DÀN BÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - Credit Constraints and Household Entrepreneurship

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 27

The relationship between credit constraints and household

entrepreneurship in Viet Nam


1. Introduction
Tinh thần kinh doanh là động lực phát triển kinh tế và xã hội (Sendra-Pons et al.,
2022). Việc thúc đẩy một nền kinh tế thịnh vượng phụ thuộc vào việc thúc đẩy mức
độ tham gia kinh doanh cao hơn vì tồn tại mối quan hệ chặt chẽ giữa việc gia tăng
hoạt động kinh doanh và tăng trưởng kinh tế (Duong, 2023). Tinh thần kinh doanh là
kết quả của sự tương tác giữa các cá nhân và môi trường bên ngoài, ngoài ra các cá
nhân có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh theo nhiều cách khác nhau (Matos
& Hall, 2021). Tinh thần kinh doanh đã được nhiều nhà hoạch định chính sách coi là
một ưu tiên phát triển quan trọng vì tinh thần kinh doanh làm tăng phúc lợi xã hội
thông qua tác động tích cực của nó đối với tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm (Cai et
al., 2018). Tuy nhiên, việc thành lập doanh nghiệp như thế nào quả thực là một vấn đề
đáng bàn. Để hiểu quá trình dẫn đến việc thành lập doanh nghiệp mới, điều quan trọng
là phải xác định điều gì khiến các cá nhân đưa ra quyết định tham gia vào quá trình tạo
ra một doanh nghiệp mới và dành thời gian và nguồn lực cần thiết (Cross &
Travaglione, 2003). Phần lớn các nghiên cứu cho thấy việc thiếu vốn ban đầu là rào
cản đáng kể đối với hoạt động kinh doanh (Cagetti & De Nardi, 2006; Evans &
Jovanovic, 1989). Với điều kiện trình độ kỹ thuật đạt yêu cầu tối thiểu, nếu số vốn tích
lũy ban đầu không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu để hoạt động kinh doanh thì doanh
nhân có thể vay vốn để bù đắp phần còn thiếu (Cai et al., 2018).
Khuyến khích tinh thần kinh doanh ngày càng trở thành một chiến lược thiết yếu để
thúc đẩy phát triển kinh tế. Hơn nữa, hạn chế về thanh khoản có ảnh hưởng đáng kể
đến hành vi kinh doanh. Thị trường tín dụng là một cách khác để nới lỏng những hạn
chế về thanh khoản. Vì vậy, thị trường tài chính hoàn hảo và nguồn cung tín dụng đầy
đủ sẽ thúc đẩy tinh thần kinh doanh (Black & Strahan, 2002; Hurst & Lusardi, 2004).
Thị trường tài chính phát triển tốt có thể đảm bảo rằng các doanh nhân tương lai có
khả năng tiếp cận tốt với thị trường tín dụng và có thể nhận được nguồn tín dụng cần
thiết. Tuy nhiên, thị trường tài chính kém phát triển đang lan rộng khắp thế giới đã thu
hút nhiều nghiên cứu về những xung đột tài chính có thể dẫn đến hạn chế tài chính và
từ đó làm suy giảm hoạt động khởi nghiệp.
Sử dụng bộ dữ liệu điều tra Tiếp cận nguồn lực hộ gia đình nông thôn Việt Nam
(VARHS). Bảng câu hỏi VARHS bao gồm một loạt các câu hỏi về hộ gia đình có
tham gia vào hoạt động kinh doanh hay không, hộ gia đình có làm nghề thủ công nhỏ
hay không, có bị hạn chế tín dụng hay không (xác định dựa trên một trong ba yếu tố:
bị từ chối tín dụng, vay tín dụng từ hai nguồn trở lên, và bị yêu cầu có tài sản thế
chấp). VARHS không đặt câu hỏi liệu các khoản vay ngân hàng có đủ để đáp ứng nhu
cầu tín dụng hay không. Ngoài ra, chúng tôi tin rằng các hộ gia đình vay vốn ngân
hàng nhưng không có đủ tín dụng có thể vay từ các kênh không chính thức để đáp ứng
nhu cầu tín dụng của họ. Vì vậy, các hộ gia đình vừa vay ngân hàng vừa vay phi chính
thức cũng bị coi là bị hạn chế tín dụng.
Phần còn lại của bài viết này được tổ chức như sau: Phần 2 xem xét các tài liệu liên
quan. Phần 3 giới thiệu dữ liệu và cách tiếp cận thực nghiệm. Phần 4 trình bày các kết
quả thực nghiệm cơ bản. Phần 5 thảo luận một số vấn đề liên quan đến việc dựa vào
ước tính của Phần 4 . Phần 6 kết thúc.
2. Analytical Framework
2.1.Literature review
Tín dụng là không thể thiếu cho sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế (Fufa & Kim,
2018; Grydaki & Bezemer, 2013), và sự thành công của từng doanh nghiệp (Kuzilwa
& Nyamsogoro, 2016; Yusuf et al., 2014). Những trở ngại đối với việc tiếp cận tín
dụng có tác động mang tính hệ quả về tăng trưởng vững chắc (Ayyagari et al., 2008)
và đổi mới (Hall, 2002). Một lượng lớn nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế đối với
các khoản vay chính thức và cách giảm thiểu chúng (Ardic et al., 2012; Han et al.,
2009; Lee et al., 2015). Sự tương tác giữa tinh thần kinh doanh và hạn chế tín dụng đã
được thảo luận từ lâu. Thị trường vốn không thể cung cấp đủ vốn cho các doanh nhân
do sự lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức (Knight, 1921). Bằng cách sử dụng khảo sát
hộ gia đình ở Thái Lan, (Paulson & Townsend, 2004) đã chứng minh rằng hạn chế tín
dụng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hộ gia đình
(Paulson & Townsend, 2004). Họ chỉ ra rằng các hộ gia đình có tích lũy vốn cao hơn
có nhiều khả năng bắt đầu kinh doanh riêng hoặc tái đầu tư vào các ngành công
nghiệp hiện có vì những gia đình như vậy phải đối mặt với ít hạn chế tín dụng hơn.
Một nghiên cứu khác theo chiều sâu tài chính ảnh hưởng đến tinh thần khởi nghiệp
bằng dữ liệu của Ý và nhận thấy rằng tỷ lệ gia nhập doanh nghiệp mới cao hơn nhiều
ở những nơi khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng tốt hơn (Guiso et al., 2009).
Hạn chế tín dụng được phân loại thành ba nhóm: hạn chế số lượng, hạn chế rủi ro và
hạn chế chi phí giao dịch (Barham et al., 1996; Boucher et al., 2009). Thứ nhất, hạn
chế số lượng đề cập đến những người có đơn xin vay bị từ chối hoặc thành công
nhưng tổng số tiền tín dụng thu được thấp hơn số tiền được yêu cầu. Thứ hai, các hộ
gia đình được coi là hạn chế rủi ro khi họ có nhu cầu cho tín dụng, nhưng không đăng
ký vì sợ mất tài sản thế chấp. Sự biến mất của thị trường bảo hiểm cũng như những cú
sốc đặc trưng như thiên tai và vi phạm giá cả đã ngăn cản các hộ gia đình nông thôn
sử dụng tài sản của mình để vay tín dụng, đặc biệt khi tài sản thế chấp là nhà ở hoặc
đất đai, vốn là đầu vào sản xuất quan trọng nhất của họ. Thứ ba, ràng buộc chi phí
giao dịch ngụ ý rằng các hộ gia đình có nhu cầu vay vốn danh nghĩa dương nhưng do
chi phí giao dịch của việc đăng ký và xử lý khoản vay cao nên khoản đầu tư của họ trở
nên không sinh lời. Trường hợp bổ sung được nghiên cứu bởi Kumar và cộng sự cho
thấy nông dân không tiếp cận thị trường tín dụng có lẽ vì sợ bị từ chối (vì họ đã từng
bị từ chối trước đó) (Kumar et al., 2013).
Trong khi khả năng độc lập là một đặc điểm quan trọng thúc đẩy các hộ gia đình bắt
đầu hoạt động kinh doanh, thì các yếu tố bên ngoài, chẳng hạn như khả năng tiếp cận
nguồn vốn và mạng lưới cá nhân bị hạn chế. Điều này đóng vai trò là những trở ngại
ghê gớm đối với sự phát triển của các hoạt động kinh doanh mới. Ngoài ra, việc thiếu
mạng lưới cá nhân rộng rãi hay sự hỗ trợ tài chính từ các mối quan hệ xã hội có thể
đặt ra những thách thức trong việc duy trì nguồn vốn cho sự phát triển và thành công
của các doanh nghiệp khi bắt đầu hoạt động kinh doanh (Wen et al., 2024).
Đặc điểm nhân khẩu học (tuổi, giới tính) và tinh thần khởi nghiệp cũng được tìm thấy
mối quan hệ nhất định trong một số nghiên cứu. Một phát hiện cho thấy tuổi tác có tác
động đến tỷ lệ các hộ gia đình tham gia vào hoạt động kinh doanh, trong khi giới tính
không đóng vai trò gì trong mối quan hệ này (FakhrEldin, 2017). Bên cạnh đó, dựa
trên lý thuyết hình thành vốn con người, mối tương quan giữa số lượng anh chị em
trong gia đình có ảnh hưởng tới động cơ kinh doanh. Dựa trên số lượng anh chị em
ruột trong gia đình, cung cấp nguồn lực tài chính, sự kế thừa từ cha mẹ cũng ảnh
hưởng theo, từ đó tác động tới tinh thần khởi nghiệp (Vladasel et al., 2021). Quan
điểm gắn kết gia đình nêu bật tầm quan trọng của vai trò và mối quan hệ gia đình,
đồng thời tập trung vào quá trình trao đổi giữa các cá nhân giữa doanh nhân và các
thành viên trong gia đình (Aldrich & Cliff, 2003; Aldrich & Kim, 2007). Trong quá
trình trao đổi như vậy, các doanh nhân huy động các nguồn lực từ các thành viên gia
đình của họ có thể mang lại lợi ích cho hoạt động kinh doanh mới (thành công khách
quan) và cho chính họ (thành công chủ quan), trong khi các thành viên gia đình có khả
năng nhận được lợi ích kinh tế hoặc xã hội (Aldrich & Cliff, 2003; Aldrich & Kim,
2007).
Sự yêu thích rủi ro là một yếu tố ảnh hưởng đến quyết định khởi nghiệp. Paker (2005)
kết luận rằng chúng ta biết tương đối ít về tính kinh tế làm cơ sở cho việc sử dụng các
hình thức vốn khởi nghiệp thay thế và tiềm năng của chúng trong việc giúp doanh
nhân vượt qua việc hạn chế tín dụng (Parker, 2005). Một nghiên cứu đã trực tiếp giải
quyết vấn đề này bằng cách kiểm tra thực nghiệm vai trò của ưa thích rủi ro và của cải
đối với sự lựa chọn vốn khởi nghiệp của doanh nhân đối với các doanh nhân Hoa Kỳ
(Elston & Audretsch, 2010).
Các chỉ số về vốn con người bao gồm quy mô hộ gia đình, tỷ lệ phụ thuộc, số lượng
lao động cũng đã tìm được mối liên hệ với quyết định khởi nghiệp. Trong một hộ gia
đình nhỏ, việc làm việc cùng nhau có thể tạo ra sự gắn kết mạnh mẽ giữa các thành
viên. Sự hiểu biết sâu sắc về nhau và lòng tin vào nhau thường được phát triển, điều
này có thể tạo ra một môi trường làm việc tích cực và hỗ trợ. Tuy nhiên, cũng có thể
có những mâu thuẫn gia đình xuất phát từ các quyết định kinh doanh, khiến cho việc
thảo luận và đưa ra quyết định trở nên phức tạp và căng thẳng hơn. Do đó, các hộ gia
đình có quy mô gia đình lớn hơn có xu hướng khó đưa ra quyết định kinh doanh và bị
hạn chế về nguồn vốn (Chaudhuri & Cherical, 2012; Kuwornu et al., 2012).
Chúng tôi tìm được mối liên hệ giữa mức độ giàu có đối với tinh thần kinh doanh (Fan
et al., 2023), tuy nhiên mối quan hệ giữa số lượng tài sản hộ gia đình sở hữu đối với tỷ
lệ tham gia kinh doanh là không rõ ràng. Việc sở hữu nhiều hơn một loại tài sản như
nhà hay xe được đảm bảo chắc chắn về mặt thế chấp khi được coi là công cụ sàng lọc
cho các khoản vay phục vụ cho việc bắt đầu kinh doanh (Barslund & Tarp, 2008;
Chaudhuri & Cherical, 2012; Freeman et al., 1998). Bên cạnh đó, chỉ số kinh tế như
tài sản ngoài mục đích sử dụng cho việc kinh doanh cũng ảnh hưởng đến tinh thần
khởi nghiệp. Các hộ gia đình có tài chính tốt thường có xu hướng thích tham gia vào
các hoạt động cần đến nhiều nguồn vốn hơn (Feder et al., 1990; Kuwornu et al.,
2012).
Khung lý thuyết

2.2. Findings
Kết quả một số nghiên cứu cho thấy hạn chế tín dụng làm giảm đáng kể xu hướng
tham gia khởi nghiệp kinh doanh của một hộ gia đình. Việc bị hạn chế tín dụng làm
giảm đáng kể xu hướng kinh doanh của các hộ gia đình từ 2,84–3,36 điểm phần trăm
(Cai et al., 2018). Các nghiên cứu hiện có ở các nước đang phát triển kết luận rằng cải
thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho các hộ gia đình nông thôn có thể có tác động tích
cực đến việc giảm tinh thần kinh doanh của họ (Bauer, 2016; Peng et al., 2021). Bên
cạnh đó, quy mô gia đình, số lượng anh chị em trong gia đình, tài sản bình quân đầu
người và tỷ lệ lao động có mối liên hệ tiêu cực với EV của hộ gia đình (Peng et al.,
2021). Một nghiên cứu khác cũng tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa hạn chế tín
dụng và tinh thần kinh doanh của hộ gia đình. Bằng cách sử dụng mô hình hồi quy
chuyển đổi nội sinh, nghiên cứu chỉ ra rằng lợi nhuận của các hộ kinh doanh bị hạn
chế về tín dụng bị ảnh hưởng đáng kể và tích cực bởi việc tiếp cận tín dụng.

2.3. Data and Methods


Việc nghiên cứu về thị trường tín dụng và mức độ ảnh hưởng của tín dụng lên sự phát
triển công nghiệp, tinh thần khởi nghiệp ở nông thôn Việt Nam là ít. Tuy nhiên, chủ
đề này được đã được nghiên cứu rộng rãi ở nhiều quốc gia khác trong nhiều năm vừa
qua (Feder et al., 1990; Jappelli, 1990). Họ đã sử dụng những bộ dữ liệu khảo sát hộ
gia đình từ chính phủ Hoa Kỳ và Trung Quốc – là nguồn dữ liệu đáng tin cậy. Trong
một bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa giới hạn tín dụng và tinh thần khởi nghiệp hộ
gia đình (Cai et al., 2018). Nhóm tác giả này đã sử dụng bộ dữ liệu khảo sát vi mô Tài
chính hộ gia đình Trung Quốc 2011 (China Household Finance Survey – CHFS
2011). Và cũng trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã sử dụng mô hình hồi quy xác
suất (LPM) để đo lường trực tiếp hạn chế tín dụng hộ gia đình. Các nghiên cứu về
hạn chế tín dụng và tác động của tín dụng lên hộ gia đình thường sẽ phải thực hiện
khảo sát trực tiếp hộ gia đình và lấy dữ liệu. Một nghiên cứu về ảnh hưởng của tiếp
cận tín dụng lên thu nhập, an ninh lương thực hộ gia đình Malawi của Diagne (1998)
đã sử dụng bộ dữ liệu thu thập từ một cuộc khảo sát kéo dài từ 1995 đến 1995
(Diagne, 1998). Bộ dữ liệu này khảo sát 404 hộ gia đình ở 45 làng và 5 huyện của
Malawi, thông qua 3 vòng khảo sát. Tương tự, một nghiên cứu khác ở Kenya, tác giả
đã thu nhập trực tiếp dữ liệu thông qua việc khảo sát 200 hộ gia đình tham gia tín
dụng và 200 hộ không tham gia tín dụng (Kiiru & Machakos, 2007). Một số nghiên
cứu khác về tín dụng đã sử dụng bộ dữ liệu có sẵn. Một Nghiên cứu về mức ảnh
hưởng của tài chính vi mô đến thần kinh doanh bằng phương pháp Machine Learning
đã sử dụng bộ dữ liệu MIX 2019, 2018, 2017 - bộ dữ liệu tổng danh mục cho vay và
các danh mục liên quan ở Ấn Độ (Malik et al., 2023). Ở Việt Nam, các nghiên cứu về
tín dụng, hạn chế tín dụng và mức ảnh hưởng của tín dụng thường được các tác giả sử
dụng bộ dữ liệu VARHS, VHLSS để nghiên cứu (Nguyen Viet, 2008; Phan, 2012).
Bên cạnh đó, có các bộ dữ liệu khảo sát riêng cho từng khu vực ở Việt Nam như bộ dữ
liệu khảo sát riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (MRD) (Phan, 2012). Hay một
nghiên cứu khác xem xét về tác động tham gia tín dụng đến thu nhập hộ gia đình ở ba
tỉnh Ninh Bình, Quảng Ngãi, An Giang, tác giả đã thực hiện bộ dữ liệu thông qua
khảo sát cá nhân 300 hộ gia đình ở ba tỉnh thành này (Duong & Izumida, 2002).

2.4. Research Gap


Chúng tôi tìm thấy một vài điểm cần khắc phục của các nghiên cứu trước đây về hạn
chế của tín dụng lên tinh thần kinh doanh. Thứ nhất, các nghiên cứu đã đưa ra nhiều
định nghĩa về hạn chế tín dụng cũng như đánh giá các yếu tố dùng để đo lường mức
độ hạn chế tín dụng (Fufa & Kim, 2018; Grydaki & Bezemer, 2013). Tuy nhiên, đây
đều là những quan điểm mang tính khách quan, dựa trên nguồn dữ liệu từng nhóm tác
giả thu thập. Bài báo cáo này cố gắng bám sát những đo lường thực tế nhất để đưa ra
quan điểm khách quan nhất về hạn chế tín dụng. Thứ hai, xét về mức độ khan hiếm
của đề tài hạn chế tín dụng lên tinh thần kinh doanh của các hộ gia đình ở Việt Nam là
chưa xuất hiện nhiều. Vì thế, chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu để đánh giá rõ
hơn mối tương quan giữa hai biến này. Thứ ba, đa số các bài nghiên cứu trước sử
dụng mô hình LPM nhưng mô hình này không phù hợp với biến phụ thuộc là biến nhị
phân (Cai et al., 2018; Feder et al., 1990; Jappelli, 1990). Để khắc phục, bài viết này
chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy Probit dùng cho dữ liệu bảng.

3. Dữ liệu và phương pháp


3.1. Miêu tả về bộ dữ liệu
Bài nghiên cứu này sử dụng bộ dữ liệu điều tra Tiếp cận nguồn lực hộ gia đình nông
thôn Việt Nam (VARHS). VARHS là viết tắt của "Vietnam Access to Resources
Household Survey", được tài trợ bởi Dự án DANIDA (Danish International
Development Agency) và thực hiện bởi các Viện nghiên cứu với sự tham vấn của
nhiều chuyên gia. Mục tiêu chính của VARHS là thu thập thông tin đầy đủ và toàn
diện về đặc điểm của các hộ gia đình nông thôn Việt Nam, tập trung vào vấn đề tiếp
cận và tương tác của họ với thị trường đất đai, lao động và tín dụng. Dữ liệu VARHS
được thu thập hai năm một lần, bắt đầu từ năm 2002. Khảo sát được thực hiện tại 47
xã thuộc 12 tỉnh thành trên cả nước, bao gồm Hà Tây, Lào Cai, Phú Thọ, Lai Châu,
Điện Biên, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng và
Long An. 12 tỉnh này được lựa chọn để đại diện cho 7 vùng kinh tế xã hội của Việt
Nam. Điểm nổi bật của VARHS là sử dụng phương pháp lấy mẫu lặp lại. Điều này tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phân tích các mối quan hệ dựa trên dữ liệu bảng, giúp các
nhà nghiên cứu có thể theo dõi sự thay đổi của các hộ gia đình theo thời gian và đánh
giá tác động của các yếu tố khác nhau đến cuộc sống của họ.
Nhóm nghiên cứu sử dụng phần mềm STATA để xử lý bộ dữ liệu VARHS được thu
thập từ năm 2008 đến 2016. Trong giai đoạn này đã có 5 cuộc khảo sát diễn ra. Số hộ
gia đình tham gia trong mỗi cuộc khảo sát dao động từ khoảng 2200 hộ đến hơn 2700
hộ. Đặc biệt, có 2136 hộ tham gia khảo sát liên tục trong cả 5 cuộc khảo sát. Như vậy,
nhóm thu được một bộ dữ liệu bảng cân đối gồm 10680 quan sát. Bài nghiên cứu sẽ sử
dụng cả bộ dữ liệu bảng và bộ dữ liệu chéo của từng giai đoạn.

3.2 Miêu tả biến


Tên biến Đo lường Ký hiệu
Biến phụ thuộc
Tinh thần kinh doanh entr
Hộ kinh doanh nhỏ lẻ sh_entr
Hộ kinh doanh lớn e_entr
Biến độc lập
Hạn chế tín dụng cre_con
Ưa thích rủi ro risk_lover
Bị từ chối tín dụng deny
more_cre
no_asset
ageh
ageh2
eduh
married
ownhouse
num_land
automobile
ln_TFI
num_sib
num_labor
hhsize
ln_non_busi_as
rural
Về dữ liệu, chúng tôi lựa chọn theo dõi các gia đình là hộ kinh doanh, tham gia kinh
doanh trong thời gian 12 tháng vừa qua. Chúng tôi tập trung vào dữ liệu của các gia
đình có hoạt động kinh doanh ở đây không bao gồm các hoạt động kinh doanh liên
quan đến nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt.

Biến “tinh thần kinh doanh (entr)” là các gia đình có thu nhập lớn hơn hoặc bằng
100 triệu đồng trong 12 tháng vừa qua. Chúng tôi cho rằng việc hộ gia đình tham gia
vào các hoạt động phi nông nghiệp, phi lương, phi lâm nghiệp và phi thủy sản trong
suốt 12 tháng là những hộ có tinh thần kinh doanh. Bên cạnh đó chúng tôi cũng phân
biệt quy mô kinh doanh của các hộ gia đình bằng cách phân loại thành hai biến khác
nhau: biến “hộ kinh doanh nhỏ lẻ (sh_entr)” và “hộ kinh doanh lớn(e-entr)” .
Trong quá trình xem xét về vấn đề vốn đầu tư ban đầu và nhu cầu tín dụng, nhận thấy
sự cần thiết của việc phân loại các hoạt động kinh doanh của hộ gia đình. Chúng tôi đã
thực hiện phân loại thành hai loại dựa trên doanh thu thu được từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong năm dương lịch. Cụ thể, các hộ gia đình có doanh thu từ hoạt động
dưới 60 triệu đồng được xem xét như là khởi nghiệp nhỏ. Trong trường hợp này,
không áp dụng nghĩa vụ nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT), và không cần phải đóng
thuế thu nhập cá nhân (TNCN) theo quy định của pháp luật về thuế GTGT và thuế
TNCN. Ngược lại, đối với các hộ gia đình có doanh thu từ 60 triệu đồng trở lên,
chúng tôi xem xét chúng như là khởi nghiệp lớn (doanh nghiệp), và các quy định về
nộp thuế sẽ được áp dụng đối với trường hợp này.

Về biến độc lập, chúng tôi sử dụng các biến có liên quan đến vấn đề kinh tế, tín dụng,
chi tiêu của hộ gia đình. Chúng tôi đã đưa vào mô hình biến “hạn chế tín dụng
(cre_con)”. Để đo lường tình trạng hạn chế tín dụng của một hộ gia đình, chúng tôi sử
dụng một phương pháp dựa trên ba yếu tố chính. Đầu tiên, chúng tôi xem xét lịch sử
tín dụng của hộ gia đình bằng cách kiểm tra xem họ từng bị từ chối tín dụng trong quá
khứ hay không. Thứ hai, chúng tôi quan sát rằng các hộ gia đình, dù có nhu cầu vay
vốn, nhưng không đáp ứng được tiêu chuẩn từ các nguồn tín dụng chính thống, nên
buộc phải tìm kiếm vốn từ các kênh không chính thức. Do đó, việc vay vốn từ cả ngân
hàng và các nguồn tài chính phi chính thức cũng được coi là biểu hiện của hạn chế tín
dụng. Cuối cùng, khi một hộ gia đình không đáp ứng điều kiện tài sản đảm bảo để yêu
cầu vay vốn, đây cũng là một chỉ số cho thấy hạn chế về tín dụng đang diễn ra trong
hộ gia đình. Bất kỳ hộ gia đình nào có ít nhất một trong ba yếu tố trên sẽ được xem là
gặp phải hạn chế tín dụng. Bên cạnh đó, nhận thấy một số gia đình có xu hướng chấp
nhận rủi ro đầu tư, kinh doanh, một số khác thì ngược lại. Vì vậy, chúng tôi có biến
“ưa thích rủi ro (risk_lover)”. Trong kinh doanh của hộ gia đình, sự ưu thích về rủi
ro đóng vai trò quan trọng. Theo quan điểm của chúng tôi, những người có tiền gửi
tiết kiệm với mục đích dưỡng già, đầu tư sinh lời và các mục tiêu tương tự thường
không ưa thích rủi ro. Thay vào đó, họ thường lựa chọn các lựa chọn đầu tư hoặc tiết
kiệm có mức độ rủi ro thấp hoặc ổn định, nhằm bảo vệ vốn và đảm bảo thu nhập ổn
định cho tương lai. Trái lại, những người khác thường ưa thích rủi ro hơn trong việc
đầu tư và kinh doanh. Họ có thể chấp nhận các cơ hội đầu tư có mức độ rủi ro cao hơn
với hy vọng nhận được lợi nhuận lớn hơn.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các biến độc lập sau đây để cho thấy được tình hình
tài chính, tài sản của hộ gia đình. Biến “số đất hộ sở hữu (num_land)” là để xác định
số đất mà hộ gia đình sở hữu. Chúng tôi sàng lọc và tính tổng số đất thuộc quyền sở
hữu của hộ gia đình. Sau đó chúng tôi loại bỏ đi mảnh đất hiện là nơi cư trú cho hộ gia
đình.
Biến “số tiền trợ cấp (ln_TFI)”, Với biến này, chúng tôi thu thập dựa trên nội dung
khảo sát về vấn đề nhận trợ cấp của hộ gia đình. Để áp dụng biến “số tiền cấp” vào mô
hình, chúng tôi sử dụng phép biến đổi logarit. Với phép biến đổi logarit, các giá trị sử
dụng không được bằng 0. Do đó, chúng ta thêm 1 vào các biến chứa số 0 trước khi áp
dụng phép biến đổi logarit. Chiến lược như vậy cũng được (Pitt & Khandker, 1998) và
(Roodman & Morduch, 2014) sử dụng. Biến “tài sản phi kinh doanh
(ln_non_busi_as)”. Biến này cho thấy sự ổn định và thịnh vượng đóng vai trò quan
trọng trong tinh thần kinh doanh, vì việc bắt đầu một doanh nghiệp đòi hỏi có khoản
đầu tư ban đầu. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc các hộ gia đình giàu
có hơn có nhiều khả năng điều hành doanh nghiệp hơn (Cai et al., 2018). Để thể hiện
sự giàu có của hộ gia đình, chúng tôi đã bổ sung biến tài sản phi kinh doanh vào phân
tích. Tài sản này được xác định bằng cách tính tổng giá trị tài sản của hộ gia đình sau
khi loại bỏ phần tài sản được sử dụng để đầu tư vào doanh nghiệp. Tổng tài sản được
định giá dựa trên ba loại giá trị, bao gồm đất đai, tiết kiệm và các tài sản gia đình như
tivi, tủ lạnh, ô tô, thuyền, và các vật dụng gia đình khác.

3.3. Mô hình thực nghiệm


Mục đích của bài nghiên cứu này là dự báo xu hướng và xác suất tác động nhân quả
của hạn chế tín dụng đối với các quyết định kinh doanh của hộ gia đình. Phương trình
kinh tế lượng cho mục đích trên có dạng như sau:

Entrepreneurit = β0 + β1cre_conits + βiXit + µi+ it (1)

Bộ dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là dữ liệu bảng (panel data) gồm 10680
quan sát trong thời gian từ 2008 đến 2016 và có biến phụ thuộc là biến nhị phân
(binary or dichotomous). Các bài nghiên cứu có cùng chủ đề trước đây thường sử
dụng mô hình xác suất tuyến tính (LPM) để xử lý (Archer et al., 2020; Cai et al.,
2018). Tuy nhiên, LPM vẫn còn nhiều hạn chế khi mắc phải những sai lầm như sai số
hồi quy không phân phối chuẩn, phương sai thay đổi, xác suất không phân bố trong
khoảng 0-1… Vì vậy, trong một số nghiên cứu khác có sử dụng biến phụ thuộc là nhị
phân, mô hình logit và probit được cho là phù hợp hơn để phân tích thực nghiệm
(Chandio & Jiang, 2018; Li & Wu, 2018; Lin et al., 2019). Với đặc điểm của bộ dữ
liệu cũng như để cho ra kết quả đáng tin cậy hơn, chúng tôi lựa chọn mô hình hồi quy
Probit với dữ liệu bảng (Panel Probit Model) để xem xét tác động của hạn chế tín
dụng đối với tinh thần khởi nghiệp của hộ gia đình thông qua phương trình sau:

Prob (Entrepreneurijt = 1) = Φ (β0 + β1cre_conijts + θXijt + γTjt) (2)

Biến phụ thuộc Entrepreneurijt biểu thị hộ gia đình i ở địa điểm j tại thời điểm t có
tham gia kinh doanh phi nông nghiệp không. Nhóm biến Entrepreneur được phân
thành 3 loại bao gồm: entr (hộ gia đình có tham gia kinh doanh phi nông nghiệp
không), sh_entr (hộ gia đình có tham gia kinh doanh phi nông nghiệp ở dạng nhỏ lẻ
không) và e_entr (hộ gia đình có tham gia kinh doanh phi nông nghiệp với quy mô lớn
không). Cre_conijts là biến độc lập thể hiện liệu hộ gia đình i ở địa điểm j tại thời điểm
t có gặp tình trạng hạn chế tín dụng không và s là 3 trường hợp để xác định một hộ gia
đình đang gặp tình trạng hạn chế tín dụng. Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng X ijt làm
biến kiểm soát (control variable) cho mô hình. Ngoài hạn chế tín dụng, việc quyết
định kinh doanh phi nông nghiệp của hộ cũng có thể bị tác động bởi các yếu tố liên
quan đến đặc điểm chủ hộ (giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn,...); các yếu tố về hộ
gia đình (số thành viên của hộ, số thành viên trong độ tuổi lao động); các yếu tố về
vốn xã hội (số tiền trợ cấp hộ nhận được, số anh/chị/em); và mức độ giàu có của hộ
(số đất hộ sở hữu, số xe hộ sở hữu, số tài sản không thuộc kinh doanh của hộ). Chúng
tôi cũng sử dụng biến giả phân loại khu vực Tjt để kiểm soát môi trường kinh doanh.

3.4 Thống kê mô tả và kiểm tra sự tương quan giữa các biến


Chúng tôi sử dụng bộ dữ liệu bảng với 10680 quan sát đến từ 2136 hộ có tham khảo
khảo sát xuyên suốt trong giai đoạn 2008 - 2016. Kết quả thống kê mô tả của bộ dữ
liệu được thể hiện trong bảng 1:

Variables Obs Mean St.dev Min Max


year 10,673 2012.003 2.827631 2008 2016
hhid_2016 10,680 3.90e+08 2.32e+08 1.05e+08 8.01e+08
entr 10,669 . 2648796 .4412897 0 1
sh_entr 10,673 . 1354821 . 3422538 0 1
e_entr 10,673 .1449452 . 3520621 0 1
deny 9,963 -0154572 35282.4 0 1
more_cre 4,191 .2767836 3.791908 0 1
no_asset 10,258 .145155 .4016124 0 1
cre_con 10,258 .3010333 .4167986 0 1
ageh 10,671 54.69441 .4720959 18 1909
ageh2 9,963 -0154572 35282.4 0 1
eduh 4,191 .2767836 3.791908 0 1
married 10,258 .145155 .4016124 0 1
male 10,258 .3010333 .4167986 0 1
risk_lover 10,671 54.69441 .4720959 18 1909

Bảng 1: Thống kê mô tả

Bảng 1 cho thấy có 26.5% quan sát có giá trị là 1. Như vậy, trung bình trong mỗi giai
đoạn có 5.3% số hộ tham gia hoạt động kinh doanh. Theo định nghĩa của chúng tôi về
kinh doanh nhỏ lẻ dựa vào ngưỡng 60.000.000 VND về doanh thu, chúng tôi có thể
thấy rằng trung bình có 2.7% hộ gia đình tham gia vào hoạt động kinh doanh nhỏ và
có 2.9 % số hộ tham gia vào hoạt động kinh doanh quy mô lớn trong mỗi giai đoạn.
Trong khi đó, có khoảng 6% hộ gia đình trong mẫu của chúng tôi phải chịu một số
loại hạn chế tín dụng nhất định trong mỗi giai đoạn khảo sát.

Xét về yếu tố hộ gia đình, với biến số thành viên trong độ tuổi lao động, dựa trên
những quy định của pháp luật Việt Nam về độ tuổi lao động trong những năm từ 2008
đến 2016, chúng tôi xác định những thành viên ở độ từ 16 đến 60 của hộ gia đình là
những người trong độ tuổi lao động. Như vậy, trung bình mỗi hộ tham gia khảo sát có
4 thành viên, trong đó có từ 2 đến 3 thành viên đang trong độ tuổi lao động. Xét về
đặc điểm của chủ hộ, độ tuổi trung bình là 55 tuổi. Số năm học trung bình của chủ hộ
là 7 năm học, gần tương đương với trình độ trung học cơ sở ở Việt Nam. Khẩu vị rủi
ro được xác định bởi quyết định gửi tiết kiệm của chủ hộ. Một chủ hộ được coi là
người ưa thích rủi ro nếu họ không quyết định gửi tiết kiệm với các mục đích là đầu tư
sinh lời, dưỡng già hoặc các mục đích tương tự. Trong mẫu của chúng tôi, trung bình
có 6.6% hộ gia đình thích chấp nhận rủi ro trong một giai đoạn.Trong ước tính, logarit
của tổng tài sản hộ gia đình không bao gồm tài sản kinh doanh (tức là tài sản phi kinh
doanh) được đưa vào để giải thích thực tế là các hộ gia đình giàu có hơn có nhiều khả
năng điều hành doanh nghiệp hơn. Chúng tôi cũng thêm các biến giả về quyền sở hữu
nhà ở, quyền sở hữu ô tô và số mảnh đất hộ sở hữu để kiểm soát hơn nữa tác động của
chúng đối với hoạt động kinh doanh.
Do mục đích của nghiên cứu có xem xét đến xác suất tác động nhân quả, việc kiểm tra
sự tương quan giữa các biến là cần thiết. Trong bảng kết quả trên, hệ số tương quan
Pearson giữa các biến đều nhỏ hơn 0.5. Như vậy, các biến không có sự tương quan
mạnh mẽ với nhau. Điều này cho thấy khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến là rất
thấp.
4. Empirical results
SỬ DỤNG MÔ HÌNH xtprobit cho panel data
4.1 Tính hợp lý của việc đo lường hạn chế tín dụng
Trong nghiên cứu này, chúng tôi quan tâm đến tác động của các loại hạn chế tín dụng
khác nhau đối với hoạt động kinh doanh của các hộ gia đình. Cụ thể, chúng tôi xem
xét ba loại hạn chế tín dụng: (i) bị từ chối tín dụng, (ii) có nhiều nguồn vay tín dụng,
(iii) không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo.
Trước tiên, dựa vào bảng câu hỏi của bộ dữ liệu, chúng tôi thu thập trực tiếp được dữ
liệu cho hai loại hạn chế tín dụng: (i) và (ii). Chúng tôi sử dụng định nghĩa hạn chế tín
dụng (ii) với mục đích mở rộng phạm vi cho định nghĩa hạn chế tín dụng (i). Điều này
có nghĩa là chúng tôi không chỉ tập trung vào các hộ gia đình bị từ chối vay, mà còn
bao gồm những hộ gia đình đã vay ngân hàng nhưng thấy rằng số tiền vay không đáp
ứng đủ nhu cầu tín dụng của họ. Trong thực tế, đây là tình huống phổ biến khi các
doanh nghiệp mới thấy rằng các tổ chức tài chính truyền thống không cung cấp đủ tín
dụng cho họ, dẫn đến việc họ phải tìm kiếm thêm tài chính từ các nguồn không chính
thống như mượn tiền từ bạn bè, người thân hoặc các tổ chức phi chính phủ.Vậy nên,
những hộ gia đình có có nhiều hơn một nguồn vay tín dụng được định nghĩa là hạn
chế tín dụng.
Thứ hai, do hạn chế của bộ dữ liệu VARHS được khảo sát ở vùng nông thôn Việt
Nam nên dữ liệu về tín dụng vẫn chưa khách quan. Do đó chúng tôi xem xét đến một
khía cạnh khác của hạn chế tín dụng đó là tài sản mà các hộ gia đình sở hữu (iii), đặc
biệt là đất đai và nhà ở. Vì trong ngữ cảnh pháp luật của Việt Nam, nơi mà hầu hết các
khoản vay đều yêu cầu tài sản làm đảm bảo. Việc sở hữu về mặc pháp lý và giá trị của
tài sản đảm bảo có thể ảnh hưởng đến khả năng vay và mức độ hạn chế tín dụng của
các hộ gia đình. Điều này làm rõ hơn về cách mà tài sản ảnh hưởng đến tinh thần kinh
doanh của các hộ gia đình.
Trong Bảng 2, chúng tôi tiến hành xác định tính hợp lý của việc sử dụng các loại hạn
chế tín dụng đã nêu phía trên, các định nghĩa hạn chế tín dụng này được xem như một
chỉ số đại diện cho hạn chế tín dụng kinh doanh. Chúng tôi sử dụng mẫu dữ liệu bao
gồm những hộ tham gia kinh doanh để đánh giá tính hợp lý này. Bằng cách sử dụng
mô hình pooled OLS, chúng tôi đã phân tích sự tương quan của ba loại hạn chế tín
dụng khác nhau đối với hạn chế tín dụng kinh doanh.

Mô hình được biểu diễn như sau:

entr_cre_conijt = α0 + β*Other_cre_conijt + Xitϒ + τj + uijt

trong đó, entr_cre_conijt là biến giả cho biết liệu hộ gia đình i ở khu vực j tại thời điểm
t có bị hạn chế tín dụng kinh doanh hay không. Other_cre_conijt là các biến giả cho
biết liệu hộ gia đình có phải chịu các loại hạn chế tín dụng khác hay không, bao gồm
ba loại (i) ; (ii) ; (iii) nêu trên. Xit là các biến kiểm soát bao gồm các đặc điểm của chủ
hộ và đặc điểm của hộ. τj là biến giả khu vực được sử dụng để loại bỏ hiệu ứng cố
định khu vực.
Bảng 2: Kết quả kiểm tra tính hợp lý của việc đo lượng hạn chế tín dụng
(1) (2) (3)
cre_con cre_con cre_con
deny 0.439*** 0.542*** 0.548**
(14.87) (15.29) (15.64)
no_asset 0.787*** 0.744*** 0.739***
(55.90) (37.09) (32.52)
more_cre 0.877*** 0.891*** 0.896***
(86.72) (71.84) (72.98)
rural 0.0372 0.0712** 0.0578*
(1.41) (2.30) (1.85)
ageh -0.00289 -0.00269
(-0.65) (-0.60)
ageh2 0.0000299 0.0000283
(0.75) (0.71)
eduh 0.00109 0.0000846
(0.58) (0.04)
married 0.0123 0.0163
(0.48) (0.63)
male -0.0287 -0.0261
(-1.28) (-1.12)
risk_lover -0.0110 -0.0105
(-0.96) (-0.93)
ln_TFI 0.000250 -0.0000564
(0.17) (-0.04)
num_sib -0.0300 -0.0253
(-0.89) (-0.75)
num_labor -0.00261 -0.00265
(-0.38) (-0.39)
hhsize -0.00265 -0.00346
(-0.52) (-0.67)
ln_non_busi_as 0.00372 0.00509*
(1.34) (1.82)
ownhouse 0.0789
(1.08)
num_land 0.00167
(0.65)
automobile 0.00367
(0.20)
_cons -0.00224 0.00884 -0.0789
(-0.09) (0.07) (-0.56)
N 1154 733 727
R-sq
*p<0.1, **p<0.05, ***p<0.01
Trong Bảng 2, kết quả phân tích cho thấy có một sự tương quan đáng kể giữa hạn chế tín
dụng (i);(ii);(iii) với hạn chế tín dụng kinh doanh. Trong cột (1), chúng tôi chỉ tập
trung vào các biến hạn chế tín dụng, và kết quả cho thấy mối quan hệ tích cực giữa
các biến này với mức ý nghĩa ở mức 1%. Điều này chỉ ra rằng các hộ gia đình bị từ
chối, không có tài sản thế chấp và có nhiều hơn một nguồn vay thường cũng đối mặt
với hạn chế tín dụng trong hoạt động kinh doanh của họ.

Tiếp theo, trong cột (2), chúng tôi đã bổ sung thêm các biến liên quan đến hộ gia đình
để kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng khác, và kết quả tiếp tục cho thấy mối quan hệ tích
cực và đáng kể của các biến hạn chế tín dụng (i);(ii);(iii) với hạn chế tín dụng kinh
doanh.

Cuối cùng, để hiểu rõ hơn về tác động của việc sở hữu xe. đất và có nhà riêng đối với
kết quả hồi quy, chúng tôi tiếp tục điều chỉnh mô hình trong cột (3) bằng cách kiểm
soát những biến này. Kết quả hồi quy vẫn duy trì tính nhất quán và mức độ ảnh hưởng
của các biến hạn chế tín dụng vẫn được giữ nguyên, không bị giảm đi.

4.2 Hạn chế tín dụng và tinh thần khởi nghiệp


Trong Bảng 3, chúng tôi dự báo xu hướng ảnh hưởng của các hạn chế tín dụng đối với
tinh thần kinh doanh của các hộ gia đình. Ở các cột (1); (2) và (3), chúng tôi xem xét
các hộ gia đình đối mặt với một trong ba loại hạn chế tín dụng mà chúng tôi xét đến
(bao gồm hạn chế do bị từ chối (i); không có tài sản đảm bảo (ii) và cả hạn chế do có
nhiều hơn một nguồn vay (iii)) đều được coi là chịu hạn chế tín dụng. Chúng tôi tiến
hành phân tích từ tổng quan đến từng loại doanh nghiệp cụ thể. Trong cột (1), chúng
tôi dự báo tổng quan cho tất cả các loại doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nhỏ
và lớn. Kết quả cho thấy khi có dấu hiệu hạn chế tín dụng thì tinh thần kinh doanh của
hộ gia đình có xu hướng giảm, ở mức ý nghĩa 1%.

Bảng 3: Kết quả mô hình hồi quy Panel Probit


(1) (2) (3)
entr sh_entr e_entr
cre_con -0.432*** -0,404*** -0.137*
(-7.21) (-6.95) (-1.79)
ageh 0.0155 0.00516 0.0398
(0.81) (0.32) (1.51)
ageh2 -0. 000247 -0.000120 -0.000440*
(-1.48) (-0.85) (-1.91)
eduh 0.0266*** -0.0140* 0.0788***
(2.89) (-1.81) (6.43)
married -0.0266 -0.130 0.0151
(-0.23) (-1.30) (0.11)
male 0.0929 0.229** -0.152
(0.81) (2.36) (-1.12)
risk_lover 0.146*** -0.00932 0.284***
(2.80) (-0.18 (4.47)
ownhouse -0.390 -0.314 -0.226
(-1.34) (-1.22) (-0.61)
num_land -0.0421*** -0.00984 -0.0776***
(-3.42) (-0.96) (-5.03)
automobile 0.296*** 0.0708 0.396***
(3.13) (0.79) (3.45)
ln_TFI 0.00397 0.0102 -0.000161
(0.61) (1.56) (3.45)
num_sib 0.0512 0.0397 -0.000161
(1.58) (1.37) 0.0263
num_labor -0.178 -0.0370 (0.64)
(-0.96) (-0.24) -0.482*
hhsize 0.113*** 0.0415* (-1.66)
(4.46) (1.86) 0.153***
ln_non_bus~s 0.0445*** -0.0297** (4.72)
(3.46) (-2.51) 0.167***
rural -0.352** -0.290** (9.40)
(-2.28) (-2.25) -0.285
_cons -1.691*** -0.695 -5.189***
(-2.65) (-1.28) (-5.95)
/
lnsig2u 0.574*** -0.558*** 0.642***
(6.89) (-4.69) (5.95)
N 7461 7465 7465
R-sq
*p<0.1, **p<0.05, ***p<0.01
Ở các cột (2) và (3), chúng tôi phân loại doanh nghiệp thành doanh nghiệp nhỏ và
doanh nghiệp lớn, và sau đó ước lượng tác động của hạn chế tín dụng lên mỗi loại
doanh nghiệp, tương ứng. Kết quả cho thấy rằng khi hộ gia đình chịu hạn chế tín dụng
sẽ làm giảm đáng kể khả năng khởi nghiệp cho những doanh nghiệp nhỏ . Trong khi,
hạn chế tín dụng sẽ ít ảnh hưởng đối với doanh nghiệp lớn. Điều này có thể lý giải bởi
tính rủi ro của doanh nghiệp có quy mô lớn thấp hơn so với doanh nghiệp vừa và nhỏ
(Nguyễn, 2019).

Sau khi đã dự báo xu hướng tác động của hạn chế tín dụng đối với tinh thần khởi
nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình, chúng tôi tiến hành phân tích và báo cáo các
kết quả hồi quy giữa hai biến này. Kết quả được thể hiện trong Bảng 4, bảng 5 và
bảng 6 dưới đây:

Các kết quả trong Bảng 4 chỉ ra rằng hạn chế tín dụng có ảnh hưởng đến tinh thần
khởi nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình cả trong lĩnh vực doanh nghiệp nhỏ và
lớn. Kết quả cho thấy khi các hộ gia đình gặp phải hạn chế tín dụng, tinh thần khởi
nghiệp kinh doanh giảm đi 7,85%.

Bảng 4: Xác định xác suất tác động giữa các biến độc lập với tinh thần kinh doanh

dy/dx Std.err z P>|z| [95% conf. Interval]


cre_con -.0785085 .0107548 -7.30 0.000 -. 0001045 - .0574296
ageh .0028098 .0034638 0.81 0.417 .0015545 .0095988
ageh2 -.000045 .0000304 -1.48 0.139 -. 0455484 .0000146
eduh .0048351 .0016738 2.89 0.004 -. 0237583 .0081156
married -.0048281 .0207761 -0.23 0.816 .0078638 .0358923
male .0168841 .0207363 0.81 0.416 -.1740251 .0575265
risk_lover .0264456 .0094807 2.79 0.005 -.0120423 . 0450274
ownhouse -. 0708049 .0526643 -1.34 0.179 -0201857 .0324153
num_land -. 0076558 .0022381 -3.42 0.001 -.0015786 -. 0032693
automobile .0537901 .0171454 3.14 0.002 -. 0021929 .0873945
ln_TFI .0007206 .0011731 0.61 0.539 -.0987763 .0030199
num_labor .0093022 .0058649 1.59 0.113 _0115145 .0207972
num_sib -. 0323705 .0338812 -0.96 0.339 .0034841 . 0340354
hhsize .020482 .0045753 4.48 0.000 -.1187602 .0294495
ln_non_busi_as .0080938 .002352 3.44 0.001 -. 0001045 .0127036
rural -. 0638717 . 0280048 -2.28 0.023 .0015545 .0089833

Bảng 5 và 6 là kết quả của phân tích hồi quy sau khi chúng tôi phân loại các doanh
nghiệp. Kết quả này là minh chứng cho việc khi các hộ gia đình gặp phải hạn chế tín
dụng, tinh thần khởi nghiệp kinh doanh giảm đi 6,47% đối với doanh nghiệp nhỏ và
1,52% đối với doanh nghiệp lớn.

Bảng 5: Xác định xác suất tác động giữa các biến độc lập với hộ kinh doanh nhỏ lẻ

dy/dx Std.err z P>|z| [95% conf. Interval]


cre_con .0647108 -.009245 -7.00 0.000 -.0828306 .046591
ageh - 0008273 .0025708 0.32 0.748 -.0042114 .0058659
ageh2 .0000192 .0000225 -0.85 0.393 -.0000633 .0000249
eduh -.0022478 .001243 -1.81 0.071 -.004684 .0001884
married -.0207973 -.0159488 -1.30 0.192 .0520565 .0104619
male .0366815 .0155154 2.36 0.018 .0062719 .0670911
risk_lover -.0014949 .00822 -0.18 0.856 -.0176057 .014616
ownhouse -.0502827 .0411258 -1.22 0.221 -.1308879 .0303224
num_land -.0015771 .0016434 -0.96 0.337 .0047982 .0016439
automobile -0113509 -.0143588 0.79 0.429 .0167918 .0394937
ln_TFI .0016433 .0010555 1.56 0.119 .0004253 .003712
num_labor .006359 .0046416 1.37 0.171 .0027383 .0154563
num_sib -.0059315 .0248913 -0.24 0.812 .0547176 .0428546
hhsize .0066548 .0035707 1.86 0.062 -.0003436 .0136533
ln_non_busi_as -.0047562 .0018944 -2.51 0.012 .0084691 -.0010434
rural -.0465493 .0207219 -2.25 0.025 .0871635 -. 0059351

Bảng 6: Xác định xác suất tác động giữa các biến độc lập với hộ kinh doanh lớn

dy/dx Std.err z P>|z| [95% conf. Interval]


cre_con -.0152241 .0085184 -1.79 0.074 -.0319198 .0014716
ageh .0044334 .0029287 1.51 0.130 -.0013067 -.0101735
ageh2 -.000049 .0000256 -1.91 0.056 -.0000991 1.16e-06
eduh .0087677 .0013511 6.49 0.000 .0061196 .0114158
married .0016848 .0157378 0.11 0.915 -.0291607 .0325303
male -.0168693 .0150647 -1.12 0.263 -.0463956 .012657
risk_lover .0315747 .0071336 4.43 0.000 .0175931 .0455563
ownhouse -.025168 .0410402 -0.61 0.540 -.1056054 .0552693
num_land -.0086316 .0017068 -5.06 0.000 -.0119769 -.0052863
automobile .0440776 .012795 3.44 0.001 .0189999 .0691554
ln_TFI -.0000179 .0008284 -0.02 0.983 -.0016416 .0016058
num_labor .0029235 -.0045511 0.64 0.521 -.0059966 .0118436
num_sib -.0536913 .0323086 -1.66 0.097 -.117015 .0096323
hhsize .0170216 .0035796 4.76 0.000 .0100057 .0240374
ln_non_busi_as .018584 -.0020251 9.18 0.000 .0146148 .0225532
rural -.0317486 .0201339 -1.58 0.115 -.0712102 .0077131

Để đảm bảo tính chắc chắn, chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu để phân tích ảnh
hưởng của từng loại hạn chế tín dụng đối với tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của
các hộ gia đình. Dưới đây là kết quả của nghiên cứu:

Trong Bảng 7, chúng tôi đã xem xét ảnh hưởng của hạn chế tín dụng loại (i), tức là
việc bị từ chối tín dụng, đối với tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình.
Tuy nhiên, kết quả cho thấy hạn chế tín dụng loại (i) không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 7: Xác định xác suất tác động giữa bị từ chối tín dụng với tinh thần kinh doanh
dy/dx Std.err z P>|z| [95% conf. Interval]
deny -.0170844 .0350178 -0.49 0.626 -.085718 .0515491
ageh .0028078 .0034917 0.80 0.421 -.0040358 .0096513
ageh2 -.0000442 .0000306 -1.44 0.149 -.0001042 .0000158
eduh .0055438 .0016925 3.28 0.001 .0022266 .008861
married .0004647 .0210233 0.02 0.982 -.0407402 .0416697
male .0176426 .0209102 0.84 0.399 -.0233407 .0586259
risk_lover .0287719 .0096402 2.98 0.003 .0098774 .0476663
ownhouse -.0642242 .053861 -1.19 0.233 -.1697898 .0413413
num_land -.0048816 .0022184 -2.20 0.028 -.0092296 -.0005336
automobile .0523207 .0174828 2.99 0.003 -.0180552 . 0865863
ln_TFI .0001041 .0011796 0.09 0.930 -.002208 .0024161
num_labor -.0077102 .0059658 1.29 0.196 -.0039826 .019403
num_sib -.0313768 .0335509 -0.94 0.350 -.0971353 .0343818
hhsize .0202131 .0046428 4.35 0.000 .0111134 .0293128
ln_non_busi_as -.0093325 .0024109 3.87 0.000 -.0046072 .0140577
rural -.0653022 .0283229 -2.31 0.021 -.120814 -.0097904

Trong bảng 8, chúng tôi đã nghiên cứu tác động của hạn chế về việc có nhiều hơn một
nguồn vay (ii) đối với tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của hộ gia đình. Tuy nhiên,
kết quả cho thấy hạn chế tín dụng loại (ii) cũng không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 8:Xác định xác suất tác động giữa có nhiều hơn một nguồn vay với tinh thần
kinh doanh
dy/dx Std.err z P>|z| [95% conf. Interval]
more_cre -.0143474 .0165177 -0.87 0.385 .0467216 .0180267
ageh .0036608 .0060456 0.61 0.545 .0081884 .01551
ageh2 -.0000365 .000054 -0.68 0.499 .0001423 .0000693
eduh .0047667 .0027044 1.76 0.078 .0005338 .0100673
married .0094366 .0362744 0.26 0.795 .0616599 .0805332
male .0097213 .0338813 -0.29 0.774 -.0761275 .0566848
risk_lover .0423561 .0164259 2.58 0.010 .0101619 .0745503
ownhouse .0035563 .0948539 -0.04 0.970 -.1894666 .1823539
num_land -.0027113 .0033647 -0.81 0.420 -.0093061 .0038835
automobile .0451565 .0252275 1.79 0.073 -.0042886 .0946015
ln_TFI .0026151 .0020067 1.30 0.193 -.001318 .0065483
num_labor -.0014763 .0095642 -0.15 0.877 -.0202219 .0172693
num_sib -.0364435 .0471284 -0.77 0.439 -.1288135 .0559264
hhsize .0223223 .0073782 3.03 0.002 .0078613 .0367834
ln_non_busi_as .017784 .0038717 4.59 0.000 .0101957 .0253723
rural .0497625 .0502265 -0.99 0.322 -.1482046 .0486797

Cuối cùng, trong bảng 9, chúng tôi đã phân tích tác động của hạn chế tín dụng loại
(iii), tức là không đủ điều kiện tài sản đảm bảo, đến tinh thần khởi nghiệp kinh doanh
của các hộ gia đình. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng ước tính hạn chế tín dụng
loại (iii) gây ra tác động tiêu cực lớn nhất so với các loại hạn chế tín dụng khác đối
với tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình. Cụ thể, khi gặp phải hạn chế
(iii), tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình giảm đi 6,53%. Điều này
cho thấy tầm quan trọng của việc có đủ điều kiện tài sản đảm bảo đối với sự phát triển
và tinh thần kinh doanh của các hộ gia đình.

Bảng 9: Xác định xác suất tác động giữa không đủ điều kiện tài sản đảm bảo với tinh
thần kinh doanh

dy/dx Std.err z P>|z| [95% conf. Interval]


no_asset -.0653487 .0176598 -3.70 0.000 -.0999612 -.0307362
ageh .0030409 .0034654 0.88 0.380 -.0037512 .009833
ageh2 -.0000459 -.0000304 -1.51 0.131 .0001055 .0000137
eduh .0049927 .0016772 2.98 0.003 .0017056 .0082799
married -.0027812 -.0208196 -0.13 0.894 -.0435869 .0380244
male .0184977 .0208178 0.89 0.374 -.0223045 .0592998
risk_lover .0271845 -.0094998 2.86 0.004 .0085651 .0458039
ownhouse -.0723751 -.0529138 -1.37 0.171 -.1760843 .0313341
num_land -.0075458 .0023164 -3.26 0.001 -.0120859 -.0030056
automobile .0515247 -.0171559 3.00 0.003 .0178997 -.0851497
ln_TFI .0001808 .0011753 0.15 0.878 .0021227 .0024844
num_labor .0085885 .0058734 1.46 0.144 -.0029231 .0201002
num_sib .0299346 .0335888 -0.89 0.373 .0957675 .0358983
hhsize .0200701 .0045824 4.38 0.000 .0110887 .0290515
ln_non_busi_as .0081991 .002358 3.48 0.001 .0035775 .0128207
rural -.0687075 .0280821 -2.45 0.014 -.1237473 -.0136677
Tài liệu tham khảo
Aldrich, H. E., & Cliff, J. E. (2003). The pervasive effects of family on
entrepreneurship: Toward a family embeddedness perspective. Journal of
business venturing, 18(5), 573-596.
Aldrich, H. E., & Kim, P. H. (2007). Small worlds, infinite possibilities? How social
networks affect entrepreneurial team formation and search. Strategic
Entrepreneurship Journal, 1(1‐2), 147-165.
Archer, L., Sharma, P., & Su, J.-J. (2020). SME credit constraints and access to
informal credit markets in Vietnam. International Journal of Social Economics,
47(6), 787-807.
Ardic, O. P., Mylenko, N., & Saltane, V. (2012). Access to finance by small and
medium enterprises: a cross‐country analysis with a new data set. Pacific
Economic Review, 17(4), 491-513.
Ayyagari, M., Demirgüç-Kunt, A., & Maksimovic, V. (2008). How important are
financing constraints? The role of finance in the business environment. The
world bank economic review, 22(3), 483-516.
Barham, B. L., Boucher, S., & Carter, M. R. (1996). Credit constraints, credit unions,
and small-scale producers in Guatemala. World development, 24(5), 793-806.
Barslund, M., & Tarp, F. (2008). Formal and informal rural credit in four provinces of
Vietnam. The Journal of Development Studies, 44(4), 485-503.
Bauer, S. (2016). Does credit access affect household income homogeneously across
different groups of credit recipients? Evidence from rural Vietnam. Journal of
rural studies, 47, 186-203.
Black, S. E., & Strahan, P. E. (2002). Entrepreneurship and bank credit availability.
The Journal of Finance, 57(6), 2807-2833.
Boucher, S. R., Guirkinger, C., & Trivelli, C. (2009). Direct elicitation of credit
constraints: Conceptual and practical issues with an application to Peruvian
agriculture. Economic development and cultural change, 57(4), 609-640.
Cagetti, M., & De Nardi, M. (2006). Entrepreneurship, frictions, and wealth. Journal
of political economy, 114(5), 835-870.
Cai, D., Song, Q., Ma, S., Dong, Y., & Xu, Q. (2018). The relationship between credit
constraints and household entrepreneurship in China. International Review of
Economics & Finance, 58, 246-258.
Chandio, A. A., & Jiang, Y. (2018). Determinants of credit constraints: Evidence from
Sindh, Pakistan. Emerging Markets Finance and Trade, 54(15), 3401-3410.
Chaudhuri, K., & Cherical, M. M. (2012). Credit rationing in rural credit markets of
India. Applied Economics, 44(7), 803-812.
Cross, B., & Travaglione, A. (2003). The untold story: is the entrepreneur of the 21st
century defined by emotional intelligence? The international journal of
organizational analysis, 11(3), 221-228.
Diagne, A. (1998). Impact of access to credit on income and food security in Malawi.
Duong, C. D. (2023). Entrepreneurship: nature, nurture, or both? Empirical evidence
from a moderated polynomial regression with response surface analysis. The
International Journal of Management Education, 21(3), 100877.
Duong, P. B., & Izumida, Y. (2002). Rural development finance in Vietnam: A
microeconometric analysis of household surveys. World development, 30(2),
319-335.
Elston, J. A., & Audretsch, D. B. (2010). Risk attitudes, wealth and sources of
entrepreneurial start-up capital. Journal of Economic Behavior & Organization,
76(1), 82-89.
Evans, D. S., & Jovanovic, B. (1989). An estimated model of entrepreneurial choice
under liquidity constraints. Journal of political economy, 97(4), 808-827.
FakhrEldin, H. (2017). The relationship between the emotional intelligence of
entrepreneurs and the new venture creation: The role of age, gender and
motive. Arab Economic and Business Journal, 12(2), 99-108.
Fan, J., Liu, D., Hu, M., & Zang, Y. (2023). How do housing prices affect innovation
and entrepreneurship? Evidence from China. PloS one, 18(7), e0288199.
Feder, G., Lau, L. J., Lin, J. Y., & Luo, X. (1990). The relationship between credit and
productivity in Chinese agriculture: A microeconomic model of disequilibrium.
American Journal of Agricultural Economics, 72(5), 1151-1157.
Freeman, H. A., Ehui, S. K., & Jabbar, M. A. (1998). Credit constraints and
smallholder dairy production in the East African highlands: application of a
switching regression model. Agricultural Economics, 19(1-2), 33-44.
Fufa, T., & Kim, J. (2018). Stock markets, banks, and economic growth: Evidence
from more homogeneous panels. Research in international business and
finance, 44, 504-517.
Grydaki, M., & Bezemer, D. (2013). The role of credit in the Great Moderation: A
multivariate GARCH approach. Journal of Banking & Finance, 37(11), 4615-
4626.
Guiso, L., Sapienza, P., & Zingales, L. (2009). Does local financial development
matter? Springer.
Hall, B. H. (2002). The financing of research and development. Oxford review of
economic policy, 18(1), 35-51.
Han, L., Fraser, S., & Storey, D. J. (2009). Are good or bad borrowers discouraged
from applying for loans? Evidence from US small business credit markets.
Journal of Banking & Finance, 33(2), 415-424.
Hurst, E., & Lusardi, A. (2004). Liquidity constraints, household wealth, and
entrepreneurship. Journal of political economy, 112(2), 319-347.
Jappelli, T. (1990). Who is credit constrained in the US economy? The Quarterly
Journal of Economics, 105(1), 219-234.
Kiiru, J. M. M., & Machakos, K. (2007). THE IMPACT OF MICROFINANCE ON
RURAL POOR HOUSEHOLDS’INCOME AND VULNERABILITY TO
POVERTY: CASE STUDY OF MAKUENI DISTRICT, KENYA.
Knight, F. H. (1921). Risk, uncertainty and profit (Vol. 31). Houghton Mifflin.
Kumar, C. S., Turvey, C. G., & Kropp, J. D. (2013). The impact of credit constraints
on farm households: Survey results from India and China. Applied Economic
Perspectives and Policy, 35(3), 508-527.
Kuwornu, J. K., Ohene-Ntow, I. D., & Asuming-Brempong, S. (2012). Agricultural
credit allocation and constraint analyses of selected maize farmers in Ghana.
British Journal of Economics, Management & Trade, 2(4), 353-374.
Kuzilwa, J. A., & Nyamsogoro, G. D. (2016). The influence of credit and
formalization on the growth of SMEs in Tanzania. In Routledge Handbook of
Entrepreneurship in Developing Economies (pp. 423-438). Routledge.
Lee, N., Sameen, H., & Cowling, M. (2015). Access to finance for innovative SMEs
since the financial crisis. Research policy, 44(2), 370-380.
Li, L., & Wu, X. (2018). Number of siblings, credit constraints, and entrepreneurship
in China. The Journal of Development Studies, 54(7), 1253-1273.
Lin, L., Wang, W., Gan, C., Cohen, D. A., & Nguyen, Q. T. (2019). Rural credit
constraint and informal rural credit accessibility in China. Sustainability, 11(7),
1935.
Malik, Z., Ahmad, N., & Ahmed, W. (2023). Exploring the Influence of Microfinance
on Entrepreneurship using machine learning techniques. Journal of
Information Technology Management, 15(Special Issue: EIntelligent and
Security for Communication, Computing Application (ISCCA-2022)), 139-
156.
Matos, S., & Hall, J. (2021). An exploratory study of entrepreneurs in impoverished
communities: When institutional factors and individual characteristics result in
non-productive entrepreneurship. In Business, Entrepreneurship and
Innovation Toward Poverty Reduction (pp. 134-155). Routledge.
Nguyen Viet, C. (2008). Impacts of international and internal remittances on
household welfare: Evidence from Viet Nam.
Nguyễn, T. M. T. (2019). Các yếu tố ảnh hưởng đến hạn chế tín dụng ngân hàng đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh An Giang Đại học Tây Đô].
Parker, S. C. (2005). The economics of entrepreneurship: What we know and what we
don't. Foundations and Trends® in Entrepreneurship, 1(1), 1-54.
Paulson, A. L., & Townsend, R. (2004). Entrepreneurship and financial constraints in
Thailand. Journal of Corporate Finance, 10(2), 229-262.
Peng, Y.-l., Yanjun, R., & Li, H.-j. (2021). Do credit constraints affect households'
economic vulnerability? Empirical evidence from rural China. Journal of
Integrative Agriculture, 20(9), 2552-2568.
Phan, D. (2012). An empirical analysis of accessibility and impact of microcredit: the
rural credit market in the Mekong River Delta. Vietnam Lincoln University,
Lincoln, New Zealand.
Pitt, M. M., & Khandker, S. R. (1998). The impact of group-based credit programs on
poor households in Bangladesh: Does the gender of participants matter?
Journal of political economy, 106(5), 958-996.
Roodman, D., & Morduch, J. (2014). The impact of microcredit on the poor in
Bangladesh: Revisiting the evidence. Journal of Development Studies, 50(4),
583-604.
Sendra-Pons, P., Belarbi-Munoz, S., Garzón, D., & Mas-Tur, A. (2022). Cross-
country differences in drivers of female necessity entrepreneurship. Service
Business, 16(4), 971-989.
Vladasel, T., Lindquist, M. J., Sol, J., & Van Praag, M. (2021). On the origins of
entrepreneurship: Evidence from sibling correlations. Journal of business
venturing, 36(5), 106017.
Wen, X., Cheng, Z., & Tani, M. (2024). Rural-urban migration, financial literacy, and
entrepreneurship. Journal of Business Research, 114302.
Yusuf, H., Ishaiah, P., Yusuf, O., Yusuf, H., & Shuaibu, H. (2014). The role of
informal credit on agriculture: an assessment of small scale Maize farmers
utilization of credit in Jemaà Local Government Area of Kaduna State, Nigeria.
American Journal of Experimental Agriculture, 5(1), 36-43.

You might also like