bốn trụ lớn của
gian giữa có đường kính lên tới 81cm.
Về nghệ thuật điêu khắc: các tác phẩm điêu khắc đình làng được coi là
trang trí, tô điểm cho những ngôi đình làng trở nên đẹp và độc đáo hơn. Tại
chùa, điêu khắc cũng được trưng bày, nhưng nó không đặc biệt như điêu khắc
trong đình làng. Các chạm khắc của ngôi đình được thể hiện trong mái đình,
vỉ và một số phần khác của toàn bộ ngôi đình. Những ngôi đình trong các thế
kỷ trước thường được điêu khắc thấm đẫm nghệ thuật dân gian. Các nhà điêu
khắc thường tạo ra các tác phẩm độc đáo với cả sự nhiệt tình và sáng tạo
không ngừng nghỉ. Thông thường nghệ thuật điêu khắc trong các ngôi đình
không bị áp đặt như điêu khắc trong các ngôi chùa, hình ảnh trong tác phẩm
điêu khắc đình làng với các chủ đề tự do, không gò bó, thậm chí phóng
khoáng như đình Chu Quyến - Ba Vì: các tác phẩm bằng gỗ tại Chu Quyến
được chạm khắc rất tinh tế với nhiều chủ đề đa dạng, phản ánh hiện thực
những sinh hoạt hàng ngày trong cuộc sống của con người với những giá trị
nghệ thuật sâu sắc. Trên bè, ván, cửa võng được chạm khắc hoa văn rồng,
phượng, hổ,... và những đứa trẻ quấn lấy nhau. Chu Quyến là nơi lưu giữ
nhiều giá trị văn hóa sâu sắc cũng như những giá trị lịch sử vĩ đại của dân tộc
Việt Nam.
Nghi lễ thực hành TNTTH làng: Lễ cúng Thành hoàng làng diễn ra vào
các ngày Sóc; Vọng mỗi tháng. Đặc biệt, vào ngày âm lịch (tức là ngày mất
và ngày sinh của vị Thành hoàng làng), hay ngày nhập tịch làng, người dân
trong làng tổ chức một lễ tế lớn. Nghi lễ thờ cúng Thành hoàng làng được quy
định chặt chẽ ở tất cả các giai đoạn, từ việc lựa chọn người chủ tế, người bồi
tế, trang phục, phong trào cũng được quy định,… Tất cả những điều này được
ghi lại tỉ mỉ trong nghi lễ của làng. Địa điểm tổ chức đám rước, tế lễ và trò
100

chơi là ngôi đình và đền thờ (hoặc đền thờ) của làng. Đồng thời với các nghi
lễ, người dân cũng tổ chức lễ rước Thành hoàng, với ý định đưa Thành hoàng
về thăm quê. Trong cuộc rước, người dân đã tái hiện lại công đức của các vị
Thành hoàng. Đó chính là sự thể hiện lòng biết ơn sâu sắc, nỗi nhớ bất tận đối
với người có công với quê hương và đất nước. Nó đã trở thành một nét đẹp
văn hóa ở các làng quê vùng NTHN hiện nay.
Chẳng hạn, lễ hội ở đình Giang Xá - Hoài Đức được diễn ra từ ngày 11
đến ngày 14 tháng Giêng trong đó thì ngày 12 là chính hội. Đây là hoạt động
được dân làng chờ đợi nhất trong năm. Bởi vậy mà công tác chuẩn bị được
thực hiện từ rất sớm. Việc đầu tiên và quan trọng nhất đó chính là phải chọn
ra được những người điều hành cho lễ hội diễn ra thuận lợi, bài bản, chu đáo.
Theo thông lệ thì ngày mùng 2 tháng Chạp âm lịch, các cụ cao tuổi, Ban
khánh tiết, Chính quyền địa phương,... sẽ đến đình họp bàn về việc tổ chức lễ
hội năm sau. Lệ làng quy định, hễ ra đến đình thì tất cả mọi người phải chuẩn
bị quần áo tươm tất, chu đáo, các cụ từ 50 đến 59 tuổi mặc áo thụng đen, từ
60 đến 69 tuổi mặc áo thụng xanh, các cụ từ 70 tuổi trở lên mặc áo thụng đỏ,
các cụ từ 80 trở lên thì được đội thêm mũ ni, ban khánh tiết thì thắt lưng đỏ
ngang hông, trên cổ có khăn bao khẩu đỏ. Trong cuộc họp ngày mùng 2 tháng
Chạp, ban khánh tiết tổng kết công việc trước, sau đó bàn đến việc mở hội của
năm sau. Ban tế bao gồm 19 người trong đó có một chủ tế và 18 quan viên tế,
đây đều là những người đức cao trọng vọng trong làng, có nề nếp gia phong,
tuổi cần ngoài 40 trở lên. Sau khi chọn xong ban tế thì việc lựa chọn hàng đô
tức những người trong đoàn rước và khiêng kiệu cũng được lựa chọn tỉ mỉ.
Hàng đô chủ yếu là nam giới độ tuổi trên dưới 30, khiêng kiệu Thành hoàng
làng phải là những “trai thanh” có độ tuổi từ 18 đến 20, chưa lập gia đình, có
đạo đức và sức khỏe, không có tang chế,... ngày nay việc nữ giới tham gia
hàng đô đã được làng cho phép, họ bắt buộc phải là “gái lịch” chưa chồng,
101

ông, bà, bố, mẹ còn đầy đủ,... Khi chọn xong hàng đô thì bước vào công đoạn
tập dượt cho nhuần nhuyễn. Một số năm nếu có trò chơi cờ người thì cũng
phải lựa chọn, chuẩn bị người cho các hoạt động đó.
Một công việc quan trọng không kém đó là phải chuẩn bị các lễ vật
dâng lên trong ngày hội. Đây là việc mà cả làng phải đóng góp, phân chia chứ
không phụ thuộc vào một nhà hay một xóm nào cả. Ngày nay các lễ vật được
đơn giản, cỗ làng chỉ là cỗ chay vì Thành hoàng làng Lý Nam Đế trước đây tu
học ở chùa Linh Bảo, thêm vào đó các vật phẩm như bánh cốm, bánh dày, chè
kho là không được thiếu khi dâng lễ vật lên Thành hoàng làng. Các đồ tự khí,
cờ lọng cũng phải được chuẩn bị từ sớm, đủ số lượng để đến ngày là trang trí,
bày bố xung quanh đình, và dọc theo con đường đi từ đền đến đình.
Đến gần ngày hội, ở bốn ngõ xóm chính nằm trên con đường mà đoàn
rước sẽ đi qua, người dân sẽ dựng những chiếc cổng bái vọng bằng tre, có treo
những câu đối bằng chứ Hán do các vị cao niên viết. Giữa cổng có đặt một
nhang án trên có đặt lư hương, đồ thờ tự như nến, hoa, mâm quả. Ngoài ra có
thể trang trí thêm hai bên cổng những cành đào, cây quất cho đẹp mắt. Đến
ngày mùng 11 tháng Giêng khi các công việc chuẩn bị đã xong xuôi thì những
người đàn ông là chủ gia đình sẽ đội các mâm lễ vật ra đình. Tại đình có Ban
Khánh tiết túc trực tiếp nhận và xếp kín vào hậu cung
Bắt đầu từ rạng sáng ngày 12, ban tế phải có mặt đầy đủ ở đền để
chuẩn bị làm lễ tế nghinh với các hoạt động trộc dục, rước nước, rước văn,
rước cỗ. Các chủ tế phải mặc trang phục lễ màu xanh có thắt đai đỏ, đầu
đội mũ tế, đeo khăn. Sau khi các hoạt động tế nghi xong xuôi thì đám rước
mới thực sự bắt đầu với mục đích nhắc lại các sự tích liên quan đến vị vua
Lý Nam Đế năm xưa. Đi đầu đoàn rước là kiệu nước, nhang án, cờ Tổ
quốc, kiệu Bác Hồ, kiệu gỗ, kiệu văn và cuối cùng là kiệu giá. Việc có
thêm cờ Tổ quốc và kiệu Bác Hồ trong hoạt động lễ rước thể hiện nét đẹp
102

văn hóa tín ngưỡng của người dân Giang Xá, thể hiện lòng biết ơn, tri ân
với vị cha già của dân tộc. Đi trên có phường trống, phường kèn, văn kiên, tề
kiên (gồm có bát bửu, dùi đồng), rồi đến trùy đồng, gươm vàng, cờ reo, cờ
hiệu,... Tất cả yếu tố trong đoàn rước thể hiện lên sự uy nghiêm, oai phong,
sức mạnh, tài năng của vị Thành hoàng làng.
Đoàn rước đi từ đền về đình với không khí nô nức, phấn khởi của
người dân, trong đó còn thể hiện sự trang nghiêm, thành kính. Ngày trước,
hoạt động rước của làng có thể kéo dài từ rạng sáng ngày hôm trước cho đến
rạng sáng ngày hôm sau mới ra đến đình, đi theo quy định “tiến hai bước, lùi
một bước” và khoảng cách từ đền đến đình chỉ chưa đầy 1 km. Thời nay
trong làng đã có sự thay đổi, hoạt động rước diễn ra đến khoảng 10 giờ là về
đến nơi. Về đến sân đình toàn bộ đồ tế được sắp xếp theo thứ tự, kiệu Thành
hoàng được đưa vào yên vị trong đình để chủ tế làm lễ. Văn tế do Chủ văn
viết ra bằng chữ Hán. Buổi tế đầu tiên là tế yên vị, các ngày tiếp theo là tế
của các cụ bát, thất, hàng đô, chức việc, ngày cuối là tế xuất tịch. Đến ngày
14 tháng Giêng hết hội thì dân chúng lại làm lễ rước kiệu Thánh hồi cung từ
đình về đền. Ngày 12 là ngày đại tế, quan trọng nhất của làng do các cụ
Thượng mặc áo đỏ chủ trì tế lễ. Dân làng kể lại trước đây cứ vào ngày 12
tháng Giêng triều đình thường cử các quan tế về làm chủ lễ về sau mới thay
đổi thành dân chúng tự tế lễ nhưng vẫn phải trang nghiêm, tuân thủ các quy
tắc của tiền nhân truyền lại. Nội dung phần tế chủ yếu thể hiện lòng thành
kính, tri ân tưởng nhớ tới vị Thành hoàng của làng, kể lại các sự tích, truyền
thuyết ca ngợi công lao của Lý Nam Đế, thông qua đó cầu xin thần che chở
cho dân làng, mong một mùa vụ bội thu, đất nước an bình, thịnh trị. Kết thúc
buổi tế, các cụ cùng toàn dân làng ở lại đình tán lộc Thánh, cụ cao tuổi thì
ngồi chiếu trên, gần nhang án, người ít tuổi thì ngồi ngoài. Mọi người đều
hân hoan, vui vẻ nhận lấy phần lộc được ban với suy nghĩ “một miếng lộc
103

Thánh bằng một gánh lộc trần”, nhờ lộc Thánh có thể đem đến may mắn, sự
bình an, sức khỏe và tài lộc cho gia chủ.
Một phần được nhiều người ngóng trông nhất đó chính là các trò chơi
dân gian, ai ai cũng háo hức, vui vẻ tham gia nhộn nhịp. Các trò chơi dân gian
phổ biến thường bắt gặp ở Việt Nam như đua thuyền, kéo co, nấu cơm, chọi
gà... và tùy theo đặc trưng riêng của từng vùng lại có các trò khác biệt. Ở hội
làng Giang Xá, cờ người là một trò chơi không thể thiếu, trò chơi này vừa lột
tả được cái trí của người chơi, vừa phác họa lại cái dũng của một trận đánh
làm chúng ta không thể không tưởng nhớ đến khí thế của nghĩa quân năm xưa
đứng đầu là Lý Bí đã dựng cờ khởi nghĩa ngay trên chính mảnh đất Giang Xá
này. Ngoài cờ người thì còn có trò tổ tôm, chơi bắt vịt tại giếng làng... với sự
tham gia nhiệt tình, hăng hái từ mọi người. Ngoài trò chơi dân gian thì hội
làng Giang Xá còn có sự xuất hiện của những làn điệu quan họ của các liền
anh liền chị từ các đoàn hát quan họ Kinh Bắc được mời về làng để đem tiếng
hát phục vụ dân chúng.
Lễ hội làng Giang Xá là dịp để nhân dân tự nhìn lại chính mình để củng
cố lòng tin của nhân dân vào sự hiện diện của Thành hoàng làng Lý Nam Đế.
Cái không khí lễ hội của làng vừa mang tính linh thiêng, vừa mang tính văn
hóa nghệ thuật hấp dẫn đã lột tả được những đặc trưng của TNTTH làng trong
ĐSTT của nhân dân tại nơi đây. Nổi bật lên đó là lòng thành kính tri ân,
tưởng nhớ đến vị vua lập lên nhà nước Vạn Xuân, bên cạnh đó cũng là sự tự
hào trong mỗi người dân khi là quê hương của người. Các nghi lễ, văn tế đều
thể hiện được tinh thần của tín ngưỡng, kể ra công lao của Thành hoàng làng,
ca ngợi các công lao đó, sau đó thần thánh hóa sức mạnh của Thành hoàng
làng rồi cầu xin sự che chở. Bên cạnh đó các trò chơi của lễ hội lại mô phỏng,
diễn tả lại các hoạt động có ý nghĩa liên quan đến Thành hoàng làng cũng
nhằm mục đích tưởng nhớ, tri ân. Chính bởi những đặc trưng đó mà TNTTH
104

làng đã trở hành hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng đối trong ĐSTT của
người dân Giang Xá.
Các làng xã NTHN với những sinh hoạt lễ hội tín ngưỡng đặc sắc gắn
với các vị Thành hoàng làng của mình cũng đã, đang và sẽ tiếp tục đóng góp
quan trong vào công cuộc bảo tồn văn hoá truyền thống của dân tộc ấy. Làng
Việt truyền thống, cũng như làng Việt ở NTHN thực sự là cái nôi lưu truyền
các giá trị văn hóa làng, thu giữ vào nó tín ngưỡng, tôn giáo và các giá trị
khác của văn hóa dân gian Việt Nam, trong đó có TNTTH. TNTTH làng góp
phần cổ vũ, sửa đổi lối sống khép kín, xóa bỏ những hủ tục, mê tín dị đoan
nặng nề ở một bộ phận nhân dân như trong ma chay, cưới xin. TNTTH làng
góp phần giáo dục ý thức con em trong làng thực hiện những điều hay lẽ
phải... Vì vậy, đã làm cho sinh hoạt văn hóa của cư dân nơi đây giảm đi
những chi tiết rườm rà, loại bỏ các hủ tục gây tốn kém về kinh tế.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng góp phần làm phong phú các hình
thức văn hóa dân gian trên địa bàn
Ở NTHN, trong mỗi dịp lễ hội truyền thống không những biểu diễn
những làn điệu chèo yêu thích, còn sáng tạo ra những tiết mục chèo mới.
Nhiều trích đoạn chèo do các nghệ nhân trong làng sáng tác phù hợp với tâm
tư tình cảm của người dân địa phương. Bên cạnh đó, người dân NTHN cũng
biết thưởng thức văn hóa đặc sắc của các địa phương, vùng miền khác trong
cả nước như: hát quan họ, hát trầu văn,... Trở về với những lễ hội cổ truyền,
con người trong xã hội hiện đại dường như được hòa mình trong “dòng nước
mát của văn hoá dân tộc”. Việc cúng tế tại đình làng hàng tháng, hàng năm là
sự tô đậm bản sắc văn hóa làng và không ngừng được bổ sung, phát triển.
Những câu đối và bức hoành phi treo ở đình làng đều có nội dung ca ngợi đức
độ, công trạng của các vị Thành hoàng làng, hoặc ca ngợi vẻ đẹp của ngôi
đình làng, của quê hương. Những thần tích về Thành hoàng làng vừa là bằng
105

chứng của tín ngưỡng dân gian, vừa là một thành phần không thể thiếu của
nền văn hoá dân gian.
Ở làng xã vùng NTHN hiện nay, các loại hình văn nghệ dân gian
thường được tổ chức ở sân đình, sân đền, nơi thờ Thành hoàng làng. Một số
loại hình tuy không trực tiếp liên quan đến TNTTH làng, nhưng vẫn thực hiện
vào dịp hội làng, đó là các sinh hoạt hát dân ca (hát quan họ, trống quân, diễn
chèo, tuồng, hát xoan,…) với nội dung là ca ngợi cuộc sống thanh bình, cảnh
đẹp quê hương, tình yêu đôi lứa, ca ngợi các vị anh hùng dân tộc, ca ngợi vẻ
đẹp thuỷ chung son sắt của người con gái, ca ngợi công đức trời bể của cha
mẹ, thầy cô… Chẳng hạn lễ hội thôn Đại La, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì
diễn ra vào mùng 6,7,8 âm hàng năm ở đình Đại La với tiếng trống rộn rã của
lễ hội mùa xuân, khắp ngõ làng huyên náo. Người dân chen chúc vào đình
làng một cách kính trọng. Với tâm linh, nỗi nhớ tưởng nhớ đến người xưa, với
truyền thống “Uống nước và nhớ nguồn”, mọi người đứng trước đình làng
cũng muốn bày tỏ sự chân thành và tôn kính. Nghi lễ trong lễ hội làng có một
ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc, mọi người đều gạt bỏ mọi trở ngại và trở ngại
trong cuộc sống để hướng tới những điều tốt đẹp nhất. Rất nhiều lo lắng, tính
toán trong cuộc sống hàng ngày cũng tan chảy để có được sự an tâm, khoảnh
khắc đó cũng nhắc nhở bản thân và dạy dỗ con cháu trong làng của họ biết ơn
và sự tôn kính đối với các vị Thành hoàng đã góp công sức xây dựng làng xã
đất nước. Đó cũng là niềm tự hào của gia đình, dòng tộc và làng quê. Tất cả
các nghi lễ, đám rước, tế lễ, dâng hương, tưởng niệm... đều bày tỏ tấm lòng
kính trọng và biết ơn của dân làng đối với Thành hoàng làng. Ngoài ra, các trò
múa dân gian như kéo co, múa lân, thi nấu ăn, thi đấu vật, bơi thuyền, chọi
gà,… đã phản ánh những nét văn hoá độc đáo của các làng, xã NTHN. Từ đó,
giúp người dân, nhất là các thế hệ thanh niên không bị hoà tan với nhịp sống
và văn hoá hiện đại.
106

Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng góp phần giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hóa nghệ thuật, các nghi lễ thờ cúng của tín ngưỡng truyền
thống trên địa bàn.
Ở các làng NTHN hiện nay, xuất hiện hoạt động viết và thưởng
thức giá trị văn hóa của các loại hoành phi, câu đối, những sáng tác nghệ
thuật. Những tác phẩm này đều có nội dung ca ngợi, đề cao đức độ, công
trạng của các vị Thành hoàng làng. Những đôi câu đối được được lưu ở
đình, đền làng.
Ở làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh, Hà Nội, lễ hội Thành hoàng được diễn
ra trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm và vẫn đầy đủ những nghi thức của một lễ
hội cổ truyền và mang những sắc thái riêng của vùng miền. Hội đền thờ Hai
Bà được mở ra từ ngày 4 đến ngày 10 tháng giêng âm lịch. Theo các cụ cao
niên trong làng, cứ 5 năm một lần (với những năm có số cuối là 0 và 5), nhân
dân trong làng lại tổ chức rước kiệu Hai Bà Trưng, kiệu Thành hoàng làng Hạ
Lôi và kiệu thánh Cốt Tung là danh tướng của Hùng Duệ vương được thờ tại
làng Hạ Lôi. Lễ hội của đền Hai Bà Trưng thể hiện sự hào khí, tinh thần
thượng võ, nét đẹp văn hóa, tôn vinh phụ nữ, giáo dục thế hệ trẻ về lòng yêu
nước, truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, cũng như tình
đoàn kết của cư dân làng Hạ Lôi.
Ở làng Thượng Thanh, xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Nội, có
miếu Thượng Thanh tọa lạc trên một khu đất rộng liền sát ngay bờ hồ Thanh
Đàm, cạnh con đường trục liên xã, tạo nên một quần thể di tích. Đó là công
trình tưởng niệm vị anh hùng Cai Công, một nhân vật lịch sử gắn với thời
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ thứ I sau công
nguyên. Có thể nói, miếu Thượng Thanh thực sự là nơi giữ gìn những giá trị
văn hóa nghệ thuật; là bồi đắp tinh thần cho các bậc cao niên địa phương.
Mỗi khi đến miếu Thượng Thanh, người dân như được vào một không gian
107

trưng bày nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân gian từ những thế kỷ trước.
Đây cũng là nơi giới thiệu, phát huy truyền thống của tổ tiên cho các thế hệ
sau. Nằm trong vùng đất có bề dày lịch sử lâu đời, di tích miếu Thượng
Thanh đã tạo ra một trung tâm di tích văn hóa lịch sử lâu đời của dân tộc,
làm thành một điểm của tuyến tham quan du lịch phía nam thủ đô Hà Nội.
Sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng thần Thành hoàng ở NTHN diễn ra
trong các lễ hội truyền thống hàng năm, đó là cách để lưu giữ các giá trị văn
hóa nghệ thuật. Các nghi lễ tôn giáo trong lễ hội tôn vinh công ơn của các vị
Thành hoàng làng. Việc tổ chức cúng tế Thành hoàng được thực hiện tại đình
làng theo định kỳ hàng tháng hàng năm, như một nghi lễ tôn giáo thực thụ.
Tôn giáo ấy khác biệt với mọi tôn giáo thông thường vì nó rất gần gũi và quá
thực tế đời sống của cư dân làng xã. Nó không khuyến khích con người cầu
xin những gì cao xa và ở tương lai xa vời sau khi chết, nó chỉ cầu mong được
mùa, đời sống ấm no, làng xóm được bảo vệ, an bình, người dân trong làng
sống với nhau thật thuận thảo, duy trì thuần phong mỹ tục... Các trò chơi
trong lễ hội biểu dương sức mạnh cộng đồng, biểu dương giá trị văn hóa và
thu hút được đông đảo dân làng tham gia. Dân làng cùng tham gia vào quá
trình tái tạo và sáng tạo những giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống, bảo
tồn, phát huy những giá trị đó trong cuộc sống đương đại.
Ở NTHN, dưới thời phong kiến lễ hội diễn ra hầu hết ở các thôn làng;
hiện nay, ở nhiều làng quê lễ hội vẫn duy trì và có xu hướng phát triển. Trong
những ngày diễn ra lễ hội Thành hoàng làng, không khí vui vẻ bao trùm cả
ngày lẫn đêm, từ người già đến người trẻ không phân biệt tuổi tác, địa vị hay
sang giàu. Đây cũng là dịp để trai gái trong làng gặp gỡ giao duyên và kết
bạn. Cùng với việc thờ cúng tổ tiên, thì TNTTH làng đem lại cho người dân
nơi đây ý thức hướng về cội nguồn, về nơi mình sinh ra và lớn lên bằng
những lễ hội, sinh hoạt văn hoá đậm đà bản sắc quê hương.
108

Ngoại thành Hà Nội, ở các huyện như Ứng Hòa, Thanh Oai, Quốc
Oai, Mỹ Đức, Chương Mỹ, Ba Vì, Thường Tín, Phú Xuyên..., là những
miền quê có bề dày văn hóa, ở đó vẫn lưu giữ được nhiều lễ hội với các trò
chơi văn hóa dân gian đặc sắc, như lễ hội Thành hoàng, ca ngợi công lao
đánh giặc giữ nước của các anh hùng dân tộc ở địa phương, lễ hội cầu mùa,
cầu nước, lễ hội phồn thực. Lễ hội truyền thống không chỉ là tấm gương
phản chiếu những nét văn hoá của dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn
và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy. Đối với các làng xã NTHN, một vùng
đang có sự thay da đổi thịt nhờ sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ.
Cuộc sống của người dân nơi đây không phải lúc nào cũng là ngày hội,
nhưng sau những ngày tháng nhọc nhằn, vất vả mưu sinh, xuân thu nhị kỳ
hằng năm, người dân NTHN mở hội làm cho cuộc sống nơi thôn quê nhộn
nhịp, vang dậy tiếng trống chiêng; con người hoá thân thành văn hoá, văn
hoá làm biến đổi con người. Có thể nói, đó thực sự là một bảo tàng sống về
văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Lễ hội Thành hoàng làng của cư dân NTHN còn là nơi, là dịp
bảo tồn nhiều hình thức văn hóa nghệ thuật truyền thống của vùng đồng
bằng Bắc bộ, như hát chèo, múa xinh tiền, múa con đĩ đánh bồng, múa
rồng, múa lân, múa rối nước; các trò chơi và trò diễn như đánh cờ người,
chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải,...
Ở thôn Phú Mỹ, xã Ngọc Mỹ, Quốc Oai, Hà Nội, căn cứ theo thần
phả, các tư liệu Hán Nôm có trong di tích cùng truyền thuyết nhân dân địa
phương, đình Phú Mỹ thờ tam vị Thành hoàng, trong đó chính vị Thành
hoàng tên là Thanh Hòa Đại vương và hai vị tả hữu Thành hoàng, Thánh
mẫu Huyền Dung Tiên Nga - mẹ của Đức Thánh cả được thờ ở Miếu Cốc.
Lễ hội đình làng Phú Mỹ được tổ chức 5 năm 1 lần, từ ngày 10/11 đến
ngày 12/11 âm lịch, để tưởng nhớ công ơn của Thanh Hòa đại vương, hai
109

vị tả hữu Thành hoàng và Thánh mẫu Huyền Dung Tiên Nga. Ngày lễ hội,
cán bộ, quan viên và nhân dân thôn Phú Mỹ long trọng tổ chức khai mạc
Lễ hội đình làng Phú Mỹ trong nghi lễ trang nghiêm, thành kính. Sau màn
tế lễ của ban tế, đội giai đô phụng nghinh kiệu ra Quán Sanh, tương truyền
đây là mộ của đức chính vị Thành hoàng, để viếng mộ rồi rước linh vị Ngài
về đình. Để tưởng nhớ đến công ơn của Thành hoàng làng và Thánh mẫu,
người dân địa phương và những người con xa quê trở về, thành kính dâng
hương, cầu phúc cho gia đình, người thân và cầu mong Thành hoàng che
chở cho dân làng thịnh mãi, trường tồn. Đây là hình thức liên kết cộng
đồng, tăng thêm tình đoàn kết hòa thuận hàng xóm láng giềng, trong thôn
trong xã; là nơi chuyển giao các hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng,
để nghỉ ngơi vui chơi thưởng thức lễ hội, đoàn tụ sau những ngày làm ăn
vất vả khó nhọc xa quê.
Ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng trong
lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật; tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân NTHN
hiện nay
Bản thân cư dân khi thực hiện việc gìn giữ, tôn tạo TNTTH làng ở một
số địa phương (đánh giá ở một phương diện nào đó) cũng làm cho bản sắc
văn hóa dân tộc, các giá trị tín ngưỡng truyền thống bị mai một đi ít nhiều
Hiện nay, việc tái tạo hoạt động TNTTH làng ở các địa phương vùng
NTHN diễn ra khá phổ biến. Ở một số làng quê, việc tái tạo sai lệch sự tích
Thần Thành hoàng theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” nhằm mục đích
được xếp hạng, hay thu lợi đã làm cho giá trị văn hóa trong hoạt động tín
ngưỡng này bị suy giảm.
Trong cuộc sống hàng ngày, niềm tin hư ảo của tín ngưỡng dân gian
đã góp phần kìm hãm con người - chủ thể văn hóa trong việc tham gia cải
tạo tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Chính việc tin tưởng thái quá vào
110

thần thánh, ma quỷ đã tạo nên tâm trạng lo lắng, sợ hãi các thế lực siêu
nhiên ở một bộ phận không nhỏ cư dân. Bên cạnh đó, trong thời gian gần
đây, việc khôi phục rầm rộ các lễ hội truyền thống, cũng như trùng tu, xây
dựng cơ sở thờ tự tôn giáo, tín ngưỡng dân gian đã nảy sinh không ít vấn
đề phức tạp, phi văn hóa, phản nhân văn, nhiều công trình xây dựng sửa
chữa đã làm mất đi vẻ đẹp cổ kính vốn có của các cơ sở tín ngưỡng, tôn
giáo. Điển hình như: Đình Lương Xá, xã Liên Bạt, Ứng Hoà - một ngôi
đình được xây dựng từ thế kỷ 17 với những mảng chạm tuyệt đẹp, được
xem là một trong những đỉnh cao về nghệ thuật kiến trúc thời bấy giờ vừa
được phá đi để thay vào đó một công trình kiến trúc bê tông hiện đã dựng
cột, bộ vì và đang hoàn thiện phần mái. Nhiều cột đình, kiến trúc quý, gỗ
quý còn lại được để ở sân kho Lương Xá. Sự việc này đã gây bức xúc trong
dư luận đối với việc bảo tồn, trùng tu các di tích lịch sử có giá trị.
Có người tin tuyệt đối rằng, thần thánh, tổ tiên chi phối cuộc sống
của mình, nhưng con số này không nhiều, đa phần người dân có tư tưởng
vừa tin có sức mạnh bên ngoài chi phối, vừa không tin có sức mạnh bên
ngoài chi phối tới cuộc sống của họ. Tuy nhiên, họ vẫn cầu, vẫn cúng với
tấm lòng thành kính của mình, không phân biệt giới tính và tuổi tác, cũng
không phân biệt về nghề nghiệp. Khi con người thực hiện các lễ nghi thờ
cúng, tức là họ đã bước vào một không gian thiêng của tâm thức. Ở đó, con
người dường như được giao cảm với tổ tiên và thần thánh, họ gạt bỏ mọi lo
toan phiền muộn nơi trần tục để hoà nhập vào thế giới linh thiêng với
những cảm xúc khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trong quá trình thực
hiện các hành vi cúng tế như sự biết ơn, lòng tự hào, niềm hy vọng, sự lo
lắng, sợ hãi.
Việc thực hành TNTTH làng cũng góp phần làm xuất hiện một số biểu
hiện mê tín, thương mại hóa trong hoạt động tín ngưỡng
111

Ở NTHN hiện nay, một số người dân tin rằng, chỉ cần đến với thần, lễ
bái thần là giàu có, là tai qua nạn khỏi, nên họ bỏ bê công việc làm ăn để chạy
đua cúng lễ. Điều này đã khiến cho kinh tế nhiều hộ gia đình sa sút, gây ra bất
đồng giữa các thành viên. Ảnh hưởng tiêu cực này của TNTTH làng cũng đã
được tác giả luận án minh chứng bằng kết quả điều tra, khảo sát thực tiễn.
Qua khảo sát, điều tra cho thấy, có tới 86% ý kiến lựa chọn nội dung: người
dân tin rằng chỉ cần đến với thần, lễ bái thần là giàu có, là tai qua nạn khỏi,
nên họ bỏ bê công việc làm ăn để chạy đua cúng lễ là một trong những ảnh
hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân vùng NTHN hiện nay.
Niềm tin quá mức ấy ảnh hưởng không tốt đến đời sống hiện tại của cư dân và
gia đình họ. Ở mức độ nào, sự mê tín của một bộ phận cư dân NTHN đã làm
xấu đi hình ảnh vốn có của Thành hoàng làng.
Việc tái tạo hoạt động TNTTH cũng làm nảy sinh những vấn đề phức
tạp như “buôn thần bán thánh”, thương mại hóa văn hóa, xây dựng các khu di
tích nhằm trục lợi, lôi kéo khách du lịch. Không ít những kẻ xấu đã lợi dụng
lòng kính cẩn của dân làng để trục lợi cho mình hoặc phát sinh những hình
thức mê tín dị đoan. Xuất hiện hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín
ngưỡng, như: nạn buôn thần bán thánh, lạm dụng các hình thức kinh doanh lễ
hội,... Người ta quan niệm “trần sao âm vậy”, nên rất nhiều người đã “suy
bụng ta ra…bụng thần”, do vậy, đã có những hành vi ứng xử tiêu cực đối các
vị thần linh. Đây là biểu hiện không tốt, có nguy cơ xâm hại đến những giá trị
vốn có của TNTTH làng.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng với việc thực hiện các hoạt động lễ
hội của nó cũng có những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường văn hóa xã hội
“Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh,
ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội
112

phạm có chiều hướng gia tăng” [22, tr.125]. Nhận định này của Đảng cũng
đúng với trường hợp hoạt động TNTTH làng của cư dân NTHN hiện nay.
Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận xét “Văn hóa Việt Nam cổ truyền, về bản
chất, là một nền văn hóa xóm làng. Vừa là sức mạnh, vừa là điểm yếu của
truyền thống Việt Nam” [156, tr.80]. Dân chúng đi lễ hội nhiều gây lãng
phí về thời gian, kinh tế, đưa đến các hệ lụy khác về giao thông, bán hàng
hóa chất lượng kém xung quanh lễ hội,... Khách du lịch vào những dịp lễ
hội không nhiều, không bù trừ thiệt hại do lãng phí từ lễ hội; ảnh hưởng
tiêu cực đến kinh tế. Ví dụ như Lễ hội đền Gióng - Sóc Sơn có tục cướp lộc
vô tổ chức, gây tình trạng trà đạp lên nhau tranh cướp lộc một cách phản
cảm trong những năm vừa qua, cho nên năm 2019 ban tổ chức lễ hội đã bỏ
tục lệ này.
Các lễ hội tín ngưỡng dân gian, thờ Thành hoàng làng được tổ chức
hàng năm, thu hút hàng nghìn lượt khách thập phương về tham dự, tuy giúp
phát triển du lịch, tăng nguồn thu cho địa phương, nhưng cũng kéo theo các
vấn đề về an ninh, xã hội, đặc biệt là vấn đề môi trường tại khu vực tổ chức
lễ hội. Nơi thờ tự thần linh vốn là chốn thanh tịnh, thoát tục, thế nhưng
không ít người dân đã có hành vi buôn bán không lành mạnh, chặt chém
khách. Sau mùa lễ hội, nhiều di tích, rác thải khắp nơi, không được thu
dọn. Ý thức người dân tham gia lễ hội còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến
thái độ, hành vi, ứng xử chưa văn hóa đối với lễ hội. Hiện tượng đấm đá,
đánh nhau, xả rác bừa bãi tại lễ hội Giằng Bông ở Đình Sơn Đồng - Hoài
Đức đang diễn ra trong những năm gần đây là một ví dụ. Bên cạnh các hoạt
động sinh hoạt văn hóa sôi nổi, mang tính truyền thống, một số lễ hội
TNTTH tổ chức thiếu tôn nghiêm, thiếu lành mạnh. Hiện tượng ô nhiễm
môi trường, mất trật tự an toàn trong lễ hội còn diễn ra khá phổ biến.
113

3.3. NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ THỰC TRẠNG


ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG ĐẾN THẦN CƯ
DÂN NGOẠI THÀNH HIỆN NAY
3.3.1. Nguyên nhân ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng đến đời sống tinh thần cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
* Nguyên nhân của ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay
Ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay
có nguyên nhân trực tiếp và quyết định từ chính vai trò và giá trị của tín
ngưỡng này
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là loại hình tín ngưỡng dân gian, là
giá trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, là điểm hội tụ đời sống tâm linh
của các tầng lớp nhân dân NTHN trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Tín ngường thờ Thành hoàng làng gắn bó chặt chẽ với
văn hoá dân gian, văn hoá truyền thống của dân tộc, có giá trị văn hoá cao.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của cư dân NTHN gắn liền với hệ
thống các thần thoại, truyền thuyết, thần tích, các di tích đền miếu, các nghi
lễ, phong tục và lễ hội, tạo thành một hệ thống văn hoá vật thể và phi vật thể
phong phú, đa dạng. Với những quan niệm về niềm tin và đấng siêu nhiên
hoặc con người được thần thánh hóa, tín ngưỡng này cũng mang lại cho cư
dân các làng xã một niềm tin an ủi, động viên, một sự nâng đỡ tinh thần nhất
định. TNTTH tuy không thành một hệ chuẩn mang tính hệ thống và hoàn
chỉnh như tôn giáo chính thống, nhưng cũng mang trong mình những quy
ước, quy phạm về cách ứng xử, đòi hỏi chủ thể tin vào đối tượng thờ cúng và
phải hành động tương hợp.
Bản sắc văn hóa ấy là những đặc điểm và nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng
của người dân, mang sắc thái của con người NTHN, luôn có vai trò tích cực
đối với ĐSTT của cư dân nơi đây. Với người dân NTHN thì tín ngưỡng dân
114

gian nói chung, TNTTH làng nói riêng có một vai trò, chức năng quan trọng
trong ĐSTT của họ, nó có chức năng đền bù hư ảo, có chức năng giáo dục,
định hướng giá trị, chuẩn mực ứng xử của con người, có chức năng giao tiếp,
tổ chức xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ cộng đồng trong phạm vi làng xã
và trên các lĩnh vực của đời sống làng quê, góp phần đảm bảo tính kế thừa
lịch sử.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của cư dân NTHN là trường hợp
điển hình của TNTTH vùng đồng bằng Bắc bộ. Do vậy, xu hướng vận động
của tín ngưỡng này ở NTHN là xu hướng vận động chung của TNTTH vùng
đồng bằng Bắc bộ; trở thành một nhu cầu, khát vọng của người dân địa
phương từ đời này qua đời khác.
Chiều sâu của lễ hội truyền thống là bảo lưu cội nguồn. Vì vậy, thực
hiện tốt chức năng của lễ hội truyền thống chính là góp phần giáo dục văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, làm phong phú ĐSTT xã hội, góp phần xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó, lễ hội truyền
thống với những giá trị văn hóa, giá trị tín ngưỡng, tôn giáo sâu sắc cũng góp
phần to lớn trong việc quảng bá hình ảnh làng xã đối với các làng quê khác
của Việt Nam và quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè thế giới. Những
điều đó nói lên vai trò và giá trị của TNTTH làng, góp phần quan trọng tạo
nên diện mạo tích cực trong ĐSTT cư dân NTHN hiện nay.
Sự “sàng lọc” và tôn thờ của nhiều thế hệ cư dân NTHN đối với
TNTTH làng là một nguyên nhân rất quan trọng có ảnh hưởng tích cực đến
ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là loại hình tín ngưỡng xuất hiện từ
lâu trong làng xã và có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý, ý thức của người
người dân. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, người dân NTHN đã
“sàng lọc” và tôn thờ Thành hoàng làng. Tín ngường này luôn được kế thừa
và phát triển, cho đến ngày nay nó trở nên có giá trị và ý nghĩa hơn. Chính
115

điều đó là một nguyên nhân rất quan trọng có ảnh hưởng tích cực đến ĐSTT
của cư dân NTHN hiện nay. Trên thực tế, việc thờ cúng Thành hoàng làng
của cư dân NTHN được diễn ra trong một không gian linh thiêng, đưa con
người trở về quá khứ, lòng biết ơn, tự hào của cộng đồng được tái hiện, đắm
chìm trong những ước vọng của người xưa cầu cho dân bình an, mạnh khoẻ,
mùa màng bội thu. TNTTH làng điều chỉnh mối quan hệ cộng đồng trong
phạm vi và trên lĩnh vực tương ứng; thể hiện vai trò liên kết tâm linh giữa
những người cùng niềm tin, qua sự sàng lọc của lịch sử, ngày càng tỏa sáng.
Thực tế cho thấy, khi có cùng đối tượng để gửi gắm niềm tin, người ta có thể
liên kết với nhau đôi khi rất chặt chẽ trên nhiều phương diện, ngay cả khi
không cùng ý thức chính trị, thậm chí đối lập trên phương diện chính trị.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng phản ánh vai trò của người dân
trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Điều này phản ánh sự đoàn kết
và đùm bọc lẫn nhau trong quá trình lao động sản xuất và bảo vệ xóm làng.
Sự tôn vinh những vị Tổ nghề là một việc làm phổ biến của người dân các
làng nghề ở NTHN. Việc làm này thể hiện sự biểu dương, ca ngợi những
thành quả lao động, lý tưởng hoá nó, nâng nó lên thành những mẫu mực đẹp
đẽ; đồng thời, đó là biểu hiện cao đẹp của truyền thống “Tôn sư trọng đạo”,
“Uống nước nhớ nguồn”. Đó là truyền thống ghi nhớ công ơn của Tổ nghề đã
có công khai mở và gây dựng nên các ngành nghề. Sự đan xen, hoà đồng của
tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc với các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác
thể hiện rõ ở nơi đình, đền, miếu thờ Thành hoàng, mà trong đó, số đông
Thành hoàng là các vị anh hùng dân tộc. Sự đan xen hoà đồng đó không làm
cho tín ngưỡng này bị hoà tan, mà vẫn giữ được nét riêng.
Cũng vì vậy, TNTTH làng gắn chặt với đời sống văn hoá cộng đồng,
đảm bảo tính bền chắc, có thể thích ứng đối với những thay đổi của xã hội,
có khả năng tự đổi mới để thích ứng với những điều kiện xã hội mới, kể cả
xã hội hiện đại. Mặc dù hệ thống tín ngưỡng này chưa có kinh sách mang
116

tính quy chuẩn, chưa hình thành tổ chức chặt chẽ, hệ thống thờ tự và nghi lễ
quy chuẩn, nhưng nó vẫn tồn tại lâu bền trong đời sống con người, nhất là ở
nông thôn Việt Nam nói chung, NTHN nói riêng. Vì thế, TNTTH qua nhiều
giai đoạn lịch sử, luôn phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đồng thời có sự
bổ sung thêm những yếu tố mới.
Công tác giáo dục, tuyên truyền những giá trị tốt đẹp của TNTTH
làng của các cấp chính quyền cũng ảnh hưởng tích cực đến ĐSTT của cư
dân NTHN
Trong thực tiễn, Đảng và Nhà nước, cũng như các cấp chính quyền
luôn có định hướng và tiến hành công tác giáo dục tuyên truyền những giá trị
tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo nói chung, của TNTTH làng nói riêng. Chính
quyền các địa phương NTHN cũng luôn quan tâm, thực hiện tốt công tác giáo
dục tuyên truyền những giá trị tốt đẹp của TNTTH làng và quản lý các hoạt
động TNTTH làng của cư dân, nhất là lễ hội. Đây là một nguyên nhân quan
trọng khiến cho TNTTH làng ảnh hưởng tích cực đến ĐSTT của cư dân
NTHN. Mục 1, khoản 15, điều 34, Luật Di sản Văn hóa (sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Di sản Văn hóa, số 32/2009/QH12) quy định rõ yêu cầu về
bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Sự quan tâm của Nhà nước là một trong
những nguyên nhân của sự phục hồi, phát triển các di tích lịch sử, văn hóa,
tôn giáo, tín ngưỡng dân gian, trong đó có TNTTH làng.
* Nguyên nhân của ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay
Những hạn chế, yếu kếm trong định hướng, quản lý về hoạt động tín
ngưỡng của các cấp chính quyền trên địa bàn NTHN
Quản lý nhà nước về tín ngưỡng dân gian, TNTTH làng là một nhiệm
vụ của quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, thời gian qua,
“Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị
xem nhẹ, thậm chí buông lỏng” [22, tr.126]. Việc xây dựng và ban hành chính
117

sách, pháp luật quản lý nhà nước về lễ hội tín ngưỡng còn còn gặp nhiều khó
khăn. Việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật và hướng dẫn thực hiện các
văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước về lĩnh vực lễ hội
tín ngưỡng còn chậm, phân tán, chưa đầy đủ, chưa theo kịp thực tiễn phát
triển hiện nay. Các địa phương chưa có quy định cụ thể mang tính quản lý đối
với TNTTH làng. Việc chỉ đạo, giám sát thực thi các quy định quản lý nhà
nước về lĩnh vực này còn lúng túng, thiếu cụ thể và liên tục.
Các cấp ủy Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cơ quan quản lý
nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa xã hội trên địa bàn NTHN chưa cụ
thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng trong các chương trình hành
động đối với các hoạt động tín ngưỡng dân gian, TNTTH làng theo chức
năng và nhiệm được giao. Chưa có chủ trương thống nhất, kịp thời trước
nhiều sự việc phát sinh, nên có sự lúng túng trong đối sách đối với hoạt động
của cơ sở, gây sự hiểu lầm hoặc phản ứng tiêu cực trong nhân dân. Bên cạnh
đó, công tác bảo tồn, trùng tu di tích, khôi phục các loại hình lễ hội, tín
ngưỡng đang có xu hướng làm sai lệch hoặc biến dạng những giá trị văn
hóa, nghệ thuật truyền thống của dân tộc. “Việc bảo tồn, phát huy giá trị di
sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao” [22, tr.125]. Một trong những nguyên
nhân chưa giải quyết được triệt để hiện tượng mê tín dị đoan là do sự nhận
thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất và lẫn lộn giữa tín ngưỡng, tôn giáo và
mê tín dị đoan, khiến cho việc ứng xử trong thực tế còn có nhiều lúng túng.
Qua thực tiễn quản lý các hoạt động tín ngưỡng dân gian cho thấy, ở một số
cơ sở thờ tự, đình, đền, nhân dân và cấp chính quyền cơ sở, có nơi còn coi
nhẹ vai trò quản lý nhà nước đối với tín ngưỡng tôn giáo, nên khi tổ chức
các hoạt động không xin phép cấp có thẩm quyền, phát sinh những tiêu
cực. Một số cơ sở tín ngưỡng dân gian, thờ Thành hoàng làng còn đặt nhiều
hòm công đức; công tác quản lý và sử dụng tiền công đức còn thiếu minh
bạch, nên đã dẫn đến những tranh chấp không đáng có giữa một bộ phận
118

nhân dân với nhau, hoặc giữa một bộ phận nhân dân với người quản lý
trông coi cơ sở thờ tự, đình đền. Một số đình đền là di tích lịch sử thì do cơ
quan quản lý về văn hóa phụ trách, nhưng các hoạt động lễ hội thờ Thành
hoàng làng liên quan đến không gian đình đền thì có thể song hành cả hai
cơ quan quản lý. Khi có vấn đề tranh chấp, hoặc các hoạt động tín ngưỡng
xảy ra thì đùn đẩy trách nhiệm; vai trò của chính quyền các cấp chưa được
thể hiện cụ thể.
Trong những năm gần đây, khi kinh tế ở các địa phương NTHN có
những bước khởi sắc đáng kể; người dân ngoài việc đủ ăn đã có tích lũy, dư
thừa, một bộ phận trở lên khá giả. Với xu hướng phú quý sinh lễ nghĩa, nên
các hoạt động tang ma, cưới xin, giỗ chạp, xây mồ mả lại phục hồi các hủ
tục cũ. TNTTH làng cũng trong tình hình như vậy, việc tổ chức trở nên
rườm rà, linh đình hơn. Sở dĩ có hiện tượng này là do những người thế hệ
hôm nay đã không hiểu rõ tường tận về lai lịch hoặc thần tích của các vị
Thành hoàng làng vốn có niên đại hàng ngàn năm, một phần do chiến tranh
loạn lạc, một phần do các dấu tích lịch sử không còn nguyên vẹn. Ngoài ra,
một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là sự truyền khẩu của các
thần tích Thành hoàng làng dẫn đến sự thêm thắt cho thêm phần ly kỳ và hấp
dẫn của các vị thần thánh làng mình.
Trong khi đó, công tác giáo dục tuyên truyền vận động quần chúng
trong các hoạt động TNTTH làng còn chưa thực sự liên tục, nhất là công tác
giáo dục tuyên truyền chủ trương, chính sách của cấp trên vẫn còn bị xem
nhẹ. Còn nhiều người chưa hiểu cụ thể về chủ trương, chính sách của Đảng
nên còn đồng nhất tự do tín ngưỡng với các hoạt động mê tín dị đoan. Công
tác vận động quần chúng trong việc tổ chức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
lành mạnh và đấu tranh với các tệ nạn mê tín, dị đoan bị bỏ ngỏ. Đa số cán
bộ còn e ngại đi vào lĩnh vực này hoặc vì còn thành kiến, hoặc vì thiếu am
hiểu chuyên môn. Các đoàn thể, cơ quan chuyên môn chưa thấy rõ tầm quan
119

trọng của TNTTH làng, nên chưa phân công, phân nhiệm vụ rõ ràng. Việc
đào tạo cán bộ kế thừa am hiểu chuyên môn nghiệp vụ văn hóa, tín ngưỡng
dân gian chưa đáp ứng nhu cầu.
Những tiêu cực từ tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng không chỉ chỉ có những giá trị, mang
tính nhân văn, hướng thiện, mà tín ngưỡng này còn chứa đựng trong nó những
yếu tố tiêu cực, hạn chế, kìm hãm, cản trở sự phát triển. Những yếu tố duy
tâm của tín ngưỡng này, dù còn cần thiết nhất định cho con người, nhưng lại
là yếu tố kìm hãm, cản trở tính tích cực, năng động sáng tạo của con người
trong lao động sản xuất và các hoạt động xã hội. Những hạn chế, tiêu cực từ
TNTTH làng là nguyên nhân mang tính quyết định mặt tiêu cực sự ảnh hưởng
của nó đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay. Mọi niềm tin nói chung, mọi
tín ngưỡng nói riêng nếu bị quá lạm dụng đều có thể chuyển sang cái tôi đối
lập với chính nó.
Tín ngưỡng, dù là tín ngưỡng dân gian, dễ dẫn tới mê tín dị đoan, khi
nhấn quá mức yếu tố siêu nhiên, siêu phàm, huyền bí, đặt ra những nghi lễ
quá phiền phức. Thêm vào nữa, việc thờ cúng tổ tiên, thờ các vị thần có công
với nước với dân sẽ không còn là những yếu tố văn hóa tốt đẹp, khi gắn cho
nó những điều huyền bí với những nghi thức cúng lễ linh đình, những thủ tục
phiền hà, phức tạp, mang những yếu tố ma thuật, phù thủy.
Một số phần tử lợi dụng TNTTH làng để trục lợi, gây ảnh hưởng xấu
đến ĐSTT của cư dân
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc không thể không quan tâm
đến sinh hoạt tín ngưỡng dân gian và tôn giáo truyền thống mà nhân dân đã
lưu giữ hàng ngàn đời. Nhưng TNTTH - một nét đẹp trong bản sắc văn hoá
dân tộc này, mà NTHN là một vùng đất tiêu biểu, bị một số phần tử lợi dụng
nhằm mục đích vụ lợi gây ảnh hưởng xấu đến ĐSTT của cư dân. Gắn với các
sinh hoạt tín ngưỡng luôn là những hiện tượng tiêu cực, như: buôn thần bán
120

thánh, mê tín dị đoan, giả danh người có tín ngưỡng, trộm cắp tiền của của
nhân dân trong các dịp lễ hội,... Chốn linh thiêng xa rời trần tục mà nhiều hoạt
động đời thường thiếu lành mạnh vẫn thường xuyên quấy nhiễu bởi sự tranh
giành, chèo kéo, ganh đua. Ở các làng quê NTHN, trong các lễ hội TNTTH
làng nhiều hình thức tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào trong
các hoạt động tín ngưỡng. Ở nhiều lễ hội Thành hoàng, cái thiêng đã bị nhu
cầu trần tục của con người làm cho vẩn đục, cái dung tục đã dần thay thế cho
cái thiêng và lòng thành kính. Trong khi các hoạt động vui chơi cổ truyền như
vật, chọi gà, cờ người, nấu cơm,… đang có xu hướng mai một; thì các hình
thức đánh bạc lại xuất hiện ngày càng nhiều, các sới gà chọi ăn tiền diễn ra
công khai. Một số kẻ xấu đã lợi dụng dịp lễ hội Thành hoàng đầu năm để hoạt
động lừa bịp gây mất trật tự an ninh. Một loạt dịch vụ ăn theo như bán hàng
với giá cao, giả danh người tàn tật để khất thực và ăn xin, ăn mày cũng xuất
hiện và phát triển, ảnh hưởng xấu đến đời sống văn hóa xã hội và an ninh trật
tự địa phương.
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ảnh hưởng của tín
ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến Đời sống tinh thần cư dân ngoại
thành Hà Nội hiện nay
Một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu xây dựng ĐSTT lành mạnh với những
biểu hiện tiêu cực, phức tạp mới của TNTTH làng ở vùng NTHN hiện nay
Ở các loại hình tín ngưỡng nói chung, TNTTH làng nói riêng, bên cạnh
những giá trị tốt đẹp về văn hóa và đạo đức, đã và đang xuất hiện một số hiện
tượng phản văn hóa, làm vẩn đục yếu tố văn hóa tâm linh lành mạnh của con
người. Trong lễ hội thờ Thành hoàng làng ở NTHN còn tồn tại khá nhiều các
giá trị văn hóa của người Việt cổ. Hiện nay, bên cạnh các tục mang giá trị văn
hóa truyền thống còn một số tục cổ ít hoặc không phù hợp với điều kiện xã hội
mới. Tiêu biểu như tục chém lợn (ở lễ hội thờ Thành hoàng làng Duyên Yết, xã
Hồng Thái, Phú Xuyên, Hà Nội).
121

Yêu cầu xây dựng ĐSTT lành mạnh đối với cư dân NTHN trong điều
kiện hiện nay đòi hỏi phải khắc phục những biểu hiện tiêu cực, phức tạp mới
của tín ngưỡng dân gian nói chung, TNTTH làng nói riêng trên địa bàn.
Theo đó, vấn đề rà soát, tìm hiểu kỹ những biểu hiện tiêu cực, phức tạp,
những tục lệ cổ còn ít hoặc không còn phù hợp với điều kiện xã hội mới, thì
nghiên cứu thay thế nó bằng các nghi lễ khác có ý nghĩa tương đương, hoặc
thể hiện nó với hình thức khác phù hợp với xã hội mới, nhưng không làm
thay đổi nội dung, ý nghĩa của tín ngưỡng, được người dân đồng tình chấp
nhận. Đó là phương hướng và cũng là một giải pháp quan trọng để giải
quyết mâu thuẫn này.
Hai là, mâu thuẫn giữa việc phát huy mặt tích cực của tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng với việc khắc phục mặt tiêu cực của tín ngưỡng này đối với
ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay
Làm thế nào để bảo tồn và phát huy được mặt tích cực, hạn chế được
mặt tiêu cực của TNTTH làng ở vùng NTHN đang là thách thức đặt ra cho
chúng ta. Mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội đều tồn tại hai mặt tốt
- xấu, tích cực - tiêu cực đan xen, thẩm thấu vào nhau. Muốn phát huy được
mặt tích cực, khắc phục được mặt tiêu cực của tín ngưỡng này, thì trước hết
phải nhận thức rõ đâu là mặt tích cực, đâu là mặt tiêu cực của nó. Thực tế hiện
nay ở nhiều làng quê NTHN, người dân chưa phân biệt đâu là tín ngưỡng, đâu
là mê tín. Không ít hiện tượng mượn danh anh hùng, danh nhân văn hóa dân
tộc để trục lợi cho một số cá nhân, tuyên truyền cho cách thức hành đạo phản
văn hoá, phi đạo đức, đi ngược với tinh thần nhân văn, gây những ảnh hưởng
tiêu cực tới xã hội. Việc tổ chức các hoạt động lễ hội thờ cúng Thành hoàng
làng có biểu hiện chạy theo kinh doanh, cơ chế thị trường, dẫn đến có sự lai
tạp, không đúng truyền thống. Nhiều lễ hội Thành hoàng còn kéo dài, gây
lãng phí tiền của và thời gian của cư dân.
122

Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu giữ gìn, bảo tồn giá trị truyền thống
tốt đẹp với những hành vi vi phạm, lợi dụng tín ngưỡng thờ Thành hoàng
gây ảnh hưởng xấu đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay
Thế nào là giữ gìn, bảo tồn giá trị truyền thống tốt đẹp trong TNTTH
làng là vấn đề không đơn giản, bởi tính phức tạp của tín ngưỡng này và
những hành vi vi phạm tín ngưỡng, lợi dụng TNTTH gây ảnh hưởng xấu
ĐSTT của cư dân. Nhiều cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian, TNTTH làng
NTHN có giá trị lịch sử, văn hóa bị xuống cấp, chưa được trùng tu, hoặc
trùng tu không đến nơi đến chốn, thậm chí có những cơ sở TNTTH bị xâm
phạm. Cụ thể tại huyện Thượng Tín, có 16 di tích cấp quốc gia và thành phố
đang xuống cấp nghiêm trọng, cần cải tạo khẩn cấp trong đó có đình Tổ,
đình Lam Sơn, đình Hạ, đình An Định, đình An Duyên, đình Phúc Trạch
nhưng thiếu nguồn lực. Hoặc tại huyện Ứng Hòa, có 25 khu di tích đang
xuống cấp nghiêm trọng (18 có nguy cơ sụp đổ), nhưng không có tiền để đầu
tư và nâng cấp. Việc trùng tu, sửa chữa hay thay đổi kết cấu kiến trúc còn
tùy tiện. Một số công trình TNTTH bị bê tông hóa, mất đi giá trị văn hóa
truyền thống. Kiến trúc, mỹ thuật, các lễ hội ngày càng bị lai tạp hoặc bị mai
một, không bảo tồn được nét đẹp truyền thống. Nhiều cơ sở thờ cúng Thành
hoàng làng có xu hướng mở rộng quy mô, chạy theo danh hiệu đã làm cho bị
biến dạng, xa rời giá trị đích thực.
Thực trạng đó đặt ra vấn đề, cần có những quy định pháp lý rõ ràng cho
việc quản lý các hoạt động TNTTH làng; có sự phân cấp và có những quy
định chặt chẽ về phối kết hợp giữa các cơ quan chuyên ngành, liên ngành
quản lý hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa lễ hội, nhằm đưa sinh hoạt tín
ngưỡng lễ hội vào nề nếp, định hướng các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội theo
hướng phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức truyền thống trong
hệ thống tín ngưỡng, đúng với tinh thần nhân văn, nhân bản vốn có của nó.
123

Tiểu kết chương 3

Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng với tư cách là một loại hình tín
ngưỡng, tôn giáo; chịu sự ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác như
chính trị, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật…; và đồng thời, ảnh hưởng trở lại đối
với các hình thái ý thức xã hội đó. Khi đề cập đến tín ngưỡng, tôn giáo không
chỉ đề cập đến mặt tiêu cực của nó, mà cả mặt tích cực trong sự ảnh hưởng
của tín ngưỡng, tôn giáo đối với đời sống con người. TNTTH làng với tư cách
là một loại hình tín ngưỡng, tôn giáo không nằm ngoài quỹ đạo đó.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có ảnh hưởng to lớn đến ĐSTT của
cư dân NTHN hiện nay trên các phương diện: quan điểm, tư tưởng; đạo đức,
lối sống; văn hóa nghệ thuật, tín ngưỡng tôn giáo. Sự ảnh hưởng tích cực có
những nguyên nhân cơ bản và trực tiếp là do vai trò, giá trị của TNTTH làng;
sự “sàng lọc” và tôn thờ của nhiều thế hệ cư dân NTHN đối với tín ngưỡng
này; sự định hướng và công tác giáo dục tuyên truyền những giá trị tốt đẹp
của TNTTH làng. Những yếu kém trong định hướng hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực từ TNTTH làng; sự lợi dụng tín ngưỡng nhằm mục đích vụ lợi gây ảnh
hưởng xấu, phá hoại ĐSTT của cư dân là những nguyên nhân trực tiếp ảnh
hưởng tiêu cực đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay.
Một số vấn đề đặt ra có tính mâu thuẫn từ thực trạng ảnh hưởng của
TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay, cần phải được nhận thức
đúng và quán triệt trong đề xuất và thực thi các giải pháp phát huy ảnh hưởng
tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng này đến ĐSTT cư dân
NTHN trong thời gian tới.
124

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY
ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC
CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG ĐẾN ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY

Sự ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng nói chung, TNTTH làng nói
riêng đến ĐSTT cư dân NTHN trước đây, cũng như hiện nay đều đan xen
giữa những mặt tích cực và tiêu cực. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến việc
ứng xử đối với loại hình tín ngưỡng này trong thực tiễn gặp không ít khó
khăn. Quan điểm, chủ trương, chính sách và việc thực hiện đúng hay sai
không chỉ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến ĐSTT của cư dân, mà còn
ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Để có những quan điểm và giải pháp nhằm phát huy những mặt tích
cực và hạn chế những mặt tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân
NTHN, phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề tín ngường, tôn giáo; quán triệt những quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với tín ngưỡng,
tôn giáo nói chung và từ tình hình thực tiễn TNTTH làng đến ĐSTT cư dân
NTHN hiện nay.

4.1. QUAN ĐIỂM NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
4.1.1. Đổi mới nhận thức về vai trò của tín ngưỡng, tôn giáo nói
chung, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng nói riêng đến đời sống tinh
thần cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quan điểm nhất
quán, là nguyên tắc quan trọng trong quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo. Cương lĩnh xây dựng đất nước
125

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu
rõ quan điểm:
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu
tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến
lợi ích Tổ quốc và nhân dân [21, tr.81].
Theo đó, nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng cần phải nhìn nhận một
cách khách quan, toàn diện, phải chú ý cả mặt tiêu cực, lẫn mặt tích cực để
khai thác phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, tránh tuyên truyền đối
lập với mặt có lợi và trái với quy luật làm mất lòng dân. Nhu cầu tinh thần của
cư dân NTHN đối với tín ngưỡng nói chung, đối với TNTTH làng cũng là
khách quan.
Nhận thức đúng đắn về vai trò tín ngưỡng tôn giáo, TNTTH làng đến
ĐSTT cư dân NTHN là một quan điểm cơ bản, cần được quán triệt làm cơ sở
cho việc thực hiện các giải pháp để phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân nơi đây trong tình hình
hiện nay. TNTTH làng của cư dân NTHN là một loại hình tín ngưỡng dân
gian, là một loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh; là một biểu hiện trong
ĐSTT của con người với tất cả sự phong phú, phức tạp của nó.
Yêu cầu nhận thức đúng vai trò của tín ngưỡng này đòi hỏi không nên
đơn giản hóa tín ngưỡng, tâm linh coi đó là mê tín dị đoan, song cũng không
nên “thần bí hóa”, “ghê gớm hóa” khái niệm tâm linh, tín ngưỡng, gán cho
TNTTH làng những đặc tính cao siêu, phi thường, coi đó là cứu cánh của cư
dân làng xã.
Vì vậy, đối với TNTTH làng, cần có một cái nhìn biện chứng, khách
quan lịch sử cụ thể để trên cơ sở đó có cách ứng xử hợp lý, phù hợp, phát huy
được mặt tích cực và hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH
126

làng đối với ĐSTT của cộng đồng cư dân NTHN. Văn hóa tâm linh của cư
dân NTHN, trong đó phải kể đến TNTTH làng, có sự đan xen, phong phú, đa
dạng vào ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay. Trong mỗi gia đình cư dân
NTHN đều có quan niệm phổ biến: “Con người có tổ có tông - như cây có
cội, như sông có nguồn”, Thành hoàng là vị thần bảo hộ cho dân làng khỏi
những tai ương, trắc trở, là người có cội với làng xã,… Đây cũng chính là sự
hiểu biết của nhân dân đối với TNTTH làng.
Cần nhận thức rõ, ở phạm vi cộng đồng làng xã NTHN, TNTTH làng là
loại hình tín ngưỡng đề cao, tôn thờ những người có công với làng xã. Nó
không chỉ là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, mà còn là sự giao lưu văn hoá
giữa các làng xóm với nhau, là sự kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình
thái thờ phụng tập thể.
Với nhiều công trình, hiện vật liên quan đến văn hóa tâm linh, TNTTH
làng ở vùng NTHN đã trở thành di sản văn hóa, lịch sử quý giá, nhiều công
trình tín ngưỡng được xây dựng ở địa điểm đẹp, có giá trị lịch sử nên đã trở
thành những điểm du lịch hấp dẫn khách thập phương,...
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng bên cạnh những mặt tích cực, là sợi
dây cố kết cộng đồng, lưu giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
giáo dục cho con người lòng nhân ái, nhân đạo, vị tha, tình thương yêu con
người, nâng cao tính hướng thiện; còn có những hạn chế nhất định, ảnh hưởng
không nhỏ đến ĐSTT của người dân. Vì vậy, việc nhận thức đúng bản chất,
tính hai mặt của TNTTH làng là quan điểm cơ bản và là yêu cầu rất quan
trọng để có thể thực thi những giải pháp giải quyết và ứng xử phù hợp. Các
cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn những mặt hạn chế và mặt
tích cực, tiến bộ của TNTTH làng đối với ĐSTT của cư dân NTHN.
127

Thế giới văn hóa tâm linh của người Việt nói chung, của cư dân NTHN
nói riêng được xây dựng theo mô hình “dương sao, âm vậy - trần sao, âm
vậy”. Mặt trái của văn hóa tâm linh cũng xuất phát từ chính quan niệm gốc
“dương sao âm vậy - trần sao âm vậy”. Song, điều quan trọng là cần phải
nhận thức rõ, chính hiện thực trên cõi trần gian mới quyết định hình hài, diện
mạo của cõi âm, hay chính con người đã sinh ra Thượng đế, thần thánh, chứ
không phải ngược lại. Con người với công sức, sự sáng tạo và tài năng của
mình đã tạo nên đình chùa, miếu mạo, những không gian thờ cúng, chứ không
phải là phép màu của thần, thánh.
Trong tình hình hiện nay, để có thể phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN cần quán
triệt sâu sắc quan điểm:
Xây dựng nền văn hóa và con người phát triển toàn diện theo chuẩn
mực: chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học. Bên cạnh đó, phải coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.
Cần nhận thức rõ, hoạt động tín ngưỡng dân gian, TNTTH làng là một
trong những hoạt động tín ngưỡng mang giá trị của văn hóa truyền thống, cần
được giữ gìn và phát huy trong điều kiện mới, đặc biệt trước yêu cầu giữ vững
ổn định xã hội và thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở NTHN. Hơn
nữa, hoạt động tín ngưỡng là nhu cầu chính đáng của đông đảo quần chúng
nhân dân, của cư dân NTHN, cần phải được tôn trọng, phải được định hướng
đúng. Mọi biểu hiện cấm đoán, cản trở hoạt động tín ngưỡng này cũng đều có
thể gây ra những bất lợi đối với tư tưởng, tình cảm của người dân. Tôn trọng
tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân dân đã được các văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước như Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng và Nhà nước nhiều lần khẳng định. Việc tôn trọng quyền tự
128

do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân đã được thể chế hóa và bảo
vệ bằng pháp luật. Đồng thời, pháp luật cũng không cho phép hoạt động tín
ngưỡng trái pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng gây mất trật tự, an toàn xã hội, làm
mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân; mọi hành vi thực hiện tín ngưỡng trái với
những quy định của pháp luật đều cần có thái độ và hành động xử lý theo
pháp luật.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là chỗ dựa về tinh thần của người
dân, đem lại cho nhân dân niềm tin vào những điều tốt đẹp tốt đẹp trong cuộc
sống, giúp họ chiến thắng nỗi sợ hãi, đem lại sự thanh thản cho tâm hồn. Yếu
tố tâm linh trong TNTTH làng là yếu tố quan trọng tạo nên chiều sâu, sức
sống cho nền văn hóa cộng đồng làng xã, dân tộc, cần phải được giữ gìn và
phát huy trong thực tiễn đời sống xã hội, đồng thời cũng cần phải được định
hướng hoạt động đúng.
4.1.2. Phát huy ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng thờ Thành
hoàng phải gắn với khắc phục ảnh hưởng tiêu cực, gắn xây với chống
nhằm xây dựng đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh cho cư dân
ngoại thành Hà Nội
Đây là quan điểm cơ bản thể hiện rõ yêu cầu và phương thức của việc
phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH
làng, mà mục đích của nó là phải hướng tới xây dựng ĐSTT phong phú, lành
mạnh cho cư dân NTHN. Quan điểm cơ bản này thực chất là định hướng
giải quyết mối quan hệ giữa xây và chống trong vấn đề TNTTH làng hiện
nay. Không thể phát huy được ảnh hưởng tích cực, khắc phục được ảnh
hưởng tiêu cực của TNTTH làng đối với ĐSTT của cư dân, nếu chúng ta
không kết hợp giữa phát huy và khắc phục chặt chẽ với nhau. Cũng không
thể thực hiện có hiệu quả khắc phục mặt ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng
này, nếu không gắn với việc xây dựng ĐSTT phong phú, lành mạnh cho cư
129

dân NTHN và phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ đó. Thực chất quan điểm này là
phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng ĐSTT với một bộ phận quan
trọng trong ĐSTT, ảnh hưởng đến ĐSTT của con người, đó là TNTTH làng.
Quan điểm cơ bản phát huy ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng,
khắc phục ảnh hưởng tiêu cực gắn với xây dựng ĐSTT phong phú, lành
mạnh đòi hỏi chúng ta phải quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tín
ngưỡng và đời sống văn hóa tinh thần trong thực tiễn đời sống xã hội của
cư dân làng xã ở các địa phương NTHN hiện nay. Cần phải:
Phân biệt rõ hai mặt nhu cầu tín ngưỡng chân chính của nhân dân và
việc lợi dụng tín ngưỡng vào các mục đích khác nhau trong thực hiện tín
ngưỡng nói chung, TNTTH làng nói riêng. Trên thực tế, sự phân biệt hai mặt
nhu cầu đó không đơn giản, nhưng lại rất cần thiết, vì chỉ khi phân biệt rõ
được hai mặt đó mới tránh khỏi khuynh hướng tả hoặc hữu trong quá trình
quản lý, ứng xử với những vấn đề nảy sinh từ TNTTH làng. Khi giải quyết
những vấn đề phức tạp nảy sinh từ các sinh hoạt TNTTH làng, cũng cần
tránh khuynh hướng đơn giản, phiến diện, nôn nóng, mà phải rất thận trọng
và tỉ mỉ trong ứng xử và giải quyết.
Trước đây, do nhận thức chưa đầy đủ, chúng ta có lúc đã quan niệm
không đúng, cho rằng các hiện tượng thuộc đời sống tín ngưỡng của nhân
dân là mê tín dị đoan, không phù hợp với đời sống mới, nên cần phải loại bỏ.
Tuy vậy, trên thực tế tín ngưỡng đã vượt qua thời gian, không gian và cả thể
chế chính trị để cùng tồn tại với loài người, có những giá trị đối với chính
cuộc sống con người. Như vậy, rõ ràng rằng TNTTH làng tồn tại như là một
hiện tượng xã hội khách quan, nó đã, đang và sẽ chi phối cư dân NTHN;
không thể đánh đồng nó với mê tín dị đoan.
Hiện nay, các hoạt động tín ngưỡng dân gian, TNTTH làng của cư dân
NTHN đang diễn ra rất sôi động ở các làng quê, phố phường. Một mặt, tín
130

ngưỡng này thể hiện nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của đông đảo quần chúng
có điều kiện đáp ứng, mặt khác cũng nảy sinh những phức tạp mới gây mất
ổn định trong đời sống dân cư, nhất là tạo điều kiện cho một số kẻ lợi dụng
thực hiện các hoạt động mê tín dị đoan, gây tốn kém vật chất, tổn hại về tinh
thần của nhân dân, hoặc việc tranh chấp cơ sở thờ tự Thành hoàng cũng gây
những tác dộng tiêu cực, làm suy giảm tính tôn nghiêm,... Trong khi đó,
nhận thức về tín ngưỡng và quyền sinh hoạt TNTTH làng của quần chúng
nhân dân, của một bộ phận cán bộ, đảng viên, cấp ủy, chính quyền các cấp
thuộc NTHN vẫn còn hạn chế. Còn khá nhiều vấn đề chưa thống nhất cả về
nhận thức, nhận định, đánh giá và chủ trương xử lý, giải quyết phát sinh
trong hoạt động TNTTH làng. Thực tế trên đặt ra nhiều vấn đề trong công
tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền các địa phương thuộc
NTHN đối với hoạt động TNTTH làng trên địa bàn hiện nay.
Quán triệt quan điểm cơ bản này, các cấp lãnh đạo, quản lý, nhất là
cấp quản lý trực tiếp như ngành văn hóa các quận, huyện, xã NTHN, cần
dành nhiều sự quan tâm hơn nữa đến việc uốn nắn những mặt trái, tiêu cực
của các lễ hội TNTTH làng, tránh phô trương hình thức, đua đòi, gây tốn
kém, lãng phí tiền bạc của nhân dân. Đặc biệt, cần tích cực bài trừ và
nghiêm cấm mọi hình thức hoạt động “mê tín dị đoan” trong các lễ hội thờ
Thành hoàng làng. Đảng ta đã khẳng định rõ quan điểm nền tảng là: “tín
ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”. Đã là nhu
cầu tinh thần, thì chúng ta phải có những giải pháp giúp đỡ, tạo điều kiện
đáp ứng nhu cầu tinh thần chính đáng của nhân dân NTHN. Nhưng hoạt
động tôn giáo, tín ngưỡng dân gian phải tuân thủ pháp luật, đó cũng là quan
điểm cơ bản của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo.
Cần phải xem xét kỹ những tập tục đã được đình hình trong các hoạt
động tín ngưỡng. Những tập tục của cư dân, dù là không thật sự tốt đẹp, mà
131

chỉ có thái độ, hành vi của con người trước tập tục thôi thì không đủ, vì thế
cần giáo dục, hướng dẫn để người dân tự giác trong vấn đề này. Tập tục là
những thứ đã ăn sâu, bám rễ vào tâm lý dân tộc, vấn đề là với điều kiện của
cuộc sống hiện đại ngày nay, phải tổ chức làm sao cho nó văn minh, văn
hóa, không có sự “mặc cả với thần linh”, cái này liên quan đến trình độ văn
hóa của người dân. Phải tích cực nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân, để
tăng cường làm đẹp hành vi, thái độ ứng xử của con người trước các tập tục
trong mọi hoạt động TNTTH làng.
Cũng giống những đặc điểm chung của người dân Việt Nam nói
chung, truyền thống lao động cần cù, siêng năng, tố chất thông minh, sáng
tạo, tinh thần hiếu học, lòng nhân ái, tính cách cởi mở, dễ thích nghi, hội
nhập đều là những chỗ mạnh của con người NTHN trong xây dựng đất
nước và giao lưu quốc tế hiện nay. Việc phát huy những giá trị tốt đẹp về
văn hoá và đạo đức của tín ngưỡng dân gian, TNTTH làng ở NTHN không
chỉ góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đạo đức truyền thống mà còn
ngăn ngừa được sự suy thoái đạo đức, lối sống, sự du nhập xô bồ, tràn lan,
thiếu chọn lọc của những thứ văn hoá lai căng trong xu thế toàn cầu hoá,
hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường ở hiện nay. Phát huy mặt tích cực của
TNTTH làng không chỉ giữ gìn được di sản văn hoá vật thể và phi vật thể
quý giá của dân tộc do ông cha ta để lại, mà còn góp phần vào việc phát
triển ngành du lịch được coi là “ngành công nghiệp không khói”, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội các miền quê ở NTHN.
Nội dung quan điểm này yêu cầu chúng ta cần phải khắc phục được
những hạn chế, những ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư
dân NTHN. Khắc phục hiện tượng tiêu cực trong các lễ hội TNTTH làng,
những biểu hiện tiêu cực, thiếu lành mạnh của nền kinh tế thị trường len lỏi
vào trong các hoạt động tín ngưỡng các làng xã. Ở các địa phương NTHN
132

hiện nay, bên cạnh các hoạt động vui chơi truyền thống đang có xu hướng
mai một, thì các hình thức cờ bạc lại xuất hiện ngày càng nhiều trong lễ hội
tín ngưỡng dân gian nói chung, TNTTH làng nói riêng. Cần khắc phục có
hiệu quả tình trạng này. Đồng thời phải ngăn chặn và có biện pháp xử lý
hiệu quả những kẻ xấu lợi dụng dịp lễ hội thờ Thành hoàng làng để hoạt
động lừa bịp, gây mất trật tự an ninh; cùng một loạt dịch vụ ăn theo như bán
hàng với giá cao, giả danh người tu hành, người tàn tật để khất thực và ăn
xin, ăn mày, làm vẩn đục hoạt động lễ hội và môi trường văn hóa. Cũng cần
khắc phục hiện tượng nhiều địa phương ở NTHN thi nhau trùng tu, xây dựng
lại đình, nghè, miếu thờ Thành hoàng làng đồ sộ, gây tốn kém, lãng phí tiền
bạc của Nhà nước và của nhân dân. Tình trạng này nếu không có sự quản lý
tốt, thì có thể sẽ phá vỡ kiến trúc vốn có của các ngôi đình, miếu, nghè làm
thiệt hại, làm hỏng các di tích tín ngưỡng, làm mất đi vẻ đẹp văn hóa của tín
ngưỡng này.
Tôn trọng đời sống tâm linh của người dân NTHN là cần thiết, nhưng
điều đó không có nghĩa là để cho hoạt động tín ngưỡng này diễn ra tùy tiện,
vô tổ chức. Do vậy, để định hướng hoạt động tín ngưỡng của nhân dân trên
địa bàn NTHN, cần khơi dậy ý thức tự giác của mỗi con người để họ có ý
thức và làm chủ được hoạt động của mình. Song về phía chủ quan, chúng ta
phải phân tích nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa của từng loại hình tín ngưỡng,
trang bị cho người dân nhận thức khoa học để họ không bị lôi cuốn, sa ngã
vào đám mây mù mê tín của một số người. Nhận thức đúng về vấn đề tín
ngưỡng, thì con người có khả năng điều chỉnh các hành vi hoạt động của
mình phù hợp. Sự ảnh hưởng của các điều kiện khách quan, công tác giáo
dục, quản lý của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân chỉ thực
sự có tác dụng một khi các chủ thể của các hoạt động tín ngưỡng biết tự giác,
gắn bó lợi ích cá nhân mình với lợi ích cộng đồng; vừa thực hiện tốt theo nhu
133

cầu tín ngưỡng của mình vừa theo đúng pháp luật, giữ gìn được những giá trị
truyền thống của dân tộc, những nét đẹp văn hóa của mỗi miền quê.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp ở NTHN cần quan tâm và định
hướng đúng đắn nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân và phải dựa trên cơ sở
hoạt động tự giác của mỗi người. Có định hướng giữ gìn bản sắc văn hóa
của dân tộc, đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc các yếu tố văn hóa mới cho
phù hợp; chú trọng văn hóa ứng xử giữa con người với con người và với tự
nhiên. Làm tốt công tác xây dựng nếp sống văn hóa mới ở các miền quê, hạn
chế các hiện tượng mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu tiến tới xóa bỏ hoàn toàn
các hiện tượng ấy.
Không phải hoạt động tín ngưỡng là chỉ vì mục đích tín ngưỡng, mà
các hoạt động tín ngưỡng phải gắn với đời sống văn hóa tinh và góp phần
vào việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh cho cư dân NTHN.
Trong vấn đề này, cần quán triệt quan điểm của Đảng coi văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững của đất
nước, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội.
Trên cơ sở chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, gắn với việc
phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH
làng đến ĐSTT cư dân NTHN, hoàn thiện những đặc trưng, đặc sắc văn hóa
và con người NTHN; nêu cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào truyền thống quê
hương, truyền thống dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mọi người dân đối
với bản thân, gia đình, làng xã, đối với quê hương, đất nước.
4.1.3. Phát huy ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng đến đời sống tinh thần cư dân phải gắn liền với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở ngoại thành Hà Nội hiện nay
Phát huy ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân phải
gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở NTHN là một quan điểm
134

cơ bản, cần nhận thức đúng và quán triệt tốt trong thực tiễn. Theo C.Mác,
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã
hội” [78, tr.11]. Xem xét, xây dựng và giải phóng con người phải đi từ xã
hội, từ những mối quan hệ xã hội cơ bản, trước hết và quan trong nhất là từ
quan hệ sản xuất, từ những điều kiện kinh tế - xã hội, mà ở đó con người tồn
tại và phát triển. Việc phát huy ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng đến
ĐSTT cư dân NTHN cũng phải dự trên cơ sở phương pháp luận ấy, tức là
phải xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội và gắn với sự phát triển kinh tế -
xã hội các địa phương nơi đây.
Đây thực chất là giải quyết tốt mối quan hệ giữa ĐSTT với đời sống vật
chất của cư dân NTHN trong giải quyết vấn đề TNTTH làng trên địa bàn.
Ngày nay, tôn giáo, tín ngưỡng nói chung, TNTTH làng nói riêng có
vai trò quan trọng trong ĐSTT của con người Việt Nam, của cư dân ngoại
thành Hà Nọi. Tín ngưỡng dân gian, TNTTH làng là bằng chứng sống động
phản ánh lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, là sản
phẩm của điều kiện lịch sử, của văn hóa do nhiều thế hệ cha ông để lại. Vì
thế, TNTTH làng thực sự là một tài sản quý giá của dân tộc cần được bảo
tồn và phát huy. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy đó phải trên cơ sở điều
kiện kinh tế - xã hội cụ thể và phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, góp phần phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Thoát ly điều đó, thì
việc phát huy ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng ở NTHN không những
không thực hiện được một cách có hiệu quả, mà thậm chí còn gây nên những
hệ quả tiêu cực, cản trở đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Quan điểm này yêu cầu mọi cán bộ địa phương và nhân dân ở NTHN
cần có những biện pháp tích cực quảng bá những nét đẹp, giá trị của
TNTTH làng của địa phương mình, của ngôi đình làng và lễ hội truyền
thống của làng. Hoạt động TNTTH làng, nhất là lễ hội thờ Thành hoàng
135

trong những ngày đầu năm mới âm lịch, có ảnh hưởng rất sâu rộng đến
ĐSTT của tất cả các tầng lớp dân cư trên địa bàn, như công nhân, nông
dân, thợ thủ công, người già, thanh niên… Do đó, cần thấy rõ những điều
kiện khách quan và chủ quan, điều kiện kinh tế - xã hội liên quan đến đời
sống tín ngưỡng, tâm linh của cư dân NTHN. Trên cơ sở đó, có những giải
pháp cụ thể, thiết thực, phù hợp để ảnh hưởng theo chiều hướng tích cực
của hoạt động tín ngưỡng dân gian, TNTTH làng.
Giữ gìn và phát huy các giá trị của TNTTH làng phải được các cấp ủy
Đảng và chính quyền các địa phương NTHN quan tâm, có chính sách phù
hợp với truyền thống văn hóa và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng
làng xã, khu dân cư. Đồng thời, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân các
địa phương NTHN.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG
TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ
THÀNH HOÀNG LÀNG ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CƯ DÂN NGOẠI THÀNH
HÀ NỘI HIỆN NAY
4.2.1. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân ngoại
thành Hà Nội hiện nay
Phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH
làng đến ĐSTT cư dân NTHN không tách rời với việc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho họ trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển kinh
tế - xã hội là giải pháp đặc biệt quan trọng, tạo nền tảng và điều kiện vật chất
cho việc nâng cao đời sống vật chất, phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực từ TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN. Trong bối
cảnh hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn và hội
136

nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội để
có thể tạo điều kiện phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân càng trở nên quan trọng, đòi hỏi
phải quán triệt quan điểm phát triển bền vững. Muốn vậy cần thực hiện tốt
một số nội dung và biện pháp sau:
Thứ nhất, tạo điều kiện, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư,
phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp ở các địa phương vùng NTHN
Trong vấn đề này, cần quan tâm chú ý đến việc tạo điều kiện, khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư, phát triển ở các huyện, địa phương còn
mang tính thuần nông, như một số huyện ở vùng NTHN: Ứng Hòa, Mỹ
Đức, Thanh Oai, Chương Mỹ, Phú Xuyên, Thường Tín, Ba Vì, Quốc Oai,...
Bởi, kinh tế - xã hội của các địa phương này còn nhiều khó khăn, chưa tạo
điều kiện tốt cho việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh. Cấp
ủy Đảng và chính quyền các cấp ở NTHN cần thực hiện chính sách ruộng
đất theo hướng thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, trên cơ sở sử
dụng ruộng đất một cách hiệu quả. Chính quyền các cấp cần chủ động giải
quyết các vướng mắc về chính sách để tạo động lực mới thúc đẩy kinh tế -
xã hội nông thôn NTHN phát triển mạnh, vững chắc; khuyến khích người
dân làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đoàn kết
các tầng lớp cư dân nông thôn. Đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại ở các
miền quê NTHN với các hình thức sở hữu khác nhau. Đẩy mạnh việc
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp ở nông thôn NTHN.
Thứ hai, thực hiện tốt chính sách phát triển ngành nghề, tạo việc làm
cho nhân dân NTHN, nhất là thanh niên
Hiện nay đô thị hoá mọc lên khắp nơi khu vực NTHN, tỷ lệ cư dân
mất đất nhiều, chủ yếu sinh sống tiêu sài bằng nguồn đền bù từ đất nông
137

nghiệp mà hầu như không có nghề nghiệp ổn định. Do vậy, cần xây dựng
các chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
NTHN một cách đồng bộ các nội dung từ đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu
việc làm đến hỗ trợ khởi nghiệp cho người trong độ tuổi lao động. Chú
trọng đào tạo lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng nhu cầu
CNH - HĐH, nhu cầu của các cụm công nghiệp, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở địa phương. Tạo điều kiện cho nông dân học nghề với nhiều phương
thức khác nhau, dạy nghề tập trung, dạy nghề tại địa phương,… để họ có
thể đáp ứng được yêu cầu của sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Có
chính sách tạo điều kiện cho cư dân có việc làm mới ngay trên điạ bàn, tại
địa phương, quê hương; giúp họ vào làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp,
công ty ngay trên mảnh đất mà họ đã giao cho Nhà nước, thực hiện phương
châm “ly nông, bất ly hương”; giúp nông dân hiểu rõ và đóng góp cổ phần
vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ ba, thực hiện tốt xóa đói, giảm nghèo; giải quyết các vấn đề xã
hội bức xúc trên địa bàn.
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể ở NTHN, nhất là cấp xã,
thị trấn cần tập trung quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc đang đặt
ra hiện nay như: vấn đề việc làm, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục đào tạo, các
nhu cầu về sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao của nhân dân. Phải
đa dạng hóa các hình thức hoạt động cho phù hợp với từng địa phương, làng
nghề, phải hướng các hoạt động đó vào các nhu cầu đời sống thiết thực của
quần chúng, như đẩy mạnh các phong trào xóa đói giảm nghèo; các hoạt
động đền ơn đáp nghĩa; từ thiện nhân đạo; xây dựng gia đình, thôn làng,
khối phố văn hóa,… Giải quyết các vấn đề xã hội phải vừa ảnh hưởng để
làm biến đổi bộ mặt kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cư dân, vừa xây
dựng và phát triển các mối quan hệ cộng đồng tốt đẹp, tạo điều kiện phát
138

huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến
ĐSTT cư dân NTHN.
4.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cư
dân ngoại thành Hà Nội bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hoá hội làng
Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục cư dân nhận thức đúng giá trị, hạn
chế của TNTTH làng
Tuyên truyền, giáo dục cho cư dân NTHN nhận thức đúng giá trị,
cũng như hạn chế của TNTTH làng, chú trọng giữ gìn phát huy những giá trị
tốt đẹp của tín ngưỡng truyền thống, phát huy vai trò tự quản của cộng đồng
dân cư trong việc tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, giúp cộng đồng thực
hiện nếp sống văn minh, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Giáo dục cho người dân NTHN hiểu được giá trị của ngôi đình thờ
Thành hoàng làng, cũng như truyền thống lịch sử, văn hóa của địa phương.
Các cấp chính quyền NTHN cần tổ chức nhiều hoạt động văn hóa tại đình
làng, trong đó có thể tổ chức cuộc thi tìm hiểu về thần Thành hoàng của
làng. Việc tổ chức hoạt động văn hóa tại đình làng sẽ góp phần bảo lưu các
giá trị truyền thống, lịch sử địa phương, tăng cường cố kết cộng đồng và làm
giàu thêm truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn” trong nhân dân.
Thứ hai, tuyên truyền, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về giữ gìn và phát huy giá trị của TNTTH làng
Trong tình hình hiện nay, cần làm tốt việc tuyên truyền, quán triệt các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các văn bản quản
lý, hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các cơ quan
văn hóa địa phương về tín ngưỡng, TNTTH làng. Trong vấn đề này, cần
quán triệt tốt quan điểm của Đảng: “Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực
trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng” [22, tr.128].
139

Thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo nói chung và về TNTTH làng nói riêng cần đi đôi với tăng cường
công tác quản lý hoạt động tín ngưỡng dân gian, phát huy vai trò tự quản
trong cộng đồng dân cư NTHN. Làm cho mọi người dân NTHN hiểu được
giá trị tích cực của TNTTH làng và mặt trái của nó, từ đó có ý thức đấu
tranh, tẩy chay cái xấu, phát huy cái tốt. Không để diễn ra hiện tượng lợi
dụng tín ngưỡng nói chung và các hoạt động TNTTH làng nói riêng gây hậu
quả xấu cho xã hội cả về vật chất và tinh thần. Đồng thời, kiên quyết bài trừ
mọi biểu hiện tiêu cực, mọi phong tục tập quán lạc hậu trong sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo, nghiêm cấm mọi thủ đoạn lừa mị, mê hoặc, lôi kéo quần
chúng nhân dân vào con đường dị đoan, cuồng tín.
Thứ ba, tăng cường quản lý hoạt động văn hóa và TNTTH làng ở các
địa phương NTHN
Để quản lý TNTTH làng có hiệu quả, các làng xã NTHN cần xây
dựng, tổ chức bộ phận, người quản lý chịu trách nhiệm về các hoạt động
diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng của làng, trong đó có TNTTH làng. Cụ thể hóa
và thực hiện đúng quản lý theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016: “Cơ sở
tín ngưỡng phải có người đại diện hoặc ban quản lý để chịu trách nhiệm
trước pháp luật về các hoạt động diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng”; “Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức để cộng đồng dân cư bầu, cử người đại
diện hoặc thành viên ban quản lý” [109].
Chính quyền và cơ quan văn hóa các địa phương NTHN cần thực
hiện tốt việc “Chấn chỉnh và quản lý tốt các hoạt động lễ hội. Rà soát, phát
triển hợp lý các thiết chế văn hóa” [22, tr.131] của từng địa phương. Hiện
nay, các hoạt động tín ngưỡng, trong đó có ín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng ở NTHN rất đa dạng, gần gũi với đời sống thường ngày của mỗi con
140

người và cả cộng đồng dân cư, hoà quyện với các sinh hoạt văn hoá, với
cách ứng xử và các quan hệ xã hội ở làng xã. Do vậy, chính quyền nên có
sự định hướng chung, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật; việc cụ thể
thì nên để cộng đồng dân cư tự quản thông qua hương ước, quy ước nông
thôn, dưới sự định hướng của chính quyền, điều chỉnh sao cho tuân thủ
đúng chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước, vừa phù hợp với thực tế
từng địa phương ở NTHN.
Thứ tư, cần phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các cấp trong
tuyên truyền, giáo dục và kiện toàn bộ máy quản lý hoạt động TNTTH làng.
Đối với TNTTH làng thì đến nay chưa có văn bản pháp luật quy định
riêng, mà vẫn áp dụng quy định pháp luật chung về tín ngưỡng, tôn giáo. Vì
thế, các cấp, các ngành, đặc biệt là ngành văn hóa Hà Nội và các địa phương
NTHN cần vận dụng những văn bản pháp luật trên trong quản lý hoạt động
TNTTH làng cho phù hợp với từng địa phương, từng làng xã, bảo đảm đúng
pháp luật và phát huy được những giá trị của văn hóa truyền thống dân tộc.
Cần kiện toàn bộ máy quản lý di tích tín ngưỡng tôn giáo trên địa bàn
NTHN, trong đó có ngôi đình thờ Thành hoàng làng. Trước tiên cần tập hợp
ban khánh tiết họp định kỳ nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động. Tổ chức
các cuộc họp trao đổi giữa cán bộ chính quyền, ban khánh thiết với dân làng
về những vấn đề liên quan đến di tích; lập ra ban quản lý di tích đình thờ
Thành hoàng làng phù hợp. Chính quyền các xã, phường ở NTHN cần sớm
thành lập ban văn hóa, tăng cường nghiên cứu, tuyên truyền về lịch sử di
tích và quản lý các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn xã, trong đó
có đình làng và lễ hội thờ Thành hoàng làng. Cần mạnh dạn xã hội hóa việc
tổ chức, quản lý lễ hội thờ Thành hoàng làng; gắn việc tổ chức lễ hội với
phát triển dịch vụ và du lịch. Có giải pháp chọn lọc tinh hoa văn hóa các
nước trong quá trình hội nhập văn hóa khu vực và quốc tế để làm phong phú
141

các hoạt động lễ hội TNTTH làng, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và bảo tồn
được các giá trị truyền thống.
4.2.3. Phát huy vai trò của chủ thể trong thực hành tín ngưỡng
thờ Thành hoàng làng (cá nhân, ban tổ chức lễ hội, các tổ chức chính
quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị)
* Về phía mỗi cá nhân: tham gia các hoạt động lễ hội làng lành mạnh, có
văn hóa, đúng pháp luật. Đây là vấn đề quan trọng, cần chú ý thực hiện tốt để
không làm cho các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội bị vẩn đục, trái với thuần
phong, mỹ tục. Cần giáo dục và hướng dẫn cho cư dân NTHN thực hành
TNTTH làng đúng theo quy định của Nhà nước: “Hoạt động tín ngưỡng, lễ hội
tín ngưỡng phải bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Việc tổ chức hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải
bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm, bảo vệ môi trường” [109].
Khắc phục tình trạng tổ chức lễ hội quá nhiều, tràn lan, thiếu kiểm soát, lãng
phí tiền của, ngày giờ lao động; hiện tượng đốt hương khói, vàng mã, sắm lễ,
tiền mua thẻ, mua dấu ấn, tiền phúng viếng, tiền giọt dầu vứt la liệt ở các tượng
thánh thần, giếng, sân đình của di tích gây lãng phí, tốn kém.
* Về phía ban tổ chức lễ hội: giữ gìn và phát huy những lễ hội mang tính
giáo dục và nhân văn cao như giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc về lịch
sử, văn hóa, tưởng nhớ công đức các danh nhân lịch sử, văn hóa, những người
có công với dân, với nước. Giám sát chặt chẽ các hoạt động của lễ hội, và các
quy định về tổ chức lễ hội sao cho an toàn, tiết kiệm, văn minh, mà vẫn giữ
được nét đặc sắc, trang trọng, linh thiêng trong các nghi lễ thờ cúng. Nắm vững
và thực hiện tốt Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT ngày 23/8/2001 của Bộ
trưởng Bộ văn hóa thông tin ban hành Quy chế tổ chức lễ hội. Trong công tác
quản lý lễ hội, phải chú ý tới chính sách bảo vệ môi trường sinh thái tâm linh;
đảm bảo trật tự an toàn, trang trọng, tính thẩm mỹ dân tộc trong cả phần lễ và
142

phần hội. Tránh tình trạng lộn xộn, phản cảm như: tranh giành đồ lễ, chen lấn
xô đẩy xin ấn ở đền Trần, nạn ăn xin, móc túi, xả rác bừa bãi, bán hàng không
đúng nơi quy định, chặt chém khách du lịch,… gây bức xúc dư luận ở nhiều lễ
hội và nhiều cơ sở tín ngưỡng trong vùng.
* Về phía các tổ chức trong hệ thống chính trị:
Đảng và Nhà nước: cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Chỉnh sửa, rà soát, bổ
sung những điều khoản cụ thể cho phù hợp với tình hình mới. Có các hình
thức, biện pháp phù hợp nhằm khuyến khích phát huy các giá trị văn hóa tốt
đẹp của dân tộc. Nghiên cứu, xây dựng, phát động và tổ chức tốt các phong
trào thi đua, phong trào thực tiễn chung tay vì cộng đồng, giáo dục đạo đức,
lối sống, xây dựng đời sống văn hóa và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Các cơ quan quản lý văn hóa ở cả cấp trung ương và địa phương:
Quan tâm đầu tư ngân sách, xây dựng các thể chế văn hóa, cơ sở vật chất
cho các hoạt động văn hóa, cơ sở tín ngưỡng. Lập kế hoạch quản lý, quy
hoạch, khai thác đi đôi với tu bổ, tôn tạo các di tích cách mạng, di tích lịch
sử văn hóa, danh lam thắng cảnh ở từng địa phương trong vùng. Nghiêm
chỉnh chấp hành Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa và có
những hình thức xử phạt thích đáng đối với người vi phạm. Ngăn chặn việc
xây mới, cơi nới các cơ sở thờ tự vì mục đích kinh doanh, làm thay đổi kiến
trúc một cách lai căng, kệch cỡm, chắp vá,…
Tại các địa phương có công trình tín ngưỡng, phải có sự sắp xếp, quy
hoạch để tạo ra một môi trường văn hóa, văn minh, sạch đẹp. Quản lý việc
đặt các hòm công đức và việc ủng hộ, quyên góp xây dựng các cơ sở thờ tự.
Có những quy định chặt chẽ và hình thức xử lý nghiêm khắc đối với việc
143

thắp hương, đốt vàng mã,… nghiêm cấm bán hàng rong, ăn xin ăn mày, tăng
cường an ninh đề phòng trộm cắp, móc túi,…
Chính quyền địa phương: Quản lý, kiểm soát và nắm rõ những người
hành nghề tín ngưỡng chuyên nghiệp như thầy bói, bà đồng, thầy cúng,…
Đồng thời, có những biện pháp vận động, khuyến khích họ vận dụng năng
lực, uy tín của mình vào việc bảo tồn, lưu giữ và phát huy những giá trị văn
hóa, tín ngưỡng truyền thống, tránh làm những điều tổn hại đến sức khỏe,
tính mạng, nhân phẩm của người dân và ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội
ở địa phương.
4.2.4. Đấu tranh chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần cư
dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
Thứ nhất, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia
đình văn hoá, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh tại các làng xã NTHN
Nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, môi trường văn hoá lành mạnh
là nội dung và yếu tố rất cơ bản của môi trường văn hóa ở các làng xã
NTHN, cần phải quan tâm xây dựng tốt. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện để phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến
ĐSTT của cư dân NTHN trong tình hình mới. Kết quả đạt được trong cuộc
vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở các làng xã NTHN
những năm qua không chỉ tạo dựng nên thiết chế văn hoá mới ở cơ sở, giữ
gìn và phát huy truyền thống bản sắc tốt đẹp của dân tộc trong các hoạt động
tín ngưỡng, mà còn góp phần hạn chế ngăn ngừa tệ nạn xã hội, ảnh hưởng
của văn hoá độc hại, mê tín dị đoan và sự xâm nhập của các đạo lạ, tà đạo.
Trong tình hình đó, rất cần nêu cao vai trò của gia đình trong xây dựng môi
trường văn hóa, môi trường tín ngưỡng lành mạnh. Trên địa bàn NTHN,
144

cũng như toàn thành phố, việc nâng cao chất lượng công tác xây dựng gia
đình văn hóa luôn được đặt lên hàng đầu. Theo thống kê, tỷ lệ hộ gia đình
đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa” của thành phố trung bình hằng năm đạt
trên 85% (so với tổng số hộ dân); năm 2016, có 86% số hộ gia đình đạt danh
hiệu “Gia đình văn hóa”. Trong thời gian tới, cần phát huy hơn nữa thành
tựu này nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN.
Thứ hai, đấu tranh chống sự lợi dụng TNTTH làng ảnh hưởng xấu đến
ĐSTT cư dân NTHN
Không thể phát huy ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng đối với
ĐSTT của cư dân NTHN, nếu chúng ta không thực hiện tốt yêu cầu đấu
tranh chống sự lợi dụng tín ngưỡng này, làm ảnh hưởng xấu đến ĐSTT của
cư dân nơi đây. Để có môi trường văn hoá, tín ngưỡng lành mạnh, đòi hỏi
phải kiên quyết bài trừ mọi biểu hiện tiêu cực, mọi phong tục tập quán lạc
hậu trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, trong sinh hoạt TNTTH làng, cũng
như trong đời sống xã hội; phải chống mọi biểu hiện lợi dụng TNTTH làng
ảnh hưởng xấu đến ĐSTT cư dân NTHN.
Do đó cần thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, cung
cấp cho nhân dân và dư luận xã hội những thông tin đầy đủ, khách quan về
các biểu hiện tiêu cực trong thực tiễn hoạt động của tín ngưỡng nói chung,
TNTTH làng nói riêng. Đồng thời, có biện pháp định hướng dư luận, giúp
cho các tầng lớp nhân dân NTHN có được sự nhìn nhận, đánh giá một cách
toàn diện, đúng đắn, không đánh đồng các giá trị truyền thống, văn hóa dân
tộc với các biểu hiện mê tín, dị đoan trong hoạt động tín ngưỡng nói chung,
TNTTH làng nói riêng. Trong vấn đề này, cần quán triệt và thực hiện tốt
quan điểm của Đảng:
145

Đề cao pháp luật và thực hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước, tăng
cường quản lý xã hội bằng pháp luật, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tiêu
cực trong xã hội.
Trong tình hình hiện nay, có thể cần nghiên cứu kỹ vấn đề này và
những quy định của các hương ước, từ đó vận dụng vào việc quản lý hoạt
động tín ngưỡng, cũng như chống mọi hành vi lợi dụng TNTTH làng gây
ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội ở NTHN. Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, các tổ chức quần chúng, tổ chức chính trị xã hội cần phát huy vai
trò, nêu cao trách nhiệm trong vận động nhân dân tham gia thực hiện
TNTTH làng giữ gìn văn hóa dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm cơ sở cho việc
phát triển kinh tế, văn hoá của địa phương. Trước hết cấp uỷ, người đứng
đầu cấp uỷ phải gương mẫu, bản lĩnh chính trị vững vàng, quán triệt sâu
sắc đường lối, quan điểm của Đảng về tôn giáo, tín ngưỡng, xác định rõ
mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với công tác quản lý nhà nước;
chỉ đạo đúng, trúng, kịp thời, hành động mềm dẻo, linh hoạt, điều phối
nhịp nhàng các bộ phận trong hệ thống chính trị trong quản lý các hoạt
động tín ngưỡng.
146

Tiểu kết chương 4

Ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay là
theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Để phát huy những mặt tích cực
và hạn chế mặt tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN, phải
quán triệt những quan điểm cơ bản: Đổi mới nhận thức về vai trò của tín
ngưỡng tôn giáo nói chung, TNTTH làng nói riêng đến ĐSTT cư dân NTHN
hiện nay; Phát huy ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng phải gắn với khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực, gắn xây với chống nhằm xây dựng ĐSTT phong
phú, lành mạnh cho cư dân trong vùng; Phát huy ảnh hưởng tích cực của
TNTTH làng đến ĐSTT cư dân phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế -
xã hội ở NTHN hiện nay. Muốn phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay, cần phải
thực hiện hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ trong mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Các giải pháp trình bày trong luận án này tuy chưa phải là tất cả,
nhưng đó là các giải pháp cơ bản vừa tạo điều kiện, cơ sở vừa trực tiếp phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến
ĐSTT cư dân NTHN. Chúng quan hệ thống nhất với nhau, đều cần phải thực
hiện tốt trong thực tiễn. Tuy nhiên, tùy theo tính hình cụ thể, tùy theo đặc
điểm của từng địa phương, từng làng xã mà các cấp lãnh đạo, quản lý, các cơ
quan chức năng và các đoàn thể quần chúng lựa chọn và tổ chức thực hiện
giải pháp cho phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất, thực sự phát huy được ảnh
hưởng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng, xây dựng
ĐSTT cư dân NTHN theo hướng lành mạnh, hiện đại song vẫn giữ được nét
truyền thống.
147

KẾT LUẬN

1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở Việt Nam là hình thức tín
ngưỡng dân gian thờ cúng những người có công với dân, với nước, hoặc
người có công lập ra làng, có công lập nghề, truyền dạy nghề cho dân làng.
Thành hoàng làng là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng ở Việt Nam,
là chúa tể trên cõi thiêng của làng, từ thời này sang thời khác, là một chỗ dựa
tinh thần cho cộng đồng, mang tính chất hộ nước, giúp dân ở làng đó.
2. Đời sống tinh thần của cư dân NTHN là tổng hòa những giá trị tinh
thần, những quan hệ và hoạt động tinh thần của xã hội và của NTHN nhằm
thỏa mãn nhu cầu tồn tại, phát triển của cư dân NTHN trong điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử nhất định. Ảnh hưởng của TNTTH làng đến ĐSTT của cư dân
NTHN là sự ảnh hưởng của TNTTH làng gây ra những biến đổi nào đó trong
ĐSTT của con người và cộng đồng dân cư NTHN.
3. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay trên các mặt chính: quan điểm, tư
tưởng; đạo đức, lối sống; văn hóa nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn giáo. Sự ảnh
hưởng tích cực có những nguyên nhân cơ bản và trực tiếp là do vai trò, giá trị
của TNTTH làng; sự “sàng lọc” và tôn thờ của nhiều thế hệ cư dân NTHN đối
với tín ngưỡng này; sự định hướng và công tác giáo dục tuyên truyền những
giá trị tốt đẹp của TNTTH làng. Những hạn chế, yếu kém trong định hướng,
quản hạn chế, tiêu cực từ TNTTH làng; sự lợi dụng tín ngưỡng nhằm mục
đích vụ lợi gây ảnh hưởng xấu, phá hoại ĐSTT của cư dân là những nguyên
nhân trực tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến ĐSTT của cư dân NTHN hiện nay.
4. Để phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của
TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN, phải quán triệt những quan điểm cơ
bản: Đổi mới nhận thức về vai trò của tín ngưỡng tôn giáo nói chung,
TNTTH làng nói riêng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay; Phát huy ảnh
148

hưởng tích cực của TNTTH làng phải gắn với khắc phục ảnh hưởng tiêu
cực, gắn xây với chống nhằm xây dựng ĐSTT phong phú, lành mạnh cho
cư dân trong vùng; Phát huy ảnh hưởng tích cực của TNTTH làng đến
ĐSTT cư dân phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng
NTHN hiện nay.
5. Muốn phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay, cần phải thực hiện hệ thống
giải pháp toàn diện, đồng bộ trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các giải
pháp trình bày ở luận án tuy chưa phải là tất cả, nhưng đó là các giải pháp cơ
bản vừa tạo điều kiện, cơ sở vừa trực tiếp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của TNTTH làng đến ĐSTT cư dân NTHN hiện nay.
149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ


LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thị Hà Giang, Trần Đăng Sinh (2018), “Ảnh hưởng của các hiện
tượng tôn giáo mới trong đời sống xã hội ở Hà Nội”, Tạp chí Môi trường
& Xã hội, (2), tr.24-28.
2. Trần Thị Hà Giang (2019), “Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở Đồng
bằng Bắc bộ”, Tạp chí Dân tộc, (9), tr.52-55.
3. Trần Thị Hà Giang (2019), “Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở đình
Giang Xá - Hoài Đức - Hà Nội”, Tạp chí Công tác Tôn giáo, (9), tr.39-46.
4. Trần Thị Hà Giang (2019), “Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng đến lối sống cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay”, Tạp chí Công tác
Tôn giáo, (10).
5. Trần Thị Hà Giang (2018), “Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở đình
Bình Thuỷ, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang và triết lý nhân sinh của nó”,
Hội thảo khoa học quốc tế: “Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ,
Việt Nam”, tr.352 - 358.
6. Trần Thị Hà Giang (Đồng chủ biên) (2016), Hướng dẫn ôn thi trắc
nghiệm THPT quốc gia môn Giáo dục Công dân năm 2017, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Trần Thị Hà Giang (Tham gia) (PGS.TS Nguyễn Thị Thọ chủ biên)
(2017), Bản thể luận xã hội về đạo hiếu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Trần Thị Hà Giang (Tham gia) (PGS.TS Hoàng Thúc Lân chủ biên)
(2018), Hỏi đáp Triết học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
9. Trần Thị Hà Giang (Chủ biên) (2020), Bài tập tình huống phát triển năng
lực Giáo dục công dân 6, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Trần Thị Hà Giang (Chủ biên) (2020), Bài tập tình huống phát triển năng
lực Giáo dục công dân 7, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Trần Thị Hà Giang (Chủ biên) (2020), Bài tập tình huống phát triển năng
lực Giáo dục công dân 8, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Trần Thị Hà Giang (Chủ biên) (2020), Bài tập tình huống phát triển
năng lực Giáo dục công dân 9, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị An (2000), Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết
dân gian Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
3. Toan Ánh (1991), Hội hè đình đám (I, II), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Toan Ánh (1992), Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam (Quyển Thượng), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2018), Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật tín ngưỡng
tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
6. Báo Nhân dân điện tử (2018), Phát huy các nguồn lực, thúc đẩy Thủ đô
phát triển nhanh, bền vững, tại trang https://nhandan.com.vn/, số ra
ngày 30/7.
7. Báo Nhân dân (2018), Hà Nội giữ vững vị trí đầu tàu kinh tế, tại trang
https://nhandan.com.vn/, số ra ngày 30/11.
8. Báo Kinh tế đô thị (2018), Bước tiến vượt bậc của giáo dục Hà Nội, tại
trang http://kinhtedothi.vn/, số ra ngày 01/8.
9. Võ Thanh Bằng (2009), Tín ngưỡng dân gian ở thành phồ Hồ Chí Minh,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
10. F.Braudel (1998), Những cấu trúc sinh hoạt thường ngày, Nxb Thế giới.
11. Nguyễn Chí Bền (2015), Lễ hội cổ truyền của người Việt - Cấu trúc &
thành tố, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
12. Trần Lâm Bền (1983), “Quanh ngôi đình làng - Lịch sử”, Tạp chí Nghiên
cứu Nghệ thuật, (4), tr.19-21.
13. Trần Lâm Bền (2017), Đình làng Việt, Nxb Hồng Đức, Thanh Hoá.
14. Phan Kế Bính (2017), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học tái bản, Hà Nội.
151

15. Hoàng Hồng Cẩm (1995), Bà chúa Kho Thành hoàng làng Giảng Võ,
Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
16. Leopold Cadiere (Đỗ Trinh Huệ dịch) (03 tập) (2015), Văn hoá tín ngưỡng
và thực hành tôn giáo người Việt, toàn tập, Nxb Thuận Hoá, Huế.
17. Trần Phỏng Diều (2013), “Tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở Cần Thơ”,
Tạp chí Văn hóa Phật giáo, (182), tr.42-44.
18. Lê Anh Dũng (1994), Con đường tôn giáo, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Xuân Dương (2011), Lần giở trước đèn: Tuyển tập các bài
nghiên cứu về tư tưởng và văn hóa, Nxb Thông tin & Truyền thông,
Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Tâm Đắc, Tạ Quốc Khánh (2003), “Tính hỗn dung của người Việt thể
hiện qua đối tượng thờ trong các ngôi chùa ở Hà Nội”, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, Số 2 (20), tr.39-48.
24. Trần Huy Đĩnh và các cộng sự (2011), Sự tích Thành hoàng làng ở Phú
Xuyên, Nxb Lao động, Hà Nội.
25. Phùng Đông (1997), “Vị trí, ý nghĩa của phạm trù đời sống tinh thần xã hội
trong chủ nghĩa duy vật lịch sử”, Tạp chí Triết học, (6/100), tr.34-37.
26. Phùng Đông (1999), “Một số vấn đề về thực trạng định hướng phát
triển đời sống tinh thần ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 6
(112), tr.34-37.
27. Hà Minh Đức (2009), “Nền kinh tế thị trường và những ảnh hưởng đến
các hoạt động tinh thần của xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số
2 (444), tr.3-12.
152

28. Micrcea Eliade (2018), (Đoàn Văn Chúc, Đỗ Lai Thuý dịch), Bàn về
nguồn gốc các tôn giáo, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. Jame George Frazer (2019), (Ngô Bình Lâm dịch), Cành vàng (Bách
khoa thư về văn hoá nguyên thuỷ), Nxb Tri thức, Hà Nội.
30. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ ở Nam kỳ (1865-1980), Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
31. Mai Xuân Hải (1992), Thần sắc xã Đan Thầm, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà
Đông, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
32. Mai Thanh Hải và các cộng sự (sưu tầm và nghiên cứu (2002), Từ điển
Tôn giáo, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Hải (2015), Thần tích - Thần sắc Thanh Hoá, Nxb Thanh hóa,
Thanh Hoá.
34. Đỗ Thị Hảo (2012), Sự tích các bà Thành hoàng làng, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Thuý Hằng (2015), Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật
giáo đến đời sống tinh thần cư dân đồng bằng sông Hồng hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
36. Mai Quang Hiện, Mai Diệu Anh (2012), “Về vấn đề bảo tồn những giá trị
văn hóa và bảo đảm an ninh trật tự trong các lễ hội tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Nhân quyền, (5), 15-18.
37. Nguyễn Hữu Hiếu (2011), Tìm hiểu văn hoá tâm linh Nam Bộ, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
38. Nguyễn Duy Hinh (1996), Các Thành hoàng làng Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
39. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Duy Hinh (2004), “Thần làng và Thành hoàng”, Tạp chí Di sản
Văn hóa, (9), tr.56-63.
153

41. Nguyễn Duy Hinh (chủ biên) (2010), Bách khoa thư Hà Nội: Kỉ niệm
1000 năm Thăng Long - Hà Nội 1010 - 2010, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
42. Lư Hội (sưu tầm và biên soạn) (2006), Đình làng Bến Tre - các giá trị
văn hóa, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
43. Mai Hồng (1996), “Về vị thần thờ ở đền Bạch Mã phố Hàng Buồm, Hà
Nội”, Tạp chí Hán Nôm, số 1 (26), tr.60-63.
44. Mai Hồng (2000), Một vị Bồ Tát - thần làng, Thông báo Hán Nôm học,
Hà Nội.
45. Đỗ Trinh Huệ (2006), Văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn
quan học giả L.Cadière, Nxb Thuận Hoá.
46. Nguyễn Văn Huyên (2003), “Góp phần nghiên cứu một vị Thành hoàng
Việt Nam: Lý Phục Man” trong cuốn Góp phần nghiên cứu văn hóa
Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2010), Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng Thăng
Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
48. Nguyễn Đắc Hưng (2017), Văn hóa làng và nhân cách người Việt, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
49. Vương Thị Hường (dịch), Mai Xuân Hải (hiệu đính) (2003), Thần tích
thần sắc, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
50. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên (soạn thảo) (1998), Đại Việt
sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
51. Huỳnh Đình Kết (1998), Tục thờ thần ở Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.
52. Vương Khả (1999), “Lược sử Đạo giáo Việt Nam”, Nguyễn Thanh Hà và
Nguyễn Xuân Diên dịch, Tạp chí Văn hóa Dân gian, (2), tr.7-11.
53. Nguyễn Quang Khải (2011), Làng xã tỉnh Bắc Ninh, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
54. Nguyễn Quang Khải (chủ biên) (2016), Một số nghi lễ, hội thi, trò diễn
dân gian và phong tục tập quán có liên quan đến tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng ở Bắc Ninh, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
154

55. Vũ Ngọc Khánh (1995), Thờ cúng Thành hoàng làng ở đồng bằng Bắc bộ,
Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian, Hà Nội.
56. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian, Nxb Văn hóa Dân tộc,
Hà Nội.
57. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (2003), Làng cổ Mai Động và Đức Thánh
Tam Trinh, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
58. Vũ Ngọc Khánh (2006), Đất Hội Xuyên và Đức Thành hoàng Nguyễn
Chế Nghĩa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
59. Lam Khê, Khánh Minh (sưu tầm biên soạn) (2010), 36 thần tích, huyền
tích Thăng Long - Hà Nội, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
60. Vương Vĩnh Khiêm (1994), Thổ địa dữ Thành hoàng tín ngưỡng (tiếng
Trung), Nxb Học Uyển, Bắc Kinh.
61. Lê Trung Khoa (2015), Tư tưởng nhân, nghĩa trong Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với một số lĩnh vực đời sống tinh thần người Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ khoa học Triết học, Học viện Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
62. Nguyễn Hồng Kiên (1993), Đình làng Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
63. Nguyễn Hồng Kiên (2003), Những ngôi đình làng thế kỷ 16 ở Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Khảo cổ học, Hà Nội.
64. Hoàng Thị Lan (2016), Tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần của
người dân vùng đồng bằng Sông hồng hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
65. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
66. Thu Linh, Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội truyền thống, Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
67. Bình Nguyên Lộc (1971), Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Nxb
Lá Bối, Sài Gòn.
68. Đặng Văn Lộc (chủ biên) (2005), Thành làng họ Đặng ở Việt Nam, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
155

69. Ngô Đăng Lợi (2010), Hải Phòng - Thành hoàng và lễ phẩm, Nxb Dân trí,
Hà Nội.
70. Lê Văn Lợi (2008), Ảnh hưởng của văn hoá tôn giáo trong đời sống tinh
thần xã hội Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ khoa học Triết học,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
71. Lê Văn Lợi (2012), Văn hoá tôn giáo trong đời sống tinh thần xã hội Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
72. Nguyễn Phú Lợi (2012), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi mới”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, (3).
73. Nguyễn Thế Long (2005), Đình, đền Hà Nội, Nxb Văn hoá Thông tin tái
bản, Hà Nội.
74. Nguyễn Đức Lữ (1992), Vấn đề tự do tín ngưỡng và tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
75. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2007), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
76. Lê Kim Lữ (1993), Thành hoàng Hà Lộ, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
77. Cung Khắc Lược, Chu Quang Trứ (1995), “Về đạo sắc Tử Dương thần từ
sớm nhất hiện còn”, Tạp chí Hán Nôm, (1), tr.13-17.
78. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
79. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
80. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
81. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
156

82. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
83. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
84. A.Masson (2003), Hà Nội giai đoạn 1873 - 1888, Nxb Hải Phòng, Hải
Phòng.
85. Nguyễn Thị Măng (dịch), Mai Xuân Hải (hiệu đính) (2002), Thần sắc,
(chữ Hán), Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
86. Nguyễn Hữu Minh (chủ biên) (2014), Đời sống văn hoá của cư dân Hà
Nội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
87. Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền (2004), Văn hoá dân gian vùng
Thành hoàng đế, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
88. Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang (2005), Huyền tích kinh xưa -
văn hoá dân gian vùng Thành hoàng đế, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
89. Nguyễn Chí Mỳ (2002), Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
90. Trần Chí Mỹ (2002), Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở thành phố
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
91. Nguyễn Nga Mỹ (2008), “Giáo dục và đời sống văn hoá, tinh thần ở
vùng ven đô Hà Nội”, Tạp chí Xã hội học, (1), tr.67-77.
92. Trần Thanh Nam (2001), Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào dân
tộc Khmer Nam Bộ trong công cuộc đổi mới hiện nay, Luận án Tiến sĩ
khoa học Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
93. Trần Nghĩa - Francois (1993), Di sản Hán nôm, Thư mục đề yếu, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
94. Nguyễn Minh Ngọc (2000), Bách thần Hà Nội, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau.
157

95. Nguyễn Thị Minh Ngọc (2017), Vai trò của tôn giáo trong xây dựng niềm
tin xã hội, Nxb Phương Đông, Hà Nội.
96. Phan Ngọc (2018), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
97. Phan Đăng Nhật (2006), “So sánh tục thờ thần làng của người Chăm với
tục thờ Thành hoàng của người Việt”, Tạp chí Văn hoá Dân gian, (5),
tr.3-7; 13.
98. Nguyễn Tá Nhí, Nguyễn Văn Thịnh (tuyển dịch và giới thiệu) (2010),
Tư liệu văn hiến Thăng Long - Hà Nội: Tuyển tập thần tích, Nxb Hà
Nội, Hà Nội.
99. Nhiều tác giả (2001), Luật Di sản Văn hoá năm 2001, sửa đổi bổ sung
năm 2009 văn bản hướng dẫn thi hành, Tái bản tái bản có bổ sung,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
100. Nhiều tác giả (2008), Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Thế giới, Hà Nội.
101. Nguyễn Hữu Phách (2011), Thành hoàng và đình làng ở Bình Giang,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
102. Lê Hồng Phong (2014), Ảnh hưởng của đạo Tin Lành đối với đời sống
tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay,
Luận án Tiến sĩ khoa học Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
103. Trần Văn Phòng (2007), Sổ tay thuật ngữ các môn khoa học Mác -
Lênin, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
104. Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Duy Hinh (2004), Thần tích Hà Nội và tín
ngưỡng thị dân, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
105. Nguyễn Vinh Phúc (2009), Hà Nội - cõi đất, con người, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
106. Nguyễn Thị Mai Phương (2006), “Thờ Mẫu - Tín ngưỡng dân gian gắn
liền với đời sống văn hoá tinh thần của người dân đồng bằng Bắc bộ”,
Tạp chí Giáo dục Lý luận, (11), tr.52-54.
158

107. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (2015), 60 lễ hội truyền thống, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
108. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Pháp lệnh
Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Hà Nội.
110. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2012), Thực trạng đời sống tôn giáo Việt Nam
giai đoạn 1990 - 2010, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện
Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
111. Trần Đăng Sinh (2011), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở đồng bằng Bắc bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Trần Đăng Sinh (Chủ biên) (2017), Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” - cơ
sở triết học và giá trị trong lịch sử dân tộc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
113. Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Phương Hà (2019), “Giá trị trong tín
ngưỡng thờ Thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ”,
Tạp chí Mặt trận, (3), tr.47-49.
114. Vũ Thanh Sơn (chủ biên) (2001), Các vị thánh thần sông Hồng, Nxb
Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
115. Vũ Thanh Sơn (chủ biên) (2004), Những vị thần được thờ ở Hà Nội, Nxb
Hà Nội, Hà Nội.
116. Hà Văn Tấn (1993), Đình Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
117. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự (1999), Đình Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
118. Hà Văn Tấn (1999), “Bài bia của Trương Hán Siêu và vấn đề phong
Thành hoàng”, Nghiên cứu Lịch sử, (1).
119. Đào Duy Thanh (2000), Vai trò của nghệ thuât trong đời sống tinh thần
con người, Luận án Tiến sĩ Mỹ học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
159

120. Minh Thảo, Xuân Mỹ (1994), Truyền thuyết các vị thần Hà Nội, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
121. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
122. Đinh Đức Thiện (2008), “Ngọc Hoa công chúa Thành hoàng làng Đại
Yên”, Tạp chí Toàn cảnh Sự kiện - Dư luận, (212), tr.28-30.
123. Nguyễn Gia Thiều (2006), “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng thờ Thành
hoàng Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (10), tr.53-58.
124. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá
ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
125. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2012), Tín ngưỡng & văn hoá tín ngưỡng ở
Việt Nam, Nxb bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
126. Ngô Đức Thọ (chủ biên) (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb Văn
học, Hà Nội.
127. Vi Quang Thọ (1998), Đời sống tinh thần của cá nhân, khái niệm và
nguyên tắc nghiên cứu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
128.Đinh Khắc Thuân (1996), Văn bia thời Mạc, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
129. Đinh Khắc Thuân (2014), “Thờ cúng Thành hoàng ở Việt Nam qua tài
liệu Hán Nôm”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (4), tr.115-125.
130. Nguyễn Khắc Thuần (1977), Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
131. Vương Tiểu Thuẫn (2000), “Văn khắc và sử liệu làng xã: diễn âm, diễn
nghĩa, diễn ca và diễn tự”, Tạp chí Hán Nôm, (4), tr35-39.
132. Đỗ Thị Minh Thuý (2003), “Phân loại bách thần Thăng Long - Hà Nội từ
góc độ kết cấu kinh tế xã hội”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, (5), tr.52-58.
133. Đỗ Thị Minh Thuý (2006), “Mô hình quan liêu trong trật tự bách thần
Thăng Long - Hà Nội”, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 5 (107), tr.8-13.
160

134. Đỗ Thị Minh Thuý (2010), “Biến động của tín ngưỡng dân gian Thăng
Long - Hà Nội và những ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hóa đô
thị hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (8), tr.34-39.
135. Nguyễn Hữu Thức (2012), Tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội dân gian Hà
Tây, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
136. Nguyễn Tọa (sưu tầm và giới thiệu) (2011), Hội ba làng Kẻ, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
137. Lại Văn Toàn, Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Như Diệm (2004), Thần
tích thần sắc Hà Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
138. Nguyễn Đức Toàn (2002), Ảnh hưởng tôn giáo tín ngưỡng người Chăm ở
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Dân tộc học, Học viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
139. X.A.Tôcarev (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển cuả
chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. Doãn Đoan Trinh (1996), “Một dạng Thành hoàng ở Hà Nội”, Tạp chí
Văn hoá Nghệ thuật, số 2 (140), tr.24, 27-28.
141. Chu Quang Trứ (2002), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
142. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
143. Ngọc Tú (sưu tầm, tuyển chọn) (2006), Thăng Long - tụ khí ngàn năm,
Nxb Lao động, Hà Nội.
144. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
145. Trần Từ (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
146. Trần Quốc Tuấn (2008), “Về một ông thần Thành hoàng làng”, Tạp chí
Văn hoá Dân gian, (1), tr.36-43.
161

147. Nguyễn Minh Tường (2013), “Tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng trong
các làng xã Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 10
(71), tr.103-106.
148. Trịnh Cao Tưởng (2005), Thành hoàng ở Việt Nam và Shinto ở Nhật
Bản: Một nghiên cứu so sánh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
149. Viện Khảo cổ học (chủ biên) (1993), Những phát hiện mới về khảo cổ
học năm 1992, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
150. Viện Khảo cổ học (chủ biên) (2002), Những phát hiện mới về khảo cổ
học năm 2001, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
151. Viện Khảo cổ học (chủ biên) (2004), Những phát hiện mới về khảo cổ
học năm 2003, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
152. Bùi Văn Việt, Phạm Lan Hương (2007), “Thần Độc Cước một trong ba
vị Thành hoàng làng Vẽ”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (1), tr.53-58.
153. Trần Khắc Việt (1992), Đời sống tinh thần của xã hội và xây dựng đời
sống tinh thần của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Nguyễn Ái Quốc,
Hà Nội.
154. Lê Trung Vũ (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
155. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
156. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
157. Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán (2006), Hà Nội nghìn xưa, Nxb Hà Nội.
158. Lý Tế Xuyên (Trịnh Đình Cự dịch, 1994), Việt điện u linh, Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
159. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin,
Thành phố Hồ Chí Minh.
160. Nguyễn Hoàng Yến (2002), Giới thiệu sắc phong ở Nghè thôn Ngọc Lôi,
xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội, Thông báo Hán Nôm.
162

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1
BẢNG HỎI CẤU TRÚC PHỎNG VẤN CÁ NHÂN
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN
(Dành cho cán bộ làm công tác văn hoá, công chức Nhà nước)

A. Phần định danh


Thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến
đời sống tinh thần của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay”, chúng tôi cần
tham khảo ý kiến của cán bộ làm công tác văn hoá, công chức Nhà nước, kính
mong nhận được sự giúp đỡ của quý vị trong việc trả lời các câu hỏi sau:
1. Địa điểm phỏng vấn:...........................................................................
2. Thời gian phỏng vấn: ..........................................................................
3. Giới tính: Nam; Nữ
4. Tuổi:....................................................................................................
5. Địa chỉ:................................................................................................
6. Nghề nghiệp:.......................................................................................

B. Phần nội dung


- Đồng ý với phương án trả lời nào, quý vị đánh dấu (x) vào ô (có thể
chọn nhiều đáp án)
- Không đồng ý để nguyên
- Nếu có ý kiến khác xin vui lòng trả lời vào chỗ trống:………………
- Những câu nào chưa có đáp án trả lời xin vui lòng đưa ra ý kiến riêng
Câu 1: Theo đồng chí, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có những giá trị gì?
1. Thể hiện sự tri ân với những người có công với làng xã
2. Giữ gìn luật lệ, quy định của làng xã
3. Tăng cường sự liên kết trong cộng đồng làng xã
4. Ý kiến khác……………………………………………………………..
163

Câu 2: Theo đồng chí, số địa phương vùng ngoại thành Hà Nội có “thờ
Thành hoàng làng” như thế nào?
1. Nhiều
2. Ít
3. Bình thường
4. Không có
Câu 3: Theo đồng chí, những người tham gia tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng thường là những đối tượng nào? (Lưu ý: khoanh cả hai cột)
Theo tuổi tác Theo nghề nghiệp
1. Người già 1a. Cán bộ làm công tác văn hoá,
công chức nhà nước
2. Trung niên 2a. Những người làm nghề tự do
3. Thanh niên 3a. Học sinh, sinh viên
4. Trẻ nhỏ 4a. Người già và hưu trí

Câu 4: Theo đồng chí, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có vai trò như thế
nào trong đời sống tinh thần của cư dân?
1. Rất quan trọng
2. Quan trọng
3. Bình thường
4. Không quan trọng
Câu 5: Trong các vai trò sau đây, theo đồng chí, vai trò nào là tiêu biểu nhất
của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng?
1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có vai trò quan trọng trong
hệ thống tín ngưỡng ở làng quê Việt Nam
2. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có vai trò gắn kết cộng
đồng dân cư
3. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có vai trò bảo tồn giá trị văn
hóa truyền thống dân tộc
4. Tín ngưỡng ngưỡng thờ Thành hoàng làng là chỗ dựa tinh thần
khá vững chắc cho cư dân làng
164

Câu 6: Theo đồng chí, những yếu tố nào sau đây trong đời sống tinh thần của
cư dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay có thay đổi nhiều nhất dưới ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế?
1. Lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống
2. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo
3. Lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật
4. Lĩnh vực tín ngưỡng - tôn giáo
5. Ý kiến khác:…………………………………………………………….
Câu 7: Theo đồng chí, đặc điểm tiêu biểu, những nét riêng của tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng ở vùng ngoại thành Hà Nội là gì?
1. Thành hoàng làng được nhân hóa và lịch sử hóa
2. Thành hoàng làng được thần thánh hóa
3. Thành hoàng làng được công tích hóa và địa phương hóa
4. Thờ Thành hoàng làng ở ngoại thành Hà Nội gắn bó chặt chẽ với văn
hoá cổ truyền, lễ hội, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc
5. Ý kiến khác:……………………………………………………………
Câu 8: Theo đồng chí, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có vai trò như thế
nào trong hệ thống tín ngưỡng ở làng?
1. Quan trọng
2. Không quan trọng
3. Ít quan trọng
Câu 9: Theo đồng chí, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng giữ vai trò như thế
nào đối với đời sống đạo đức của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay?
1. Điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của cư dân
2. Làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc
3. Bồi đắp những giá trị cao đẹp trong tâm hồn người dân
4. Giúp mọi người sống nhân ái và độ lượng hơn
165

Câu 10: Theo đồng chí, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có những ảnh
hưởng nào đến ý thức đạo đức của người dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện
nay?
1. Ở hiền gặp lành
2. Trọng tình, trọng lý
3. Tư duy hướng thiện, coi trọng đạo đức cá nhân
4. Không được làm những điều bất nhân, bất nghĩa
5. Nỗ lực vươn lên, góp phần làm rạng danh làng xã
6. Ý kiến khác:……………………………………………………...........
Câu 11: Theo đồng chí, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ảnh hưởng đến
những chuẩn mực đạo đức nào trong đời sống tinh thần của cư dân ngoại
thành Hà Nội hiện nay?
1. Tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết gắn bó
2. Nếp sống dân chủ bình đẳng
3. Lối sống trọng tình
4. Tuân theo pháp luật
5. Ý kiến khác:……………………………………………………………
Câu 12: Theo đồng chí, mức độ ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng đến đạo đức của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay qua các lĩnh vực
sau đây như thế nào?
Biểu hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mức độ
STT Thành hoàng làng đến đạo đức của cư dân
Nhiều Ít Không
ngoại thành Hà Nội hiện nay qua các lĩnh vực
1 Tri thức đạo đức
2 Tình cảm đạo đức
3 Ý thức đạo đức
4 Hành vi đạo đức
166

Câu 13: Theo đồng chí, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ảnh hưởng đến lối
sống của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay như thế nào?
1. Đoàn kết gắn bó
2. Bao bọc lẫn nhau
3. Trọng tình, trọng nghĩa
4. Sống hết mình vì cộng đồng
5. Dân chủ bình đẳng
6. Ý kiến khác:…………………………………………………………....
Câu 14: Theo đồng chí, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng có những ảnh
hưởng đến lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội
hiện nay như thế nào?
1. Góp phần làm đậm đà thêm bản sắc văn hóa dân tộc
2. Góp phần làm phong phú các hình thức văn hóa dân gian trên
địa bàn
3. Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa nghệ thuật
4. Ý kiến khác:……………………………………………………
Câu 15: Theo đồng chí, có những ảnh hưởng tiêu cực nào của tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng đến đời sống tinh thần của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội
hiện nay?
1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng góp phần nuôi dưỡng, phát
triển lối sống cục bộ, địa phương, thiếu lành mạnh
2. Người dân tin rằng chỉ cần đến với thần, lễ bái thần là giàu có,
là tai qua nạn khỏi, nên họ bỏ bê công việc làm ăn để chạy đua
cúng lễ
3. Những kẻ xấu đã lợi dụng lòng kính cẩn của dân làng để trục
lợi cho mình hoặc phát sinh những hình thức mê tín dị đoan
167

4. Nhiều lễ hội gây lãng phí về thời gian, lãng phí kinh tế bởi
những chi phí lớn cho lễ hội
Câu 16: Theo đồng chí, trong thời gian tới, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
ở ngoại thành Hà Nội có xu hướng phát triển và ảnh hưởng như thế nào?
1. Phát triển tăng tính phức tạp về nội dung và lễ nghi
2. Ảnh hưởng ngày càng mạnh đến đời sống tinh thần cả tích
cực, tiêu cực
3. Gia tăng sự lợi dụng tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng, ảnh
hưởng xấu đến đời sống tinh thần cư dân
Câu 17: Theo đồng chí, cần có những giải pháp nào để phát huy ảnh hưởng
tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
đến đời sống tinh thần của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay?
1. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân ngoại
thành Hà Nội
2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cư dân
ngoại thành Hà Nội bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hoá hội làng
3. Phát huy vai trò của chủ thể trong thực hành tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng (cá nhân, ban tổ chức lễ hội, các tổ chức
chính quyền và đoàn thể trong hệ thống chính trị)
4. Đấu tranh chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần cư
dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
5. Ý kiến khác:……………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn!


168

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN


(Dành cho cư dân vùng ngoại thành Hà Nội)

A. Phần định danh


Thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến
đời sống tinh thần của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay”, chúng tôi cần
tham khảo ý kiến của ông (bà), cô (chú), anh (chị), kính mong nhận được sự
giúp đỡ của quý vị trong việc trả lời các câu hỏi sau:
1. Địa điểm phỏng vấn:
2. Thời gian phỏng vấn:
3. Giới tính: Nam; Nữ
4. Tuổi:
5. Địa chỉ:
6. Nghề nghiệp:

B. Phần nội dung


- Đồng ý với phương án trả lời nào, ông (bà), cô (chú), anh (chị) đánh
dấu (x) vào ô.
- Không đồng ý để nguyên.
- Nếu có ý kiến khác xin vui lòng trả lời vào chỗ trống:........................
- Những câu nào chưa có đáp án trả lời xin vui lòng đưa ra ý kiến riêng.
Câu 1: Ông (bà), anh (chị) cho biết, ở làng ông (bà), anh (chị) có thờ Thành
hoàng làng không?
1. Có
2. Không có
3. Không biết
Câu 2: Ông (bà), cô (chú), anh (chị) hiểu tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở
Việt Nam là gì?
1. Là hình thức tín ngưỡng dân gian
2. Thờ cúng thần bản mệnh của cộng đồng làng, là
nhiên thần hoặc nhân thần
3. Mang đậm dấu ấn tâm linh
4. Tồn tại lâu dài, thể hiện quan niệm “Uống nước nhớ
nguồn” của người dân Việt Nam
169

Câu 3: Ông (bà), cô (chú), anh (chị) cho biết, tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng có vai trò như thế nào trong liên kết cộng đồng làng?
1. Rất quan trọng
2. Quan trọng
3. Bình thường
4. Không quan trọng
Câu 4: Ông (bà), cô (chú), anh (chị) cho biết, tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng có vai trò như thế nào trong đời sống tinh thần của cư dân làng?
1. Rất quan trọng
2. Quan trọng
3. Bình thường
4. Không quan trọng
Câu 5: Ông (bà), cô (chú), anh (chị) có sự hiểu biết về tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng thông qua những phương thức nào dưới đây?
1. Tham dự lễ hội làng
2. Tham khảo những tài liệu chuyên về tín ngưỡng tôn giáo
3. Trao đổi kiến thức với bạn bè
4. Được giảng giải bởi các thành viên trong gia đình như cha mẹ, ông bà,
anh chị em
5. Đọc sách
6. Internet
7. Báo chí
8. Xem Tivi
9. Xem phim ảnh, băng đĩa
Câu 6: Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), những yếu tố nào sau đây trong đời
sống tinh thần của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay có thay đổi
nhiều nhất dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế?
1. Lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống
2. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo
170

3. Lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật


4. Lĩnh vực tín ngưỡng - tôn giáo
5. Ý kiến khác:…………………………………………………………….
Câu 7: Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
giữ vai trò như thế nào đối với đời sống đạo đức của cư dân vùng ngoại thành
Hà Nội hiện nay?
1. Điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của cư dân
2. Làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc
3. Bồi đắp những giá trị cao đẹp trong tâm hồn người dân
4. Giúp con người sống lương thiện và nhân văn hơn
Câu 8: Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
có những ảnh hưởng nào đến ý thức đạo đức của người dân vùng ngoại thành
Hà Nội hiện nay?
1. Ở hiền gặp lành
2. Trọng tình, trọng lý
3. Tư duy hướng thiện, coi trọng đạo đức cá nhân
4. Không được làm những điều bất nhân, bất nghĩa
5. Nỗ lực vươn lên, góp phần làm rạng danh làng xã
6. Ý kiến khác:……………………………………………………...........
Câu 9: Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), mức độ ảnh hưởng của tín ngưỡng
thờ Thành hoàng làng đến đạo đức của cư dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
qua các lĩnh vực sau đây như thế nào?
Biểu hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mức độ
STT Thành hoàng làng đến đạo đức của cư dân
Nhiều Ít Không
ngoại thành Hà Nội hiện nay qua các lĩnh vực
1 Tri thức đạo đức
2 Tình cảm đạo đức
3 Ý thức đạo đức
4 Hành vi đạo đức
171

Câu 10: Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ảnh
hưởng đến lối sống của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay như thế nào?
1. Đoàn kết gắn bó
2. Bao bọc lẫn nhau
3. Trọng tình, trọng nghĩa
4. Sống hết mình vì cộng đồng
5. Dân chủ bình đẳng
6. Ý kiến khác:………………………………………………………........
Câu 11: Ông (bà), cô (chú), anh (chị) cho biết, tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng có ảnh hưởng như thế nào đối với các hành vi ứng xử?
1. Giúp nhận thức rõ về vị trí, vai trò và trách nhiệm của từng cá nhân
trong gia đình, xã hội
2. Nâng cao sự kính trọng dành cho các cá nhân khác
3. Nâng cao sự đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình, xã hội
4. Hóa giải những vấn đề xung đột trong gia đình, xã hội
5. Nâng cao sự tôn trọng, lễ nghĩa
6. Không có ảnh hưởng gì đáng kể
7. Khác (ghi rõ)……………………………………….
8. Không biết/ Không có ý kiến
Câu 12: Ông (bà), cô (chú), anh (chị) cho biết, tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng có ảnh hưởng như thế nào đối với quá trình học tập?
1. Giúp nhận thức rõ về ý thức học hỏi, cầu tiến
2. Nâng cao sự kính trọng dành cho những người hướng dẫn, dạy dỗ
3. Nâng cao sự học hỏi, trao đổi với mọi người
4. Nâng cao tinh thần rèn luyện chăm chỉ
5. Biết giới hạn của bản thân, tránh tham lam
6. Không có sự ganh gét, hiềm khích đối với người giỏi hơn
7. Không có ảnh hưởng gì đáng kể
8. Khác (ghi rõ)………………………………….
9. Không biết/Không có ý kiến
172

Câu 13: Ông (bà), cô (chú), anh (chị) cho biết, tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng có ảnh hưởng như thế nào đối với công việc (làm ăn, kinh doanh,...)?
1. Giúp nhận thức rõ về vị trí, vai trò và trách nhiệm của cá
nhân đối với công việc
2. Nâng cao sự tin tưởng của người khác trong công việc
3. Nâng cao sự đoàn kết giữa các thành viên tham gia công việc
4. Hóa giải những vấn đề xung đột trong công việc
5. Nâng cao sự tôn trọng, lễ nghĩa đối với cấp trên
6. Biết giới hạn bản thân, tránh tham lam
7. Khiêm tốn, có tinh thần cầu tiến trong công việc
8. Không có ảnh hưởng gì đáng kể
9. Khác (ghi rõ)……………………………………………………
10. Không biết/ không có ý kiến
Câu 14: Ông (bà), cô (chú), anh (chị) cho biết, tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng có ảnh hưởng như thế nào đối với công việc (trông coi hương khói tại
các đình, đền,...)?
1. Giúp nhận thức rõ về vị trí, vai trò và trách nhiệm của cá nhân đối
với công việc
2. Nâng cao sự tin tưởng đối với công việc được giao
3. Nâng cao sự đoàn kết giữa các thành viên tham gia công việc
4. Hóa giải những vấn đề xung đột trong công việc
5. Biết giới hạn bản thân, tránh tham lam
6. Không có ảnh hưởng gì đáng kể
7. Khác (ghi rõ)………………………………………………………….
8. Không biết/ không có ý kiến
Câu 15: Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
có những ảnh hưởng đến lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của cư dân vùng ngoại
thành Hà Nội hiện nay như thế nào?
1. Góp phần làm đậm đà thêm bản sắc văn hóa dân tộc
2. Góp phần làm phong phú các hình thức văn hóa dân gian trên
địa bàn
3. Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa nghệ thuật
4. Ý kiến khác:……………………………………………………
173

Câu 16: Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), những ảnh hưởng tiêu cực nào
của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến đời sống tinh thần của cư dân vùng
ngoại thành Hà Nội hiện nay?
1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng góp phần nuôi dưỡng, phát
triển lối sống cục bộ, địa phương, thiếu lành mạnh, hạn chế lối
sống tích cực, năng động, sáng tạo của cư dân
2. Người dân tin rằng chỉ cần đến với thần, lễ bái thần là giàu có,
là tai qua nạn khỏi, nên họ bỏ bê công việc làm ăn để chạy đua
cúng lễ
3. Những kẻ xấu đã lợi dụng lòng kính cẩn của dân làng để trục
lợi cho mình hoặc phát sinh những hình thức mê tín dị đoan
4. Nhiều lễ hội gây lãng phí về thời gian, lãng phí kinh tế bởi
những chi phí lớn cho lễ hội
Câu 17: Theo ông (bà), cô (chú), anh (chị), cần có những giải pháp nào để
phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng đến đời sống tinh thần của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội
hiện nay?
1. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân ngoại thành
Hà Nội
2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cư dân
ngoại thành Hà Nội bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hoá hội làng
3. Phát huy vai trò của chủ thể trong thực hành tín ngưỡng thờ
Thành hoàng làng (cá nhân, ban tổ chức lễ hội, các tổ chức
chính quyền và đoàn thể trong hệ thống chính trị)
4. Đấu tranh chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng thờ Thành
hoàng làng gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần cư
dân ngoại thành Hà Nội hiện nay
5. Ý kiến khác:……………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn!


174

PHỤ LỤC 2
TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA KHẢO SÁT
(Gồm: 01 Thị xã Sơn Tây và 17 huyện ngoại thành)

Đơn vị tính: tỷ lệ %
Biểu 2.1. Số địa phương thờ Thành hoàng làng ở vùng ngoại thành Hà Nội

Biểu 2.2. Đánh giá vai trò của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng trong liên kết
cộng đồng làng
175

Biểu 2.3. Đánh giá vai trò của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng trong đời sống
tinh thần của cư dân làng

Biểu 2.4. Phương thức hiểu biết về tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
Internet, báo chí, tivi, xem phim ảnh, băng đĩa 89.2
Đọc sách 80.1
Trao đổi kiến thức với bạn bè 48.2
Được giảng giải bởi các thành viên trong gia đình như 94.6
cha mẹ, ông bà, anh chị em
Tham dự lễ hội làng 82.3
Tham khảo những tài liệu chuyên về tín ngưỡng tôn giáo 62.2
176

Biểu 2.5. Sự thay đổi của những yếu tố trong đời sống tinh thần của cư dân
vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Biểu 2.6. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến ý thức đạo đức
của người dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay

1. Ở hiền gặp lành 89.1


2. Trọng tình, trọng lý 90.1
3. Tư duy hướng thiện, coi trọng đạo đức cá nhân 82.5
4. Không được làm những điều bất nhân, bất nghĩa 80.3
5. Nỗ lực vươn lên, góp phần làm rạng danh làng xã 93.4
177

Biểu 2.7. Mức độ ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến các
lĩnh vực đạo đức của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay
178

Biểu 2.8. Mức độ ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đến lối
sống của cư dân vùng ngoại thành Hà Nội hiện nay

Nhóm 1. Cán bộ làm công tác văn


hoá, công chức Nhà nước

1. Đoàn kết gắn bó: 98.2

2. Tương trợ, đùm bọc lẫn nhau: 99.2

3. Trọng tình, trọng nghĩa: 96.7

4. Sống hết mình vì cộng đồng: 80.1

5. Dân chủ bình đẳng: 80.4

Nhóm 2. Những người làm nghề tự do

1. Đoàn kết gắn bó: 90.3

2. Tương trợ, đùm bọc lẫn nhau: 97.2

3. Trọng tình, trọng nghĩa: 98.7

4. Sống hết mình vì cộng đồng: 85.1

5. Dân chủ bình đẳng: 76.6

Nhóm 3. Học sinh, sinh viên

1. Đoàn kết gắn bó: 99.2

2. Tương trợ, đùm bọc lẫn nhau: 96.4

3. Trọng tình, trọng nghĩa: 93.7

4. Sống hết mình vì cộng đồng: 76.1

5. Dân chủ bình đẳng: 81.3


179

Nhóm 4. Người già và hưu trí

1. Đoàn kết gắn bó: 99.3

2. Tương trợ, đùm bọc lẫn nhau: 99.6

3. Trọng tình, trọng nghĩa: 98.5

4. Sống hết mình vì cộng đồng: 80.1

5. Dân chủ bình đẳng: 58.4

Nhóm 5. Các chủ từ, chủ đình, chủ


đền, người trông coi hương khói tại
các đình, đền

1. Đoàn kết gắn bó: 90.8

2. Tương trợ, đùm bọc lẫn nhau: 76.2

3. Trọng tình, trọng nghĩa: 95.8

4. Sống hết mình vì cộng đồng: 89.2

5. Dân chủ bình đẳng: 76.4

Tổng hợp:

1. Đoàn kết gắn bó: 95.5

2. Tương trợ, đùm bọc lẫn nhau: 96.6

3. Trọng tình, trọng nghĩa: 96.6

4. Sống hết mình vì cộng đồng: 82.1

5. Dân chủ bình đẳng: 74.6


180

Biểu 2.9. Đánh giá những hạn chế của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng vùng
ngoại thành Hà Nội hiện nay
1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng góp phần nuôi dưỡng, phát triển lối sống
cục bộ, địa phương, thiếu lành mạnh, hạn chế lối sống tích cực, năng động, sáng tạo
của cư dân: 83.5%
2. Người dân tin rằng chỉ cần đến với thần, lễ bái thần là giàu có, là tai qua nạn
khỏi, nên họ bỏ bê công việc làm ăn để chạy đua cúng lễ: 86%
3. Những kẻ xấu đã lợi dụng lòng kính cẩn của dân làng để trục lợi cho mình
hoặc phát sinh những hình thức mê tín dị đoan: 90.2%
4. Nhiều lễ hội gây lãng phí về thời gian, lãng phí kinh tế bởi những chi phí
lớn cho lễ hội: 89.9%
181

PHỤ LỤC 3
Bảng 1: Bản đồ địa giới hành chính Hà Nội

Nguồn Tổng cục Thống kê


182

Bảng 2: Quy mô dân số và diện tích các Quận/ Huyện/


Thị xã ngoại thành Hà Nội

Các đơn vị hành chính trực Dân số


Diện tích Hành chính
thuộc thành phố Hà Nội năm 2017

Chương Mỹ 330.000 237.38 2 thị trấn, 30 xã

Đan Phượng 162.900 78 1 thị trấn, 15 xã

Đông Anh 381.500 185.62 1 thị trấn, 23 xã

Gia Lâm 277.600 116.71 2 thị trấn, 20 xã

Hoài Đức 229.400 84.93 1 thị trấn, 19 xã

Mê Linh 226.800 142.46 2 thị trấn, 16 xã

Mỹ Đức 194.400 226.25 1 thị trấn, 21 xã

Phú Xuyên 211.100 171.1 2 thị trấn, 25 xã

Phúc Thọ 182.300 118.63 1 thị trấn, 20 xã

Quốc Oai 188.000 151.13 1 thị trấn, 20 xã

Sóc Sơn 340.700 304.76 1 thị trấn, 25 xã

Thạch Thất 207.500 202.05 1 thị trấn, 22 xã

Thanh Oai 205.200 123.87 1 thị trấn, 20 xã

Thanh Trì 256.800 63.49 1 thị trấn, 15 xã

Thường Tín 247.700 130.41 1 thị trấn, 28 xã

Ứng Hòa 204.800 188.18 1 thị trấn, 28 xã

Tổng cộng 4.417.177 người

Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt 2017 (20/7/2018) trang 20,21/193
183

PHỤ LỤC 4
(Nguồn Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội)

1. Các đình làng của 01 thị xã & 17 huyện đã được xếp hạng

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 80QĐ/UB
1 1 Đình Ngọc Kiên Xã Cổ Đông Thành phố
ngày 28/01/2004
Số 2713QĐ/UB
2 2 Đình Cổ Liễn Xã Cổ Đông Thành phố
ngày 31/12/2003
Số 1503QĐ/UB
3 3 Đình Trong (Triều Đông) Xã Cổ Đông Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 1503QĐ/UB
4 4 Đình Ngoài (Triều Đông) Xã Cổ Đông Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 158QĐ/UB
5 5 Đình La Gián Xã Cổ Đông Thành phố
ngày 04/2/2003
Số 1503QĐ/UB
6 6 Đình Thiên Mã Xã Cổ Đông Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 1054 QĐ/UB
7 7 Đình Ngõ Bắc Xã Cổ Đông Thành phố
ngày 10/8/2005
Số 866/QĐ
8 8 Đình Mông Phụ Xã Đường Lâm Quốc gia
ngày 20/5/1991
Số 167QĐ/UB
9 9 Đình Cam Thịnh Xã Đường Lâm Thành phố
ngày 25/2/2000
Số 233QĐ/UB
10 10 Đình Kim Đái Xã Kim Sơn Thành phố
ngày 03/3/2003
Phường Trung Số 2644/QĐ-UBND
11 11 Đình Trung Hậu Thành phố
Sơn Trầm ngày 14/6/2012
Phường Phú Số 1503QĐ/UB
12 12 Đình Hồng Hậu Thành phố
Thịnh ngày 29/12/2004
Phường Phú Số 1586QĐ/UB
13 13 Đình Yên Thịnh Thành phố
Thịnh ngày 28/11/2002
184

14 Phường Phú Số 2713QĐ/UB


14 Đình, đền Phú Nhi Thành phố
15 Thịnh ngày 31/12/2003

Phường Quang Số 158QĐ/UB


15 16 Đình Thuần Nghệ Thành phố
Trung ngày 04/02/2003
Phường Quang Số 795QĐ/UB
16 17 Đình Tiền Túc Thành phố
Trung ngày 29/7/1998
Số 795QĐ/UB
17 18 Đình Sơn Trung Xã Sơn Đông Thành phố
ngày 29/7/1998
Số 795QĐ/UB
18 19 Đình Sơn Đông Xã Sơn Đông Thành phố
ngày 29/7/1998
Số 05/1999/QĐ-BVHTT
19 20 Đình Thanh Vị Xã Thanh Mỹ Quốc gia
ngày 12/02/1999
Số 1054 QĐ/UB
20 21 Đình Thủ Trung Xã Thanh Mỹ Thành phố
ngày 10/8/2005
Số 1979QĐ/UB
21 22 Đình Vị Thuỷ Xã Thanh Mỹ Thành phố
ngày 14/11/2006
Phường Trung Số 1979 QĐ/UB
22 23 Đình Vân Gia Thành phố
Hưng ngày 14/11/2006
Phường Trung Số 1237/QĐ-UBND
23 24 Đình Thanh Trì Thành phố
Hưng ngày 10/3/2011
Phường Viên Số 2997QĐ/VH
24 25 Đình Phù Sa Quốc gia
Sơn ngày 05/11/1996
Phường Viên Số 1683QĐ/UB
25 26 Đình Tiền Huân Thành phố
Sơn ngày 13/12/2002
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
26 27 Đình Văn Khê Xã Xuân Sơn Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 158QĐ/UB
27 28 Đình Lễ Khê Xã Xuân Sơn Thành phố
ngày 04/02/2003
Số 2005 QĐ-UBND
28 29 Đình Nhân Lý Xã Xuân Sơn Thành phố
ngày 03/7/2008
185

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 795QĐ/UB
1 1 Đình Bằng Tạ Xã Cẩm Lĩnh Thành phố
ngày 29/7/1998
Số 2713QĐ/UB
2 2 Đình Vô Khuy Xã Cẩm Lĩnh Thành phố
ngày 31/12/2003
Số 2713QĐ/UB
3 3 Đình Ngọc Nhị Xã Cẩm Lĩnh Thành phố
ngày 31/12/2003
Số 06/2004/QĐ-BVHTT
4 4 Đình Cam Đà Xã Cam Thượng Quốc gia
ngày 18/2/04
Số 313/VH-VP
5 5 Đình Chu Quyến Xã Chu Minh Quốc gia
ngày 28/4/1962
6 Số 04/2004/QĐ-BVHTT
6 Đình Vĩnh Phệ (chùa Nả) Xã Chu Minh Quốc gia
7 ngày 18/2/2004
Số 165VH/QĐ
7 8 Đình Viên Châu Xã Cổ Đô Quốc gia
ngày 21/11/85
9 Số 05/1999/QĐ-BVHTT
8 Đình, miếu Kiều Mộc Xã Cổ Đô Quốc gia
10 ngày 12/02/1999
11 Số 1539VH/QĐ
9 Đình, chùa Quang Húc Đông Quang Quốc gia
12 ngày 27/12/1990
13
Số 2009 VH/QĐ
10 14 Đình, chùa, miếu Đông Viên Xã Đông Quang Quốc gia
ngày 15/11/1991
15
16
Số 5062/QĐ-UBND
11 17 Đình, miếu, văn chỉ Cao Cương Xã Đông Quang Thành phố
ngày 5/11/2012
18
Số 233QĐ/UB
12 19 Đình Tri Lai Xã Đồng Thái Thành phố
ngày 3/3/2003
20
Số 360/QĐ-UBND
13 21 Đình, đền, chùa Tân Phong Xã Phong Vân Thành phố
ngày 16/1/2012
22
23 Số 6479/QĐ-UBND
14 Đình, đền Vân Hội Xã Phong Vân Thành phố
24 ngày 28/10/2013
186

Số 168 VH/QĐ
15 25 Đình Phú Xuyên Xã Phú Châu Quốc gia
ngày 2/3/1990
Số 306 QĐ/UB
16 26 Đình Phong Châu Xã Phú Châu Thành phố
ngày 22/02/2006
Số 05/1999/QĐ-BVHTT
17 27 Đình Phương Châu Xã Phú Phương Quốc gia
ngày 12/02/1999
Số 306 QĐ/UB
18 28 Đình Phương Khê Xã Phú Phương Thành phố
ngày 22/2/2006
29 Số 3211/QĐ
19 Đình, chùa Phú Hữu Xã Phú Sơn Quốc gia
30 ngày 12/12/1994
Số 287/QĐ-UBND
20 31 Đình Đan Thê Xã Sơn Đà Thành phố
ngày 14/1/2014
32 Số 290/QĐ-UBND
21 Đình, chùa Khê Thượng Xã Sơn Đà Thành phố
33 ngày 14/1/2014
Số 2383/QĐ-TTg
22 34 Đình Tây Đằng Thị trấn Tây Đằng Quốc gia đặc biệt
ngày 09/12/2013
Số 1210QĐ/UB
23 35 Đình Lai Bồ Thị trấn Tây Đằng Thành phố
ngày 9/11/1999
36 Số 2009 VH/QĐ
24 Đình, chùa Vân Xa Xã Tản Hồng Quốc gia
37 ngày 15/11/1991
Số 2713QĐ/UB
25 38 Đình Cộng Hoà Xã Thái Hoà Thành phố
ngày 31/12/2003
Số 2713QĐ/UB
26 39 Đình Thuận An Xã Thái Hoà Thành phố
ngày 31/12/2003
Số 05/1999/QĐ-BVHTT
27 40 Đình Thanh Lũng Xã Tiên Phong Quốc gia
ngày 12/02/1999
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
28 41 Đình Thuỵ Phiêu Xã Thuỵ An Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 306 QĐ/UB
29 42 Đình Thái Bạt Xã Tòng Bạt Thành phố
ngày 22/02/2006
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
30 43 Đình Yên Bồ Xã Vật Lại Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 1085QĐ/UB
31 44 Đình Vật Yên Xã Vật Lại Thành phố
ngày 31/7/2003
Số 1757/QĐ-UBND
32 45 Đình Hoắc Châu Xã Châu Sơn Thành phố
ngày 2/4/2014
46 Số 1774/QĐ-UBND
33 Đình - chùa Hạc Sơn Xã Châu Sơn Thành phố
47 ngày 3/4/2014
187

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 88QĐ/UB
1 1 Đình Trên (Xóm Đường) Xã Đại Yên Thành phố
ngày 22/3/1989
2 Số 88QĐ/UB
2 Đình,quánHóp(XómTiếu) Xã Đại Yên Thành phố
3 ngày 22/3/1989
Số 332QĐ/UB
3 4 Đình Yên Khê Xã Đại Yên Thành phố
ngày 30/3/2004
Số 88QĐ/UB
4 5 Đình Nội An Xã Đại Yên Thành phố
ngày 22/3/1989
Số 28VH/QĐ
5 6 Đình Yên Lạc Xã Đồng Lạc Quốc gia
ngày 18/1/1988
Số 28VH/QĐ
6 7 Đình Yên Sơn Xã Đồng Lạc Quốc gia
ngày 18/1/1988
Số 68QĐ/UB
7 8 Đình Thọ An Xã Đồng Lạc Thành phố
ngày 17/1/2001
Số 593QĐ/UB
8 9 Đình Phượng Luật Xã Đồng Lạc Thành phố
ngày 17/6/1999
Số 2713QĐ/UB
9 10 Đình Hạ Dục Xã Đồng Phú Thành phố
ngày 31/12/2003
11 Số 1439QĐ/UB
10 Đình, quán Hoàng Xá Xã Đồng Phú Thành phố
12 ngày 20/12/2004
Số 5064/QĐ-UBND
11 13 Đình Thượng Phúc Xã Đồng Phú Thành phố
ngày 05/11/2012
Số 6202/QĐ-UBND
12 14 Đình Hoà Xá Xã Đồng Phú Thành phố
ngày 28/12/2012
Số 206QD/UB
13 15 Đình Đông Cựu Xã Đông Phương Yên Thành phố
ngày 19/2/2002
Số 1503QĐ/UB
14 16 Đình Yên Kiện Xã Đông Phương Yên Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 1371/QĐ
15 17 Đình Sơn Quyết Hạ Xã Đông Sơn Quốc gia
ngày 03/8/1991
188

Số 5621/QĐ-UBND
16 18 Đình Quyết Thượng Xã Đông Sơn Thành phố
ngày 01/12/2011
19 Số 52/2001/QĐ-
17 Đình, chùa Yên Nhân Xã Hoà Chính Quốc gia BVHTT
20 ngày 28/12/2001
Số 664QĐ/UB
18 21 Đình Lưu Xá Xã Hoà Chính Thành phố
ngày 30/6/1998
22 Đình (quán) Cốc Thượng,
Số 1371VH/QĐ
19 23 đình quán Cốc Trung, Xã Hoàng Diệu Quốc gia
ngày 03/8/1991
đình quán Cốc Hạ)
24
25 Số 20/2001/QĐ-
20 Đình, đền Bài Trượng Xã Hoàng Diệu Quốc gia BVHTT
26 ngày 29/3/2001
Số 88QĐ/UB
21 27 Đình An Vọng Xã Hoàng Diệu Thành phố
ngày 22/3/1989
Số 773/QĐ-UBND
22 28 Đình Cổ Hiền Xã Hoàng Diệu Thành phố
ngày 27/1/2014
Số 28VH/QĐ
23 29 Đình Thuần Lương Xã Hoàng Văn Thụ Quốc gia
ngày 18/1/1988
30 Số 89QĐ/UB
24 Đình, chùa Thôn Trung Xã Hồng Phong Thành phố
31 ngày 28/01/2004
Số 1516 QĐ/UB
25 32 Đình Yên Cốc Xã Hồng Phong Thành phố
ngày 21/01/2005
Số 109/UB
26 33 Đình Đồng Lệ Xã Hợp Đồng Thành phố
ngày 25/3/1991
Số 89QĐ/UB
27 34 Đình Thái Hoà Xã Hợp Đồng Thành phố
ngày 28/01/2004
Số 02/99/QĐ-BVHTT
28 35 Đình Lam Điền Xã Lam Điền Quốc gia
ngày 26/01/1999
Số 942QĐ/UB
29 36 Đình Lương Xá Xã Lam Điền Thành phố
ngày 23/9/2004
Số 1979/QĐ-UBND
30 37 Đình ứng Hoà Xã Lam Điền Thành phố
ngày 14/11/2006
Số 743/QĐ-UBND
31 38 Đình Duyên ứng Xã Lam Điền Thành phố
ngày 02/4/2008
39 Số 942QĐ/UB
32 Đình, đền Đại Từ Xã Lam Điền Thành phố
40 ngày 23/9/2004
Số 332QĐ/UB
33 41 Đình Khôn Duy Xã Mỹ Lương Thành phố
ngày 30/3/2004
Số 2064/QĐ-UBND
34 42 Đình Thượng Xã Mỹ Lương Thành phố
ngày 07/11/2007
189

Số 2713QĐ/UB
35 43 Đình Nhân Lý Xã Nam Phương Tiến Thành phố
ngày 31/12/2003
Số 2005/QĐ-UBND
36 44 Đình Nam Hài Xã Nam Phương Tiến Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 18QĐ/UB
37 45 Đình Chúc Lý Xã Ngọc Hoà Thành phố
ngày 08/01/2002
Số 68QĐ/UB
38 46 Đình Ngọc Giả Xã Ngọc Hoà Thành phố
ngày 17/01/2001
Số 68QĐ/UB
39 47 Đình Mỗ Xá Xã Phú Nam An Thành phố
ngày 17/01/2001
48 Số 2406QĐ/UB
40 Đình, Chùa Nam Mẫu Xã Phú Nam An Thành phố
49 ngày 15/11/2003
50 Đình Tử La, lăng Chu Số 2406QĐ/UB
41 Xã Phú Nam An Thành phố
51 Xuân Hán ngày 15/11/2003
Số 942QĐ/UB
42 52 Đình Phú Khang Xã Phú Nam An Thành phố
ngày 23/9/2004
Số 942QĐ/UB
43 53 Đình Tân Thôn Xã Phú Nam An Thành phố
ngày 23/9/2004
54 Số 2713QĐ/UB
44 Đình, quán Quan Trâm Xã Phú Nghĩa Thành phố
55 ngày 31/12/2003
56 Số 546QĐ/UB
45 Đình, quán Phú Vinh Xã Phú Nghĩa Thành phố
57 ngày 20/5/2004
58 Số 672QĐ/UB
46 Đình, quán Khê Than Xã Phú Nghĩa Thành phố
59 ngày 19/4/2007
Số 3905/QĐ-UBND
47 60 Đình Đồng Trữ Phú Nghĩa Thành phố
ngày 4/9/2012
Số 168 VH/QĐ
48 61 Đình Phương Bản Xã Phụng Châu Quốc gia
ngày 02/3/1990
Số 1439QĐ/UB
49 62 Đình Long Châu Miếu Xã Phụng Châu Thành phố
ngày 20/12/2004
Số 1439QĐ/UB
50 63 Đình Long Châu San Xã Phụng Châu Thành phố
ngày 20/12/2004
Số 1439QĐ/UB
51 64 Đình Phượng Nghĩa Xã Phụng Châu Thành phố
ngày 20/12/2004
Số QĐ-BVHTT
52 65 Đình Ninh Sơn Thị trấn Chúc Sơn Quốc gia
ngày 29/3/2001
Số 28VH/QĐ
53 66 Đình Nội Thị trấn Chúc Sơn Quốc gia
ngày 18/1/1988
190

Số 28VH/QĐ
54 67 Đình Xá Thị trấn Chúc Sơn Quốc gia
ngày 18/1/1988
Số 1516 QĐ/UB
55 68 Đình Thị Thị trấn Chúc Sơn Thành phố
ngày 21/10/2005
Số 18QĐ/UB
56 69 Đình Giáp Ngọ Thị trấn Chúc Sơn Thành phố
ngày 08/01/2002
Số 1586QĐ/UB
57 70 Đình Tràng An Thị trấn Chúc Sơn Thành phố
ngày 28/11/2002
Số 1516 QĐ/UB
58 71 Đình Bùi Xá Thị trấn Xuân Mai Thành phố
ngày 21/10/2005
Số 1422/QĐ-UBND
59 72 Đình Xuân Mai Thị trấn Xuân Mai Thành phố
ngày 30/3/2010
Số 1210QĐ/UB
60 73 Đình Phương Hạnh Xã Tân Tiến Thành phố
ngày 9/11/1999
Số 1210QĐ/UB
61 74 Đình Tiến Tiên Xã Tân Tiến Thành phố
ngày 9/11/1999
Số 88QĐ/UB
62 75 Đình An Thượng Xã Thượng Vực Thành phố
ngày 22/3/1989
Số 88QĐ/UB
63 76 Đình Trung Vực Xã Thượng Vực Thành phố
ngày 22/3/1989
Số 1979 QĐ/UB
64 77 Đình Đồng Luân Xã Thượng Vực Thành phố
ngày 14/11/2006
Số 905/QĐ-UBND
65 78 Đình Thuỵ Dương Xã Thuỵ Hương Thành phố
ngày 21/2/2012
Số 906/QĐ-UBND
66 79 Đình Tân An Xã Thuỵ Hương Thành phố
ngày 21/2/2012
Số 1503QĐ/UB
67 80 Đình Tiến Ân Xã Thuỷ Xuân Tiên Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 1503QĐ/UB
68 81 Đình Trí Thuỷ Xã Thuỷ Xuân Tiên Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 1516 QĐ/UB
69 82 Đình Tiên Trượng Xã Thuỷ Xuân Tiên Thành phố
ngày 21/10/2005
Số 1586QĐ/UB
70 83 Đình Phương Khê Xã Tiên Phương Thành phố
ngày 28/11/2002
Số 2005 QĐ-UBND
71 84 Đình Cổ Pháp Xã Tiên Phương Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 95/1998/QĐ-
72 85 Đình Yên Duyệt Xã Tốt Động Quốc gia BVHTT
ngày 24/01/1998
191

86 Số 165VH/QĐ
73 Đình, văn chỉ Tốt Động Xã Tốt Động Quốc gia
87 ngày 21/11/1985
Số 1958 QĐ/UB
74 88 Đình Hồng Thái Xã Trần Phú Thành phố
ngày 21/12/2005
Số 1516 QĐ/UB
75 88 Đình Trung Tiến Xã Trần Phú Thành phố
ngày 21/10/2005
Số 3236/QĐ/UBND
76 88 Đình Thướp Xã Trần Phú Thành phố
ngày 18/7/2012
Số 3235/QĐ/UBND
77 88 Đình Kỳ Viên Xã Trần Phú Thành phố
ngày 18/7/2012
Số 169/QĐ-UBND
78 88 Đền Miếu Môn Xã Trần Phú Thành phố
ngày 22/01/2008
89 Đình Hát, miếu Mục Số 233QĐ/UB
79 Xã Trung Hoà Thành phố
90 Thanh ngày 03/3/2003
91 Số 1233/QĐ-UBND
80 Đình, đền Yên Trương Xã Trường Yên Thành phố
92 ngày 10/3/2011
Số 22 BVHTT
81 93 Đình Thượng Văn La Xã Văn Võ Quốc gia
ngày 06/4/1999
94 Số 06/2000/QĐ-
Đình Võ Lao (đình
82 Xã Văn Võ Quốc gia BVHTT
95 Thượng, đình Hạ)
ngày 13/4/2000
96 Số 1776/Đ-UBND
83 Đình, chùa Kim Nê Xã Thanh Bình Thành phố
97 ngày 3/4/2014

98
Đình, chùa, miếu Số 1756/QĐ-UBND
84 99 Xã Thanh Bình Thành phố
Thanh Nê ngày 2/4/2014
100
192

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
CẤP QUYẾT ĐỊNH
Theo Theo TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 1728VH/QĐ
1 1 Đình Trung Hà Xã Trung Châu Quốc gia
ngày 02/10/1991
2 Đình Phương Tiến, chùa Số 1278/QĐ
2 Xã Trung Châu Quốc gia
3 Khánh Hưng ngày 02/10/1991
Số 38QĐ/UB
3 4 Đình Hưu Trưng Xã Trung Châu Thành phố
ngày 19/1/1999
Số 68QĐ/UB
4 5 Đình Nại Sa Xã Trung Châu Thành phố
ngày 17/01/2001
Đình Ngũ Giáp Số 1539/QĐ
5 6 Xã Liên Hà Quốc gia
(Đình Liên Hà) ngày 27/12/1990
Số 168 VH/QĐ
6 7 Đình Thọ Vực Xã Đồng Tháp Quốc gia
ngày 02/3/1990
Số 234QĐ/UB
7 8 Đền Bãi Tháp Xã Đồng Tháp Thành phố
ngày 15/3/2000
Số 1728/QĐ
8 9 Đình Vạn Xuân Xã Hạ Mỗ Quốc gia
ngày 02/10/1991
Số 50/2008/QĐ-
9 10 Đình Đông Khê Xã Đan Phượng Quốc gia BVHTTDL
ngày 17/7/2008
Số 1539VH/QĐ
10 11 Đình Đại Phùng Xã Đan Phượng Quốc gia
ngày 27/12/1990
12 Số 3211/QĐ-BT
11 Đình, chùa Đan Hội Xã Tân Lập Quốc gia
13 ngày 12/12/1994
14 Số 1278/QĐ
12 Đình, chùa Hạ Hội Xã Tân Lập Quốc gia
15 ngày 02/10/1991
Số 2009/QĐ
13 16 Đình Ngọc Kiệu Xã Tân Lập Quốc gia
ngày 15/11/1991
17
Đình, đền, Số 2009/QĐ
14 18 Xã Hồng Hà Quốc gia
chùa Bồng Lai ngày 15/11/1991
19
Số 993/QĐ
15 20 Đình Bá Dương Xã Hồng Hà Quốc gia
ngày 28/9/1990
193

Số 82QĐ/UB
16 21 Đình Vạn Vỹ Xã Hồng Hà Thành phố
ngày 19/01/2004
22 Số 34VH/QĐ
17 Đình, chùa Thôn Trung Xã Liên Trung Quốc gia
23 ngày 09/01/1990
24 Số 34VH/QĐ
18 Đình, chùa Thôn Hạ Xã Liên Trung Quốc gia
25 ngày 09/01/1990
Số 1728/QĐ
19 26 Đình Địch Đình Xã Phương Đình Quốc gia
ngày 02/10/1991
Số 168 VH/QĐ
20 27 Đình Phương Mạc Xã Phương Đình Quốc gia
ngày 02/3/1990
Số 1141 QĐ/UB
21 28 Đình Ích Vịnh Xã Phương Đình Thành phố
ngày 25/8/2005
Số 774/QĐ-UBND
22 29 Đình Cổ Ngõa Hạ Xã Phương Đình Thành phố
ngày 27/01/2014
Số 306 QĐ/UB
23 30 Đình Thượng Trì Xã Liên Hồng Thành phố
ngày 22/02/2006
Số 500 QĐ/UB
24 31 Đình Hữu Cước Xã Liên Hồng Thành phố
ngày 26/3/2007
Số 233QĐ/UB
25 32 Đình Trung Xã Thượng Mỗ Thành phố
ngày 03/03/2003
Số 1503QĐ/UB
26 33 Đình Trung Hiền Xã Thượng Mỗ Thành phố
ngày 29/12/2004
34 Số 942QĐ/UB
27 Đình, quán Thuỵ Ứng Thị trấn Phùng Thành phố
35 ngày 23/9/2004
Số 973/QĐ-UBND
28 36 Đình Thọ Lão Xã Thọ Xuân Thành phố
ngày 18/02/2013
194

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 4637/QĐ-UBND
1 1 Đình Thuỵ Hà Xã Bắc Hồng Thành phố
ngày 18/10/2006
2
Số 1570VH/QĐ
2 3 Đình, chùa, miếu Lại Đà Xã Đông Hội Quốc gia
ngày 05/9/1989
4
5 Số 65QĐ/BT
3 Đình, chùa Đông Trù Xã Đông Hội Quốc gia
6 ngày 16/01/1995
7 Số 310QĐ/BT
4 Đình, đền Hội Phụ Xã Đông Hội Quốc gia
8 ngày 13/02/1996
Số 1650/QĐ-UB
5 9 Đình Tiên Hội Xã Đông Hội Thành phố
ngày 25/3/2003
Số 2406/QĐ-UBND
6 10 Đình Đông Ngàn Xã Đông Hội Thành phố
ngày 4/12/2008
11 Số 226QĐ/BT
7 Đình, chùa Phúc Hậu Xã Dục Tú Quốc gia
12 ngày 05/02/1994
13 Đình, chùa Dục Tú Số 65QĐ/BT
8 Xã Dục Tú Quốc gia
14 (Tiên Cảnh tự) ngày 16/01/1995
Số 1568QĐ/BT
9 15 Đình Lý Nhân Xã Dục Tú Quốc gia
ngày 20/4/1995
Số 3526/QĐ-BVHTTDL
10 16 Đình Thạc Quả Xã Dục Tú Quốc gia
ngày 1/11/2011
Số 7533/QĐ-UBDN
11 17 Đình Nghĩa Vũ Xã Dục Tú Thành phố
ngày 12/12/2013
Số 1691/QĐ-UBND
12 18 Đình Đồng Dầu Xã Dục Tú Thành phố
ngày 28/3/2014
Số 2945/QĐ-UB
13 19 Đình Đồng Nhân Xã Hải Bối Thành phố
ngày 28/5/2003
Số 384/QĐ-UB
14 20 Đình Hậu Dưỡng Xã Kim Chung Thành phố
ngày 18/01/2006
Số 516/QĐ-UBND
15 21 Đình Bầu Xã Kim Chung Thành phố
ngày 23/01/2009
22 Đình Lỗ Khê, Số 100VH/QĐ
16 Xã Liên Hà Quốc gia
23 nhà thờ Ca Công ngày 21/01/1989
195

Số 100VH/QĐ
17 24 Đình Hà Vĩ Xã Liên Hà Quốc gia
ngày 21/01/1989
Số 100VH/QĐ
18 25 Đình Hà Lỗ Xã Liên Hà Quốc gia
ngày 21/01/1989
Số 100VH/QĐ
19 26 Đình Hà Hương Xã Liên Hà Quốc gia
ngày 21/01/1989
Số 3402/QĐ-UBND
20 27 Đình Hà Phong Xã Liên Hà Thành phố
ngày 27/8/2007
Số 4815/QĐ-UBND
21 28 Đình Cổ Châu Xã Liên Hà Thành phố
ngày 30/11/2007
Số 1181/ QĐ-UBND
22 29 Đình Thù Lỗ Xã Liên Hà Thành phố
ngày 15/3/2010
30 Đình Thái Bình, chùa Số 138QĐ
23 Xã Mai Lâm Quốc gia
31 Diên Phúc ngày 31/01/1992
Số 3399/QĐ-UBND
24 32 Đình Mai Hiên Xã Mai Lâm Thành phố
ngày 27/8/2007
33 Đình Phúc Thọ, lăng Đào Số 1218/QĐ-UBND
25 Xã Mai Lâm Thành phố
34 Kỳ ngày 20/3/2012
Xã Nguyên Số 4814/QĐ-UBND
26 35 Đình Nguyên Khê Thành phố
Khê ngày 30/11/2007
36 Số 599QĐ
27 Đình, chùa Tàm Xá Xã Tàm Xá Quốc gia
37 ngày 11/3/1992
38 Số 57VH/QĐ
28 Đình, chùa Hương Trầm Xã Thuỵ Lâm Quốc gia
39 ngày 18/01/1993
40 Đình, chùa Đào Thục Số 65QĐ/BT
29 Xã Thuỵ Lâm Quốc gia
41 (Thánh Phúc tự) ngày 16/01/1995
Số 06/2000QĐ-BVHTT
30 42 Đình Mạnh Tân Xã Thuỵ Lâm Quốc gia
ngày 13/4/2000
Số 5195/QĐ-UB
31 43 Đình Cổ Miếu Xã Thuỵ Lâm Thành phố
ngày 30/7/2002
44 Xã Tiên Số 310QĐ/BT
32 Đình, chùa Lễ Pháp Quốc gia
45 Dương ngày 13/02/1996
Xã Tiên Số 3961/QĐ-UBND
33 46 Đình Tuân Lề Thành phố
Dương ngày 11/9/2006
Xã Tiên Số 541/QĐ-UBND
34 47 Đình Lương Nỗ Thành phố
Dương ngày 02/02/2009
Số 977/QĐ-UBND
35 48 Đình Đản Dị Xã Uy Nỗ Thành phố
ngày 18/02/2013
Số 976/QĐ-UBND
36 49 Đình Đài Bi Xã Uy Nỗ Thành phố
ngày 18/02/2013
50 Số 2997QĐ/VH
37 Đình, chùa Thiết Úng Xã Vân Hà Quốc gia
51 ngày 05/11/1996
196

Số 75/2006/QĐ-BVHTT
38 52 Đình Vân Điềm Xã Vân Hà Quốc gia
ngày 28/9/2006
Số 5194/QĐ-UB
39 53 Đình Vân Trì Xã Vân Nội Thành phố
ngày 30/7/2002
Số 488/QĐ-UBND
40 54 Đình Viên Nội Xã Vân Nội Thành phố
ngày 19/01/2012
Số 95-1998QĐ/BVHTT
41 55 Đình Lỗ Giao Xã Việt Hùng Quốc gia
ngày 24/01/1998
Số 06/2000/QĐ-BVHTT
42 56 Đình Gia Lộc Xã Việt Hùng Quốc gia
ngày 13/4/2000
Số 5193/QĐ-UB
43 57 Đình Dục Nội Xã Việt Hùng Thành phố
ngày 30/7/2002
Số 1913/QĐ-UBND
44 58 Đình Lương Quán Xã Việt Hùng Thành phố
ngày 28/2/2013
59 Đình Ngọc Chi, miếu Số 774QĐ/BT
45 Xã Vĩnh Ngọc Quốc gia
60 Vĩnh Thanh ngày 21/6/1993
Số 748/QĐ-UBND
46 61 Đình Đại Độ Xã Võng La Thành phố
ngày 15/02/2007
62 Số 1460QĐ/VH
47 Đình, đền Xuân Trạch Xã Xuân Canh Quốc gia
63 ngày 28/6/1996
Số 06/2000QĐ-BVHTT
48 64 Đình Xuân Canh Xã Xuân Canh Quốc gia
ngày 13/4/2000
Số 5501/QĐ-UBND
49 65 Đình Xuân Đình Xã Xuân Canh Thành phố
ngày 5/11/2010
Số 310QĐ/BT
50 66 Đình Xuân Nộn Xã Xuân Nộn Quốc gia
ngày 13/02/1996
Số 3951QĐ/BVHTT
51 67 Đình Nhạn Tái Xã Xuân Nộn Quốc gia
ngày 20/12/1997
Số 1362/QĐ-UBND
52 68 Đình Lương Quy Xã Xuân Nộn Thành phố
ngày 24/3/2010
Số 5061/QĐ-UBND
53 69 Đình Đường Yên Xã Xuân Nộn Thành phố
ngày 5/11/2012
Số 95-1998QĐ/BVHTT
54 70 Đình Kim Tiên Xã Việt Hùng Quốc gia
ngày 24/01/1998
197

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 1191/QĐ-UB
1 1 Đình Bát Tràng Xã Bát Tràng Thành phố
ngày 07/2/2002
Số 5196/QĐ-UB
2 2 Đình Giang Cao Xã Bát Tràng Thành phố
ngày 30/7/2002
3 Số 65QĐ/BT
3 Đình, chùa Thôn Vàng Xã Cổ Bi Quốc gia
4 ngày 16/01/1995
5 Số 310QĐ/BT
4 Đình, chùa thôn Cam Xã Cổ Bi Quốc gia
6 ngày 13/02/1996
7 Số 6127/QĐ-UBND
5 Đình, chùa thôn Hội Xã Cổ Bi Thành phố
8 ngày 26/11/2009
Số 34VH/QĐ
6 9 Đình Ngọc Động Xã Đa Tốn Quốc gia
ngày 09/01/1990
Số 1460QĐ/VH
7 10 Đình Thuận Tốn Xã Đa Tốn Quốc gia
ngày 28/6/1996
Số 970/QĐ-UBND
8 11 Đình Đào Xuyên Xã Đa Tốn Thành phố
ngày 8/2/2013
12 Số 65QĐ/BT
9 Đình, chùa Gióng Mốt Xã Đặng Xá Quốc gia
13 ngày 16/01/1995
14 Số 1003/QĐ-UBND
10 Đình, chùa Kim Âu Xã Đặng Xá Thành phố
15 ngày 14/3/2008
Số 18/QĐ-UBND
11 16 Đình Hoàng Long Xã Đặng Xá Thành phố
ngày 02/01/2008
17 Số 490QĐ
12 Đình, miếu Công Đình Xã Đình Xuyên Quốc gia
18 ngày 22/4/1992
19
Đình, miếu Tế Xuyên, Sô 734QĐ
13 20 Xã Đình Xuyên Quốc gia
chùa Linh Quang Phòng ngày 11/6/1992
21
Số 310/QĐ-UBND
14 22 Đình Đông Dư Hạ Xã Đông Dư Thành phố
ngày 22/01/2007
198

Số 309/QĐ-UBND
15 23 Đình Đông Dư Thượng Xã Đông Dư Thành phố
ngày 22/01/2007
Số 15VH/QĐ
16 24 Đình Dương Hà Xã Dương Hà Quốc gia
ngày 27/01/1986
25 Đình Thôn Trung, chùa Số 534QĐ/BT
17 Xã Dương Hà Quốc gia
26 Hiển Quang ngày 11/5/1993
Số 1655/QĐ-UB
18 27 Đình Thôn Hạ Xã Dương Hà Thành phố
ngày 25/3/2003
Số 1032/QĐ-UBND
19 28 Đình Lam Cầu Xã Dương Quang Thành phố
ngày 19/3/2007
Số 1034/QĐ-UBND
20 29 Đình Yên Mỹ Xã Dương Quang Thành phố
ngày 19/3/2007
Số 1221/QĐ-UBND
21 30 Đình Đề Trụ Xã Dương Quang Thành phố
ngày 20/3/2012
Số 1220/QĐ-UBND
22 31 Đình Quán Khê Xã Dương Quang Thành phố
ngày 20/3/2012
32 Số 315/QĐ-
Đình, chùa,
23 33 Xã Dương Xá Quốc gia BVHTTDL
nghè Dương Đình
34 ngày 22/01/2009
Số 2946/QĐ-UB
24 35 Đình Yên Bình Xã Dương Xá Thành phố
ngày 28/5/2003
Số 4019/QĐ-UBDN
25 36 Đình Dương Đá Xã Dương Xá Thành phố
ngày 11/9/2012
37
Số 310QĐ/BT
26 38 Đình, đền, chùa Kiêu Kỵ Xã Kiêu Kỵ Quốc gia
ngày 13/02/1996
39
49 Số 4185/QĐ-UBND
27 Đình, chùa Hoàng Xá Xã Kiêu Kỵ Thành phố
41 ngày 27/8/2010
Số 138QĐ
28 42 Đình Giao Tự Xã Kim Sơn Quốc gia
ngày 31/01/1992
43 Số 490QĐ
29 Đình, nghè Kim Sơn Xã Kim Sơn Quốc gia
44 ngày 22/4/1992
Số 310QĐ/BT
30 45 Đình Linh Quy Xã Kim Sơn Quốc gia
ngày 13/02/1996
46
Đình, nghè Sen Hồ, Số 490QĐ
31 47 Xã Lệ Chi Quốc gia
chùa Vạn Xuân ngày 22/4/1992
48
199

49 Chùa Diên Phúc, đình Số 502QĐ/BT


32 Xã Lệ Chi Quốc gia
50 Gia Lâm ngày 24/4/1994
51 Đình Chi Đông, chùa Số 1460QĐ/VH
33 Xã Lệ Chi Quốc gia
52 Hương Hải ngày 28/6/1996

53
Đình, chùa, nghè Kim Số 1178/QĐ-UBND
34 54 Xã Lệ Chi Thành phố
Hồ ngày 15/3/2010
55
Số 20/QĐ-UBND
35 56 Đình Cổ Giang Xã Lệ Chi Thành phố
ngày 02/01/2008
57
Đình, đền, chùa Chi Số 489/QĐ-UBND
36 58 Xã Lệ Chi Thành phố
Nam ngày 19/01/2012
59
Số 3744-QĐ-BVHTT
37 60 Đình Ninh Giang Xã Ninh Hiệp Quốc gia
ngày 20/12/1997
Số 2890-VH-QĐ
38 61 Đình Hạ Thôn Xã Ninh Hiệp Quốc gia
ngày 27/9/1997
Số 5199/QĐ-UB
39 62 Đình Hiệp Phù Xã Ninh Hiệp Thành phố
ngày 30/7/2002
63
64
Khu di tích Phù Đổng
65
(gồm 10 điểm di tích:
66
đền Thượng, đền Mẫu, Quốc gia Số 2383/QĐ-TTg
miếu Ban, Cố Viên, Giá đặc biệt ngày 9/12/2013
67
40 Xã Phù Đổng
Ngự, đình Hạ Mã, Bãi
68
đánh cờ Soi bia, Khu
đánh cờ Đống Đàm,
69
chùa Kiến Sơ, chùa
70
Hương Hải)
71
72
Số 6515QĐ-UBND
41 73 Đình Phù Dực Xã Phù Đổng Thành phố
ngày 30/12/2010
74
Số 100VH/QĐ
42 75 Đình, đền, chùa Phú Thị Xã Phú Thị Quốc gia
ngày 21/01/1989
76
Số 168VH/QĐ
43 77 Đình Trân Tảo Xã Phú Thị Quốc gia
ngày 02/03/1990
Số 65QĐ/BT
44 78 Đình Tô Khê Xã Phú Thị Quốc gia
ngày 16/01/1995
200

Số 38/2007/QĐ-
45 79 Đình Đại Bản Xã Phú Thị Quốc gia BVHTT
ngày 3/8/2007
Số 1110/QĐ-UBND
46 80 Đình Hàn Lạc Xã Phú Thị Thành phố
ngày 09/3/2012
81 Đình Chử Xá, lăng Chử Số 168VH/QĐ
47 Xã Văn Đức Quốc gia
82 Cù Vân ngày 02/03/1990
Số 310QĐ/BT
48 83 Đình Trung Quan Xã Văn Đức Quốc gia
ngày 13/02/1996
Số 4812/QĐ-UBND
49 84 Đình Sơn Hô Xã Văn Đức Thành phố
ngày 30/11/2007
Số 226QĐ/BT
50 85 Đình Xuân Dục Xã Yên Thường Quốc gia
ngày 05/02/1994
86 Đình thờ quận công
Số 188QĐ/BT
51 Nguyễn Đình Huấn, Xã Yên Thường Quốc gia
87 ngày 13/02/1995
chùa Phúc Nương
Số 1035/QĐ-UBND
52 88 Đình Đỗ Xá Xã Yên Thường Thành phố
ngày 19/3/2007
Số 2706/QĐ-UBND
53 89 Đình Qui Mông Xã Yên Thường Thành phố
ngày 18/4/2013
Số 2703/QĐ-UBND
54 90 Đền Qui Mông Xã Yên Thường Thành phố
ngày 18/4/2013
Số 2129/QĐ-UBND
55 91 Đình Yên Viên Xã Yên Viên Thành phố
ngày 14/3/2013
Số 1686/QĐ-UBND
56 91 Đình Lã Côi Xã Yên Viên Thành phố
ngày 28/3/2014
201

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 34VH/QĐ
1 1 Đình Cao Xá Xã Đức Thượng Quốc gia
ngày 09/01/1990
Số 18QĐ/UB
2 2 Đình Chiền Xã Đức Thượng Thành phố
ngày 08/01/2002
Số 243 QĐ/UB
3 3 Đình Dương Liễu Xã Dương Liễu Thành phố
ngày 05/02/2007
4 Số 1728/QĐ
4 Đình, chùa Lưu Xá Xã Đức Giang Quốc gia
5 ngày 02/10/1991
6 Số 2009/QĐ
5 Đình, chùa Lũng Kinh Xã Đức Giang Quốc gia
7 ngày 15/11/1991
8 Số 191VH/QĐ
6 Đình, chùa La Phù Xã La Phù Quốc gia
9 ngày 22/3/1988
10 Số 423QĐ/VH
7 Đình, quán Phương Bảng Xã Song Phương Quốc gia
11 ngày 20/02/1997
Số 1460QĐ/VH
8 12 Đình Phương Viên Xã Song Phương Quốc gia
ngày 28/6/1996
Số 1570VH/QĐ
9 13 Đình La Tinh Xã Đông La Quốc gia
ngày 5/9/1989
Số 25 VH/QĐ
10 14 Đình Sơn Đồng Xã Sơn Đồng Quốc gia
ngày 03/02/1986
Số 993/QĐ
11 15 Đình An Trai Xã Vân Canh Quốc gia
ngày 28/9/1990
Số 993/QĐ
12 16 Đình Kim Hoàng Xã Vân Canh Quốc gia
ngày 28/9/1990
Số 1570-VH/QĐ
13 17 Đình Hậu Ái Xã Vân Canh Quốc gia
ngày 05/9/1989
18
Đình, chùa, quán Ngãi Số 1570VH/QĐ
14 19 Xã An Khánh Quốc gia
Cầu ngày 05/9/1989
20
Số 1112/QĐ-UBND
15 21 Đình An Thọ Xã An Khánh Thành phố
ngày 09/3/2012
22
Số 3211-QĐ/BT
16 23 Đình, đền, chùa Mậu Hòa Xã Minh Khai Quốc gia
ngày 12/12/1994
24
Số 423QĐ/VH
17 25 Đình Đấu (đền Vật) Xã Cát Quế Quốc gia
ngày 20/02/1997
26 Số 1539/QĐ
18 Đình, chùa Đại Tự Xã Kim Chung Quốc gia
27 ngày 27/12/1990
202

28 Số 34VH/QĐ
19 Đình, chùa Lai Xá Xã Kim Chung Quốc gia
29 ngày 09/01/1990
Số 1570-VH/QĐ
20 30 Đình Hai Thôn Xã Kim Chung Quốc gia
ngày 05/9/1989
Số 06/2000/QĐ-BVHTT
21 31 Đình Phương Quan Xã Vân Côn Quốc gia
ngày 13/4/2000
32
Số 2890VH/QĐ
22 33 Đình, quán Vân Côn Xã Vân Côn Quốc gia
ngày 27/9/1997
34
Số 2005 QĐ-UBND
23 35 Đình Linh Thượng Xã Vân Côn Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 3237 QĐ-UBND
24 36 Đình Mộc Hoàn Xã Vân Côn Thành phố
ngày 18/7/2012
37 Số 1570VH/QĐ
25 Đền, đình Giang Xá Trị trấn Trôi Quốc gia
38 ngày 05/9/1989
39 Số 1568QĐ/BT
26 Đình, chùa An Hạ Xã An Thượng Quốc gia
40 ngày 20/4/1995
Số 208VH/QĐ
27 41 Đình Ngự Câu Xã An Thượng Quốc gia
ngày 13/3/1990
Số 2890VH/QĐ
28 42 Đình Đào Nguyên Xã An Thượng Quốc gia
ngày 27/9/1997
Số 743/QĐ-UBND
29 43 Đình Thanh Quang Xã An Thượng Thành phố
ngày 02/4/2008
44 Số 5062/QĐ-UBND
30 Đình, miếu Lại Dụ Xã An Thượng Thành phố
45 ngày 22/8/2013
Số 1712/QĐ-BVHTTDL
31 46 Đình Tiền Lệ Xã Tiền Yên Quốc gia
ngày 02/6/2011
203

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN MÊ LINH QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
CẤP QUYẾT ĐỊNH
Theo Theo TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 191/QĐ-UB
1 1 Đình Mạnh Trữ Xã Chu Phan Thành phố
ngày 15/01/2004
Số 182/QĐ-UBND
2 2 Đình Chu Phan Xã Chu Phan Thành phố
ngày 24/01/2006
Số 1207/QĐ
3 3 Đình Nội Đồng Xã Đại Thịnh Thành phố
ngày 17/11/1992
Số 869/QĐ-UBND
4 4 Đình Đại Bái Xã Đại Thịnh Thành phố
ngày 21/02/2011
Số 310/QĐ-BT
5 5 Đình Bồng Mạc Xã Liên Mạc Quốc gia
ngày 13/02/1996
Số 06/2000/QĐ-BVHTT
6 6 Đình Yên Mạc Xã Liên Mạc Quốc gia
ngày 13/04/2000
Số 259/QĐ-UB
7 7 Đình Xa Mạc Xã Liên Mạc Thành phố
ngày 27/01/2003
8 Đình Hạ Lôi, Số 2721/QĐ-UBND
8 Xã Mê Linh Thành phố
9 đền Cốt Tung ngày 29/07/2008
10
Thành Vượn, đình Cư Số 15VH/QĐ
9 11 Xã Tam Đồng Quốc gia
An, đình Văn Lôi ngày 27/1/1986
12
Số 89/QĐ-UB
10 13 Đình Nam Cường Xã Tam Đồng Thành phố
ngày 24/01/1994
Số 193/QĐ-UB
11 14 Đình Mỹ Lộc Xã Thanh Lâm Thành phố
ngày 24/01/2006
Số 439/QĐ-UBND
12 15 Đình Đức Hậu Xã Thanh Lâm Thành phố
ngày 07/02/2007
Số 330/QĐ-UBND
13 16 Đình Ngự Tiền Xã Thanh Lâm Thành phố
ngày 30/01/2008
Số 2722/QĐ-UBND
14 17 Đình Lâm Hộ Xã Thanh Lâm Thành phố
ngày 29/07/2008
18 Thị trấn Số 442/QĐ-UB
15 Đình, chùa Giai Lạc Thành phố
19 Quang Minh ngày 01/02/2002
204

Số 937/QĐ-BT
16 20 Đình Bạch Trữ Tiến Thắng Quốc gia
ngày 23/7/1993
Số 06/2000/QĐ-BVHTT
17 21 Đình Diến Táo Tiến Thắng Quốc gia
ngày 13/04/2000
Số 162/QĐ-UB
18 22 Đình Yên Lão Thị Xã Tiến Thịnh Thành phố
ngày 17/01/2001
23 Đình Trung Hà, Số 189/QĐ-UBND
19 Xã Tiến Thịnh Thành phố
24 chùa Ngũ Phúc ngày 24/01/2006
Số 175/QĐ-UBND
20 25 Đình Chu Trần Xã Tiến Thịnh Thành phố
ngày 24/01/2006
Số 3428/QĐ-UBND
21 26 Đình Kỳ Đồng Xã Tiến Thịnh Thành phố
ngày 21/7/2011
Số 871/QĐ-UB
22 27 Đình Yên Lão Giáp Xã Tiến Thịnh Thành phố
ngày 05/07/1993
Số 438/QĐ-UBND
23 28 Đình Đông Cao Xã Tráng Việt Thành phố
ngày 07/02/2007
Số 3959/VH-QĐ
24 29 Đình Phú Mỹ Xã Tự Lập Quốc gia
ngày 02/12/1992
Số 141/QĐ-VH
25 30 Đình Cả Xã Văn Khê Quốc gia
ngày 23/01/1997
31 Đình Yên Nội, chùa Số 332/QĐ-UBND
26 Xã Vạn Yên Thành phố
32 Phượng Linh ngày 30/01/2008
205

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 2015-QĐ/BT
1 1 Đình Thượng Thôn Xã Tuy Lai Quốc gia
ngày 16/12/1993
2 Số 158QĐ/UB
2 Đình, Quán Trê Xã Tuy Lai Thành phố
3 ngày 4/2/2003
Số 158QĐ/UB
3 4 Đình Khang Cát Xã Tuy Lai Thành phố
ngày 4/2/2003
Số 47QĐ/UB
4 5 Đình Khê Bộ Xã Tuy Lai Thành phố
ngày 10/1/2003
6 Số 2713QĐ/UB
5 Đình, chùa Làng Đình Xã Tuy Lai Thành phố
7 ngày 31/12/2003
9 Số 635QĐ/UB
6 Đình, chùa Nhượng Lê Xã Tuy Lai Thành phố
9 ngày 14/6/2004
Số 664QĐ/UB
7 10 Đình Quýt Xã Tuy Lai Thành phố
ngày 30/6/1998
Số 664QĐ/UB
8 11 Đình Trung Xã Tuy Lai Thành phố
ngày 30/6/1998
Số 651QĐ/UB
9 12 Đình thôn Bèn Xã Tuy Lai Thành phố
ngày 21/5/2003
13 Số 2713QĐ/UB
10 Đình, quán Giáp Bốn Xã Tuy Lai Thành phố
14 ngày 31/12/2003
Số 2406QĐ/UB
11 15 Đình Làng Cầu Xã Tuy Lai Thành phố
ngày 15/11/2003
Số 30/2000/QĐ-BVHTT
12 16 Đình Kênh Đào Xã An Mỹ Quốc gia
ngày 24/11/2000
Số 1811/QĐ-BVHTT
13 17 Đình Tảo khê Xã An Mỹ Quốc gia
ngày 31/8/1998
18 Số 18QĐ/UB
14 Đình, đền Đoan Nữ Xã An Mỹ Thành phố
19 ngày 08/01/2002
20
Đình, đền, Số 1057/QĐ
15 21 Xã Bột Xuyên Quốc gia
chùa Phúc Khê ngày 14/6/1991
22
206

Số 680/QĐ
16 23 Đình Phú Hữu Xã Bột Xuyên Quốc gia
ngày 19/4/1991
Số 774QĐ/BT
17 24 Đình Bột Xuyên Xã Bột Xuyên Quốc gia
ngày 21/6/1993
Số 1958 QĐ/UB
18 25 Đình Phú Văn Xã Bột Xuyên Thành phố
ngày 21/12/2005
Số 672 QĐ/UB
19 26 Đình Mỹ Tiên Xã Bột Xuyên Thành phố
ngày 19/4/2007
Số 169/QĐ-UBND
20 27 Đình Lai Tảo Xã Bột Xuyên Thành phố
ngày 22/01/2008
Số 30/2000/QĐ-BVHTT
21 28 Đình Áng Thượng Xã Lê Thanh Quốc gia
ngày 24/11/2000
Số 174 QĐ/UB
22 29 Đình Đức Thụ Xã Lê Thanh Thành phố
ngày 05/2/2002
Số 1516 QĐ/UB
23 30 Đình Áng Hạ Xã Lê Thanh Thành phố
ngày 21/10/2005
Số 154/QĐ
24 31 Đình Thượng Lâm Xã Thượng Lâm Quốc gia
ngày 25/1/1991
32 Số 52/2001/QĐ-BVHTT
25 Đình, quán Đông Đoài Xã Xuy Xá Quốc gia
33 ngày 28/12/2001
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
26 34 Đình Yến Vĩ Xã Hương Sơn Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 24QĐ/UB
27 35 Đình Tiên Mai Xã Hương Sơn Thành phố
ngày 28/1/1988
Số 651QĐ/UB
28 36 Đình thôn Hạ Xã Phùng Xá Thành phố
ngày 21/5/2002
Số 651QĐ/UB
29 37 Đình thôn Thượng Xã Phùng Xá Thành phố
ngày 21/5/2002
Số 206QD/UB
30 38 Đình Hà Xá Xã Đại Hưng Thành phố
ngày 19/2/2002
Số 206QD/UB
31 39 Đình Trinh Tiết Xã Đại Hưng Thành phố
ngày 19/2/2002
40
41
42 Đình, đền Phù Lưu
(đình Hội Đồng, đền Số 82QĐ/UB
32 43 Xã Phù Lưu Tế Thành phố
Thượng, đền Trung, đền ngày 19/01/2004
44 Hạ, đền La Mai)
45
46
207

47 Số 2004/QĐ-UBND
33 Đình, đền An Đà Xã An Tiến Thành phố
48 ngày 03/07/2008
Số 2064/QĐ-UBND
34 49 Đình Thượng Xã An Tiến Thành phố
ngày 7/11/2007
Số 454QĐ/UB
35 50 Đình Hoành Xã Đồng Tâm Thành phố
ngày 14/5/1998
51 Số 2713 QĐ/UB
36 Đình, đền Đông Bình Xã Hùng Tiến Thành phố
52 ngày 31/12/2003
Số 5779/QĐ-UBND
37 53 Đình Hưng Nông Xã Hùng Tiến Thành phố
ngày 11/12/2012
54 Số 167QĐ/UB
38 Đình, chùa Vĩnh Lạc Xã Mỹ Thành Thành phố
55 ngày 25/2/2000
Số 1958 QĐ/UB
39 56 Đình Thượng Xã Phúc Lâm Thành phố
ngày 21/12/2005
Số 1958 QĐ/UB
40 57 Đình Chung Xã Phúc Lâm Thành phố
ngày 21/12/2005
Đình Thượng Số 1958 QĐ/UB
41 58 Xã Phúc Lâm Thành phố
Khảm Lâm ngày 21/12/2005
Số 1958 QĐ/UB
42 59 Đình Hạ Khảm Lâm Xã Phúc Lâm Thành phố
ngày 21/12/2005
Số 1958 QĐ/UB
43 60 Đình Chân Chim Xã Phúc Lâm Thành phố
ngày 21/12/2005
Số 1516 QĐ/UB
44 61 Đình Đốc Hậu Xã Đốc Tín Thành phố
ngày 21/10/2005
208

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 3211-QĐ/BT
1 1 Đình Lạt Dương Xã Hồng Thái Quốc gia
ngày 12/12/1994
Đình Thượng Số 05/1999/QĐ-BVHTT
2 2 Xã Hồng Thái Quốc gia
Diên Yết ngày 12/02/1999
Số 141QĐ/VH
3 3 Đình Hạ Diên Trang Xã Hồng Thái Quốc gia
ngày 23/01/1997
4 Đình, miếu Số 1460QĐ/VH
4 Xã Nam Triều Quốc gia
5 Nam Quất ngày 28/6/1996
Số 2861QĐ/BT
5 6 Đình Phong Triều Xã Nam Triều Quốc gia
ngày 04/9/1995
7 Số 56/2008/QĐ-
6 Đình, đền Nam Phú Xã Nam Phong Quốc gia BVHTTDL
8 ngày 17/7/2008
Số 2005 QĐ-UBND
7 9 Đình Cổ Châu Xã Nam Phong Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 57/2008/QĐ-
8 10 Đình Tư Can Xã Châu Can Quốc gia BVHTTDL
ngày 17/7/2008
Số 664QĐ/UB
9 11 Đình Hạ Nghĩa Lập Xã Châu Can Thành phố
ngày 30/6/1998
Số 1439QĐ/UB
10 12 Đình Cổ Châu Xã Châu Can Thành phố
ngày 20/12/2004
Số 57VH/QĐ
11 13 Đình Cát Bi Xã Thuỵ Phú Quốc gia
ngày 18/01/1993
Số 01/1999/QĐ-BVHTT
12 14 Đình Mễ Xã Quang Lãng Quốc gia
ngày 04/01/1999
15 Đình, chùa Sảo Số 04/2001QĐ-BVHTT
13 Xã Quang Lãng Quốc gia
16 Thượng ngày 19/01/2001
209

Số 664QĐ/UB
14 17 Đình Tầm Khê Xã Quang Lãng Thành phố
ngày 30/6/1998
Số 1210QĐ/UB
15 18 Đình Tạ Xã Quang Lãng Thành phố
ngày 09/11/1999
Số 664QĐ/UB
16 19 Đình Quang Lãng Xã Quang Lãng Thành phố
ngày 30/6/1998
Số 942QĐ/UB
17 20 Đình Viên Hoàng Xã Hoàng Long Thành phố
ngày 23/9/2004
Số 02/1999/QĐ-VH
18 21 Đình Mai Trang Xã Minh Tân Quốc gia
ngày 23/01/1999
Số 141QĐ/VH
19 22 Đình Thần Qui Xã Minh Tân Quốc gia
ngày 23/01/1997
Số 30/2000/QĐ-BVHTT
20 23 Đình Kim Qui Xã Minh Tân Quốc gia
ngày 24/11/2000
Đền thờ Tổ nghề Số 460/QĐ-BT
21 24 Xã Chuyên Mỹ Quốc gia
khảm Trai ngày 18/3/1996
Số 141QĐ/VH
22 25 Đình Phú Đôi Xã Đại Thắng Quốc gia
ngày 23/01/1997
Số 404/QĐ-UBND
23 26 Đình Văn Hội Xã Đại Thắng Thành phố
ngày 24/01/2011
Số 402/QĐ-UBND
24 27 Đình Tạ Xá Xã Đại Thắng Thành phố
ngày 24/01/2011
Số 04/2001QĐ-BVHTT
25 28 Đình Hoà Mỹ Xã Hồng Minh Quốc gia
ngày 19/01/2001
Số 2713QĐ/UB
26 29 Đình Phù Bật Xã Hồng Minh Thành phố
ngày 31/12/2003
Số 169/QĐ-UBND
27 30 Đình An Cốc Xã Hồng Minh Thành phố
ngày 22/01/2008
Số 743/QĐ-UBND
28 31 Đình An Cốc Hạ Xã Hồng Minh Thành phố
ngày 02/4/2008
Số 165VH/QĐ
29 32 Đình Tri Chỉ Xã Tri Trung Quốc gia
ngày 21/11/1985
Đình Trung Lập Số 18QĐ/UB
30 33 Xã Tri Trung Thành phố
(đình Vũ, đình Đại ) ngày 08/01/2002
Đình Đại Đồng Thị trấn Phú Số 795QĐ/UB
31 34 Thành phố
Đông Xuyên ngày 29/7/1998
210

Số 2861QĐ/BT
32 35 Đình Đa Chất Xã Đại Xuyên Quốc gia
ngày 04/9/1995
Số 546QĐ/UB
33 36 Đình Cổ Trai Xã Đại Xuyên Thành phố
ngày 20/5/2004
37 Số 1516 QĐ/UB
34 Đình, chùa Thái Lai Xã Đại Xuyên Thành phố
38 ngày 21/10/2005
Số 2005 QĐ-UBND
35 39 Đình Kiều Đông Xã Đại Xuyên Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 3211QĐ/BT
36 40 Đình Giẽ Hạ Xã Phú Yên Quốc gia
ngày 12/12/94
Số 141QĐ/VH
37 41 Đình Giẽ Thượng Xã Phú Yên Quốc gia
ngày 23/01/1997
Số 57VH/QĐ
38 42 Đình Phượng Vũ Xã Phượng Dực Quốc gia
ngày 18/01/1993
43 Số 546QĐ/UB
39 Đình, chùa Bái Đô Xã Tri Thuỷ Thành phố
44 ngày 20/5/2004
Số 1503QĐ/UB
40 45 Đình Trí Thuỷ Xã Tri Thuỷ Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 1586QĐ/UB
41 46 Đình Nho Tống Thị trấn Phú Minh Thành phố
ngày 28/11/2002
Số 1586QĐ/UB
42 47 Chùa Nho Tống Thị trấn Phú Minh Thành phố
ngày 28/11/2002
48 Số 559QĐ/UB
43 Đình, miếu Lưu Xá Xã Phú Túc Thành phố
49 ngày 08/6/1998
Đình Phú Túc Số 559QĐ/UB
44 50 Xã Phú Túc Thành phố
(xóm I) ngày 08/6/1998
Đình Phú Túc Số 1586QĐ/UB
45 51 Xã Phú Túc Thành phố
(xóm II) ngày 28/11/2002
Số 2064/ QĐ-UBND
46 52 Đình Lưu Đông Xã Phú Túc Thành phố
ngày 07/11/2007
Số 546QĐ/UB
47 53 Đình Lưu Thượng Xã Phú Túc Thành phố
ngày 20/5/2004
Số 2064/ QĐ-UBND
48 54 Đình Ngải Khê Xã Tân Dân Thành phố
ngày 07/11/2007
55 Đình, Số 1439QĐ/UB
49 Xã Quang Trung Thành phố
56 miếu Phú Nhiêu ngày 20/12/2004
211

Số 743/QĐ-UBND
50 57 Đình Tri Lễ Xã Quang Trung Thành phố
ngày 02/4/2008
Số 1439QĐ/UB
51 58 Đình Cổ Chế Xã Phúc Tiến Thành phố
ngày 20/12/2004
Số 2713QĐ/UB
52 59 Đình Phúc Lâm Xã Phúc Tiến Thành phố
ngày 31/12/2003
Số 2004/QĐ-UBND
53 60 Đình Nhân Vực Xã Văn Nhân Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 1504 QĐ/UB
54 61 Đình Văn Trai Xã Văn Hoàng Thành phố
ngày 10/8/2005
Số 2702/QĐ-UBND
55 62 Đình Nội Xã Văn Hoàng Thành phố
ngày 18/4/2013
Số 938QĐ/UB
56 63 Đình Thuỷ Trú Xã Bạch Hạ Thành phố
ngày 23/8/2000
Số 1760/QĐ-UBND
57 64 Đình Hòa Hạ Xã Bạch Hạ Thành phố
ngày 2/4/2014
Số 2005 QĐ-UBND
58 65 Đình Vĩnh Hạ Xã Khai Thái Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 743/QĐ-UBND
59 66 Đình Hà Thao Nội Xã Sơn Hà Thành phố
ngày 02/4/2008
212

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
1
Đình, miếu, Số 2009/QĐ
1 2 Xã Sen Chiểu Quốc gia
chùa Sen Chiểu ngày 15/11/1991
3
4
Đình, miếu, chùa Số 2009/QĐ
2 5 Xã Sen Chiểu Quốc gia
Thanh Chiểu ngày 15/11/1991
6
7 Đình Ân Phú và chùa Số 2009/QĐ
3 Xã Xuân Phú Quốc gia
8 Tăng Hoa (Ân Phú) ngày 15/11/1991
Số 795QĐ/UB
4 9 Đình Phú Châu Xã Xuân Phú Thành phố
ngày 29/7/1998
10 Số 2009/QĐ
5 Đình - chùa Tăng Non Xã Thanh Đa Quốc gia
11 ngày 15/11/1991
Số 2037QĐ/VH
6 12 Đình Thanh Mạc Xã Thanh Đa Quốc gia
ngày 30/12/1991
Đình Thuấn Số 2009/QĐ
7 13 Xã Tam Thuấn Quốc gia
Nhuế Nội ngày 15/11/1991
Đình Thuấn Số 2009/QĐ
8 14 Xã Tam Thuấn Quốc gia
Nhuế Ngoại ngày 15/11/1991
Số 3902/QĐ-UBND
9 15 Đình Thuấn Trung Xã Tam Thuấn Thành phố
ngày 20/8/2011
Số 1728VH/QĐ
10 16 Đình Hạ Hiệp Xã Liên Hiệp Quốc gia
ngày 2/10/1991
Số 91 QĐ/UB
11 17 Đình Hiếu Hiệp Xã Liên Hiệp Thành phố
ngày 28/01/2005
Số 3744QĐ/BVHTT
12 18 Đình Hiệp Lộc Xã Hiệp Thuận Quốc gia
ngày 29/11/1997
213

Số 52/2001/QĐ-BVHTT
13 19 Đình Yên Dục Xã Hiệp Thuận Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 500 QĐ/UB
14 20 Đình Quế Lâm Xã Hiệp Thuận Thành phố
ngày 26/3/2007
21 Đình Mỹ Giang, Số 1570VH/QĐ
15 Xã Tam Hiệp Quốc gia
22 chùa Thiệu Long ngày 5/9/1989
23 Chùa Ba Giai, đình Số 2307/QĐ
16 Xã Tam Hiệp Quốc gia
24 Thượng Hiệp ngày 30/12/1991
Số 651QĐ/UB
17 25 Đình Hoà Thôn Xã Tam Hiệp Thành phố
ngày 21/5/2002
Số 4394/QĐ-UBND
18 26 Đình Miếu Thôn Xã Tam Hiệp Thành phố
ngày 22/7/2013
27
Đình, chùa, Số 1539/QĐ
19 28 Xã Ngọc Tảo Quốc gia
miếu Giáo Hạ ngày 27/12/1990
29
30 Số 34VH/QĐ
20 Đình, chùa Ngọc Tảo Xã Ngọc Tảo Quốc gia
31 ngày 09/1/1990
32 Đình, chùa Hương Số 91QĐ/UB
21 Xã Ngọc Tảo Thành phố
33 Tảo ngày 28/1/2005
Số 1236QĐ-UBND
22 34 Đình Hương Vĩnh Xã Ngọc Tảo Thành phố
ngày 10/302011
Số 34VH/QĐ
23 35 Đình Thu Vi Xã Thượng Cốc Quốc gia
ngày 09/1/1990
36 Số 158QĐ/UB
24 Đình, chùa Kim Lũ Xã Thượng Cốc Thành phố
37 ngày 4/2/2003
38 Đình, chùa Số 306 QĐ/UB
25 Xã Thượng Cốc Thành phố
39 Thượng Cốc ngày 22/02/2006
40 Đình Phù Long Số 68VH/QĐ
26 Xã Long Xuyên Quốc gia
41 và Đền Vũ Lâm ngày 29/1/1993
42 Đình Bảo Vệ Số 68VH/QĐ
27 Xã Long Xuyên Quốc gia
43 và Đền Long Đại ngày 29/1/1993
Số 4523/QĐ-UBND
28 44 Đình Triệu Xuyên Xã Long Xuyên Thành phố
ngày 12/10/2012
214

45 Đình, chùa Số 74VH/QĐ


29 Xã Tích Giang Quốc gia
46 Tường Phiêu ngày 2/2/1993
47 Số 74VH/QĐ
30 Đình, chùa Cung Sơn Xã Tích Giang Quốc gia
48 ngày 2/2/1993
49 Số 18QĐ/UB
31 Đình, đền Phương Độ Xã Phương Độ Thành phố
50 ngày 08/01/2002
Số 795QĐ/UB
32 51 Đình Phúc Lộc Xã Phương Độ Thành phố
ngày 29/7/1998
Số 1210QĐ/UB
33 52 Đình Vân Cốc Xã Vân Phúc Thành phố
ngày 9/11/1999
Số 1210QĐ/UB
34 53 Đình Bách Lộc Xã Thọ Lộc Thành phố
ngày 9/11/1999
Số 158QĐ/UB
35 54 Đình Nghĩa Lộ Xã Võng Xuyên Thành phố
ngày 4/2/2003
55 Số 2406QĐ/UB
36 Đình, miếu Bảo Lộc Xã Võng Xuyên Thành phố
56 ngày 15/11/2003
Số 942QĐ/UB
37 57 Đình Võng Ngoại Xã Võng Xuyên Thành phố
ngày 23/9/2004
Số 743/QD-UBND
38 58 Đình Võng Nội Xã Võng Xuyên Thành phố
ngày 2/4/2008
Số 1979 QĐ/UB
39 59 Đình Lục Giã Xã Võng Xuyên Thành phố
ngày 14/11/2006
Số 1979 QĐ/UB
40 60 Đình Phúc Trạch Xã Võng Xuyên Thành phố
ngày 14/11/2006
Số 353 QĐ/UB
41 61 Đình Thư Trai Xã Phúc Hoà Thành phố
ngày 28/02/2007
Số 353 QĐ/UB
42 62 Đình Thanh Phần Xã Phúc Hoà Thành phố
ngày 28/02/2007
215

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN QUỐC OAI QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
CẤP
Theo QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ XẾP
cụm XẾP HẠNG
HẠNG
di tích đơn lẻ
1 Số 1728/QĐ
1 Đình, chùa Hạ Hoà Xã Tân Phú Quốc gia
2 ngày 2/10/1991
3 Số 68QĐ/UB
2 Đình, quán Yên Quán Xã Tân Phú Thành phố
4 ngày 15/1/2003
Số 34VH/QĐ
3 5 Đình Tình Lam Xã Đại Thành Quốc gia
ngày 09/1/1990
Số 34VH/QĐ
4 6 Đình Đại Tảo Xã Đại Thành Quốc gia
ngày 09/1/1990
Số 202 QĐ/UB
5 7 Đình Độ Chàng Xã Đại Thành Thành phố
ngày 25/01/2006
Số 5569/QĐ-UBND
6 8 Đình Bất Lạm Xã Đại Thành Thành phố
ngày 30/11/2012
Số 772/QĐ-UBND
7 9 Đình Đại Phu Xã Liệp Tuyết Thành phố
ngày 27/1/2014
Số 771/QĐ-UBND
8 10 Chùa Đại Phu Xã Liệp Tuyết Thành phố
ngày 27/1/2014
11 Số 52/2001/QĐ-
9 Đình, chùa Phú Mỹ Xã Ngọc Mỹ Quốc gia BVHTT
12
ngày 28/12/2001
Số 147VH/QĐ
10 13 Đình Ngọc Than Xã Ngọc Mỹ Quốc gia
ngày 24/12/1982
14 Đình và văn chỉ Số 65VH/QĐ
11 Xã Nghĩa Hương Quốc gia
15 Thế Trụ ngày 16/1/1995
Số 1586QĐ/UB
12 16 Đình Văn Khê Xã Nghĩa Hương Thành phố
ngày 28/11/2002
Số 174 QĐ/UB
13 17 Đình Thuỵ Khuê Xã Sài Sơn Thành phố
ngày 05/2/2002
216

Số 174 QĐ/UB
14 18 Đình Đa Phúc Xã Sài Sơn Thành phố
ngày 05/2/2002
Số 2064/QĐ-UBND
15 19 Đình Khánh Tân Xã Sài Sơn Thành phố
ngày 7/11/2007
Số 92VHTT/QĐ
16 20 Đình So Xã Cộng Hoà Quốc gia
ngày 10/7/1980
Số 599/QĐ
17 21 Đình Phượng Cách Xã Phượng Cách Quốc gia
ngày 11/3/1992
Số 281QĐ/BT
18 22 Đình Cù Sơn Trung Xã Yên Sơn Quốc gia
ngày 24/3/1993
Số 47QĐ/UB
19 23 Đình Quảng Yên Xã Yên Sơn Thành phố
ngày 10/1/2003
Số 1210QĐ/UB
20 24 Đình Ba Nhà Xã Yên Sơn Thành phố
ngày 9/11/1999
Số 177 VH/QĐ
21 25 Đình Ngô Sài Thị trấn Quốc Oai Quốc gia
ngày 5/3/1990
Số 177 VH/QĐ
22 26 Đình Yên Nội Xã Đồng Quang Quốc gia
ngày 5/3/1990
Số 5884/QĐ-UBND
23 27 Đình Dương Cốc Xã Đồng Quang Thành phố
ngày 17/12/2012
Số 2890VH/QĐ
24 28 Đình Ngọc Phúc Xã Ngọc Liệp Quốc gia
ngày 27/9/1997
29 Số 47QĐ/UB
25 Đình, quán Liệp Mai Xã Ngọc Liệp Thành phố
30 ngày 10/1/2003
Số 664QĐ/UB
26 31 Đình Thổ Ngoã Xã Tân Hoà Thành phố
ngày 30/6/1998
32 Đình, chùa Cấn Xá Số 1568QĐ/BT
27 Xã Cấn Hữu Quốc gia
33 Thượng ngày 20/4/1995

Số 06/2008/QĐ-
28 34 Đình Đĩnh Tú Xã Cấn Hữu Quốc gia BVHTTDL
ngày 26/2/2008
Số 233QĐ/UB
29 35 Đình Thượng Khê Xã Cấn Hữu Thành phố
ngày 3/3/2003
Số 68QĐ/UB
30 36 Đình Thái Khê Xã Cấn Hữu Thành phố
ngày 17/1/2001
217

Số 4525/QĐ-UBND
31 37 Đình Cấn Hạ Xã Cấn Hữu Thành phố
ngày 12/10/2012
Số 991QĐ/UB
32 38 Đình Cổ Hiền Xã Tuyết Nghĩa Thành phố
ngày 26/5/2006
Số 2005 QĐ-UBND
33 39 Đình Muôn Xã Tuyết Nghĩa Thành phố
ngày 3/7/2008
Số 68QĐ/UB
34 40 Đình Phú Cát Xã Phú Cát Thành phố
ngày 17/1/2001
Số 164QĐ/UB
35 41 Đình Đông Hạ Xã Đông Yên Thành phố
ngày 23/3/1996
Số 1516QĐ/UB
36 42 Đình Yên Thái Xã Đông Yên Thành phố
ngày 21/10/2005
43 Số 743/QĐ-UBND
37 Đình, chùa Việt Yên Xã Đông Yên Thành phố
44 ngày 2/4/2008
45 Đình, chùa Đông Số 979/QĐ-UBND
38 Xã Đông Yên Thành phố
46 Thượng ngày 18/2/2013
218

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 08/2008/QĐ-
1 1 Đình Phú Tàng Bắc Phú Quốc gia BVHTTDL
ngày 26/02/2008
2 Số 372QĐ/BT
2 Đình, chùa Đức Hậu Xã Đức Hoà Quốc gia
3 ngày 10/3/1994
Số 745/QĐ-UBND
3 4 Đình Thôn Trung Xã Đức Hoà Thành phố
ngày 15/02/2007
Số 747/QĐ-UBND
4 5 Đình Thôn Thượng Xã Đức Hoà Thành phố
ngày 15/2/2007
Số 95-1998/QĐ-BVHTT
5 6 Đình Hiền Lương Xã Hiền Ninh Quốc gia
ngày 24/01/1998
Số 5191/QĐ-UB
6 7 Đình Yên Ninh Xã Hiền Ninh Thành phố
ngày 30/7/2002
Số 5214/QĐ-UB
7 8 Đình kim Thượng Xã Kim Lũ Thành phố
ngày 01/9/2003
Số 5320/QĐ-UB
8 9 Đình Xuân Dương Xã Kim Lũ Thành phố
ngày 03/9/2003
Số 5192/QĐ-UB
9 10 Đình Hoàng Dương Xã Mai Đình Thành phố
ngày 30/7/2002
Số 6475/QĐ-UBND
10 11 Đình Mai Nội Xã Mai Đình Thành phố
ngày 28/10/2013
Số 6475/QĐ-UBND
11 12 Đình Mai Nội Xã Mai Đình Thành phố
ngày 28/10/2013

12 13 Đình Vụ Bản Xã Minh Trí Thành phố Số 5190/QĐ-UB ngày


30/7/2002
Số 2707/QĐ-UBND
13 14 Đình Báng Xã Nam Sơn Thành phố
ngày 18/4/2013
Số 2569/QĐ-UBND
14 15 Đình Liên Lý Xã Phù Lỗ Thành phố
ngày 28/5/2009
16 Số 2009QĐ
15 Đình, chùa Phù Xá Đoài Xã Phú Minh Quốc gia
17 ngày 15/11/1991
219

Số 1645/QĐ-UB
16 18 Đình Xuân Bách Xã Quang Tiến Thành phố
ngày 25/3/2003
Số 77/2006-QĐ-BVHTT
17 19 Đình Thạch Lỗi Xã Thanh Xuân Quốc gia
ngày 28/9/2006
Số 78/2006/QĐ-BVHTT
18 20 Đình Dược Hạ Xã Tiên Dược Quốc gia
ngày 28/9/2006
21 Số 812/QĐ-UBND
19 Đình, chùa Tiên Tảo Xã Việt Long Thành phố
22 ngày 29/2/2008
Số 2645/QĐ - UBND
20 23 Đình Tăng Long Xã Việt Long Thành phố
ngày 14/6/2012
Số 868/QĐ-UBND
21 24 Đình Xuân Tinh Xã Tân Minh Thành phố
ngày 21/02/2011
Số 3744QĐ-BVHTT
22 25 Đình Thượng Xuân Lai Xã Xuân Thu Quốc gia
ngày 20/12/1997
Số 3951QĐ/BVHTT
23 26 Đình Hạ Xuân Lai Xã Xuân Thu Quốc gia
ngày 20/12/1997
Số 4184QĐ-UBND
24 27 Đình Yên Phú Xã Xuân Thu Thành phố
ngày 27/8/2010
Số 640/QĐ-UBND
25 28 Đình Thanh Trí Xã Minh Phú Thành phố
ngày 13/2/2007
220

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 1460QĐ/VH
1 1 Đình Đại Đồng Xã Đại Đồng Quốc gia
ngày 28/6/1996
Số 2406QĐ/UB
2 2 Đình Hương Lam Xã Đại Đồng Thành phố
ngày 15/11/2003
3 Số 743/QĐ-UBND
3 Đình và miếu Ngọc Lâu Xã Đại Đồng Thành phố
4 ngày 02/4/2008
Số 57VH/QĐ
4 5 Đình Phú Đa Xã Bình Phú Quốc gia
ngày 18/01/1993
Số 655QĐ/UB
5 6 Đình Bình Xá Xã Bình Phú Thành phố
ngày 03/7/2000
Số 68QĐ/UB ngày
6 7 Đình Phú ổ Xã Bình Phú Thành phố
17/01/2001
Số 158QĐ/UB
7 8 Đình Thái Hoà Xã Bình Phú Thành phố
ngày 04/02/2003
Số 57VH/QĐ
8 9 Đình Yên Lạc Xã Cần Kiệm Quốc gia
ngày 18/01/1993
10 Số 655QĐ/UB
9 Đình, chùa Phú Lễ Xã Cần Kiệm Thành phố
11 ngày 03/7/2000
Số 1503QĐ/UB
10 12 Đình Phú Đa Xã Cần Kiệm Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 58/2008/QĐ-
11 13 Đình Đồng Táng Xã Đồng Trúc Quốc gia BVHTTDL
ngày 17/7/2008
Số 993/QĐ
12 14 Đình Trúc Động Xã Đồng Trúc Quốc gia
ngày 28/9/1990
Số 1091QĐ/UB
13 15 Đình Đồng Kho Xã Đồng Trúc Thành phố
ngày 18/7/2001
16 Nhà thờ và mộ Phùng Số 34VH/QĐ
14 Xã Phùng Xá Quốc gia
17 Khắc Khoan ngày 09/1/1990
Số 57VH/QĐ
15 18 Đình Phùng Thôn Xã Phùng Xá Quốc gia
ngày 18/01/1993
Số 907/QĐ-UBND
16 19 Đình Yên Lỗ Xã Cẩm Yên Thành phố
ngày 21/02/2012
20 Số 2009/QĐ
17 Đình, chùa Kim Quan Xã Kim Quan Quốc gia
21 ngày 15/11/1991
Số 95/1998/QĐ-BVHTT
18 22 Đình Yên Thôn Xã Thạch Xá Quốc gia
ngày 31/8/1998
221

23 Số 1430QĐ/BT
19 Đình, quán Canh Nậu Xã Canh Nậu Quốc gia
24 ngày 12/10/1993
25 Số 1539/QĐ
20 Đình, chùa Thôn Bến Xã Dị Nậu Quốc gia
26 ngày 27/12/1990
27 Số 1539/QĐ
21 Đình, chùa Dị Nậu Xã Dị Nậu Quốc gia
28 ngày 27/12/1990
Số 423QĐ/VH
22 29 Đình Vồi Xã Phú Kim Quốc gia
ngày 20/02/1997
30 Số 655QĐ/UB
23 Đình, quán Thuý Lai Xã Phú Kim Thành phố
31 ngày 03/7/2000
Số 743/QĐ-UBND
24 32 Đình Phú Nghĩa Xã Phú Kim Thành phố
ngày 02/4/2008
33 Số 1728/QĐ
25 Đình, quán Chàng Sơn Xã Chàng Sơn Quốc gia
34 ngày 02/10/1991
Số 30/2000/QĐ-BVHTT
26 35 Đình Đào Viên Xã Tân Xã Quốc gia
ngày 24/11/2000
Đình Mục Uyên (Quán Số 174 QĐ/UB
27 36 Xã Tân Xã Thành phố
Trăn) ngày 05/02/2002
37
Đình, chùa, văn chỉ Hữu Số 1570-VH/QĐ
28 38 Xã Hữu Bằng Quốc gia
Bằng ngày 05/9/1989
39
Số 664QĐ/UB
29 40 Đình Hạ Bằng Xã Hạ Bằng Thành phố
ngày 30/6/1998
Số 1516 QĐ/UB
30 41 Đình Lại Thượng Xã Lại Thượng Thành phố
ngày 21/10/2005
Số 1516 QĐ/UB
31 42 Đình Lê Xã Lại Thượng Thành phố
ngày 21/10/2005
Số 1053QĐ/UB
32 43 Đình Yên Mỹ Xã Bình Yên Thành phố
ngày 29/12/2004
Số 743/QĐ-UBND
33 44 Đình Linh Sơn Xã Bình Yên Thành phố
ngày 02/4/2008
45 Số 5066/QĐ-UBND
34 Đình, chùa Phúc Tiến Xã Bình Yên Thành phố
46 ngày 22/8/2013
Số 1054 QĐ/UB
35 47 Đình Đông Thanh Xã Hương Ngải Thành phố
ngày 10/8/2005
Số 1054 QĐ/UB
36 48 Đình Giang Xã Hương Ngải Thành phố
ngày 10/8/2005
222

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH OAI QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
1
Đình, chùa, miếu Số 608VH/QĐ
1 2 Xã Xuân Dương Quốc gia
Trường Xuân ngày 29/5/1989
3
Số 672QĐ/UB
2 4 Đình Vân Đồng Xã Xuân Dương Thành phố
ngày 19/4/2007
5 Đình, miếu Số 866VH/QĐ
3 Xã Mỹ Hưng Quốc gia
6 Thiên Đông ngày 20/5/1991
7 Số 02/1999/QĐ-BVHTT
4 Đình, chùa Đan Thầm Xã Mỹ Hưng Quốc gia
8 ngày 26/1/1999
Số 95/1998/QĐ-BVHTT
5 9 Đình Phượng Mỹ Xã Mỹ Hưng Quốc gia
ngày 24/1/1998
Số 39/2002/QĐ-BVHTT
6 10 Đình Thạch Nham Xã Mỹ Hưng Quốc gia
ngày 30/12/2002
Số 68QĐ/UB
7 11 Đình Quảng Minh Xã Mỹ Hưng Thành phố
ngày 17/1/2001
Số 795QĐ/UB
8 12 Đình Đàn Viên Xã Cao Viên Thành phố
ngày 29/7/1998
Số 167QĐ/UB
9 13 Đình Phù Lạc Xã Cao Viên Thành phố
ngày 25/2/2000
Số 2015QĐ/BT
10 14 Đình Lê Dương Xã Tam Hưng Quốc gia
ngày 16/12/1993
Số 06/2000/QĐ-BVHTT
11 15 Đình Kim Xã Tam Hưng Quốc gia
ngày 13/4/2000
Số 169/QĐ-UBND
12 16 Đình Bùi Xá Xã Tam Hưng Thành phố
ngày 22/01/2008
17 Số 243QĐ/UB
13 Đình, miếu Văn Khê Xã Tam Hưng Thành phố
18 ngày 05/02/2007
19 Số 52/2001/QĐ-BVHTT
15 Đình, đền Văn Quán Xã Đỗ Động Quốc gia
20 ngày 28/12/2001
Số 1687/QĐ-UBND
16 21 Đình Cự Thần Xã Đỗ Động Thành phố
ngày 28/3/2014
223

Số 1782/QĐ-UBND
17 22 Đình Trình Xá Xã Đỗ Động Thành phố
ngày 3/4/2014
23 Số 1266/QĐ
18 Đình, miếu Đôn Thư Xã Kim Thư Quốc gia
24 ngày 22/9/1992
Số 1266/QĐ
19 25 Đình Kim Châu Xã Kim Thư Quốc gia
ngày 22/9/1992
Số 4524/QĐ-UBND
20 26 Đình Kim Thành Xã Kim Thư Thành phố
ngày 12/10/2012
27 Số 28VH/QĐ
21 Đình, chùa Từ Châu Xã Liên Châu Quốc gia
28 ngày 18/1/1988
Số 65QĐ/BT
22 29 Đình Châu Mai Xã Liên Châu Quốc gia
ngày 16/1/1995
30
Đình, miếu, chùa Khúc Số 457QĐ
23 31 Xã Cự Khê Quốc gia
Thuỷ ngày 25/3/1991
32
33 Số 06/2000/QĐ-BVHTT
24 Đình, miếu Cự Đà Xã Cự Khê Quốc gia
34 ngày 13/4/2000
35 Số 15/VH/QĐ
25 Đình, chùa Khê Tang Xã Cự Khê Quốc gia
36 ngày 27/1/1986
37 Đình, chùa Thanh Số 177 VH/QĐ
26 Xã Thanh Cao Quốc gia
38 Thần ngày 5/3/1990
Số 18QĐ/UB
27 39 Đình Cao Mật Thượng XãThanh Cao Thành phố
ngày 08/01/2002
Số 1085QĐ/UB
28 40 Đình Cao Mật Hạ Xã Thanh Cao Thành phố
ngày 31/7/2003
Số 680 VH/QĐ
29 41 Đình Canh Hoạch Xã Dân Hoà Quốc gia
ngày 19/4/1991
Đền thờ Đào Quang Số 03/2000/QĐ- BVHTT
30 42 Xã Dân Hoà Quốc gia
Nhiêu ngày 01/02/2000
43
Đình, đền, chùa Phú Số 332QĐ/UB
31 44 Xã Dân Hoà Thành phố
Thọ ngày 30/3/2004
45
46 Số 385QĐ/UB
32 Đình, đền Vũ Lăng Xã Dân Hoà Thành phố
47 ngày 2/4/2003
48 Số 3901/QĐ-UBND
33 Đình, miếu Tiên Lữ Xã Dân Hoà Thành phố
49 ngày 20/8/2011
Số 3903/QĐ-UBND
34 50 Đình An Khoái Xã Dân Hoà Thành phố
ngày 4/9/2012
Số 165VH/QĐ
35 51 Đình Sàn Tảo Dương Xã Hồng Dương Quốc gia
ngày 21/11/1985
52 Đình, đền Hoàng Số 1586QĐ/UB
36 Xã Hồng Dương Thành phố
53 Trung ngày 8/11/2002
224

Số 208VH/QĐ
37 54 Đình Rùa Hạ Xã Thanh Thuỳ Quốc gia
ngày 13/3/1990
Số 208VH/QĐ
38 55 Đình Rùa Thượng Xã Thanh Thuỳ Quốc gia
ngày 13/3/1991
Số 208VH/QĐ
39 56 Đình Từ Am Xã Thanh Thuỳ Quốc gia
ngày 13/3/1992
57 Số 680QĐ
40 Đình, chùa Dư Dụ Xã Thanh Thuỳ Quốc gia
58 ngày 19/4/1991
Số 743/QĐ-UBND
41 59 Đình Dụ Tiền Xã Thanh Thuỳ Thành phố
ngày 2/4/2008
60 Số 680QĐ
42 Đình, miếu Áng Phao Xã Cao Dương Quốc gia
61 ngày 19/4/1991
Số 28VH/QĐ
43 62 Đình Thị Nguyên Xã Cao Dương Quốc gia
ngày 18/1/1988
Số 95/1998/QĐ-BVHTT
44 63 Đình Cao Xá Xã Cao Dương Quốc gia
ngày 31/8/1998
64 Số 95/1998/QĐ-BVHTT
45 Đình, miếu Mục Xá Xã Cao Dương Quốc gia
65 ngày 31/8/1998
Số 03/2000/QĐ-BVHTT
46 66 Đình My Dương Xã Thanh Mai Quốc gia
ngày 1/2/2000
67 Đình, chùa Nga My Số 268QĐ/UB
47 Xã Thanh Mai Thành phố
68 Hạ ngày 3/10/1988
Số 1979 QĐ/UB
48 69 Đình Nga My Thượng Xã Thanh Mai Thành phố
ngày 14/11/2006
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
49 70 Đình Bạch Nao Xã Thanh Văn Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 672 QĐ/UB
50 71 Đình úc Lý Xã Thanh Văn Thành phố
ngày 19/4/2007
Số 53/2008/QĐ-
51 72 Đình Ước Lễ Xã Tân Ước Quốc gia BVHTTDL
ngày 17/07/2008
Số 52/2008/QĐ-
52 73 Đình Tri Lễ Xã Tân Ước Quốc gia BVHTTDL
ngày 17/07/2008
74 Số 351/QĐ
53 Đình, đền Phúc Thuỵ Xã Tân Ước Quốc gia
75 ngày 15/2/1992
76 Đình, chùa Phương Xã Phương Số 23VH/QĐ
54 Quốc gia
77 Trung Trung ngày 16/3/1985
Số 177 VH/QĐ
55 78 Đình Tràng Cát Xã Kim An Quốc gia
ngày 5/3/1990
Số 23VH/QĐ
56 79 Đình Nội Bình Đà Xã Bình Minh Quốc gia
ngày 16/3/1985
225

Số 680/QĐ
57 80 Đình Ngoại Bình Đà Xã Bình Minh Quốc gia
ngày 9/4/1990
Số 664QĐ/UB
58 81 Đình Sinh Quả Xã Bình Minh Thành phố
ngày 30/6/1998
Số 2005 QĐ-UBND
59 82 Đình Minh Kha Xã Bình Minh Thành phố
ngày 3/7/2008
Số 1085QĐ/UB
60 83 Đình Sinh Liên Xã Bình Minh Thành phố
ngày 31/7/2003
Số 234QĐ/UB
61 84 Đình Cát Động Thị trấn Kim Bài Thành phố
ngày 15/3/2000
Số 6516/QĐ-UBND
62 85 Đình Kim Bài Thị trấn Kim Bài Thành phố
ngày 30/12/2010
Số 88QĐ/UB
63 86 Đình Kỳ Thuỷ Xã Bích Hoà Thành phố
ngày 22/3/1989
Số 88QĐ/UB
64 87 Đình Thanh Lương Xã Bích Hoà Thành phố
ngày 22/3/1989
226

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
CẤP
Theo QUYẾT ĐỊNH
Theo cụm TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ XẾP
di tích XẾP HẠNG
di tích HẠNG
đơn lẻ

1
Đình, chùa, văn chỉ Số 65QĐ/BT
1 2 Xã Đại Áng Quốc gia
Nguyệt áng ngày 16/1/1995
3
4 Đình, chùa Đại áng Số 1728QĐ
2 Xã Đại Áng Quốc gia
5 (Thiên Phúc) ngày 02/10/1991
Số 1728QĐ
3 6 Đình Vĩnh Thịnh Xã Đại Áng Quốc gia
ngày 02/10/1991
7
Miếu, đình Vĩnh Trung, Số 68VH/QĐ
4 8 Xã Đại Áng Quốc gia
chùa Linh Ứng ngày 29/01/1993
9
Số 34VH/QĐ
5 10 Đình Đông Phù Xã Đông Mỹ Quốc gia
ngày 09/01/1990
Số 5083/QĐ-UBND
6 11 Đình Mỹ Ả Xã Đông Mỹ Thành phố
ngày 13/11/2006
12 Số 100VH/QĐ
7 Đình, chùa Đại Lan Xã Duyên Hà Quốc gia
13 ngày 21/01/1989
Số 351QĐ
8 14 Đình Hữu Thanh Oai Xã Hữu Hoà Quốc gia
ngày 15/02/1992
Số 490QĐ
9 15 Đình phú Diễn Xã Hữu Hoà Quốc gia
ngày 22/04/1992
Số 3902/QĐ-UBND
10 16 Đình Hữu Lê Xã Hữu Hoà Thành phố
ngày 4/9/2012
Số 953/QĐ-UBND
11 17 Đình Hữu Từ Xã Hữu Hòa Thành phố
ngày 2/2/2010
18 Số 490QĐ
12 Đình, đền Thọ Am Xã Liên Ninh Quốc gia
19 ngày 22/04/1992
Số 65QĐ/BT
13 20 Đình Nhị Châu Xã Liên Ninh Quốc gia
ngày 16/1/1995
Số 1570VH/QĐ
14 21 Đình Ngọc Hồi Xã Ngọc Hồi Quốc gia
ngày 05/9/1989
227

22 Số 34VH/QĐ
15 Đình, chùa Lạc Thị Xã Ngọc Hồi Quốc gia
23 ngày 09/01/1990
Số 1539QĐ
16 24 Đình Việt Yên Xã Ngũ Hiệp Quốc gia
ngày 27/12/1990
25
Số 601/QĐ-UB
17 26 Đình, đền, chùa Lưu Phái Xã Ngũ Hiệp Thành phố
ngày 26/1/2006
27
Số 1186/QĐ-UB
18 28 Đình Đông Trạch Xã Ngũ Hiệp Thành phố
ngày 07/02/2002
29 Đình Nhân Hoà, chùa Số 490QĐ
19 Xã Tả Thanh Oai Quốc gia
30 Phúc Lâm ngày 22/04/1992
31 Đình Hoa Xá, Minh Ngự Số 226QĐ/BT
20 Xã Tả Thanh Oai Quốc gia
32 Lâu ngày 05/02/1994
Số 226QĐ/BT
21 33 Đình Tổ Thị Xã Tả Thanh Oai Quốc gia
ngày 05/02/1994
Số 2457/QĐ-UBND
22 34 Đình Thượng Phúc Xã Tả Thanh Oai Thành phố
ngày 01/6/2011
35 Đình Siêu Quần, chùa Số 226QĐ/BT
23 Xã Tả Thanh Oai Quốc gia
36 Linh Ứng ngày 05/02/1994
37 Đình Huỳnh Cung, văn Số 68VH/QĐ
24 Xã Tam Hiệp Quốc gia
38 chỉ Chu Văn An ngày 29/01/1993
39 Đình Yên Ngưu, chùa Số 188QĐ/BT
25 Xã Tam Hiệp Quốc gia
40 Hưng Long ngày 13/02/1995
Số 981/QĐ-UBND
26 41 Đình Tựu Liệt Xã Tam Hiệp Thành phố
ngày 18/2/2013
42
Số 1539QĐ
27 43 Đình, đền, chùa Yên Xá Xã Tân Triều Quốc gia
ngày 27/12/1990
44
45
Đình, đền, chùa Triều Số 68VH/QĐ
28 46 Xã Tân Triều Quốc gia
Khúc ngày 29/01/1993
47
Đình Ngoại (thờ Phạm Số 100VH/QĐ
29 48 Xã Thanh Liệt Quốc gia
Tu) ngày 21/01/1989
Đình Nội (thờ Chu Văn Số 100VH/QĐ
30 49 Xã Thanh Liệt Quốc gia
An) ngày 21/01/1989
50 Đình Ba Dân, chùa Long Số 152QĐ/BT
31 Xã Tứ Hiệp Quốc gia
51 Quang ngày 25/01/1994
228

Số 2776/QĐ-UB
32 52 Đình Chung Xã Tứ Hiệp Thành phố
ngày 20/5/2003
Số 2072/QĐ-UBND
33 53 Đình Văn Điển Xã Tứ Hiệp Thành phố
ngày 10/5/2010
54 Đình, chùa Vạn Phúc Số 490QĐ
34 Xã Vạn Phúc Quốc gia
55 (Chung Linh tự) ngày 22/04/1992
Số 92QĐ
35 56 Đền Bà Tía Xã Vĩnh Quỳnh Quốc gia
ngày 10/07/1980
57 Số 1570VH/QĐ
36 Đình, chùa Quỳnh Đô Xã Vĩnh Quỳnh Quốc gia
58 ngày 05/9/1989
59 Số 34VH/QĐ
37 Đình, chùa Ích Vịnh Xã Vĩnh Quỳnh Quốc gia
60 ngày 09/01/1990
61 Số 188QĐ/BT
38 Đình, chùa Yên Mỹ Xã Yên Mỹ Quốc gia
62 ngày 13/02/1995
229

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN THƯỜNG TÍN QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Đình Đào Xá (đình Số 06/2000/QĐ-BVHTT
1 1 Xã Thắng Lợi Quốc gia
Đông) ngày 13/4/2000
Đình Đào Xá (đình Số 06/2000/QĐ-BVHTT
Tây) ngày 13/4/2000
2 2 Số 65QĐ/BT
Xã Thắng Lợi Quốc gia ngày 16/01/1995

3 3 Đình Hướng Dương Xã Thắng Lợi Quốc gia


4 Số 2233QĐ/BT
4 Đình, chùa Khoái Cầu Xã Thắng Lợi Quốc gia
5 ngày 26/6/1995
Số 30/2000/QĐ-BVHTT
5 6 Đình Quất Động Xã Quất Động Quốc gia
ngày 24/11/2000
Số 04/2001/QĐ-BVHTT
6 7 Đình Lưu Xá Xã Quất Động Quốc gia
ngày 19/01/2001
Số 5061/QĐ-UBND
7 8 Đình Đức Trạch Xã Quất Động Thành phố
ngày 22/8/2013
9 Số 15VH/QĐ
8 Đình, chùa Xâm Động Xã Vân Tảo Quốc gia
10 ngày 27/01/1986
Số 06/2000/QĐ-BVHTT
9 11 Đình Xâm Hồ Xã Vân Tảo Quốc gia
ngày 13/4/2000
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
10 12 Đình Nỏ Bạn Xã Vân Tảo Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 18QĐ/UB
11 13 Đình Hạ Nội Thôn Xã Vân Tảo Thành phố
Đình ngày 08/01/2002
12 14 Thượng Số 18QĐ/UB
15 Nội ngày 08/01/2002
13
16 Số 74VH/QĐ
Thôn ngày 02/02/1993
Đình
Nghiêm
Xá, đền

Liễu Viên
Vân Tảo
Thành phố

Nghiêm Quốc
gia
Xuyên
Xã Nghiêm Số 74VH/QĐ
14 17 Đình Cống Xuyên Quốc gia
Xuyên ngày 02/02/1993
Số 15/2003/QĐ-BVHTT
15 18 Đình Là Xã Tân Minh Quốc gia
ngày 14/4/2003
Số 5555/QĐ-UBND
16 19 Đình nghè Xã Tân Minh Thành phố
ngày 12/9/2013
Số 112VH/QĐ
17 20 Đình Xâm Xuyên Xã Hồng Vân Quốc gia
ngày 15/6/1987
Số 2004/QĐ-UBND
18 21 Đình Xâm Thị Xã Hồng Vân Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 177 VH/QĐ
19 22 Đình Thuỵ Ứng Xã Hoà Bình Quốc gia
ngày 05/3/1990
Số 64QĐ/UB
20 23 Đình Dưỡng Hiền Xã Hoà Bình Thành phố
Đền thờ Tổ nghề ngày 08/3/1990
21 24
lược sừng
Xã Hoà Bình Thành phố Số 2005 QĐ-UBND
ngày 03/7/2008
230

Số 88QĐ/UB
22 25 Đình Quần Hiền Xã Hoà Bình Thành phố
ngày 22/3/1989
Số 112VH/QĐ
23 26 Đình Phú Mỹ Xã Thư Phú Quốc gia
ngày 15/6/1987
Số 112VH/QĐ
24 27 Đình Vĩnh Lộc Xã Thư Phú Quốc gia
ngày 15/6/1987
Số 1371/QĐ
25 28 Đình Thượng Cung Xã Tiền Phong Quốc gia
ngày 03/8/1991
Số 01/2006/QĐ-BVHTT
26 29 Đình Ngọc Động Xã Tiền Phong Quốc gia
30 Đình, chùa Đống ngày 17/01/2006
27 Xã Minh Cường Quốc gia Số 65QĐ/BT
31 Chanh
ngày 16/01/1995
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
28 32 Đình Khôn Thôn Xã Minh Cường Quốc gia
29 33 ngày 28/12/2001
Đình, đền Lam Sơn Xã Minh Cường Quốc gia Số 674/QĐ-BVHTTDL
30 34
ngày 07/02/2013
35
31 Đình, chùa Bình Vọng Xã Văn Bình Quốc gia Số 05/1999/QĐ-BVHTT
36 ngày 12/02/1999
37
Đình, chùa, đền Ninh Số 74VH/QĐ
32 38 Xã Ninh Sở Quốc gia
Xá ngày 02/02/1993
39
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
33 40 Đình Xâm Dương Xã Ninh Sở Quốc gia
ngày 28/12/2001
Đình Thượng Tự Số 39/2002/QĐ-BVHTT
34 41 Xã Tự Nhiên Quốc gia
Nhiên ngày 30/12/2002
Số 1288VH/QĐ
35 42 Đình Hạ Tự Nhiên Xã Tự Nhiên Quốc gia
ngày 16/11/1988
Số 06/2000/QĐ-BVHTT
36 43 Đình Khê Hồi Xã Hà Hồi Quốc gia
ngày 13/4/2000
Số 165VH/QĐ
37 44 Đình Hà Hồi Xã Hà Hồi Quốc gia
ngày 21/11/1985
Số 1460QĐ/VH
38 45 Đình An Lãng Xã Văn Tự Quốc gia
ngày 28/6/1996
Số 01/1999/QĐ-BVHTT
39 46 Đình Mui Xã Tô Hiệu Quốc gia
ngày 04/01/1999
Số 1979 QĐ/UB
40 47 Đình An Định Xã Tô Hiệu Thành phố
ngày 14/11/2006
Số 682/QĐ
41 48 Đền (đình) Vân Trai Xã Văn Phú Quốc gia
ngày 19/4/1991
Số 680 VH/QĐ
42 49 Đình Yên Phú Xã Văn Phú Thành phố
ngày 19/4/1991
Số 54QĐ-BVHTTDL
43 50 Đình Khánh Vân Xã Khánh Hà Quốc gia
ngày 17/7/2008
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
44 51 Đình Đan Nhiễm Xã Khánh Hà Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 1054 QĐ/UB
45 52 Đình Liễu Nội Xã Khánh Hà Thành phố
ngày 10/8/2005
Số 55/2008/QĐ-BVHTTDL
46 53 Đình Đình Tổ Xã Nguyễn Trãi Quốc gia
ngày 17/7/2008
Số 306 QĐ/UB
47 54 Đình Thượng Đình Xã Nhị Khê Thành phố
ngày 22/02/2006
231

Số 1711-QĐ-BVHTTDL
48 55 Đình Phương Quế Xã Liên Phương Quốc gia
ngày 02/6/2011
Số 673/QĐ-BVHTTDL
49 56 Đình Bạch Liên Xã Liên Phương Quốc gia
ngày 07/02/2013
Số 268QĐ/UB
50 57 Đình Hạ Thái Xã Duyên Thái Thành phố
ngày 03/10/1988
Số 268QĐ/UB
51 58 Đình Duyên Trường Xã Duyên Thái Thành phố
ngày 03/10/1988
Số 243 QĐ/UB
52 59 Đình Nhân Hiền Xã Hiền Giang Thành phố
ngày 05/02/2007
Số 3412/QĐ/UBND
53 60 Đình Nhuệ Giang Xã Hiền Giang Thành phố
ngày 12/7/2010
Số 1113/QĐ-UBND
54 61 Đình Quang Hiền Xã Hiền Giang Thành phố
ngày 09/3/2012
62 Số 4433/QĐ-UBND
55 Đình, miếu Hưng Hiền Xã Hiền Giang Thành phố
63 ngày 04/10/2012
Số 4827/QĐ-UBND
56 64 Đình Thượng Giáp Xã Thống Nhất Thành phố
ngày 18/10/2011
Số 4828/QĐ-UBND
57 65 Đình Phúc Trạch Xã Thống Nhất Thành phố
ngày 18/10/2011
232

DANH MỤC ĐÌNH LÀNG ĐÃ XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HOÀ QUẢN LÝ
(tính đến ngày 31/8/2014)

STT
Theo Theo CẤP QUYẾT ĐỊNH
TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ
cụm di tích XẾP HẠNG XẾP HẠNG
di tích đơn lẻ
Số 52/2001/QĐ-BVHTT
1 1 Đình Viên Ngoại Xã Viên An Quốc gia
ngày 28/12/2001
Số 5623/QĐ-UBND
2 2 Đình Phù Yên Xã Viên An Thành phố
ngày 01/12/2011
3 Số 138QĐ
3 Đình, chùa Tử Dương Xã Cao Thành Quốc gia
4 ngày 31/1/1992
Số 167QĐ/UB
4 5 Đình Cao Lãm Xã Cao Thành Thành phố
ngày 25/2/2000
6 Số 03/2000/QĐ-BVHTT
5 Đình, quán Nghi Lộc Xã Sơn Công Quốc gia
7 ngày 01/02/2000
Số 2015/QĐ
6 8 Đình Vĩnh Thượng Xã Sơn Công Quốc gia
ngày 16/12/1993
Số 1979 QĐ/UB
7 9 Đình Hoàng Dương Xã Sơn Công Thành phố
ngày 14/11/2006
10 Đình, đền Số 65QĐ/BT
8 Xã Phù Lưu Quốc gia
11 Phù Lưu Thượng ngày 16/1/1995
12 Số 1979 QĐ/UB
9 Đình, chùa Phù Lưu Hạ Xã Phù Lưu Thành phố
13 ngày 14/11/2006
14 Số 3211/QĐ
10 Đình, đền Đặng Giang Xã Hoà Phú Quốc gia
15 ngày 12/12/1994
Số 286/QĐ-UBND
11 16 Đình Dư Xá Hạ Xã Hoà Phú Thành phố
ngày 02/02/2008
17 Số 167QĐ/UB
12 Đình, chùa An Phú Xã Hoà Phú Thành phố
18 ngày 25/2/2000
Số 1057/QĐ
13 19 Đình Thu Xã Hồng Quang Quốc gia
ngày 14/6/1991
Số 1811/1998/QĐ-
14 20 Đình Tảo Khê Xã Tảo Dương Văn Quốc gia BVHTT
ngày 31/8/1998
Số 188VH/QĐ
15 21 Đình Đông Dương Xã Tảo Dương Văn Quốc gia
ngày 13/2/1995
233

Số 64QĐ/UB
16 22 Đình Văn Ông Xã Tảo Dương Văn Thành phố
ngày 8/3/1990
Số 65QĐ/BT
17 23 Đình Trung Ngọ Xá Thị trấn Vân Đình Quốc gia
ngày 16/1/1995
Số 65QĐ/BT
18 24 Đình Thượng Ngọ Xá Thị trấn Vân Đình Quốc gia
ngày 16/1/1995
25 Số 65QĐ/BT
19 Đình, đền Thanh Ấm Thị trấn Vân Đình Quốc gia
26 ngày 16/1/1995
Số 313VH/VP
20 27 Đình Hoàng Xá Thị trấn Vân Đình Quốc gia
ngày 28/4/1962
28
Đình, quán Vân Đình,
29 Số 65QĐ/BT
21 đình Thượng, đình Thị trấn Vân Đình Quốc gia
30 ngày 16/1/1995
Trung
31
Số 985QĐ/VH
22 32 Đình Động Phí Xã Phương Tú Quốc gia
ngày 07/5/1997
Số 06/2004/QĐ-BVHTT
23 33 Đình Phí Trạch Xã Phương Tú Quốc gia
ngày 18/02/2004
Số 95/1998/QĐ-BVHTT
24 34 Đình Dương Khê Xã Phương Tú Quốc gia
ngày 31/8/1998
Số 1439QĐ/UB
25 35 Đình Hậu Xá Xã Phương Tú Thành phố
ngày 20/12/2004
Số 1439QĐ/UB
26 36 Chùa Hậu Xá Xã Phương Tú Thành phố
ngày 20/12/2004
37 Số 423QĐ/VH
27 Đình, chùa Viên Đình Xã Đông Lỗ Quốc gia
38 ngày 20/2/1997
Số 82QĐ/UB
28 39 Đình Thống Nhất Xã Đông Lỗ Thành phố
ngày 19/01/2004
40 Số 06/2000/QĐ-BVHTT
29 Đình, đền Thôn Thần Xã Minh Đức Quốc gia
41 ngày 13/4/2000
Số 234QĐ/UB
30 42 Đình thôn Cầu Xã Minh Đức Thành phố
ngày 15/3/2000
Số 2890VH/QĐ
31 43 Đình Giang Triều Xã Đại Cường Quốc gia
ngày 27/9/1997
44 Đình, chùa Quảng Số 28VH/QĐ
32 Xã Quảng Phú Cầu Quốc gia
45 Nguyên ngày 18/1/1988
Số 534QĐ/BT
33 46 Đình Phú Lương Xã Quảng Phú Cầu Quốc gia
ngày 11/5/1993
234

Số 680/QĐ
34 47 Đình Thanh Dương Xã Đồng Tiến Quốc gia
ngày 19/4/1991
Số 64QĐ/UB
35 48 Đình Thành Vật Xã Đồng Tiến Thành phố
ngày 8/3/1990
49
Đình, quán, chùa Đinh Số 1057/QĐ
36 50 Xã Hoà Nam Quốc gia
Xuyên ngày 14/6/1991
51
Số 91QĐ/UB
37 52 Đình Nam Dương Xã Hoà Nam Thành phố
ngày 28/1/2005
Số 3462/QĐ-BVHTTDL
38 53 Đình Nội Xá Xã Vạn Thái Quốc gia
ngày 28/9/2010
Số 06/2000/QĐ-BVHTT
39 54 Đình Đống Vũ Xã Trường Thịnh Quốc gia
ngày 13/4/2000
Số 138QĐ
40 55 Đình Trung Thịnh Xã Trường Thịnh Quốc gia
ngày 31/1/1992
Số 138QĐ
41 56 Đình Yên Trường Xã Trường Thịnh Quốc gia
ngày 31/1/1992
Số 234QĐ/UB
42 57 Đình Hoạ Đống Xã Trường Thịnh Thành phố
ngày 15/3/2000
Số 2938/QĐ/UBND
43 58 Đình Hoa Đường Xã Trường Thịnh Thành phố
ngày 28/7/2008
Số 2938/QĐ/UBND
44 59 Đền Hoa Đường Xã Trường Thịnh Thành phố
ngày 28/7/2008
Số 743/QĐ-UBND
45 60 Đình Thanh Sam Xã Trường Thịnh Thành phố
ngày 2/4/2008
61
Đình, miếu, chùa Trần Số 28VH/QĐ
46 62 Xã Hoa Sơn Quốc gia
Đăng ngày 18/1/1988
63
64
Đình, đền, chùa Miêng Số 74VH/QĐ
47 65 Xã Hoa Sơn Quốc gia
Hạ ngày 2/2/1993
66
số 651QĐ/UB
48 67 Đình Vũ Nội Xã Liên Bạt Thành phố
ngày 21/520/02
Số 24QĐ/UB
49 68 Đình Lưu Khê Xã Liên Bạt Thành phố
ngày 28/1/1988
Số 122QĐ/UB
50 69 Đình thôn Chùa Xã Liên Bạt Thành phố
năm 1988
Số 74QĐ/UB
51 70 Đình Bặt Trung Xã Liên Bạt Thành phố
ngày 29/4/1988
235

Số 74QĐ/UB
52 71 Đình Bặt Ngõ Xã Liên Bạt Thành phố
ngày 29/4/1990
Số 2005 QĐ-UBND
53 72 Đình Thượng Xã Trầm Lộng Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 2005 QĐ-UBND
54 73 Đình Hạ Xã Trầm Lộng Thành phố
ngày 03/7/2008
Số 24QĐ/UB
55 74 Đình Thôn Giang Xã Viên Nội Thành phố
ngày 28/01/1988
Số 2004/QĐ-UBND
56 75 Đình thôn Tiền Xã Viên Nội Thành phố
ngày 03/07/2008
Số 4435/QĐ-UBND
57 76 Đình Thôn Thượng Xã Viên Nội Thành phố
ngày 04/10/2012
Số 4431/QĐ-UBND
58 77 Chùa Thôn Thượng Xã Viên Nội Thành phố
ngày 04/10/2012
Đình Trạch Xá Số 651QĐ/UB
59 78 Xã Hoà Lâm Thành phố
(Xóm Dựng ) ngày 21/5/2002
Đình Cống Khê Số 651QĐ/UB
60 79 Xã Hoà Lâm Thành phố
(Xóm Đông) ngày 21/5/2002
Số 169/QĐ-UBND
61 80 Đình Trạch Bái Xã Hoà Lâm Thành phố
ngày 22/01/2008
Số 4014/QĐ-UBND
62 81 Đình Trung Thượng Xã Đại Hùng Thành phố
ngày 11/9/2012
Số 1690/QĐ-UBND
63 82 Đình Dũng Cảm Xã Trung Tú Thành phố
ngày 28/3/2014
236

2. Các đình chưa được xếp hạng

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC PHƯỜNG, XÃ THUỘC THỊ XÃ SƠN TÂY QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH PHƯỜNG, XÃ


1 Đình Trấn Xã Đường Lâm
2 Đình Đông Sàng Xã Đường Lâm
3 Đình tổng Đông Sàng Xã Đường Lâm
4 Đình Phố Xã Đường Lâm
5 Đình Hà Tân Xã Đường Lâm
6 Đình Văn Miếu Xã Đường Lâm
7 Đình Phụ Khang Xã Đường Lâm
8 Đình Trại Láng Xã Cổ Đông
9 Đình ngoài Ngọc Kiên Xã Cổ Đông
10 Đình Trung Lạc Xã Cổ Đông
11 Đình Phúc Lộc Xã Cổ Đông
12 Đền Kim Hoa Xã Kim Sơn
13 Đình Hồ Bác Phường Lê Lợi
14 Đình Hậu Ninh Phường Lê Lợi
15 Đình Hậu An Phường Lê Lợi
16 Đình Hàng Đàn Phường Ngô Quyền
17 Đình Đệ Nhị Phường Ngô Quyền
18 Đình Hữu Lợi Phường Ngô Quyền
19 Đình Sơn Lộc Phường Trung Sơn Trầm
20 Đình Cửa Tải Phường Quang Trung
21 Đền Công Đồng Phường Quang Trung
22 Đình Tả Hùng Phường Quang Trung
23 Đình Đầm Xã Sơn Đông
24 Chùa Am (Bách Linh tự) Xã Sơn Đông
25 Đình Gò Gai Xã Sơn Đông
237

26 Đình Đồi Vua Xã Sơn Đông


27 Đền Chầu Lục Xã Thanh Mỹ
28 Đình ái Mỗ Phường Trung Hưng
29 Đình Nghĩa Phủ Phường Trung Hưng
30 Đình Mai Trai Phường Trung Hưng
31 Đình Thiều xuân Hạ Phường Viên Sơn
32 Đình Kỳ Sơn Xã Xuân Sơn
33 Đình Tam Sơn Xã Xuân Sơn
34 Đình Xuân Khanh Xã Xuân Sơn
35 Đình Chằm Xã Xuân Sơn
238

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN BA VÌ QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN


1 Đình Cam Cao Xã Cam Thượng
2 Đình Văn Minh Xã Cam Thượng
3 Đình Cốc Xã Cam Thượng
4 Đình Quỳnh Lâm Xã Cam Thượng
5 Đình Nam An Xã Cam Thượng
6 Đình Thăng Thắc Xã Cam Thượng
7 Đình Vòng Phệ Xã Chu Minh
8 Đình Cổ Đô Xã Cổ Đô
9 Đình Ngược (Miếu Bà) Xã Cổ Đô
10 Đình Ngược (Miếu Ông) Xã Cổ Đô
11 Đình Xuôi Xã Cổ Đô
12 Đình Thái Bình Xã Đồng Thái
13 Đình Đồng Bảng (Đình Lác) Xã Đồng Thái
14 Đình Đồng Bảng Xã Đồng Thái
15 Đình Tăng Câu Xã Đồng Thái
16 Đình Liễu Châu Xã Phú Châu
17 Đình Phú Nghĩa Xã Phú Đông
18 Đình Đông Lâu Xã Phú Đông
19 Đình Yên Kỳ Xã Phú Sơn
20 Đình Cao Lĩnh Xã Phú Sơn
21 Đình Qui Mông Xã Phú Sơn
22 Đình Trại Xã Phú Sơn
23 Đình Bằng Y Xã Sơn Đà
24 Đình Vân Trai Thị trấn Tây Đằng
25 Đình Phú Mỹ Thị trấn Tây Đằng
26 Đình Đông Thị trấn Tây Đằng
239

27 Đình Cuối Thị trấn Tây Đằng


28 Đình Liễu Châu Thị trấn Tây Đằng
29 Đình Cầu Bã Thị trấn Tây Đằng
30 Đình Hưng Đạo Thị trấn Tây Đằng
31 Đình Cao Nhang Thị trấn Tây Đằng
32 Đình Nam Thị trấn Tây Đằng
33 Đình Bắc Thị trấn Tây Đằng
34 Đình Ván Thị trấn Tây Đằng
35 Đình La Phẩm Xã Tản Hồng
36 Đình La Thượng Xã Tản Hồng
37 Đình Trung Hà Xã Thái Hoà
38 Đình Chu Mật Xã Thái Hoà
39 Đình Đông Kỳ Xã Thuỵ An
40 Đình Áng Gạo Xã Thuỵ An
41 Đình Đông Lâu Xã Thuỵ An
42 Đình Đông Cao Xã Thuỵ An
43 Đình Duyên Lãm Xã Thuỵ An
44 Đình Đoài Xã Tiên Phong
45 Đình Kim Bí Xã Tiên Phong
46 Đình Bằng Lũng Xã Tiên Phong
47 Đình Tòng Thái Xã Tòng Bạt
48 Đình Hậu Trạch Xã Vạn Thắng
49 Đình La Xuyên Xã Vạn Thắng
50 Đình An Thịnh Xã Vật Lại
51 Đình Tây Vị Xã Vật Lại
52 Đình Muồng Cháu Xã Vân Hoà
53 Đình Rùa Xã Vân Hoà
240

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN CHƯƠNG MỸ QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN


1 Đình Thượng Xã Đại Yên
2 Đình Hội Triều Xã Đồng Lạc
3 Đình Ngoài Phương Luật Xã Đồng Lạc
4 Đình Phương Hài Xã Đông Phương Yên
5 Đình Đông Cựu Xã Đông Sơn
6 Đình An Sơn Xã Đông Sơn
7 Đình Lý Nhân Xã Hoà Chính
8 Đình Phụ Chính Xã Hoà Chính
9 Đình Công An Xã Hoàng Văn Thụ
10 Đình Hoà Bình Xã Hoàng Văn Thụ
11 Đình Tiến Văn Xã Hoàng Văn Thụ
12 Đình Yên Trình Xã Hoàng Văn Thụ
13 Đình Thôn Thượng Xã Hồng Phong
14 Đình Thôn Hạ Xã Hồng Phong
15 Đình Hữu Văn Xã Hữu Văn
16 Đền Duyên Ứng Xã Lam Điền
17 Đình Mỹ Lương Hạ Xã Mỹ Lương
18 Đình Hạnh Bồ Xã Nam Phương Tiến
19 Đình Đồi Mít Xã Nam Phương Tiến
20 Đình Thôn Hai (Vậy) Xã Quảng Bị
21 Đình Tiên Trượng Thị trấn Xuân Mai
22 Đình Việt An Xã Tân Tiến
23 Đình Trung Vực Ngoài Xã Thượng Vực
24 Đền Trung Vực Trong Xã Thượng Vực
25 Đình Hương Lang Xã Thuỵ Hương
26 Đình Trúc Đồng Xã Thuỵ Hương
241

27 Đình Cổ Pháp Xã Tiên Phương


28 Đình Tiên Lữ Xã Tiên Phương
29 Đình Miếu Môn Xã Trần Phú
30 Đình Dương Kệ Xã Trần Phú
31 Đình Nghè Xã Trần Phú
32 Đình Hưng Thịnh Xã Trần Phú
33 Đình Chi Nê Xã Trung Hoà
34 Đình Tinh Mỹ Xã Trung Hoà
35 Đình Phù Yên Xã Trường Yên
36 Đình Văn La Xã Văn Võ
37 Đình Tiến Phối Xã Thanh Bình
38 Đình Trung Hoàng Xã Thanh Bình
242

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN ĐAN PHƯỢNG QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN


1 Đình Đồng Vân Xã Đồng Tháp
2 Đình Bãi Thuỵ Xã Đồng Tháp
3 Đình Trúng Đích Xã Hạ Mỗ
4 Đình Bá Thị Xã Hồng Hà
5 Đình Tiên Tân Xã Hồng Hà
6 Đình Thượng Thôn Xã Liên Hà
7 Đình Đông Lai Xã Liên Hồng
8 Đình Cổ Ngoã Thượng Xã Phương Đình
9 Đình Địch Trung Xã Phương Đình
10 Đình Thuận Thượng Xã Song Phượng
11 Đình Thu Quế Xã Song Phượng
12 Đình Vĩnh Kỳ Xã Tân Hội
13 Đình Thuý Hội Xã Tân Hội
14 Đình Phan Long Xã Tân Hội
15 Đình Hoa Trữ Xã Thượng Mỗ
16 Đình Nhà Trò Xã Thượng Mỗ
17 Đình Chu Phan Xã Trung Châu
18 Đình Phương Ngoại Xã Trung Châu
19 Đình Yên Châu Xã Trung Châu
20 Đình An Thanh Xã Thọ Xuân
21 Đình Thanh Điềm Xã Thọ Xuân
243

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN ĐÔNG ANH QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN ĐỊA CHỈ


1 Đình Phù Liễn Xã Bắc Hồng Thôn Phù Liễn
2 Đình Ba Trạ (đình Bến Trung) Xã Bắc Hồng Thôn Bến Trung
3 Đình Tràng Xã Dục Tú Thôn Tràng
4 Đình Trung Thôn Xã Đông Hội Thôn Chung Thôn
5 Đình Cổ Điển Xã Hải Bối Thôn Cổ Điển
6 Đình Thọ Đa Xã Kim Nỗ Thôn Thọ Đa
7 Đình Du Nội Xã Mai Lâm Thôn Du Nội
8 Đình Lộc Hà Xã Mai Lâm Thôn Lộc Hà
9 Đình Tằng My Xã Nam Hồng Thôn Tằng My
10 Đình (đền) Thôn Đìa Xã Nam Hồng Thôn Đìa
11 Đình Biểu Khê Xã Thụy Lâm Thôn Biểu Khê
12 Đình Hà Khê Xã Vân Hà Thôn Hà Khê
13 Đình Thiết Bình Xã Vân Hà Thôn Thiết Bình
14 Đình Ngọc Giang Xã Vĩnh Ngọc Thôn Ngọc Giang
15 Đình Phương Trạch Xã Vĩnh Ngọc Thôn Phương Trạch
16 Đình Văn Tinh Xã Xuân Canh Thôn Văn Tinh
17 Đình Văn Thượng Xã Xuân Canh Thôn Văn Thượng
18 Đình Vạn Lộc Xã Xuân Canh Thôn Vạn Lộc
244

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN GIA LÂM QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN ĐỊA CHỈ


1 Đình Trong Đề Trụ Xã Dương Quang
2 Đình Quang Trung Xã Dương Quang Thôn Quang Trung
3 Đình Tự Môn Xã Dương Quang Thôn Tự Môn
4 Đình Dương Danh Xã Dương Xá Thôn Dương Đanh
5 Đình Thuận Tiến Xã Dương Xá
6 Đình Thuận Quang Xã Dương Xá
7 Đình An Đà Xã Đặng Xá Thôn An Đà
8 Đình Nhân Lễ Xã Đặng Xá Thôn Nhân Lễ
9 Đình Viên Ngoại Xã Đặng Xá Thôn Viên Ngoại
10 Đình thôn Lở Xã Đặng Xá Thôn Lở
11 Đình làng Đặng Xã Đặng Xá Thôn Đặng Xá
12 Đình Cự Đà Xã Đặng Xá Thôn Cự Đà
13 Đình thôn Lời Xã Đặng Xá Thôn Lời
14 Đình Lê Xá Xã Đa Tốn Thôn Lê Xá
15 Đình Khoan Tế Xã Đa Tốn Thôn Khoan Tế
16 Đình Bình Nguyên Xã Đa Tốn Thôn Thuận Tốn
17 Đình Kim Lan Xã Kim Lan
18 Đình Báo Đáp Xã Kiêu Kỵ Thôn Báo Đáp
19 Đình Gia Cốc Xã Kiêu Kỵ Thôn Gia Cốc
20 Đình Xuân Thụy Xã Kiêu Kỵ Thôn Xuân Thụy
21 Đình Chu Xá Xã Kiêu Kỵ Thôn Chu Xá
22 Đình Trung Dư Xã Kiêu Kỵ Thôn Trung Dư
23 Đình Trung Dương Xã Kiêu Kỵ
24 Đình Đổng Viên Xã Phù Đổng Thôn Đổng Viên
25 Đình Đình Vĩ Xã Yên Thường Thôn Đình Vĩ
26 Đình Trùng Quán Xã Yên Thường Thôn Trùng Quán
27 Đình Lại Hoàng Xã Yên Thường Thôn Lại Hoàng
28 Đình Yên Thường Xã Yên Thường Thôn Yên Thường
29 Đình Liên Đàm Xã Yên Thường Thôn Liên Đàm
30 Đình Chính Trung TT Trâu Quì
31 Đình An Đào TT Trâu Quì
245

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN HOÀI ĐỨC QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN

1 Đình Vân Lũng Xã An Khánh

2 Đình Phú Vinh Xã An Khánh

3 Đình Yên Lũng Xã An Khánh

4 Đình Quế Dương Xã Cát Quế

5 Đình Cát Ngòi Xã Cát Quế

6 Đình Đông Lao Xã Đông La

7 Đình Cựu Quán Xã Đức Thượng

8 Đình Phú Đa Xã Đức Thượng

9 Đình Nhuệ Xã Đức Thượng

10 Đình Nội Xã Đức Thượng

11 Đình Thượng Thuỵ Xã Đức Thượng

12 Đình thôn Một Xã Lại Yên

13 Đình Sơn Tượng Xã Minh Khai

14 Đình Yên Thái Xã Tiền Yên


246

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN MÊ LINH QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN


1 Đình Vạn Phúc Xã Vạn Yên
2 Đình Tiên Đài Xã Vạn Yên
3 Đình Xa Khúc Xã Chu Phan
4 Đình Tân Châu Xã Chu Phan
5 Đình Quảng Lộc Xã Tiến Thắng
6 Đình Tây Xã Tiến Thắng
7 Đình Thạch Đà Xã Thạch Đà
8 Đình Gia Trung Thị trấn Quang Minh
9 Đình Ngọc Trì Xã Kim Hoa
10 Đình Bảo Tháp Xã Kim Hoa
11 Đình Bạch Đa Xã Kim Hoa
12 Đình Trung Hậu Xã Tiền Phong
13 Đình Do Thượng Xã Tiền Phong
14 Đình Phú Nhi Xã Thanh Lâm
15 Đình Phú Hữu Xã Thanh Lâm
16 Miếu Đồng Vỡ Xã Thanh Lâm
17 Đình Yên Vinh Xã Thanh Lâm
247

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN MỸ ĐỨC QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ
1 Đình Thượng An Đà Xã An Tiến
2 Đình Phú Duy Xã An Tiến
3 Đình Hoà Lạc Xã An Tiến
4 Đình Hổ Khê Xã An Tiến
5 Đình Hiền Lương Xã An Tiến
6 Đình Tổng Trinh Tiết Xã Đại Hưng
7 Đình Cống Thượng Xã Hồng Sơn
8 Đình Cống Trung Xã Hồng Sơn
9 Đình Hạ Sở Xã Hồng Sơn
10 Đình Cống Đặng Xã Hồng Sơn
11 Đình Vĩnh An Xã Hồng Sơn
12 Đình Thanh Lự Xã Hồng Sơn
13 Đình Trung Hoà Xã Hùng Tiến
14 Đình Phú Yên Xã Hương Sơn
15 Đình Lê Xá Xã Lê Thanh
16 Đình Vĩnh Xương Thượng Xã Mỹ Thành
17 Đình Vĩnh Xương Trung Xã Mỹ Thành
18 Đình Trù Xã Tuy Lai
19 Đình Thọ Sơn Xã Đại Nghĩa
20 Đình Văn Giang Xã Đại Nghĩa
21 Đình Thượng Tế Tiêu Xã Đại Nghĩa
22 Đình Hạ Tế Tiêu Xã Đại Nghĩa
23 Đình Phú Cốc Xã An Phú
24 Đình Ái Nàng Xã An Phú
25 Đình Đức Dương Xã An Phú
26 Đình Đồng Văn Xã An Phú
27 Đình Thượng Quất Xã Hợp Tiến
28 Đình Hạ Quất Xã Hợp Tiến
248

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN PHÚ XUYÊN QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN


1 Đình thôn Nội Xã Châu Can
2 Đình Thôn Trung Xã Châu Can
3 Đình Thôn Quán Xã Châu Can
4 Đình thôn Lễ Thượng Xã Châu Can
5 Đình Bối Khê Xã Chuyên Mỹ
6 Đình Thôn Ngọ Xã Chuyên Mỹ
7 Đình thôn Đồng Vinh Xã Chuyên Mỹ
8 Đình Thường Xuyên Xã Đại Xuyên
9 Đình Đào Xá Xã Hoàng Long
10 Đình Kim Long Thượng Xã Hoàng Long
11 Đình Nhị Khê Xã Hoàng Long
12 Đình Cổ Hoàng Xã Hoàng Long
13 Đình Kim Long Trung Xã Hoàng Long
14 Đình Hoàng Đông Xã Hoàng Long
15 Đình Kim Long Nội Xã Hoàng Long
16 Đình Thanh Xuyên Xã Hoàng Long
17 Đình An Cốc Thượng Xã Hồng Minh
18 Đình Thuỷ Cơ Xã Hồng Thái
19 Đình Lạc Dương Hạ Xã Hồng Thái
20 Đình Lạc Dương Thượng Xã Hồng Thái
21 Đình Duyên Trang Thượng Xã Hồng Thái
22 Đình Duyên Yết (đình Hét) Xã Hồng Thái
23 Đình Khai Thái Xã Khai Thái
24 Đình Vĩnh Thượng Xã Khai Thái
25 Đình Vĩnh Trung Xã Khai Thái
26 Đình Lập Phương Xã Khai Thái
27 Đình Nội Hợp Xã Nam Phong
28 Đình Đường La Xã Phú Túc
29 Đình Tư Sản Xã Phú Túc
30 Đình Trình Viên Xã Phú Túc
31 Đình Hoàng Xá Xã Phú Túc
32 Đình Thượng Yên Xã Phú Yên
249

33 Đình Thuỷ Trú Xã Phú Yên


34 Đình Ứng Hoà Xã Phúc Tiến
35 Đình An Khoái Xã Phúc Tiến
36 Đình Xuân La Xã Phượng Dực
37 Đình Mai Xá Xã Quang Lãng
38 Đình Văn Lãng Xã Quang Trung
39 Đình Sơn Thanh Xã Sơn Hà
40 Đình Đồng Cả Xã Tân Dân
41 Đình Lễ Nhuế Xã Tân Dân
42 Đình Đồng Thố Xã Tân Dân
43 Đình Đại Gia Xã Thuỵ Phú
44 Đình Thuỵ Phú Xã Thuỵ Phú
45 Đình Vĩnh Ninh Xã Tri Thuỷ
46 Đình Nhân Sơn Xã Tri Thuỷ
47 Đình Mỹ Lâm Thị trấn Phú Xuyên
48 Đình Thao Chính Thị trấn Phú Xuyên
49 Đình Xóm Đoài Thị trấn Phú Xuyên
50 Đình Đại Nam Thị trấn Phú Xuyên
51 Đình thôn Hội (Cói) Xã Văn Hoàng
52 Đình Khả Liễu Xã Văn Hoàng
53 Đình Chanh Thôn Xã Văn Nhân
54 Đình Văn Minh Xã Văn Nhân
55 Đình thôn Cựu Xã Vân Từ
56 Đình Chản Xã Vân Từ
57 Đình Từ Thuận Xã Vân Từ
58 Đình Hoà Thượng Xã Bạch Hạ
59 Đình Giáp Tư Xã Bạch Hạ
60 Đình Giáp Ba Xã Bạch Hạ
250

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN PHÚC THỌ QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN


1 Đình Đông Huỳnh Xã Phương Độ
2 Đình Diền Xã Tam Hiệp
3 Đình Phú An Xã Thanh Đa
4 Đình Phú Đa Xã Thanh Đa
5 Đình Tế Giáp Xã Thanh Đa
6 Đình Xóm Sổ Xã Trạch Mỹ Lộc
7 Đình Tuy Lộc Xã Trạch Mỹ Lộc
8 Đình Thuần Mỹ Xã Trạch Mỹ Lộc
9 Đình Đồng Lục Thị trấn Phúc Thọ
10 Đình Cựu Đình Xã Cẩm Đình
11 Đình Cẩm Đình Xã Cẩm Đình
251

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN QUỐC OAI QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN


1 Đình Vĩnh Phúc Xã Liệp Tuyết
2 Đình Bái Ngoại Xã Liệp Tuyết
3 Đình Bái Nội Xã Liệp Tuyết
4 Đình Thông Đạt Xã Liệp Tuyết
5 Đình Đồng Bụt Xã Ngọc Liệp
6 Đình Ngọc Bài Xã Ngọc Liệp
7 Đình Phúc Đức Xã Sài Sơn
8 Đình Hoàng Thạch Thị trấn Quốc Oai
9 Đình Hoàng Xá Thị trấn Quốc Oai
10 Đình Phú Hạng Xã Tân Phú
11 Đình Thạch Thán Xã Thạch Thán
12 Đình Đại Đồng Xã Tuyết Nghĩa
13 Đình Đồng Sơn Xã Tuyết Nghĩa
14 Đình Liên Trì Xã Tuyết Nghĩa
15 Đình Đồng Do Xã Tuyết Nghĩa
16 Đình Hoà Mục Xã Hoà Thạch
252

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN SÓC SƠN QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN ĐỊA CHỈ


1 Đình Xóm Cuối Xã Bắc Phú Thôn Yên Tàng
2 Đình Yên Tàng Xã Bắc Phú Thôn Yên Tàng
3 Đình Phúc Xuân Xã Bắc Sơn Thôn Phúc Xuân
4 Đình Đô Tân Xã Bắc Sơn Thôn Đô Tân
5 Đình Gò Gạo Xã Bắc Sơn Thôn Đa Hội
6 Đình thôn Đa Hội Xã Bắc Sơn Thôn Đa Hội
7 Đình Đô Lương (đình Dị) Xã Bắc Sơn Thôn Đô Lương
8 Đình Lai Sơn Xã Bắc Sơn Thôn Lai Sơn
9 Đình Lương Đình Xã Bắc Sơn Thôn Lương Đình
10 Đình Tiên Chu Xã Bắc Sơn Thôn Tiên Chu
11 Đình Nam Lý Xã Bắc Sơn Thôn Nam Lý
12 Đình Thượng Xã Đông Xuân Thôn Thanh Thủy
13 Đền Thiện Xã Đông Xuân nt
14 Đình Xuân Kỳ Xã Đông Xuân nt
15 Đình Phú Thọ Xã Đông Xuân nt
16 Đình thôn Chùa Xã Đức Hòa Thôn Chùa
17 Đình Thanh Huệ Xã Đức Hòa Thôn Thanh Huệ
18 Đình Nam Cương Xã Hiền Ninh Thôn Nam Cương
19 Đình Ninh Môn Xã Hiền Ninh Thôn Ninh Môn
20 Đình Đồng Thố Xã Hồng Kỳ Thôn Đồng Thố
21 Đình Tân Phúc Xã Hồng Kỳ Thôn Tân Phúc
22 Đình Cà Phê Xã Hồng Kỳ Thôn Cà Phê
23 Đình Kim Hạ Xã Kim Lũ Thôn Kim Lũ Hạ
24 Đình Kim Trung Xã Kim Lũ Thôn Kim Lũ Trung
25 Đình thôn Thế Trạch Xã Mai Đình Thôn Thế Trạch
26 Đình Hương Đình Đông Xã Mai Đình Thôn Hương Đình Đông
27 Đình Thái Phù Xã Mai Đình Thôn Thái Phù
28 Đình Đông Bài Xã Mai Đình Thôn Đông Bài
29 Đình Hương Đình Đoài Xã Mai Đình Thôn Hương Đình Đoài
30 Đình Phú Thịnh Xã Minh Phú Thôn Phú Thịnh
253

31 Đình Phú Hạ Xã Minh Phú Thôn Phú Hạ


32 Đình Thắng Hữu Xã Minh Trí Thôn Thắng Hữu
33 Đình Lập Trí Xã Minh Trí Thôn Lập Trí
34 Đình Thắng Trí Xã Minh Trí Thôn Thắng Trí
35 Đình Hoa Sơn Xã Nam Sơn Thôn Hoa Sơn
36 Đình Thanh Hà (đình Dõm) Xã Nam Sơn Thôn Thanh Hà
37 Đình Phù Xá Đông Xã Phú Minh Thôn Đông
38 Đình Xuân Đoài Xã Phù Linh Thôn Xuân Đoài
39 Đình Thanh Lại Xã Phù Linh Thôn Cộng Hòa
40 Đình Thanh Trì Xã Phù Linh
41 Đình Thanh Quang Xã Phù Linh Thôn Cộng Hòa
42 Đình Đại Đức Xã Phù Linh Thôn Vệ Linh
43 Đình Vệ Linh Xã Phù Linh nt
44 Đình Thái Ninh Xã Phù Linh Thôn Thái Linh
45 Đình Phù Mã Xã Phù Linh Thôn Phù Mã
46 Đình Đoài Xã Phù Lỗ Thôn Lỗ Đoài
47 Đình Bắc Giã Xã Phù Lỗ Thôn Bắc Giã
48 Đình Đông Xã Phù Lỗ Thôn Lỗ Đông
49 Đình Ninh Bắc Thượng Xã Quang Tiến Thôn Ninh Bắc Thượng
50 Đình Đông Lai Xã Quang Tiến Thôn Đông Lai
51 Đình Ninh Bắc Hạ Xã Quang Tiến Thôn Ninh Bắc Hạ
52 Đình Điền Quy Xã Tân Dân Thôn Điền Quy
53 Đình Thanh Vân Xã Tân Dân Thôn Thanh Vân
54 Đình Ninh Kiều Xã Tân Dân Thôn Ninh Kiều
55 Đình Môn Tự Xã Tân Dân Thôn Môn Tự
56 Đình An Trung Xã Tân Dân Thôn An Trung
57 Đình Xuân Long Xã Tân Dân Thôn Xuân Long
58 Đình Xuân Lễ Xã Tân Dân Thôn Xuân Lễ
59 Đình Xuân Áp Xã Tân Dân Thôn Xuân Áp
60 Đình Quán Mỹ Xã Tân Dân Thôn Quán Mỹ
61 Đình Ninh Nội Xã Tân Dân Thôn Ninh Nội
62 Đình Ninh Cầm Xã Tân Dân Thôn Ninh Cầm
63 Đình Thượng Xã Tân Dân
64 Đình Cốc Lương Xã Tân Hưng Thôn Cốc Lương
254

65 Đình Ngô Đạo Xã Tân Hưng Thôn Ngô Đạo


66 Đình Cẩm Hà Xã Tân Hưng Thôn Cẩm Hà
67 Đình Đạo Thượng Xã Tân Hưng nt
68 Đình Vệ Sơn Đông Xã Tân Minh Thôn Vệ Sơn Đông
69 Đình Xuân Dục Đông Xã Tân Minh Thôn Xuân Dục
70 Đình Dược Thượng Xã Tiên Dược Thôn Dược Thượng
71 Đình Đồng Lạc Xã Tiên Dược Thôn Đồng Lạc
72 Đình Xuân Na Xã Thanh Xuân Thôn Xuân Na
73 Đình Chợ Nga Xã Thanh Xuân
74 Đình Bái thượng Xã Thanh Xuân
75 Đình thôn Trung Xã Thanh Xuân
76 Đình Thanh Nhàn Xã Thanh Xuân Thôn Thanh Nhàn
77 Đình Bình An Xã Trung Giã Thôn Bình An
78 Đình Thống Nhất Xã Trung Giã Thôn Thống Nhất
79 Đình Hoà Bình Xã Trung Giã Thôn Hoà Bình
80 Đình Xuân Sơn Xã Trung Giã
81 Đình Ngọc Hà Xã Xuân Giang Thôn Ngọc Hà
82 Đình Xuân Tảo Xã Xuân Giang Thôn Xuân Tảo
83 Đình Yên Sào Xã Xuân Giang Thôn Yên Sào
84 Đình Đại Tảo Xã Xuân Giang Thôn Đại Tảo
85 Đình Lai Cách Xã Xuân Giang Thôn Lại Cách
86 Đình thôn Chiến Thắng (đình Trai Gốm) Xã Việt Long Thôn Chiến Thắng
87 Đình Lương Phúc Xã Việt Long Thôn Lương Phúc
255

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN THẠCH THẤT QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ
1 Đình Thái Bình Xã Bình Yên
2 Đình Cánh Chủ Xã Bình Yên
3 Đình Vân Lôi Xã Bình Yên
4 Đình Sen Trì Xã Bình Yên
5 Đình Phú Thụ Xã Lại Thượng
6 Đình Thanh Câu Xã Lại Thượng
7 Đình Lại Khánh Xã Lại Thượng
8 Đình Hoàng Xá Xã Lại Thượng
9 Đình Đụn Dương Xã Liên Quan
10 Đình Chi Quan Xã Liên Quan
11 Đình Vĩnh Lộc Xã Phùng Xá
12 Đình Bách Kim Xã Phú Kim
13 Đình Ngoài Xã Thạch Xá
14 Đình Trong Xã Thạch Xá
256

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN THANH OAI QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ, THỊ TRẤN


1 Đình Động Giã Xã Đỗ Động
2 Đình Đống Xã Cao Viên
3 Đình Bãi Xã Cao Viên
4 Đình Ba Dư Xã Hồng Dương
5 Đình Thượng Phương Nhị Xã Hồng Dương
6 Đình Hạ Phương Nhị Xã Hồng Dương
7 Đình Ngô Đồng Xã Hồng Dương
8 Đình Mạch Kỳ Xã Hồng Dương
9 Đình Ngọc Đình Xã Hồng Dương
10 Đình Ngọc Liên Xã Kim An
11 Đình Hoạch An Xã Kim An
12 Đình Quế sơn Xã Tân Ước
13 Đình Phúc Khê Xã Tam Hưng
14 Đình Đại Định Xã Tam Hưng
15 Đình Tê Quả Xã Tam Hưng
16 Đình Thượng Thanh Xã Thanh Cao
17 Đình Gia Vĩ Xã Thanh Thuỳ
18 Đình Tam Đa Xã Thanh Văn
19 Đình Quan Nhân Xã Thanh Văn
20 Đình Kim Lâm Thị trấn Kim Bài
257

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN THANH TRÌ QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ ĐỊA CHỈ


1 Đình Chanh Khúc Xã Duyên Hà
2 Đình Văn Uyên Xã Duyên Hà
3 Đình Hữu Trung Xã Hữu Hòa
4 Đình Hữu Từ Dưới Xã Hữu Hòa
5 Đình Nội Am Xã Liên Ninh Thôn Nội Am
6 Đình Yên Phú Xã Liên Ninh Thôn Yên Phú
7 Đình Yên Kiện Xã Ngọc Hồi Thôn Yên Kiện
8 Đình Ngoài Xã Thanh Liệt Thôn Trung
9 Đình Thôn Trung Xã Thanh Liệt
10 Đình Lý Nhân Xã Thanh Liệt
11 Đình Trượng Xã Tứ Hiệp Thôn Cổ Điển
12 Đình Đông Trì Xã Tứ Hiệp
13 Đình Mối Xã Vạn Phúc Thôn 1
258

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN THƯỜNG TÍN QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ
1 Đình Chương Lộc Xã Chương Dương
2 Đình Ba Lăng Xã Dũng Tiến
3 Đình Cổ Chất Xã Dũng Tiến
4 Đình Đình (Phúc Am) Xã Duyên Thái
5 Đình Vân La Xã Hồng Vân
6 Đình Vân La Thượng Xã Hồng Vân
7 Đình Cẩm Cơ Xã Hồng Vân
8 Đình Phụng Công Xã Hoà Bình
9 Đình Hoàng Xá Xã Khánh Hà
10 Đình Liễu Ngoại Xã Khánh Hà
11 Đình Đỗ Hà Xã Khánh Hà
12 Đình Xuân Nê Xã Khánh Hà
13 Đình Trần Phú Xã Minh Cường
14 Đình Mễ Sơn Xã Nguyễn Trãi
15 Đình Gia Khánh Xã Nguyễn Trãi
16 Đình Lộc Dư Xã Nguyễn Trãi
17 Đình Trung Thôn Xã Nhị Khê
18 Đình Nhị Khê Xã Nhị Khê
19 Đình Đông Duyên Xã Tô Hiệu
20 Đình Tử Dương Xã Tô Hiệu
21 Đình (nghè) Triều Đông Xã Tân Minh
22 Đình Đống Sung Xã Thắng Lợi
23 Đình Một Thượng Xã Thắng Lợi
24 Đình Hạ Giáp Xã Thắng Lợi
25 Đình Mai Xá Xã Thắng Lợi
26 Đình Kiều Thị Xã Thắng Lợi
27 Đình Phương Cù Xã Thắng Lợi
259

28 Đình Khoái Nội Xã Thắng Lợi


29 Đình Hoàng Xá Xã Thống Nhất
30 Đình Đông Bộ Đầu Xã Thống Nhất
31 Đình Giáp Long Xã Thống Nhất
32 Đình Trát Cầu Xã Tiền Phong
33 Đình Phác Động Xã Tiền Phong
34 Đình Văn Hội Xã Văn Bình
35 Đình Văn Trai Xã Văn Phú
36 Đình Nguyên Hanh Xã Văn Tự
37 Đình Đông Thai Xã Vân Tảo
38 Đình Dương Tảo Xã Vân Tảo
39 Đình Hà Vĩ Xã Lê Lợi
40 Đình An Cảnh Xã Lê Lợi
260

DANH SÁCH ĐÌNH LÀNG CHƯA XẾP HẠNG


PHÂN CẤP CHO UBND CÁC XÃ THUỘC HUYỆN ỨNG HOÀ QUẢN LÝ
(tính đến 31/8/2014)

TT TÊN DI TÍCH XÃ
1 Đình Kim Giang Xã Đại Cường
2 Đình Đông Đình Xã Đại Cường
3 Đình Đào Xá Xã Đông Lỗ
4 Đình Ngọc Trục Xã Đông Lỗ
5 Đình Nhân Trai Xã Đông Lỗ
6 Đình Đồng Tiến Xã Đồng Tiến
7 Đình Đoàn Xá Thượng Xã Đồng Tiến
8 Đình Đoàn Xá Hạ Xã Đồng Tiến
9 Đình Giang Đường Xã Đồng Tiến
10 Đình Mỹ Lâm Xã Hoà Lâm
11 Đình Mẫu Mỹ Lâm Xã Hoà Lâm
12 Đình Đệ Nhất Xã Hoà Lâm
13 Đình Đệ Nhị Xã Hoà Lâm
14 Đình Hoà Chanh Xã Hoà Lâm
15 Đình Phúc Quan Xã Hoà Lâm
16 Đình Đống Long Xã Hoà Lâm
17 Đình Quán Xá Xã Hoà Phú
18 Đình Kim Bồng Xã Kim Đường
19 Đình Phượng Viền Xã Kim Đường
20 Đình Tu Lễ Xã Kim Đường
21 Đình Đình Tràng Xã Liên Bạt
22 Đình Lương Xá Xã Liên Bạt
23 Đình Vũ Ngoại Xã Liên Bạt
24 Đình Nội Lưu Xã Lưu Hoàng
25 Đình Nguyễn Xá Xã Phương Tú
26 Đình Ngọc Động Xã Phương Tú
261

27 Đình Cầu Bầu Xã Quảng Phú Cầu


28 Đình Vĩnh Hạ Xã Sơn Công
29 Đình Lương Đa Xã Trầm Lộng
30 Đình Thu Nội Xã Trầm Lộng
31 Đình An Thái Xã Trầm Lộng
32 Đình An Cư Xã Trầm Lộng
33 Đình Tiền Xã Viên An
34 Đình Triều Khúc Xã Đội Bình
35 Đình Thọ Vực Xã Đội Bình
36 Đình Xuân Quang Xã Đội Bình
37 Đình Trung Tú Xã Trung Tú
38 Đình Khánh Vân Xã Đồng Tân
39 Đình Thái Bằng Xã Đồng Tân
40 Đình Ngũ Luân Xã Đại Hùng
41 Đình Quan Tự Xã Đại Hùng
42 Đình Du Đồng Xã Đại Hùng
262

3. Đình quốc gia đặc biệt

DANH SÁCH DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

TT TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ SỐ QUYẾT ĐỊNH GHI CHÚ

1 Di tích kiến trúc nghệ thuật TT Tây Đằng,


2383/QĐ-TTg-9/12/2013
Đình Tây Đằng huyện Ba Vì

You might also like