Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 13

VẺ ĐẸP THIÊN NHIÊN TRONG BÀI THƠ VIỆT BẮC

Vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc là một trong những bức tranh đặc sắc góp phần tô
điểm cho nội dung của bài thơ. Đó là hình ảnh thiên nhiên nên thơ và hùng vĩ, vừa là tri kỉ
với con người lại vừa gắn bó với cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc.

Thiên nhiên là đề tài muôn thuở trong thi ca và cũng là tri kỉ của thi nhân. Vì vậy, từ văn học
bình dân đến văn học bác học, từ văn học trung đại đến văn học hiện đại, thiên nhiên vẫn luôn
chiếm một vị trí quan trọng. Và Tố Hữu cũng không phải là một ngoại lệ. Thiên nhiên trong
sáng tác của Tố Hữu không phải khung cảnh thiên nhiên thanh tao, thoát tục như thi nhân xưa,
mà mang một vẻ đẹp dung dị nhưng không kém phần hùng tráng. Bởi lẽ thiên nhiên ấy được
nhìn nhận trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt – cách mạng. Vẻ đẹp thiên nhiên ấy được thể
hiện rõ trong bài thơ Việt Bắc. Cùng phân tích và cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ
Việt Bắc qua những tìm hiểu dưới đây.

Đôi nét về nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc

Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác trong một hoàn cảnh lịch sử mang đậm tinh thần dân tộc. Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết đã mở ra một trang sử mới
cho dân tộc. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ chuyển từ
Việt Bắc trở về Hà Nội.
Lúc cán bộ về xuôi cũng chính là thời điểm giao thời của lịch sử. Lòng người trong cuộc sống
yên ổn, hạnh phúc ấy dễ làm người ta quên đi cội nguồn của chiến thắng quên đi quá khứ. Vì
vậy, tác phẩm ra đời để gợi nhắc về cuộc sống ân tình thủy chung của người cán bộ và nhân dân
Việt Bắc. Bên cạnh mối ân tình ấy, trong bài thơ Việt Bắc, ta còn bắt gặp bức tranh thiên nhiên
tươi đẹp nơi đây.

Phân tích và cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc

Thiên nhiên Việt Bắc vừa thơ mộng, vừa hùng vĩ

Vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc được đặc tả nổi bật nhất qua bức tranh tứ bình –
xuân, hạ, thu, đông. Thiên nhiên ấy dung dị như chính con người nơi đây. Một vẻ đẹp hoang sơ,
mộc mạc nhưng không kém phần hùng vĩ.

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

………………………………………..

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Chỉ với bốn cặp câu mà Tố Hữu đã khéo léo vẽ nên bức tranh bốn mùa đầy sức sống. Bức tranh
ấy không chỉ có cảnh mà còn có người. Từng cặp câu hiện ra với những đường nét riêng biệt.
Câu lục miêu tả cảnh thiên nhiên đẹp, câu bát làm nổi bật hình ảnh con người dồi dào sức sống;
tất cả hợp thành bộ tranh tứ bình xuân-hạ-thu-đông đẹp một cách lạ kỳ. Bức tranh thiên nhiên
mùa đông mở đầu cho bức tranh bốn mùa
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Không gian thiên nhiên rộng lớn bao la khoác trên mình một màu xanh đặc trưng của núi rừng.
Sắc xanh trầm lắng tĩnh tại của rừng già được điểm xuyết thêm bằng sắc đỏ của hoa chuối.
Trong không gian hùng vĩ của núi rừng, sự xuất hiện của sắc đỏ làm bừng sáng cả một góc
từng, rực rỡ nhưng không chói lóa. Sắc đỏ ấy gợi cho ta liên tưởng đến câu thơ của Nguyễn
Trãi trong bài thơ “Cảnh ngày hè” – “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”.

Trong không gian mùa đông, ta thường cảm thấy lạnh lẽo, hoang vu nhưng trong hai câu thơ
của Tố Hữu khung cảnh không u ám như khí trời mùa đông mà ấm áp, tươi đẹp đến lạ. Cùng
với đó là ánh nắng mặt trời chiếu rọi khiến khung cảnh thêm phần tráng lệ. Hình ảnh con người
hiện lên trên đèo cao vách núi gợi tư thế của con người trong lao động. Con người và thiên
nhiên cùng điểm tô vẻ đẹp cho nhau.

Khi cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc, ta thấy dòng thời gian bốn mùa không
đi theo trật tự quen thuộc – xuân, hạ, thu, đông mà đi theo một kết cấu đặc biệt – đông, xuân,
hạ, thu. Tiếp nối bức tranh mùa đông là mùa xuân ấm áp tươi vui đã đến.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Ngày xuân trong thơ ca thường được nhắc đến với hình ảnh mai vàng rực rỡ hay sắc hồng dịu
dàng của hoa đào hay cánh én chao liệng giữa trời. Nhưng trong thiên nhiên Việt Bắc, mùa
xuân được điểm tô bằng sắc trắng của hoa mơ. Tưởng chừng có vẻ lạ lẫm nhưng thực chất đây
mới chính là mùa xuân của đất trời nơi rừng núi.

Xuân đến cây cối đâm chồi nảy lộc nhưng sau tất cả đọng lại trong ký ức tác giả chỉ có rừng
mơ. Màu xanh giờ đây phải nhường chỗ màu trắng tinh khôi. Chỉ với cụm từ “trắng rừng”, Tố
Hữu đã phác họa được cả một không gian rộng lớn, làm cả vùng rừng núi như bừng sáng, mọi
vật như thức dậy sau một giấc ngủ đông dài. Trên nền phong cảnh ấy là hình ảnh “người đan
nón” âm thầm lặng lẽ hái măng. Con người không thưởng ngoạn khung cảnh mà sống và lao
động trong khung cảnh ấy.

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc, người đọc thấy bức tranh càng hoàn thiện
hơn với sự xuất hiện của mùa hè. Mùa hè được báo hiệu bằng tiếng ve ngân vang. Mùa hè đến
thường được báo hiệu bằng tiếng ve bằng những chùm phượng vĩ rực đỏ. Tố Hữu lại một lần
nữa đem cái hồn của núi rừng Việt Bắc thổi vào trong bài thơ. Sự lựa chọn “rừng phách đổ
vàng” đem đến một hiệu ứng đặc biệt. Bởi lẽ, màu vàng thường được dùng để diễn tả mùa thu

“Em không nghe rừng thu


Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?”
(Tiếng thu – Lưu Trọng Lư)
Nhưng màu vàng ấy trong thơ của Tố Hữu lại được dùng để đặc tả mùa hè của Việt Bắc. Tác
giả đã sử dụng tinh tế từ “đổ”, vừa thể hiện sự đồng loạt vừa thể hiện sự nhanh chóng. Sự thay
đổi ấy không chỉ trong thời gian – chuyển từ xuân sang hè mà còn là sự thay đổi của không gian
– từ màu xanh sang màu vàng của không gian.

Đọc câu thơ, ta có cảm tưởng chính tiếng ve là nguyên nhân là tiếng chuông đánh thức cả khu
rừng đồng loạt thay áo. Câu thơ không chỉ có âm thanh mà còn có màu sắc. Hai yếu tố ấy đã tạo
nên khung cảnh sống động của thiên nhiên: màu vàng của rừng phách hòa cùng tiếng ve trong
gió – đặc trưng của mùa hè cộng hưởng cùng tín hiệu của mùa hè dường như có gì đó bất ngờ
xôn xao khó tả.

Cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc, ta thấy hình ảnh con người “hái măng
một mình” thêm một lần nữa là vẻ đẹp của sự thầm lặng và cần mẫn với công việc. Trong hoài
niệm của tác giả, hình ảnh ấy là một nét gợi nhớ sinh động và đầy xúc cảm.

Nhưng bức tranh thiên nhiên thanh bình nhất phải nằm ở mùa thu

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Nếu thiên nhiên đông, xuân, hạ được khắc họa vào thời điểm ban ngày thì chỉ duy nhất thiên
nhiên mùa thu là được khắc họa vào thời gian đêm tối. Không như thi nhân xưa – “ngô đồng
nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu”, Tố Hữu phác họa bức tranh mùa thu bằng ánh trăng chiếu
rọi.

Điều đặc biệt ánh trăng ấy là ánh trăng của hòa bình. Đây cũng chính là ánh trăng mà biết bao
người mong đợi. Và kết lại cũng chính là hình ảnh con người được thể hiện qua tiếng hát tâm
tình cùng ánh trăng mang theo bao hi vọng về một tương lai hạnh phúc tươi đẹp và thể hiện
được tình cảm thiết tha ân tình, son sắt gắn bó với cách mạng.

Thiên nhiên Việt Bắc vừa thơ mộng trữ tình vừa hùng vĩ tráng lệ. sự hùng vĩ ấy không chỉ đến
từ không gian rộng lớn mà còn đến từ cảm tâm thế của con người trong một thời đại lớn lao của
lịch sử.

Vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc gắn liền với công cuộc kháng chiến

Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc, người đọc cũng cảm nhận được thiên nhiên
ấy không chỉ là phong cảnh mà còn là người bạn đồng hành cùng con người trong kháng chiến.
Cuộc kháng chiến diễn ra không chỉ có sự tham gia của toàn thể nhân dân mà còn có sự tham
gia của cả thiên nhiên.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

Hình ảnh quân giặc hiện ra với lực lượng hùng hậu cùng vũ khí hiện đại. Mặc dù có sự tương
quan chênh lệch lực lượng lớn nhưng ta đã có một đồng đội quan trọng – thiên nhiên. Vẻ đẹp
thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc còn thể hiện khi thiên nhiên cùng con người tham gia vào
công cuộc kháng chiến. thiên nhiên chở che bộ đội, ngăn cản cuộc tiến công của kẻ thù. Dường
như trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, tất cả các nhân tố đều cùng đồng lòng hướng về một
mối – tổ quốc thân yêu.

Thiên nhiên cũng đã đóng góp hết mình cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Thiên nhiên đã hoàn
thành xuất sắc sứ mệnh vai trò của nó trong cuộc kháng chiến vừa trở thành ngôi nhà cho các
chiến sĩ, vừa trở thành trận địa mai phục tiêu diệt quân thù. Ta đã tận dụng hết mọi yếu tố của
tự nhiên từ địa hình – rừng núi cho đến thời tiết – sương mù. Cả đất trời cùng con người đồng
tâm hiệp lực tiêu diệt kẻ thù. Có thể thấy, vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc tạo nên một
xúc cảm đặc biệt trong lòng người đọc.

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Qua đó, những dòng thơ tuy cô đọng nhưng đã gợi được hào khí của cả một thời đại anh hùng,
một dân tộc anh hùng, một thiên nhiên anh hùng. Vẻ đẹp của thiên nhiên không chỉ đơn giản là
phong cảnh hữu tình mà còn ở vai trò của nó với cuộc cách mạng. Phân tích và cảm nhận vẻ
đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc, người đọc nhận thấy thiên nhiên luôn có mặt và dõi theo
từng bước chân con người, từng chuyển biến lịch sử.

Vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc gắn liền với hình ảnh con người

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở


Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

(Tiếng hát con tàu)

Thiên nhiên Việt Bắc còn đặc biệt bởi lẽ nó gắn liền và gợi nhắc đến nhân dân Việt Bắc. Đó
cũng chính là vẻ đẹp của thiên nhiên gắn chặt với ký ức của nhà thơ về con người nơi đây.

“Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Thiên nhiên của “núi”, “sông” đã trở thành chứng nhân cho quân dân thắm thiết. Cây gợi liên
tưởng đến núi, sông gợi liên tưởng đến nguồn là một điều hiển nhiên nhưng liệu người chiến sĩ
về xuôi có còn nhớ thiên nhiên, nhớ nghĩa tình với người dân Việt Bắc không? Mười lăm năm
gắn bó với biết bao kỷ niệm.

“Mình đi có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
[…]
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.”
Vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc còn hiện lên với sự gắn bó và sẻ chia cùng con người
những khó khăn thử thách. Vì vậy, hình ảnh ấy, tình cảm ấy đã khắc sâu vào tâm khảm nhà thơ
cũng như các chiến sĩ. Dù đó là “mưa nguồn suối lũ”, là “những mây cùng mù”, là “hắt hiu
lau xám” nhưng đều quan trọng nó gắn liền với tình quân dân Việt Bắc lúc nào cũng “đậm đà
lòng son”.

Dù mọi chuyện đã qua nhưng từng ký ức trở về sống động như chỉ mới hôm qua. Câu
thơ “Mình về rừng núi nhớ ai” vang lên nghe thật da diết. Rừng núi đã trở thành người bạn tri
kỉ của nhân dân Việt Bắc và cũng trở thành bạn tâm giao cùng người chiến sĩ trong những
tháng năm ở đây.

Người chiến sĩ về xuôi để lại bao luyến tiếc không chỉ cho con người mà còn cho cảnh vật nơi
đây. Người chiến sĩ đi rồi thì “trám bùi”, hay “măng mai” bỗng chốc cũng trở nên cô đơn
đành “để rụng”, “để già” mà thôi. Vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc ngọt ngào cũng
bởi nó gợi nhắc đến bao kỷ niệm ngọt ngào nơi đây

“Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Người chiến sĩ đi rồi nhưng sẽ mãi nhớ “trăng lên đầu núi”, nhớ “nắng chiều lưng nương”,
nhớ “bản khói cùng sương”, nhớ cả “rừng nứa bờ tre”. Những sự vật tưởng chừng vô hồn
nhưng bỗng chốc trở nên sinh động gần gũi bởi nó chứa đầy tình cảm, gợi nhắc về một thời gắn
bó quấn quýt bên nhau. Phép liệt kê kết hợp với cách điệp từ “nhớ” khiến ta có cảm giác những
kỷ niệm chợt ùa về như một cuốn phim quay chậm.

“Ta về, mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Vận dụng nhuần nhuyễn chất liệu dân gian, Tố Hữu đã khiến lời thơ trở thành tiếng hát. Lấy
cấu tứ từ văn học dân gian
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
(Ca dao)
Nhưng Tố Hữu đã thổi cả tâm tư tình cảm của mình vào đó. Nhớ về Việt Bắc là nhớ về tất cả
những gì tươi đẹp nhất nơi đây. Hoa là biểu tượng cho những gì tươi đẹp nhất của thiên nhiên.
Con người là kết tinh tươi đẹp nhất của đất trời. Trong nỗi nhớ của người ra đi, hai hình ảnh ấy
lồng vào nhau – hoa cùng người. Thiên nhiên và con người tuy hai mà một không thể tách rời.
Vì vậy nhớ về Việt Bắc là nhớ về con người nơi ấy cũng là đồng thời nhớ về thiên nhiên tươi
đẹp nơi đây.

Đánh giá nội dung và nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc qua hình ảnh thiên nhiên

Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc, ta thấy Tố Hữu không lựa chọn những vẻ
đẹp mỹ miều đầy tính ước lệ mà ông lại khéo léo lựa chọn và phác họa một cách tinh tế những
gì đặc biệt nhất của núi rừng thiên nhiên Việt Bắc. Chỉ qua vài đường nét mà ta có thể cảm
nhận được cả một thiên nhiên rộng lớn của Việt Bắc.

Thiên nhiên Việt Bắc hoang sơ mộc mạc nhưng lại tươi đẹp tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp của thiên
nhiên hài hòa cùng vẻ đẹp của con người gợi nhắc đến bao kỷ niệm gắn bó, gợi nhắc đến tình
quân dân bền chặt. Thiên nhiên không chỉ là phong cảnh vô hồn mà còn là người bạn đồng
hành cùng con người trong cuộc sống lao động, trong công cuộc kháng chiến. Vẻ đẹp thiên
nhiên trong bài thơ Việt Bắc không chỉ đẹp bởi sự bao la hùng vĩ của núi rừng mà còn bởi nó
được đặt trong một khí thế hào hùng của một giai đoạn lịch sử đầy thăng trầm.
VẺ ĐẸP CỦA THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI VIỆT BẮC

Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với tư
tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với dân
sâu sắc. Vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại một sự
nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị với phong các trữ tình - chính trị sâu sắc đậm đà bản
sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc. Có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong
mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa
quyện thành bức tranh tứ bình.

"Ta về, mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"

Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tahnsg 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quant rung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc về lại thủ đô
Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay từ
biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp
nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với
thiên nhiên núi rừng cao đẹp.

"Ta về, mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người"

Bức tranh tứ bình trong bài Việt Bắc,Tố Hữu, văn mẫu tuyển chọn

Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn
mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta của người cán bộ
kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để
bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở nơi xa xôi , dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với
Việt Bắc. Chữ "ta" và "nhớ" được điệp đi điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ
hướng về "những hoa cùng người" hướng về thiên nhiên , núi rừng và con người Việt Bắc.
"Hoa" là sự kết tinh của hương sắc, còn "người" là kết tinh của đời sống xã hội. Xét cho cùng,
"người ta là hoa của đất". Hoa và người được đặt cạnh nhau càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau,
làm sáng lên cả không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.

Những câu thơ tiếp theo tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và
người hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ bát tả
người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng riêng tạo thành một bức trannh tứ bình ngập tràn
ánh sáng , màu sắc , đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

Mở đầu cho bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa Đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc rằng tại
sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên là Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa
Đông trước. có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào tháng 10 năm 1954, đó là thời
điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông việt bắc tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông
trước.

Nhớ về mùa đông Việt Bắc, tác gủa không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, âm u. Tố Hữu nhớ đến
những ngày màu đông rực rỡ, nắng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc. nó giống
như màu nên flamf nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh "hoa chuối đỏ tươi" - hình
ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như ngọn đuốc, đốm lửa rực rỡ
thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng nơi đây. Cả không
gian như được sưởi ấm. Tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa Đông Việt Bắc. Đằng sau bức
tranh mùa đông ấy, ẩn hiên lên hình ảnh người nông dân lao động leo lên đèo cao để đi làm
nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố
Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng "ánh nắng" là một danh từ mà lại dùng "nắng
ánh" - một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.

Kết thúc mùa đông lạnh giá, Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa Xuân ấm ấp vui hơn

"Ngày xuân mơ nở trắng rừng


Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"

Mùa xuân - hình ảnh bông hoa "mơ nở trắng rừng" là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi Việt
Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng. Màu không phải màu trăngs điểm như trong bài Truyện
Kiều của Nguyễn Du "cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Đó là màu trắng tinh khiết, tinh
khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng
ấy. Nhà thơ nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh "người chuốt từng sợi giang" đã làm nổi
bật đức tính cần cù, tỉ mĩ, khéo léo, tài hoa của những con người nơi đây. Họ đã làm ra những
sợi giang nõn nà để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu
của người dân nơi đây và đó cũng có thể là thứ quà tặng dành cho những người mà họ yêu
thương.

"Ve kêu rừng phách đổ vàng


Nhớ cô em gái hái măng một mình"

Khi âm thanh của tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách đột ngột
đổ vàng. Đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve vang lên thì
những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu vàng. Cả không gian Việt Bắc
như được nhuộm sắc vàng rực rỡ. Thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc
vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô em hái măng . Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, cần cùm siêng
năng , chăm chỉ . Măng là thứ rau để nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng
một mình cho thấy được sự yên tĩnh, thư thái. Câu thơ làm ta liên tưởng đến câu:

"Trám bùi để rụng , măng mai để già"

Nếu như đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, mùa hè là hoa phách vàng.
Vậy còn mùa thu là hoa gì? Mùa thu không có hoa mà mùa thu có người. mà con người là loài
hoa đẹp nhất. "Người ta là hoa của đất".

Khác với nền văn học trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu
chuẩn cho cái đẹp thì nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho cái đẹp. Điều
này được thể hiện rất rõ ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.

"Rừng thu trăng rọi hoà bình


Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"

Nếu câu thơ lục là câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có "tiếng hát ân tình". Cặp đôi
"trăng - nhạc" góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh, lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang trong thời
kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở những câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa
bình, êm ả và ân tình thủy chung

Đoạn thơ dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và người. Kẻ ở người
về thì "ta nhớ mình" "mình nhớ ta". Tình cảm ấy vô cùng tha thiết, thiêng liêng, biết bao ân tình
thủy chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt Bắc vớ con
người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, in đậm trong lòng người.

Tóm lại, với 10 câu thơ , Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh , câu bát tả người, Và sự hài
hòa ấy tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp , đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được
tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắc với những con
người chất phát, hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của Tố Hữu với Việt Bắc . Và ở mỗi
bản thân chúng ta, cần phải biết đến những địa danh của Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự
hào về vẻ đẹp diệu kì của nó. Điều quan trọng hơn hết, chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của
những chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước yên
bình , xinh đẹp như ngày hôm nay.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc qua 14 câu đầu bài Tây Tiến

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất
là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp
với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của
"Xứ Đoài mây trắng" với những tác phẩm nổi tiếng như: "Mây đầu ô", "Thơ văn Quang
Dũng"... Trong đó tiêu biểu là bài thơ "Tây Tiến". Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang
Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân
Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
.............
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được
thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào,
đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí
thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến
đấu rất dũng cảm. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn
vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác
giả đổi tên bài thơ là "Tây Tiến".
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ
nhung và tiếc nuối:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết
ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp vần "ơi" mở ra
một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định
hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc rất chân thực của một người
đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như choán đầy cả không gian "Nhớ về rừng núi, nhớ
chơi vơi". Câu thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ". Điệp từ "nhớ" như tô đậm cảm xúc toàn bài
thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là "Nhớ Tây Tiến". Để
rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi.
Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của
mình, tất cả trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Không phải khi đến với "Tây Tiến" người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở trong
thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than"
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi" là trạng thái
trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài niệm cứ lửng lơ, sâu
lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả
khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc
hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây
Tiến đã đi qua, "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những
địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ
nữa mà gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả đoàn
quân, Quang Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời tuy vậy họ vẫn
đi trong "sương lấp" thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa
khắp không gian. Tác giả không nói "hoa nở" mà "hoa về" không nói sương mà là "đêm hơi"
như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành.
Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên
là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều
sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo
hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo
hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ "Ngàn thước lên cao ngàn
thước xuống" tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong
đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến
trên con đường hành quân.
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến câu thơ tiếp theo
như một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiến bên những ngôi nhà nơi xóm núi như
cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy
thung lũng thành "xa khơi". Đọc câu thơ người đọc thấy bình yên đến kì lạ, phải chăng những
phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng
như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Quang Dũng nhớ đến âm thanh "gầm thét" của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập
như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại
càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn "sơn lâm bóng cả cây già". Những từ ngữ và
hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu
dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây
được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét
vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức
tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua.
Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của nỗi nhớ ấy còn là
những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp bi tráng trên
chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm.
Ấn tượng trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng
đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh
"súng ngửi trời". Nếu viết "súng chạm trời", nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi
đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang
Dũng đã gợi được "chất lính" trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người
lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến
người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành
hình ảnh "súng ngửi trời" tinh nghịch, đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng
định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao gợi cho người đọc đến với
câu thơ của Tố Hữu:
"Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
............
Lá ngụy trang leo với gió đèo"
Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính Tây
Tiến không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả đã không né tránh hiện thực của những mất
mát đau thương trong cuộc chiến. Trong cuộc hành quân gian khổ đã có những người ngã
xuống vì kiệt sức. Vì mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang Dũng đã thể hiện cách nói giảm, nói
tránh về cái chết vừa xót xa, vừa ngạo nghễ "không bước nữa" để rồi "bỏ quên đời" như một sự
bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người
đồng đội đã ngã xuống nhưng không gợi cảm giác bi lụy. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm
thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh "Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Đó là
một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.
Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ, có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân Tây
Tiến đã có dịp dừng lại một bản làng - Mai Châu:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
"Nhớ ôi" là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây
Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính
Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ
quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.
Nhớ mùi thơm "nếp xôi" hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm
thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với
bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng những người lính Tây
Tiến. Như Chế Lan Viên từng viết về tình quân dân ấy trong bài thơ "Tiếng hát con tàu":
"Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
............
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương"
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và
miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi
tráng. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất
nhạc và họa thơ.
Đoạn thơ mở đầu trong bài thơ "Tây Tiến" dù chỉ mới là khúc dạo đầu của một bản tình ca về
nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên
nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Đồng
thời thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của một
tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với
những người đồng đội, đồng chí của mình.

You might also like