Professional Documents
Culture Documents
DÀN BÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - Credit Constraints and Household Entrepreneurship
DÀN BÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - Credit Constraints and Household Entrepreneurship
DÀN BÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - Credit Constraints and Household Entrepreneurship
2.2. Findings
Kết quả một số nghiên cứu cho thấy hạn chế tín dụng làm giảm đáng kể xu hướng
tham gia khởi nghiệp kinh doanh của một hộ gia đình. Việc bị hạn chế tín dụng làm
giảm đáng kể xu hướng kinh doanh của các hộ gia đình từ 2,84–3,36 điểm phần trăm
(Cai et al., 2018). Các nghiên cứu hiện có ở các nước đang phát triển kết luận rằng cải
thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho các hộ gia đình nông thôn có thể có tác động tích
cực đến việc giảm tinh thần kinh doanh của họ (Bauer, 2016; Peng et al., 2021). Bên
cạnh đó, quy mô gia đình, số lượng anh chị em trong gia đình, tài sản bình quân đầu
người và tỷ lệ lao động có mối liên hệ tiêu cực với EV của hộ gia đình (Peng et al.,
2021). Một nghiên cứu khác cũng tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa hạn chế tín
dụng và tinh thần kinh doanh của hộ gia đình. Bằng cách sử dụng mô hình hồi quy
chuyển đổi nội sinh, nghiên cứu chỉ ra rằng lợi nhuận của các hộ kinh doanh bị hạn
chế về tín dụng bị ảnh hưởng đáng kể và tích cực bởi việc tiếp cận tín dụng.
Biến “tinh thần kinh doanh (entr)” là các gia đình có thu nhập lớn hơn hoặc bằng
100 triệu đồng trong 12 tháng vừa qua. Chúng tôi cho rằng việc hộ gia đình tham gia
vào các hoạt động phi nông nghiệp, phi lương, phi lâm nghiệp và phi thủy sản trong
suốt 12 tháng là những hộ có tinh thần kinh doanh. Bên cạnh đó chúng tôi cũng phân
biệt quy mô kinh doanh của các hộ gia đình bằng cách phân loại thành hai biến khác
nhau: biến “hộ kinh doanh nhỏ lẻ (sh_entr)” và “hộ kinh doanh lớn(e-entr)” .
Trong quá trình xem xét về vấn đề vốn đầu tư ban đầu và nhu cầu tín dụng, nhận thấy
sự cần thiết của việc phân loại các hoạt động kinh doanh của hộ gia đình. Chúng tôi đã
thực hiện phân loại thành hai loại dựa trên doanh thu thu được từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong năm dương lịch. Cụ thể, các hộ gia đình có doanh thu từ hoạt động
dưới 60 triệu đồng được xem xét như là khởi nghiệp nhỏ. Trong trường hợp này,
không áp dụng nghĩa vụ nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT), và không cần phải đóng
thuế thu nhập cá nhân (TNCN) theo quy định của pháp luật về thuế GTGT và thuế
TNCN. Ngược lại, đối với các hộ gia đình có doanh thu từ 60 triệu đồng trở lên,
chúng tôi xem xét chúng như là khởi nghiệp lớn (doanh nghiệp), và các quy định về
nộp thuế sẽ được áp dụng đối với trường hợp này.
Về biến độc lập, chúng tôi sử dụng các biến có liên quan đến vấn đề kinh tế, tín dụng,
chi tiêu của hộ gia đình. Chúng tôi đã đưa vào mô hình biến “hạn chế tín dụng
(cre_con)”. Để đo lường tình trạng hạn chế tín dụng của một hộ gia đình, chúng tôi sử
dụng một phương pháp dựa trên ba yếu tố chính. Đầu tiên, chúng tôi xem xét lịch sử
tín dụng của hộ gia đình bằng cách kiểm tra xem họ từng bị từ chối tín dụng trong quá
khứ hay không. Thứ hai, chúng tôi quan sát rằng các hộ gia đình, dù có nhu cầu vay
vốn, nhưng không đáp ứng được tiêu chuẩn từ các nguồn tín dụng chính thống, nên
buộc phải tìm kiếm vốn từ các kênh không chính thức. Do đó, việc vay vốn từ cả ngân
hàng và các nguồn tài chính phi chính thức cũng được coi là biểu hiện của hạn chế tín
dụng. Cuối cùng, khi một hộ gia đình không đáp ứng điều kiện tài sản đảm bảo để yêu
cầu vay vốn, đây cũng là một chỉ số cho thấy hạn chế về tín dụng đang diễn ra trong
hộ gia đình. Bất kỳ hộ gia đình nào có ít nhất một trong ba yếu tố trên sẽ được xem là
gặp phải hạn chế tín dụng. Bên cạnh đó, nhận thấy một số gia đình có xu hướng chấp
nhận rủi ro đầu tư, kinh doanh, một số khác thì ngược lại. Vì vậy, chúng tôi có biến
“ưa thích rủi ro (risk_lover)”. Trong kinh doanh của hộ gia đình, sự ưu thích về rủi
ro đóng vai trò quan trọng. Theo quan điểm của chúng tôi, những người có tiền gửi
tiết kiệm với mục đích dưỡng già, đầu tư sinh lời và các mục tiêu tương tự thường
không ưa thích rủi ro. Thay vào đó, họ thường lựa chọn các lựa chọn đầu tư hoặc tiết
kiệm có mức độ rủi ro thấp hoặc ổn định, nhằm bảo vệ vốn và đảm bảo thu nhập ổn
định cho tương lai. Trái lại, những người khác thường ưa thích rủi ro hơn trong việc
đầu tư và kinh doanh. Họ có thể chấp nhận các cơ hội đầu tư có mức độ rủi ro cao hơn
với hy vọng nhận được lợi nhuận lớn hơn.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các biến độc lập sau đây để cho thấy được tình hình
tài chính, tài sản của hộ gia đình. Biến “số đất hộ sở hữu (num_land)” là để xác định
số đất mà hộ gia đình sở hữu. Chúng tôi sàng lọc và tính tổng số đất thuộc quyền sở
hữu của hộ gia đình. Sau đó chúng tôi loại bỏ đi mảnh đất hiện là nơi cư trú cho hộ gia
đình.
Biến “số tiền trợ cấp (ln_TFI)”, Với biến này, chúng tôi thu thập dựa trên nội dung
khảo sát về vấn đề nhận trợ cấp của hộ gia đình. Để áp dụng biến “số tiền cấp” vào mô
hình, chúng tôi sử dụng phép biến đổi logarit. Với phép biến đổi logarit, các giá trị sử
dụng không được bằng 0. Do đó, chúng ta thêm 1 vào các biến chứa số 0 trước khi áp
dụng phép biến đổi logarit. Chiến lược như vậy cũng được (Pitt & Khandker, 1998) và
(Roodman & Morduch, 2014) sử dụng. Biến “tài sản phi kinh doanh
(ln_non_busi_as)”. Biến này cho thấy sự ổn định và thịnh vượng đóng vai trò quan
trọng trong tinh thần kinh doanh, vì việc bắt đầu một doanh nghiệp đòi hỏi có khoản
đầu tư ban đầu. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc các hộ gia đình giàu
có hơn có nhiều khả năng điều hành doanh nghiệp hơn (Cai et al., 2018). Để thể hiện
sự giàu có của hộ gia đình, chúng tôi đã bổ sung biến tài sản phi kinh doanh vào phân
tích. Tài sản này được xác định bằng cách tính tổng giá trị tài sản của hộ gia đình sau
khi loại bỏ phần tài sản được sử dụng để đầu tư vào doanh nghiệp. Tổng tài sản được
định giá dựa trên ba loại giá trị, bao gồm đất đai, tiết kiệm và các tài sản gia đình như
tivi, tủ lạnh, ô tô, thuyền, và các vật dụng gia đình khác.
Bộ dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là dữ liệu bảng (panel data) gồm 10680
quan sát trong thời gian từ 2008 đến 2016 và có biến phụ thuộc là biến nhị phân
(binary or dichotomous). Các bài nghiên cứu có cùng chủ đề trước đây thường sử
dụng mô hình xác suất tuyến tính (LPM) để xử lý (Archer et al., 2020; Cai et al.,
2018). Tuy nhiên, LPM vẫn còn nhiều hạn chế khi mắc phải những sai lầm như sai số
hồi quy không phân phối chuẩn, phương sai thay đổi, xác suất không phân bố trong
khoảng 0-1… Vì vậy, trong một số nghiên cứu khác có sử dụng biến phụ thuộc là nhị
phân, mô hình logit và probit được cho là phù hợp hơn để phân tích thực nghiệm
(Chandio & Jiang, 2018; Li & Wu, 2018; Lin et al., 2019). Với đặc điểm của bộ dữ
liệu cũng như để cho ra kết quả đáng tin cậy hơn, chúng tôi lựa chọn mô hình hồi quy
Probit với dữ liệu bảng (Panel Probit Model) để xem xét tác động của hạn chế tín
dụng đối với tinh thần khởi nghiệp của hộ gia đình thông qua phương trình sau:
Biến phụ thuộc Entrepreneurijt biểu thị hộ gia đình i ở địa điểm j tại thời điểm t có
tham gia kinh doanh phi nông nghiệp không. Nhóm biến Entrepreneur được phân
thành 3 loại bao gồm: entr (hộ gia đình có tham gia kinh doanh phi nông nghiệp
không), sh_entr (hộ gia đình có tham gia kinh doanh phi nông nghiệp ở dạng nhỏ lẻ
không) và e_entr (hộ gia đình có tham gia kinh doanh phi nông nghiệp với quy mô lớn
không). Cre_conijts là biến độc lập thể hiện liệu hộ gia đình i ở địa điểm j tại thời điểm
t có gặp tình trạng hạn chế tín dụng không và s là 3 trường hợp để xác định một hộ gia
đình đang gặp tình trạng hạn chế tín dụng. Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng X ijt làm
biến kiểm soát (control variable) cho mô hình. Ngoài hạn chế tín dụng, việc quyết
định kinh doanh phi nông nghiệp của hộ cũng có thể bị tác động bởi các yếu tố liên
quan đến đặc điểm chủ hộ (giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn,...); các yếu tố về hộ
gia đình (số thành viên của hộ, số thành viên trong độ tuổi lao động); các yếu tố về
vốn xã hội (số tiền trợ cấp hộ nhận được, số anh/chị/em); và mức độ giàu có của hộ
(số đất hộ sở hữu, số xe hộ sở hữu, số tài sản không thuộc kinh doanh của hộ). Chúng
tôi cũng sử dụng biến giả phân loại khu vực Tjt để kiểm soát môi trường kinh doanh.
Bảng 1: Thống kê mô tả
Bảng 1 cho thấy có 26.5% quan sát có giá trị là 1. Như vậy, trung bình trong mỗi giai
đoạn có 5.3% số hộ tham gia hoạt động kinh doanh. Theo định nghĩa của chúng tôi về
kinh doanh nhỏ lẻ dựa vào ngưỡng 60.000.000 VND về doanh thu, chúng tôi có thể
thấy rằng trung bình có 2.7% hộ gia đình tham gia vào hoạt động kinh doanh nhỏ và
có 2.9 % số hộ tham gia vào hoạt động kinh doanh quy mô lớn trong mỗi giai đoạn.
Trong khi đó, có khoảng 6% hộ gia đình trong mẫu của chúng tôi phải chịu một số
loại hạn chế tín dụng nhất định trong mỗi giai đoạn khảo sát.
Xét về yếu tố hộ gia đình, với biến số thành viên trong độ tuổi lao động, dựa trên
những quy định của pháp luật Việt Nam về độ tuổi lao động trong những năm từ 2008
đến 2016, chúng tôi xác định những thành viên ở độ từ 16 đến 60 của hộ gia đình là
những người trong độ tuổi lao động. Như vậy, trung bình mỗi hộ tham gia khảo sát có
4 thành viên, trong đó có từ 2 đến 3 thành viên đang trong độ tuổi lao động. Xét về
đặc điểm của chủ hộ, độ tuổi trung bình là 55 tuổi. Số năm học trung bình của chủ hộ
là 7 năm học, gần tương đương với trình độ trung học cơ sở ở Việt Nam. Khẩu vị rủi
ro được xác định bởi quyết định gửi tiết kiệm của chủ hộ. Một chủ hộ được coi là
người ưa thích rủi ro nếu họ không quyết định gửi tiết kiệm với các mục đích là đầu tư
sinh lời, dưỡng già hoặc các mục đích tương tự. Trong mẫu của chúng tôi, trung bình
có 6.6% hộ gia đình thích chấp nhận rủi ro trong một giai đoạn.Trong ước tính, logarit
của tổng tài sản hộ gia đình không bao gồm tài sản kinh doanh (tức là tài sản phi kinh
doanh) được đưa vào để giải thích thực tế là các hộ gia đình giàu có hơn có nhiều khả
năng điều hành doanh nghiệp hơn. Chúng tôi cũng thêm các biến giả về quyền sở hữu
nhà ở, quyền sở hữu ô tô và số mảnh đất hộ sở hữu để kiểm soát hơn nữa tác động của
chúng đối với hoạt động kinh doanh.
Do mục đích của nghiên cứu có xem xét đến xác suất tác động nhân quả, việc kiểm tra
sự tương quan giữa các biến là cần thiết. Trong bảng kết quả trên, hệ số tương quan
Pearson giữa các biến đều nhỏ hơn 0.5. Như vậy, các biến không có sự tương quan
mạnh mẽ với nhau. Điều này cho thấy khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến là rất
thấp.
4. Empirical results
SỬ DỤNG MÔ HÌNH xtprobit cho panel data
4.1 Tính hợp lý của việc đo lường hạn chế tín dụng
Trong nghiên cứu này, chúng tôi quan tâm đến tác động của các loại hạn chế tín dụng
khác nhau đối với hoạt động kinh doanh của các hộ gia đình. Cụ thể, chúng tôi xem
xét ba loại hạn chế tín dụng: (i) bị từ chối tín dụng, (ii) có nhiều nguồn vay tín dụng,
(iii) không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo.
Trước tiên, dựa vào bảng câu hỏi của bộ dữ liệu, chúng tôi thu thập trực tiếp được dữ
liệu cho hai loại hạn chế tín dụng: (i) và (ii). Chúng tôi sử dụng định nghĩa hạn chế tín
dụng (ii) với mục đích mở rộng phạm vi cho định nghĩa hạn chế tín dụng (i). Điều này
có nghĩa là chúng tôi không chỉ tập trung vào các hộ gia đình bị từ chối vay, mà còn
bao gồm những hộ gia đình đã vay ngân hàng nhưng thấy rằng số tiền vay không đáp
ứng đủ nhu cầu tín dụng của họ. Trong thực tế, đây là tình huống phổ biến khi các
doanh nghiệp mới thấy rằng các tổ chức tài chính truyền thống không cung cấp đủ tín
dụng cho họ, dẫn đến việc họ phải tìm kiếm thêm tài chính từ các nguồn không chính
thống như mượn tiền từ bạn bè, người thân hoặc các tổ chức phi chính phủ.Vậy nên,
những hộ gia đình có có nhiều hơn một nguồn vay tín dụng được định nghĩa là hạn
chế tín dụng.
Thứ hai, do hạn chế của bộ dữ liệu VARHS được khảo sát ở vùng nông thôn Việt
Nam nên dữ liệu về tín dụng vẫn chưa khách quan. Do đó chúng tôi xem xét đến một
khía cạnh khác của hạn chế tín dụng đó là tài sản mà các hộ gia đình sở hữu (iii), đặc
biệt là đất đai và nhà ở. Vì trong ngữ cảnh pháp luật của Việt Nam, nơi mà hầu hết các
khoản vay đều yêu cầu tài sản làm đảm bảo. Việc sở hữu về mặc pháp lý và giá trị của
tài sản đảm bảo có thể ảnh hưởng đến khả năng vay và mức độ hạn chế tín dụng của
các hộ gia đình. Điều này làm rõ hơn về cách mà tài sản ảnh hưởng đến tinh thần kinh
doanh của các hộ gia đình.
Trong Bảng 2, chúng tôi tiến hành xác định tính hợp lý của việc sử dụng các loại hạn
chế tín dụng đã nêu phía trên, các định nghĩa hạn chế tín dụng này được xem như một
chỉ số đại diện cho hạn chế tín dụng kinh doanh. Chúng tôi sử dụng mẫu dữ liệu bao
gồm những hộ tham gia kinh doanh để đánh giá tính hợp lý này. Bằng cách sử dụng
mô hình pooled OLS, chúng tôi đã phân tích sự tương quan của ba loại hạn chế tín
dụng khác nhau đối với hạn chế tín dụng kinh doanh.
trong đó, entr_cre_conijt là biến giả cho biết liệu hộ gia đình i ở khu vực j tại thời điểm
t có bị hạn chế tín dụng kinh doanh hay không. Other_cre_conijt là các biến giả cho
biết liệu hộ gia đình có phải chịu các loại hạn chế tín dụng khác hay không, bao gồm
ba loại (i) ; (ii) ; (iii) nêu trên. Xit là các biến kiểm soát bao gồm các đặc điểm của chủ
hộ và đặc điểm của hộ. τj là biến giả khu vực được sử dụng để loại bỏ hiệu ứng cố
định khu vực.
Bảng 2: Kết quả kiểm tra tính hợp lý của việc đo lượng hạn chế tín dụng
(1) (2) (3)
cre_con cre_con cre_con
deny 0.439*** 0.542*** 0.548**
(14.87) (15.29) (15.64)
no_asset 0.787*** 0.744*** 0.739***
(55.90) (37.09) (32.52)
more_cre 0.877*** 0.891*** 0.896***
(86.72) (71.84) (72.98)
rural 0.0372 0.0712** 0.0578*
(1.41) (2.30) (1.85)
ageh -0.00289 -0.00269
(-0.65) (-0.60)
ageh2 0.0000299 0.0000283
(0.75) (0.71)
eduh 0.00109 0.0000846
(0.58) (0.04)
married 0.0123 0.0163
(0.48) (0.63)
male -0.0287 -0.0261
(-1.28) (-1.12)
risk_lover -0.0110 -0.0105
(-0.96) (-0.93)
ln_TFI 0.000250 -0.0000564
(0.17) (-0.04)
num_sib -0.0300 -0.0253
(-0.89) (-0.75)
num_labor -0.00261 -0.00265
(-0.38) (-0.39)
hhsize -0.00265 -0.00346
(-0.52) (-0.67)
ln_non_busi_as 0.00372 0.00509*
(1.34) (1.82)
ownhouse 0.0789
(1.08)
num_land 0.00167
(0.65)
automobile 0.00367
(0.20)
_cons -0.00224 0.00884 -0.0789
(-0.09) (0.07) (-0.56)
N 1154 733 727
R-sq
*p<0.1, **p<0.05, ***p<0.01
Trong Bảng 2, kết quả phân tích cho thấy có một sự tương quan đáng kể giữa hạn chế tín
dụng (i);(ii);(iii) với hạn chế tín dụng kinh doanh. Trong cột (1), chúng tôi chỉ tập
trung vào các biến hạn chế tín dụng, và kết quả cho thấy mối quan hệ tích cực giữa
các biến này với mức ý nghĩa ở mức 1%. Điều này chỉ ra rằng các hộ gia đình bị từ
chối, không có tài sản thế chấp và có nhiều hơn một nguồn vay thường cũng đối mặt
với hạn chế tín dụng trong hoạt động kinh doanh của họ.
Tiếp theo, trong cột (2), chúng tôi đã bổ sung thêm các biến liên quan đến hộ gia đình
để kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng khác, và kết quả tiếp tục cho thấy mối quan hệ tích
cực và đáng kể của các biến hạn chế tín dụng (i);(ii);(iii) với hạn chế tín dụng kinh
doanh.
Cuối cùng, để hiểu rõ hơn về tác động của việc sở hữu xe. đất và có nhà riêng đối với
kết quả hồi quy, chúng tôi tiếp tục điều chỉnh mô hình trong cột (3) bằng cách kiểm
soát những biến này. Kết quả hồi quy vẫn duy trì tính nhất quán và mức độ ảnh hưởng
của các biến hạn chế tín dụng vẫn được giữ nguyên, không bị giảm đi.
Sau khi đã dự báo xu hướng tác động của hạn chế tín dụng đối với tinh thần khởi
nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình, chúng tôi tiến hành phân tích và báo cáo các
kết quả hồi quy giữa hai biến này. Kết quả được thể hiện trong Bảng 4, bảng 5 và
bảng 6 dưới đây:
Các kết quả trong Bảng 4 chỉ ra rằng hạn chế tín dụng có ảnh hưởng đến tinh thần
khởi nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình cả trong lĩnh vực doanh nghiệp nhỏ và
lớn. Kết quả cho thấy khi các hộ gia đình gặp phải hạn chế tín dụng, tinh thần khởi
nghiệp kinh doanh giảm đi 7,85%.
Bảng 4: Xác định xác suất tác động giữa các biến độc lập với tinh thần kinh doanh
Bảng 5 và 6 là kết quả của phân tích hồi quy sau khi chúng tôi phân loại các doanh
nghiệp. Kết quả này là minh chứng cho việc khi các hộ gia đình gặp phải hạn chế tín
dụng, tinh thần khởi nghiệp kinh doanh giảm đi 6,47% đối với doanh nghiệp nhỏ và
1,52% đối với doanh nghiệp lớn.
Bảng 5: Xác định xác suất tác động giữa các biến độc lập với hộ kinh doanh nhỏ lẻ
Bảng 6: Xác định xác suất tác động giữa các biến độc lập với hộ kinh doanh lớn
Để đảm bảo tính chắc chắn, chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu để phân tích ảnh
hưởng của từng loại hạn chế tín dụng đối với tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của
các hộ gia đình. Dưới đây là kết quả của nghiên cứu:
Trong Bảng 7, chúng tôi đã xem xét ảnh hưởng của hạn chế tín dụng loại (i), tức là
việc bị từ chối tín dụng, đối với tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình.
Tuy nhiên, kết quả cho thấy hạn chế tín dụng loại (i) không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 7: Xác định xác suất tác động giữa bị từ chối tín dụng với tinh thần kinh doanh
dy/dx Std.err z P>|z| [95% conf. Interval]
deny -.0170844 .0350178 -0.49 0.626 -.085718 .0515491
ageh .0028078 .0034917 0.80 0.421 -.0040358 .0096513
ageh2 -.0000442 .0000306 -1.44 0.149 -.0001042 .0000158
eduh .0055438 .0016925 3.28 0.001 .0022266 .008861
married .0004647 .0210233 0.02 0.982 -.0407402 .0416697
male .0176426 .0209102 0.84 0.399 -.0233407 .0586259
risk_lover .0287719 .0096402 2.98 0.003 .0098774 .0476663
ownhouse -.0642242 .053861 -1.19 0.233 -.1697898 .0413413
num_land -.0048816 .0022184 -2.20 0.028 -.0092296 -.0005336
automobile .0523207 .0174828 2.99 0.003 -.0180552 . 0865863
ln_TFI .0001041 .0011796 0.09 0.930 -.002208 .0024161
num_labor -.0077102 .0059658 1.29 0.196 -.0039826 .019403
num_sib -.0313768 .0335509 -0.94 0.350 -.0971353 .0343818
hhsize .0202131 .0046428 4.35 0.000 .0111134 .0293128
ln_non_busi_as -.0093325 .0024109 3.87 0.000 -.0046072 .0140577
rural -.0653022 .0283229 -2.31 0.021 -.120814 -.0097904
Trong bảng 8, chúng tôi đã nghiên cứu tác động của hạn chế về việc có nhiều hơn một
nguồn vay (ii) đối với tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của hộ gia đình. Tuy nhiên,
kết quả cho thấy hạn chế tín dụng loại (ii) cũng không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 8:Xác định xác suất tác động giữa có nhiều hơn một nguồn vay với tinh thần
kinh doanh
dy/dx Std.err z P>|z| [95% conf. Interval]
more_cre -.0143474 .0165177 -0.87 0.385 .0467216 .0180267
ageh .0036608 .0060456 0.61 0.545 .0081884 .01551
ageh2 -.0000365 .000054 -0.68 0.499 .0001423 .0000693
eduh .0047667 .0027044 1.76 0.078 .0005338 .0100673
married .0094366 .0362744 0.26 0.795 .0616599 .0805332
male .0097213 .0338813 -0.29 0.774 -.0761275 .0566848
risk_lover .0423561 .0164259 2.58 0.010 .0101619 .0745503
ownhouse .0035563 .0948539 -0.04 0.970 -.1894666 .1823539
num_land -.0027113 .0033647 -0.81 0.420 -.0093061 .0038835
automobile .0451565 .0252275 1.79 0.073 -.0042886 .0946015
ln_TFI .0026151 .0020067 1.30 0.193 -.001318 .0065483
num_labor -.0014763 .0095642 -0.15 0.877 -.0202219 .0172693
num_sib -.0364435 .0471284 -0.77 0.439 -.1288135 .0559264
hhsize .0223223 .0073782 3.03 0.002 .0078613 .0367834
ln_non_busi_as .017784 .0038717 4.59 0.000 .0101957 .0253723
rural .0497625 .0502265 -0.99 0.322 -.1482046 .0486797
Cuối cùng, trong bảng 9, chúng tôi đã phân tích tác động của hạn chế tín dụng loại
(iii), tức là không đủ điều kiện tài sản đảm bảo, đến tinh thần khởi nghiệp kinh doanh
của các hộ gia đình. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng ước tính hạn chế tín dụng
loại (iii) gây ra tác động tiêu cực lớn nhất so với các loại hạn chế tín dụng khác đối
với tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình. Cụ thể, khi gặp phải hạn chế
(iii), tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của các hộ gia đình giảm đi 6,53%. Điều này
cho thấy tầm quan trọng của việc có đủ điều kiện tài sản đảm bảo đối với sự phát triển
và tinh thần kinh doanh của các hộ gia đình.
Bảng 9: Xác định xác suất tác động giữa không đủ điều kiện tài sản đảm bảo với tinh
thần kinh doanh