Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng
chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận
được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh
ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi
nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn
Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu
kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" đã ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một
người con gái.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi
trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang
trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ
trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có
mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức. "Nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên"

Câu thơ này xuất hiện hai từ "nắng". Một cái nắng được phát hiện được miêu tả "nhìn nắng hàng
cau" và một cái năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con "nắng mới
lên". Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng
rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du
khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực
ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy.

Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạt vòm trời
đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình
yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi
phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.

"Vườn ai mướt qua xanh như ngọc" Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã "vườn ai mướt
quá" lại còn phát hiện ra cái "mướt quá" ấy là "xanh như ngọc". Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi,
mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm
nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc. "Lá trúc che ngang mặt chữ điền".

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng "mặt chữ điền"
chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là
vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí.

Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng
mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của
người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là "mặt chữ điền" là viên gạch có bốn ô
vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.
Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ
gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây
Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên
đất Huế.

Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của
quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên
mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng "lá trúc che ngang" càng cung
cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá
trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng
vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước
con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế
nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên. "Gió theo lối
gió, mây đường mây".

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì
mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình
buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau
nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp
một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định
người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kể phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim
của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi,
khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dung hiện
ra thật nhân từ và độ lượng.

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó


Có chở trăng về kịp tối nay?"

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của
hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử
tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật "ai" ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm
thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối
nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử.

Thế nhưng chữ "kịp" ở đây lửng lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể
kip và cũng có thể không còn kịp nữa... Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử
biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phúc ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh
phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

"Mơ khách đường xa, khách đường xa" Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách
vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy "khách đường xa, khách đường xa". Thế mà, lại
có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn
Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên
xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua
những vần thơ khác của Hàn:
"Người đã đi rồi không níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ".
Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên
tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi
người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật
chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình.

Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như "khách đường xa". Nhưng cũng liền
sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại
từ "em" thật giản dị, gần gũi biết bao: "Áo em trắng quá nhìn không ra".

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng.
Đáng lẽ "áo em trắng quá" thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh
lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao...

Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có
nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật "em"
trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình.
Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh: "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh".
Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:
"Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"
Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận
của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được "nhân ảnh" chứ không thể là chính
người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình
không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu.

Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa "nhân ảnh" của nhân vật "em"... Đó là một
nhận thức thật chua chat, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn
Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có
chỗ nào để bám víu: "Ai biết tình ai có đậm đà?".

Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu
của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà
không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không?

Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy "mờ
nhân ảnh", càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt
vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của "Đây thôn Vĩ Dạ" chính là cảm hứng đau xót về
một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho
ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt
vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế
nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này
Bài 2:
I. Mở bài:
Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong
trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”,
“Chơi giữa mùa trăng”... Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ” được trích trong tập
“Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha
thiết yêu đời, yêu người:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
……
Ai biết tình gi có đậm đà ”
II. Thân bài:
1. Khái quát:
“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của
Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng.
Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trắng hay một buổi bình minh. Khi ấy
Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi
của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này.
2. Nội dung cần phân tích cảm nhận:
Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp còn
tình người thì tha thiết nhớ mong:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn aii mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với những băn
khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của
nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh
không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Nhà thơ sử dụng
từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”. Nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không thay đổi
nhưng nó trở nên khách sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình. Trong câu
thơ, nhà thơ đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, xem cô gái Huế là một
người thân thương hay chính cô gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ. Mặt khác, sắc thái tu từ
trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về ? Đó là
một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của
cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậg khao khát, hoài niệm. Vì
không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng.
Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấg “nắng hàng cau
nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người đọc một không
gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét sống động, đầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là
loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới. Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao,
thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh
biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật
rực rỡ, trong sáng. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng
đầu tiên của buổi sớm. Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt,
rộng lớn. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng cau là hình
ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ, bình dị ấy lại có
sức gợi hình, gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu sắc trong trái tim nhà thơ. Nhắc đến cau còn là nhắc đến
loại cây rất thân thuộc với làng quê Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính
– một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền
phong cảnh có hình ảnh thân cau quen thuộc ấy:
“Nhà anh có một hàng cau
Nhà em có một giàn trầu”
Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:
“Đường cỏ lơ mơ nắng
Mái tranh chìm chơi vơi
Vài tán cau mộc mạc
Thả hồn quê lên trời”
Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống “Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như
vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ
màng của hàng câu khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn. Tác giả dùng
màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, lấp lánh
và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn
không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.
“Vườn ai”? Không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ
khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh
vật. Xuân Diệu viết:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn là
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
Thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với
ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính
giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ thán phục, ngợi ca cũng
như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.
Và cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “Lá trúc che ngang
mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc - một loài cây họ tre được trồng trước ngõ.
Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Lá trúc thì mảnh
mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh
vật đồng thời qua đó người đọc nhìn thấy không chỉ vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là
vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê
viết:
“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà sau”
Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:
“Thầm thỉ hỡi ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ú vị và thơ ngây”.
Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh trong lòng nhà thơ.
Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong
nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu
nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát
khao trở về thôn Vĩ Dêu thương.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ
hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng
câu chữ:
“ Gió theo lối gió, mây đường mâu
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lau
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ”
Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy
lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên
bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lao động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc
Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lag. Phép nhân hoá làm dòng sông như
chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ. Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi
buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mâu, dòng sông, hoa bắp. Gió và mâu là hai sự
vật luôn sánh đôi với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Gió
đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mâu “Gió theo lối gió, mây đường mâu”. Nhìn xuống
dòng sông, thi nhân thấg dòng sông trở nên “buồn thiu”, còn hoa bắp chỉ khẽ “lay” – một cử động rất
nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt vắng lặng. Chữ “lay" ấy như từ trong ca dao bay về đâu vào thơ
Hàn Mặc Tử:
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lau bông sậu bỏ buồn cho em
Không gian sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ gió mâm đến
dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng. Gió và mây vốn gắn kết cũng
đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những
cảnh vật ấg là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng,
đơn phương.
Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương, là Huế thơ
mộng nhưng không còn nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian ngập đầy ánh
trăng, con thuyền trở thành thuyền trắng, dòng sông thì sông trăng, bến thì thành bến trăng. Từ xưa đến
nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo công trăng độc đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử.
Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc
khoải hoài mong của thi nhân. Đây không phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ
ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi
nhân:
“Trăng nằm song soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
“Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng”
Hay: “Gió lùa ánh sáng vào trong bãi
Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”
Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm màu sắc trường phái tượng trưng siêu thực của phương Tây vì thế
nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, ví như câu viết về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền ai” phải
chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng
trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới
hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian.
“Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang
lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối ngu?”. Liệu rồi con thuyền ấg có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc
Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin
yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người. “Có chở trăng về kịp tối ngu?” là câu hỏi ẩn chứa một sự
day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầu khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi
nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người
đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng
sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hy vọng mà vẫn mong ước một cách riết
róng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Ao em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ
đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấu của
thi nhân. Thầy Phan Danh Hiếu. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì
sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và
khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng. Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi
của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của
câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đâu vượt
lên trên mức bình thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng
của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.
“Ở đâu sương khói mờ nhân ảnh”
“Ở đâu” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình.
“Ở đâu” và “ngoài kia” có xa xôi mấu đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi
thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng
đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng
thi ca:
“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầu hoài nghi, đầu khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết
tình ai có đậm đà?". Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò
vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Ths Phan Danh Hiếu. Câu hỏi như một tiếng
kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau
thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.
3. Nghệ thuật:
Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ... Bằng thủ
pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã
phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấu là nỗi lòng của chính
nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Thầy
Phan Danh Hiếu. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác.
Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để
khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn
còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình uêu trong ước mơ của con người
đau đớn ấg có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.
III. Kết bài:
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất
đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ
đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu
Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:
“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với Cố Đô”

Vội Vàng
I. Mở bài:
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được mệnh danh là “ông hoàng của thi ca tình
yêu”. Trước cách mạng, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính thức trở
thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập
“Thơ Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu viết về mùa xuân, tuổi
trẻ. Tác phẩm đã để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật đặc sắc trong lòng người đọc
II. Thân bài:
1. Khái quát:
Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập thơ
nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân
Diệu. Bài thơ thể hiện tập trung sở trường của Xuân Diệu trong việc bộc lộ cái tôi và cách cảm nhận
thiên nhiên, sự sống. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Thiên
đường là ở ngay trên mặt đất. Vì vậy hãy yêu mến, hãy gắn bó và sống hết mình với cuộc sống thực tại
đầy tươi vui này. Nó bộc lộ niềm ham sống, khát sống, tận hưởng đến vô biên và tuyệt đích của thi
nhân:
“Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dâu đa quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”
2. Nội dung cần phân tích cảm nhận:
Đoạn thơ mở đầu bằng bốn câu thơ ngụ ngôn chứa đựng những khát vọng mãnh liệt và táo bạo
của thi nhân:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bag đi”
Bốn câu đầu có lẽ là độc đáo nhất trong bài thơ vì chỉ riêng nó là thể ngũ ngôn. Nó là thể thơ phù
hợp cho việc thể hiện những cảm xúc vồ vập của Xuân Diệu bởi câu thơ ngắn lại giàu nhịp điệu. Điệp
ngữ “tôi muốn” được nhắc lại hai lần cùng với đó là hai động từ mạnh “tắt, buộc” đã làm nổi bật khao
khát của nhà thơ. Đó là khao khát “tắt nắng, buộc gió” để giữ lại màu hoa “Cho màu đừng nhạt mất” để
giữ lại sắc hương “ cho hương đừng bao đi”. Đó là khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để
buộc hương hoa tươi thắm mãi bên đời. Ngông cuồng hơn cả là nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay, thời
gian dừng lại để thi nhân tận hưởng được những phút giây tuổi trẻ của đời mình. Bởi nhà thơ sợ “tuổi
trẻ chẳng hai lần thắm lại”, sợ “đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”. Suy cho cùng khát vọng ấg của
Xuân Diệu thật ngông cuồng nhưng cũng rất hợp lí.
Bảy câu thơ tiếp theo, với tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng và khát khao giao cảm
mãnh liệt, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp xuân tươi phơi phới, đầu tình tứ ở những cảnh vật thiên
nhiên quen thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đầu tuần tháng một
Này đâu hoa của đồng nội xanh rì
Này đâu lá của cành tơ phơ phất
Của Bến anh này đây khúc tình
Và này đâu ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Bảy câu thơ trên là một bước tranh thiên nhiên mùa xuân được vẽ nên bằng một hồn thơ có “Cặp
mắt xanh non biếc rờn”. Cảnh vật đang vào độ | thanh tân, diễm lệ. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương
thơm, ánh sáng và màu sắc, âm thanh (đây chính là phép tương giao giữa các giác quan mà Xuân Diệu
học được ở thơ ca phương Tây). Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp: “Ong bướmtuần tháng mật”
“Hoa- đồng nội xanh rì”,lá- cành tơ”; Đến anh- khúc tình si”... Điệp ngữ “này đâu” được nhắc lại năm
lần diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Từ “này đâu” lại
là từ chỉ trỏ. Xuân Diệu như đang đứng trước bức tranh và liệt kê cho ta thấy vẻ đẹp tươi non, nõn nà
của mùa xuân. Thi sĩ như muốn nói với chúng ta rằng: “Sao người ta cứ phải đi tìm chốn Bồng Lai
Tiên Cảnh ở mãi chốn mông lung hão huyền nào? Nó ở ngay giữa cuộc sống quanh ta”. Thiên nhiên
như một bữa tiệc trần gian đầu những thực đơn quyến rũ: Ở đó có cảnh ong đưa và bướm lượn, tình tứ
ngọt ngào như “tuần tháng mật”. Màu hoa trở nên thắm sắc ngát hương hơn “giữa đồng nội xanh rì”.
Cây cối nảy lộc đâm chồi tạo nên những “cành tơ” với những chiếc lá tươi non phất phơ tình tứ. Điểm
vào phong cảnh ấy là tiếng hót đắm sau của loài chim yến anh đã tạo nên “khúc tình si” say đắm lòng
người.
Cặp mắt “xanh non biếc rờn” của Xuân Diệu còn mang đến cho người đọc một nguồn năng
lượng mới từ mùa xuân: “Và này đâu ánh sáng chớp hàng mi/ Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa”
Ánh sáng buổi sớm mai như phát ra từ cặp mắt đẹp vô cùng của nàng công chúa có tên là Bình Minh.
Nàng vừa tỉnh giấc nồng suốt một đêm qua, mắt chớp chớp hàng mi rồi bừng nở ra muôn vàn hào
quang. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật càng làm cho bức tranh thiên nhiên giống như một
nguồn nhựa sống chảy dào dạt xung quanh cuộc sống của con người. Thế mới hiểu những khao khát
của Xuân Diệu là đúng:
“Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”
Hoặc có khi ông khao khát đến cháy bỏng:
“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng một câu thơ đầu gợi cảm “Tháng giêng ngon như
một cặp môi gần”. Đây là một cách so sánh đầy gợi cảm, có một chút nhục cảm. Tháng giêng thanh
tân, diễm lệ, đầu ánh sáng, màu sắc, âm thanh và hương thơm trở thành “cặp môi gần” rất “ngon, ngọt”
của người tình nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời người. Và
chắc chắn vẻ ngọt ngào của người thiếu nữ là bờ môi chín mọng kia.
Ở đây, trong sự so sánh giữa thiên nhiên và con người, Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một
quan niệm nghệ thuật về con người rất mới mẻ. Thơ ca cổ điển thường lấu thiên nhiên làm chuẩn mực
cho cái đẹp. Mọi cái đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với cái đẹp của thiên nhiên. Bởi vậy khi miêu tả
nét đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lồng vào biết bao nhiêu cái đẹp của thiên nhiên: “Vân xem trang
trọng khác vời/Khuôn trăng đều đặn nét ngài nở nang/Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mâu thua nước
tóc tuyết nhường màu da”. Còn Xuân Diệu đưa ra một tiêu chuẩn khác: con người mới là chuẩn mực
của cái đẹp trong vũ trụ này. Bởi con người là tác phẩm kì diệu nhất của tạo hóa. Nên mọi vẻ đẹp trong
vũ trụ phải đem so sánh với vẻ đẹp của con người. Quan niệm nghệ thuật này là một đóng góp mới mẻ
của Xuân Diệu vào thơ ca đương đại Việt Nam.
Trần gian là một thiên đường, vì thế mà Xuân Diệu tuyên bố:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Tôi không “sung sướng” sao được khi được sống giữa một thiên đường như thế? Nhưng cũng vì
thế mà tôi phải “vội vàng một nửa”. Không vội vàng thì sợ không kịp mất. Tôi “không chờ” cho đến
“nắng hạ” mới tiếc nhớ “mùa xuân”, tôi sẽ không để cho tuổi xuân qua đi rồi mới tiếc nhớ thời tươi
đẹp ấy. Tôi phải sống ngay từ bây giờ, ngay khi đang còn trẻ, còn đầy sức xuân, khi tâm hồn còn ngập
tràn tình yêu. Lời tuyên bố này thể hiện một quan niệm mới: trong thế giới này, đẹp nhất, quyến rũ
nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.
Trần gian tươi đẹp là thế, tại sao lại phải “vội vàng”? Khổ thơ tiếp theo sẽ lí giải cho sự “vội
vàng” ấy:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già;
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,


Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...

Ba câu đầu là quan niệm về sự trôi chảy của thời gian, sự phôi pha của kiếp người:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già;
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
Từ “xuân” trong ba câu thơ trên có thể được hiểu là mùa xuân, cũng có thể là “tuổi xuân”, tuổi trẻ
của con người. Những cụm từ “đương tới” – “đương qua”, “còn non” – “sẽ già” diễn tả sự trôi chảy
của thời gian. Nếu như con người thời trung đại thấg thời gian tuần hoàn với chu kì bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông; hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu, thì Xuân Diệu đem đến một
quan niệm mới mẻ: thời gian tuyến tính. Thời gian là một dòng chảy vô thủy vô chung, mỗi khoảnh
khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Và cuộc đời tôi cũng sẽ chẳng còn gì nếu tuổi xuân qua mất.
Bởi thế, mà có chút trách móc, tiếc nuối trong bốn câu tiếp:
“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”
“Lòng tôi rộng” lắm, với tôi, tuổi trẻ dài bao nhiêu cũng chưa đủ. Nhưng lượng trời”, tạo hóa lại
cứ “chất”, cứ “keo kiệt” với con người: “không cho dài thời trẻ của nhân gian”. Tuổi trẻ ngắn ngủi quá,
mong manh hữu hạn quá. Hai câu trên thoáng chút trách móc. Hai câu dưới nồng nhiệt phủ định quan
niệm thời giantuần hoàn của người xưa, bộc lộ niềm tiếc nuối: đời người không có hai lần tuổi trẻ thì
làm gì có chuyện thời gian tuần hoàn! Tuổi trẻ, tuổi đẹp nhất của đời người lại ngắn ngủi quá!
Niềm tiếc nuối ấg thể hiện rõ hơn trong hai câu tiếp:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Vũ trụ, đất trời cứ trường tồn mà lại chẳng còn tôi mãi”, thế nên tôi “bâng khuâng”, ngậm ngùi
“tiếc” cả đất trời.
Thời gian cứ thế trôi đi không thể trở lại, kiếp người lại ngắn ngủi, hữu hạn, tất cả rồi sẽ phải phai
tàn theo thời gian:
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi” là một cảm nhận mới lạ, độc đáo. “Tháng năm”, thời gian
được cảm nhận bằng “mùi”, “vị chia phôi”. Thi sĩ thấu hiển hiện mỗi khoảnh khắc của thời gian đang
lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ. Chính thời gian cũng đang chia tay với tất cả, mỗi phút giây của nó
qua đi là đang mất đi vĩnh viễn. Cho nên, thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông,
một lời than triền miên, bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Thời gian trôi qua mau chóng, tất cả rồi sẽ phai
tàn, héo úa theo nó. “Con gió xinh” tưởng không bao giờ mất, thế mà cũng phải “bay đi”; tiếng chim
hót “reo thi tưởng không bao giờ ngừng nghỉ, thế mà cũng phải “đứt”. Tất cả, tất cả đều phôi pha, phai
tàn trước dòng chảy nghiệt ngã của thời gian. Thế nên, câu thơ cuối khổ thơ vang lên đầu nuối tiếc:
“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa..”. Chẳng thể nào kịp nữa nếu không nhanh lên, gấp lên, không
“vội vàng” lên. Đến đâu, nhà thơ đã hoàn thành xong lời lí giải vì sao phải sống “vội vàng”: cuộc sống
trần gian đẹp như một thiên đường, trong khi đó, thời gian một đi không trở lại, và đời người – đặc biệt
là tuổi trẻ của con người ở lại quá ư ngắn ngủi, hữu hạn, nên chỉ còn một cách là phải sống vội. Đây là
quan niệm nhân sinh mới mẻ của một tâm hồn luôn khát khao giao cảm với đời.
Ở khổ thơ cuối cùng, nhà thơ đã nêu cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng”
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Mở đầu đoạn thơ là lời giục giã :
“Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm.”
Nhà thơ giục giã mọi người mà cũng là giục giã chính mình: hãy mau lên, gấp lên để tận hưởng
cuộc sống. “Mau đi thôi!” là câu cảm thán thể hiện sự khẩn trương, hối hả. “Mùa chưa ngả chiều hôm”
là cách nói hình ảnh chỉ con. người khi đang còn trẻ, chỉ trần gian khi đang ở độ xuân, chưa phai tàn
hết hương sắc. Nhà thơ giục giã hãy nhanh lên, gấp lên khi đang còn trẻ, đang còn tràn trề nhựa sống,
đừng hoài phí giây phút nào nữa. Giục giã đã trở thành môtip quen thuộc trong thơ Xuân Diệu:
“Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi, tình non sắp già rồi.”
(Giục giã")
“Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai,
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.”
Lời giục giã khẩn trương, gấp gáp này đã hé mở lòng yêu đời, ham sống đến tha thiết, rạo rực
của một con người luôn sợ thời gian.
Sáu câu thơ tiếp theo bộc lộ những hành động sống vội vàng:
“ Ta muốn ôm,
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn tiết mâu đưa và gió lượn,
Ta muốn sau cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,
Và non nước, và câu, và cỏ rạng.”
Xuân Diệu muốn “ôm, riết, sau, thậu” tất cả sự sống, tất cả trần gian vào mình. Thi sĩ như căng
hết cảm giác, xúc giác để sống mãnh liệt, sống hết mình, sống nồng nàn, say mê. Ông phải hành động
thật mạnh mẽ, thật mãnh liệt để cảm nhận hết vẻ tươi xinh mơn mởn của đất trời, thu nhận hết hương
sắc của trần gian.“Ta muốn ôm” là một câu thơ đặc biệt: chỉ có ba tiếng, lại được đặt ngay giữa dòng
thơ, gợi cho người đọc hình dung ra một con người ham hố đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng
tay, mở rộng tâm hồn để đón nhận hết tất cả sự sống, tất cả đất trời vào lòng mình. Câu thơ có cấu tạo
đặc biệt này đã thể hiện rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt, đắm sau của Trảo Nha.
Hệ thống động từ “ôm, riết, sau, thậu” chỉ những hành động sống vội vàng, mãnh liệt có mức độ
tăng tiến đã diễn tả đầy đủ quan niệm “Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn; Sống toàn thân và thức nhọn
giác quan”. Quả thực, đó là lòng yêu đời đến cuồng nhiệt của thi nhân.
Thêm nữa, nhà thơ miêu tả trần gian bằng những hình ảnh “sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, “mây
đưa”, “gió lượn”, “cánh bướm - tình yêu”, “non nước”, “câu”, cỏ rạng”. Trần gian ấy thật tươi đẹp, tràn
đầy sức sống, rạo rực tình yêu. Cách miêu tả trần gian ấy cũng bộc lộ lòng yêu đời đến đắm sau, rạo
rực của Xuân Diệu.
Đặc biệt, câu thơ “và non nước, và câu, và cỏ rạng” là một câu thơ độc đáo cho thấg Xuân Diệu
xứng đáng với mệnh danh “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới”. Câu thơ lặp lại ba lần từ “và”
(nếu như trong văn học trung đại sẽ là một câu thơ dở) là dụng ú nghệ thuật của nhà thơ. Ông muốn thể
hiện một “cái tôi” ham hố, tham lam muốn vợ hết, thu hết, ôm hết tất cả trần gian, đất trời. Tóm lại,
những hành động sống vội vàng, mạnh mẽ muốn “ôm, riết, thâu” cả trần gian, Trảo Nha khẳng định,
với ông “vội vàng” là sống hết mình, cống hiến hết mình, là “Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn; Sống
toàn thân và thức nhọn giác quan”.
Với Xuân Diệu, sống là hành động thật mãnh liệt, hết mình để có thể:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầu ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Với ông, sống là phải cảm nhận, hưởng thụ hết “mùi thơm”, “ánh sáng”, “thanh sắc của thời tươi”,
nghĩa là phải hưởng thụ hết vẻ đẹp, hương sắc của trần gian, phải sống sao cho “thời tươi” của đời
người thật nghĩa, thật đẹp để sau này không hối tiếc. Các tính từ “chếnh choáng”, “đã đầu”, “no nê” có
mức độ tăng tiến khiến chúng ta hình dung Xuân Diệu như một con ong lảo đảo vui sướng sau khi hút
mật ngọt từ nhụy hoa. Ông muốn sống thật hằng sau, sống thật mãnh liệt, lúc nào cũng căng tràn nhiệt
huyết, để “thời tươi” – tuổi trẻ - được đẹp đẽ nhất, được chếnh choáng”, “đã đầu”, “no nê” với niềm
vui sướng từ mật ngọt hương đời.
Ông còn hình dung tuổi xuân của đời người như một cô gái đẹp và gọi tên nó một cách tha thiết
“hỡi xuân hồng”. Cách hình dung cuộc sống như thế cùng với hành động thật vồ vập “cắn” đã thể hiện
sự quý trọng thời trẻ của đời người, đồng thời bộc lộ rõ lòng yêu cuộc đời đắm say như gêu người yêu
của mình.
Tóm lại, với những câu thơ độc đáo, những từ ngữ và nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng
nhiệt, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” đã nêu ra cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng” của
mình: Vội vàng là chạy đua với thời gian, là quý trọng từng giây phút của tuổi trẻ, đừng để hoài phí
giây phút nào; vội vàng là sống mạnh mẽ, đủ đầu với từng phút giây của sự sống, “Sống toàn tâm, toàn
trí, toàn hồn; Sống toàn thân và thức nhọn giác quan guyễn Ngọc
3. Nghệ thuật:
Bài thơ có sự kết hợp hài giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí. Mạch cảm xúc thể hiện ở lòng yêu
đời đắm sau, tha thiết, rạo rực của nhà thơ; mạch luận lí là lời lí giải về lẽ sống vội vàng. Mạch cảm
xúc làm cho lí lẽ không trở nên khô khan, triết học, còn mạch luận lí làm cho mạch thơ được tự nhiên,
nhuần nhị. Cùng với cách nhìn, cách cảm mới, những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ và cách sử
dụng ngôn từ, nhịp điệu sôi nối dồn dập, hối hả, cuồng nhiệt, nhà thơ đã trình bày một quan niệm nhân
sinh mới mẻ mà vẫn dạt dào cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết.
III. Kết bài:
“Chưa bao người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như
Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huu Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận,
quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,.. và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”
(Thi nhân Việt Nam). Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do
những cống hiến to lớn của ông dành cho thi đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội
vàng”. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của
cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Tư tưởng ấy được thể hiện qua bàn tay nghệ thuật
điêu luyện, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi
nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác những
năm 30 của thế kỉ trước nhưng vẫn vang vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như một
ngọt đầy tinh túy khiến ta phải ghi nhớ mãi cái tên Xuân Diệu-ông hoàng thơ tình trong làng thi ca
Việt!
Bài 2:
“Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này, Xuân Diệu
say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc sống ngắn
ngủi của mình” (Trích “Thi nhân Việt Nam”). Nhận định của nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã
đánh giá về những đặc sắc chủ yếu trong sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu - gương mặt tiêu biểu và có
nhiều đóng góp nổi bật cho sự phát triển của phong trào thơ Mới.
Một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này chính là “Vội vàng”. Qua bài thơ, chúng ta thấy
được tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, lòng ham sống mãnh liệt cùng quan điểm sống tích cực của tác
giả. Trước hết, bài thơ “Vội vàng” đã thể hiện ý nguyện, tâm thế và mong muốn hành động của tác giả
trước bước đi của thời gian:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Trước vòng quay “một đi không trở lại” của dòng thời gian, tác giả Xuân Diệu muốn nắm bắt và
giữ lấy từng khoảnh khắc qua việc muốn “tắt nắng” để sắc màu không phôi pha, muốn “buộc gió”
không cho hương sắc bay đi. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần đã khẳng định ý nguyện của
cái “tôi” tha thiết muốn giữ lấy vẻ đẹp chóng tàn phai của thiên nhiên; đồng thời làm nổi bật tâm hồn
của một thi sĩ yêu đời, say mê thiên nhiên và trân trọng, nâng niu cuộc sống. Và tình yêu tha thiết,
mãnh liệt này đã được phác họa rõ nét hơn ở những câu thơ tiếp theo:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Bằng biện pháp nghệ thuật liệt kê kết hợp nhịp điệu thơ nhanh và dồn dập, mọi thanh âm, mọi sắc
màu, hình ảnh của bức tranh thiên nhiên đều hiện hữu sinh động trước mắt người đọc. Điệp từ “Này
đây” vang lên đầy say mê, thể hiện mọi giác quan của người thi sĩ đều rung lên để đón nhận, để tận
hưởng vẻ đẹp của tạo hóa, của đất trời trong sức xuân và sắc xuân. Đó là những vẻ đẹp hữu hình như
“hoa của đồng nội xanh rì”, “lá của cành tơ phơ phất”.
Đó còn là vẻ đẹp vô hình như khúc ca tình yêu mang âm điệu say mê cuồng nhiệt của cặp “yến
anh”, là nguồn sáng vội vã chớp qua hàng mi,.... Đặc biệt, Xuân Diệu đã so sánh “tháng giêng” - khái
niệm thời gian vô hình như “cặp môi” – sự vật cụ thể trong mối quan hệ “ngon” – “gần” để đem đến
một cảm nhận vô cùng độc đáo, mới mẻ, khiến cho bức tranh thiên nhiên nơi trần gian hiện lên đẹp đẽ,
tươi mới, căng tràn sức sống như “một thiên đường trên mặt đất”.
Thi nhân vận dụng mọi giác quan để tận hưởng vẻ đẹp của tạo vật, thiên nhiên nhưng vẫn không
quên đi ý thức về sự trôi chảy của thời gian: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Bởi vậy, ông
đắm say, cuồng nhiệt cùng cảnh sắc đất trời nhưng vẫn không ngừng chiêm nghiệm về dòng thời gian
trôi, về tình yêu và tuổi trẻ:
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lạị
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Là một nhà thơ với thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, Xuân Diệu không chỉ thấy được quy
luật tuần hoàn của dòng thời gian: “Xuân tàn, hạ tới, thu hết, đông sang” mà còn nắm rõ “phép biện
chứng” mang tính tuyến tính, “một đi không bao giờ trở lại” của từng phút giây.
Qua cách cảm nhận: “xuân đương tới” – “xuân đương qua”, “xuân còn non” – “xuân sẽ già”, dòng
chảy vô hình của thời gian đã được khắc họa rõ nét, khiến cho dù thi nhân đang cảm nhận mùa xuân
tươi đẹp, căng tràn sức sống cũng chính là mùa xuân đang ở viễn cảnh “sẽ già”, sẽ tàn phai, sẽ héo úa.
Nhưng điều đặc biệt nhất trong quan niệm của Xuân Diệu chính là thời gian vũ trụ không đồng nhất
với thời gian của đời người, nghĩa là “xuân qua” rồi xuân sẽ lại “tới” trong sự tuần hoàn của đất trời,
nhưng tuổi trẻ, đời người thì “chẳng hai lần thắm lại”.
Bởi vậy, ông cho rằng điều đẹp nhất của con người chính là tuổi trẻ và tình yêu. Và từ đó, “ông
hoàng thơ tình” luôn nuối tiếc mùa xuân, nuối tiếc tuổi trẻ bằng lòng ham sống, lòng yêu đời mãnh liệt
cùng quan niệm sống “vội vàng” và chủ động chạy đua với thời gian:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây thâu và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”
Điệp từ “Ta muốn” được đặt ở đầu câu vang lên đầy dõng dạc, kết hợp với hàng loạt động từ theo
cấp độ tăng tiến: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu” đã làm nổi bật tư thế chủ động tận hưởng mọi vẻ đẹp của
cuộc sống ở độ tươi mới nhất, căng tràn nhất của cái “tôi” trữ tình.
Lòng ham sống cùng niềm say mê cuồng nhiệt đó chính là động lực để thôi thúc Xuân Diệu “sống
vội vàng, sống cuống quýt” (theo cách nói của nhà phê bình văn học Hoài Thanh), nhưng sự vội vàng
đó không hề tiêu cực bởi nhịp sống đó luôn gắn bó mật thiết với niềm vui sống và tinh thần lạc quan
của tác giả. Đây là một quan điểm sống tích cực, tiến bộ và mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với mỗi
một con người.
Như vậy, qua việc phân tích bài thơ vội vàng, chúng ta có thể thấy được tài năng của thi sĩ Xuân
Diệu trong cách sử dụng ngôn từ và vận dụng nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật. Tất cả các yếu
tố đó kết hợp với nhau trong sự hài hòa, tinh tế, góp phần khắc họa hình tượng nhân vật trữ tình với
tình yêu thiên nhiên tha thiết cùng niềm ham sống, lòng yêu đời cuồng nhiệt và nổi bật hơn cả là quan
niệm sống “vội vàng” chạy đua với thời gian để nắm bắt lấy những gì đẹp nhất của tuổi trẻ, của tình
yêu.

1. Dàn ý phân tích Vội vàng


1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:
+ Xuân Diệu (1916 - 1985) là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam, được mệnh danh là "ông
hoàng thơ tình" nổi tiếng với nhiều tác phẩm đặc sắc viết về tình yêu.
+ "Vội vàng" là một trong những tác phẩm đặc sắc và nổi tiếng của Xuân Diệu, là tiếng nói con tim của
một kẻ đang say mê trong tình yêu với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
- Dẫn dắt vấn đề và trích dẫn nhận định của Hoài Thanh: "Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà
thơ mới".
2. Thân bài:
a) Giải thích ý kiến nhận định
- Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất” do thơ ông tiếp thu có sáng tạo luồng tư tưởng, văn học văn hóa
phương Tây, nhất là văn học lãng mạn và tượng trưng của thơ ca Pháp.
- Thơ ông có phong cách nghệ thuật hiện đại rõ nét nhất trong các nhà thơ mới.
b) Phân tích bài thơ Vội vàng
- Luận điểm 1: Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt nữa
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
+ Điệp từ "tôi muốn" nhấn mạnh những ước muốn tưởng chừng như vô lí, viển vông của Xuân Diệu:
"tắt nắng đi", "buộc gió lại" -> Ước muốn giữ lại hương sắc cho cuộc đời.
=> Xuân Diệu muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên, những vận động của đất trời để lưu giữ những vẻ
đẹp tự nhiên của đất trời bên mình một cách trọn vẹn, mãi mãi.
+ “thiên đường trên mặt đất”: bức tranh thiên nhiên
+ “ong bướm tuần tháng mật”, “hoa của đồng nội xanh rì”, “yến anh khúc tình si”, “ánh sáng chớp
hàng mi” -> Hình ảnh thơ tươi vui, trẻ trung, có đôi có cặp, tất cả như đang tràn trề ra
+ Điệp từ “này đây” bộc lộ niềm vui phơi phới, hân hoan của tác giả khi được đắm say trong khung
cảnh tuyệt vời.
=> Một bức tranh thiên nhiên đầy ánh sáng mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh rộn rã, đầy màu sắc,
hương thơm và đầy tình tứ.
+ "Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần".
-> Trong bức tranh ấy, tất cả vạn vật dường như đều căng tràn sự sống và đanh chếnh choáng trong
men say của luyến ái, của tình yêu.
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
-> Niềm vui sướng, hân hoan, vội vàng muốn tận hưởng “thiên đường trên mặt đất” của cái tôi trữ tình.
- Luận điểm 2: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
+ Điệp từ “nghĩa là”
+ "đương tới / đương qua; còn non / sẽ già": cú pháp đối lập diễn tả sự trôi đi của thời gian và tuổi trẻ.
-> Quan niệm về thời gian, tuổi trẻ: thời gian, tuổi trẻ của mỗi người là một quãng thời gian hữu hạn,
chật hẹp, nó sẽ trôi chảy theo nhịp tuyến tính và một đi không trở lại.
=> Xuân Diệu có một quan niệm mới mẻ về thời gian, về tuổi trẻ.
+ Điệp từ: "phải chăng"
+ Hình ảnh thơ đối lập: “lòng tôi rộng” – “lượng trời chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi trẻ chẳng hai lần
thắm lại”, “còn trời đất” – “chẳng còn tôi mãi”
-> Tâm trạng nuối tiếc, ngậm ngùi trước sự chảy trôi của thời gian, của tuổi trẻ.
- Luận điểm 3: Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả
+ Điệp từ “ta muốn” -> nỗi khát khao cháy bỏng, muốn sống, muốn yêu, muốn đi ngược với tự nhiên
và tạo hóa để đoạt lấy tuổi trẻ.
+ “ôm” – “riết” – “say” – “thâu” – “cắn” -> động từ mạnh theo cấp độ tăng dần.
-> Diễn tả một cách trọn vẹn và sâu sắc lời giục giã sống vội vàng, sống sôi nổi và luôn trân quý thời
gian, tuổi trẻ của của tác giả.
=> Biểu hiện của một cái tôi khát khao sống, khát khao tận hưởng những vẻ đẹp giữa chốn trần gian.
+ "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi"
=> Khát khao đã không còn là khát khao nữa mà là muốn chiếm đoạt, muốn giữ lấy cho riêng mình
mùa xuân của tuổi trẻ.
c) Chứng minh nhận định:
- Về nội dung tư tưởng:
+ Thơ ông là tiếng nói cá nhân tự ý thức. Cái tôi trong thơ ông rất cô đơn, luôn ám ảnh bởi thời gian
trôi chảy nên khao khát giao cảm với đời. Một trong những cách giao cảm với đời đó là tình yêu, nên
đặc sản của thơ Xuân Diệu là tình yêu, bởi tình yêu là một nhịp cầu giao cảm tuyệt vời nhất. Và một
cách giao cảm khác đó là cái tôi của ông tương ứng, vang hưởng cùng với sự tương ứng, vang hưởng
cùng với mọi hiện tượng sự vật trong trời đất và con người trong cuộc sống.
+ Tình yêu theo quan niệm của Xuân Diệu là sự giao hòa, giao cảm giữa thể sáng và linh hồn của hai
cá thể. Vì thế vũ trụ trong thơ ông là vũ trụ xuân và tình. Thơ ông không lơ lửng ở trên không mà đặt
nền móng rất vững, rất sâu trên mảnh đất trần gian.
+ Ông cũng thể hiện trong thơ tư tưởng nhân sinh mới mẻ, tạo một bước phát triển hơn về tư tưởng
nhân văn trong văn học dân tộc. Đó là ý nghĩa và giá trị một đời người không ở chỗ sống dài hay sống
ngắn mà ở chất lượng sống mà chất lượng sống cao nhất là tuổi trẻ và tình yêu là phẩm chất, năng
lượng của tuổi trẻ.
- Về nghệ thuật:
+ Với ông, làm thơ là thả một chiếc lá thơ vào dòng thời gian để bất tử hóa chính mình, vì thơ là
năng lực siêu việt thời gian. Thơ là sản xuất cá thể với cảm xúc mới nên “ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu
văn phải lung lay” (Hoài Thanh).
+ Thiên nhiên trong thơ ông bao giờ cũng được cảm nhận bằng ánh mắt phong tình ái ân. Thiên
nhiên được tái tạo bằng bút pháp mĩ nhân hóa.
+ Ông hoạt động cả 5 giác quan để khám phá và miêu tả sự vật bằng tất cả những biến thái tinh vi
nhất.
Cách đặt câu, dùng câu trong thơ ông rất mới, rất Tây.
3. Kết bài:
- Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
- Khẳng định sự đúng đắn của nhận định, bày tỏ cảm xúc cá nhân.

3. Bức tranh sương khói mờ ảo cỏi mộng.


* Bức tranh sương khói mờ ảo cỏi mộng là tâm trạng tuyệt vọng của thi nhân. Hàn Mặc Tửrơi vào thế giới ảo
mộng:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Aibiết tình ai có đậm đà ?
– Hình ảnh “khách đường xa” có thể là người đang sống ở thôn Vĩ, cũng có thể chính Hànđang tưởng tượng
mình là khách về chơi thôn Vĩ. Nhưng dù hiểu thế nào thì điệp ngữ “khách đường xa” cũng khơi gợi nên
khoảng cách xa xôi, mờ mịt giữa người và người.
– Hình ảnh “áo em trắng quá” là hình ảnh đậm nét nhất, rực rỡ nhất, nhưng cũng gây tuyệt vọng nhất. Vẻ đẹp
tinh khiết mà Hàn Mặc Tử hằng tôn thờ được thi sĩ dùng một sắc trắng kì lạ để cực tả “áo em trắng quá”, mà
đôi khi, thấy cả ngôn ngữ cũng bất lực không theo kịptrực giác của nhà thơ. Hàn Mặc Tử đã dồn cả màu, cả ánh
sáng để tả: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc/Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. – Cụm từ “nhìn không ra” là
một cách cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ(giống như cách viết “Vườn ai mướt quá xanh như
ngọc”)
. – Không gian thực hóa hư ảo bởi trí tưởng tượng của thi nhân. Nhén lên trong lòng thi nhânmột thứ tình cảm
rất khó xác định, khó nắm bắt: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/Ai biết tình ai có đậm đà ?”. Cảnh vật và con
người chìm sâu vào không gian hư ảo, ma mị như đang ở một thế giới rất khác… cõi chết. Ranh giới giữa sống
và chết, giữa thực và hư quá đỗi mong manh. Thi nhân cảm nhận rõ nét khoảng cách xa xôi, cái hư ảo ngày
càng rõ củatình yêu, hạnh phúc.
* Bức tranh tâm cảnh:
– Ẩn chứa sâu trong khung cảnh “sương khói” mờ ảo ấy là sự bất lực, nỗi tuyệt vọngcủa thi nhân.
– Cảnh vật từ khổ một đến khổ ba biến đổi rõ rệt: từ tươi sáng, tràn đầy sức sống đến hiu hắt, đượm buồn với
cảnh sông nước rồi hư ảo mờ nhòe ở khổ thơ cuối cùng. Tâm trạng thi nhân cũng thay đổi theo cảnh: từ hi vọng
đến dự cảm chia lìa, hoài nghi đên tuyệtvọng.
– Đại từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện trong câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” mang nét nghĩa mơ hồ. Câu
hỏi tu từ không thỉ thể hiện sự hồ nghi về tình yêu mà còn là sự hồ nghi về tình đời, tình người. Trong hoàn
cảnh của bản thân hiện tại, chỉ có tình người, tìnhđời mới níu nhà thơ lại với trần gian. Thế mà cái tình kia sao
quá đỗi mong manh
. * Tâm trạng nhà thơ quyết định cảnh chứ không phải cảnh quyết định tâm trạng. Nhìnchung vào bức tranh
tổng quan và sự biến đổi của nó chúng ta sẽ cảm nhận rõ điều này.
4. Thái độ của nhà thơ qua 3 câu hỏi tu từ Trong khổ thơ nào cũng xuất hiện câu hỏi tu từ, từ “Sao anh không
về chơi thôn Vĩ ?”, “Cóchở trăng về kịp tối nay?” đến “Ai biết tình ai có đậm đà ?”. Thế mới thấy, bao trùm cả
bài thơ là những nỗi niềm khắc khoải, hồ nghi nhưng lại là niềm khát khao tình yêu,, hạnh phúccủa thi nhân

You might also like