Professional Documents
Culture Documents
Niềm tin vào năng lực bản thân và tính cách
Niềm tin vào năng lực bản thân và tính cách
1. Đặt vấn đề
Nhà tâm lý học Albet Bandura là người đầu tiên đề xuất khái niệm niềm
tin vào năng lực bản thân (1977) khi ông cho ràng: “Niềm tin vào năng lực bản
thân là niềm tin của một cá nhân vào khả năng của mình có thế đạt được kết
quả nhất định”. Đến năm 1994, ông đã có những bổ sung về khái niệm này,
theo đó, niềm tin vào năng lực bản thân được định nghĩa là niềm tin của cá
nhân về khả năng của họ đế đạt được mức hiệu quả đã đề ra, nó ảnh hưởng
đến các sự kiện có liên quan đến cuộc sổng của họ. Niềm tin vào năng lực bản
thân xác định cách mọi người cảm thây, suy nghĩ, thúc đây bản thân và hành
Bảng 1: Bảng mô tả các đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu
Bảng 2: Niềm tin vào năng lực bản thân theo đảnh giá của sinh viên
Mệnh đề M SD
1. Tôi luôn luôn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nếu tôi thật sự 3,19 0,59
cố gắng.
2. Nếu ai đó cản bước tôi, tôi vẫn có thể tìm được cách thức để đạt được 3,01 0,61
điều tôi muốn.
3. Tôi dễ dàng theo sát các mục tiêu của mình và hoàn thành chúng. 2,64 0,64
4. Tôi tự tin rằng tôi có thể ứng phó hiệu quả với những điều bất ngờ 2,60 0,70
xảy đến.
5. Nhờ vào sự khéo léo của mình, tôi biết cách để xử lý những tình 2,59 0,67
huống không lường trước được.
6. Tôi có thể giải quyết hầu hết các vấn đề nếu tôi nỗ lực. 3,17 0,62
7. Tôi có thể bình tĩnh khi đối mặt với khó khăn vì tôi tin vào khả năng 2,71 0,71
ứng phó của mình.
8. Khi đối mặt với một vấn đề nào đó, tôi có thể dễ dàng tìm ra một vài 2,71 0,72
giải pháp cho vấn đề đó.
9. Nếu gặp rắc rối, tôi thường có thể nghĩ ra được một vài giải pháp. 2,89 0,66
10. Tôi thường có thể xử lý được bất cứ việc gì xảy ra theo cách của mình. 2,79 0,74
Toàn thang 28,32 3,88
Kết quả của bảng 2 đã chỉ ra ràng, trong tổng số 10 mệnh đề của thang
đo Niềm tin vào năng lực bản thân tổng thế, các mệnh đề “7oz luôn luôn có thể
giải quyết những vấn đề khó khăn nếu tôi thật sự cổ gắng”; “Tôi có thể giải
quyết hầu hết các vấn đề nếu tôi nỗ lực” và “Neu ai đó cản bước tôi, tôi vẫn có
thế tìm được cách thức đế đạt được điều tôi muốn” có điếm trung bình cao lần
lượt là 3,19; 3,17 và 3,01. Như vậy, có thể thấy, dường như niềm tin vào năng
lực bản thân của sinh viên tập trung vào sự nồ lực, cố gắng từ trong chính bản
thân các em và tìm kiếm các giải pháp cho vấn đề cho dù gặp phải những cản
Nhìn vào bảng 3 có thể thấy trong các đặc điểm tính cách của sinh viên,
tỉnh dễ mến là đặc điểm tính cách nổi bật nhất (M = 5,43; SD = 1,07), tiếp đen
là tỉnh nhiễu tâm (M = 4,94; SD = 1,45), tính cởi mở (M = 4,74; SD = 1,26),
tỉnh tận tâm (M = 4,62; SD = 1,17) và cuối cùng là tính hướng ngoại (M = 4,32;
SD= 1,51).
3.3. Mối liên hệ giữa niềm tin vào năng lực bản thân với đặc điểm
tính cách của sinh viên
Bảng 4: Mối quan hệ giữa niềm tin vào năng lực bản thân
và đặc điếm tính cách
Nhìn vào bảng 4 có thể thấy ràng, tất cả các đặc điểm tính cách đều có
mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với niềm tin vào năng lực bản thân, tuy nhiên
mối quan hệ này chỉ ở mức yếu cho đến trung bình. Cụ thể như sau:
Đặc điểm tính cách nhiễu tâm có mối quan hệ nghịch chiều với niềm tin
vào năng lực bản thân (r = -0,262; p < 0,01), nghĩa là những sinh viên có tính
nhiễu tâm càng thấp thì niềm tin vào năng lực bản thân càng cao và ngược lại.
Các đặc điểm tính cách dễ mến, hướng ngoại, tận tâm và cởi mở đều có
mối tương quan thuận với niềm tin vào năng lực bản thân với hệ số tương quan
(r) lần lượt là 0,192; 0,244; 0,371; 0,385 (p < 0,01). Điều này cho thấy, nếu
sinh viên có mức độ điểm dễ mến, hướng ngoại, tận tâm và cởi mở càng cao
thì mức độ niềm tin vào năng lực bản thân của họ càng lớn và ngược lại.
Bảng 5: Mô hình hồi quy dự báo niềm tin vào năng lực bản thân của sinh viên
Hệ số đã
Hệ sổ chưa Kiểm định đa
chuẩn cộng tuyến
Biến số R2 AR2 chuẩn hóa t p
hóa
Tính nhiễu -0,230 0,047 -0,257 -4,844 < 0,001 0,960 1,041
tâm
Tính cởi mở 0,317 0,057 0,310 5,555 < 0,001 0,869 1,151
Tính tận 0,345 0,064 0,314 5,423 < 0,001 0,808 1,237
tâm
Ghi chú: R2: Hệ số xác định; AR2: Hệ số xác định đã hiệu chỉnh; SE (Standard Erros); Sai sổ
chuẩn; Tolerance: Mức độ chấp nhận; VIF (Variance inflation factor): Hệ số phóng đại
phưcmg sai.
5. Kết luận
Nghiên cứu khẳng định mối quan hệ giữa niềm tin vào năng lực bản
thân với các đặc điểm tính cách, bao gồm tính nhiễu tâm, tính hướng ngoại,
tính cởi mở, tính dễ mến và tính tận tâm. Ket quả chỉ ra rằng, tất cả các đặc
điểm tính cách đều có mối quan hệ đáng ke với niềm tin vào năng lực bản thân,
nói cách khác, những cá nhân có tính hướng ngoại, tính tận tâm, tính cởi mở,
tính dễ mến càng cao, tính nhiễu tâm càng thấp thì niềm tin vào năng lực bản
thân của họ càng cao và ngược lại. Đặc biệt, phân tích hồi quy cho thấy, đặc
điểm tính cách dự báo 30,6% sự thay đổi niềm tin vào năng lực bản thân của
sinh viên, trong đó, những cá nhân có tính tận tâm và tính cởi mở càng cao,
tính nhiễu tâm thấp thì niềm tin vào năng lực bản thân càng cao. Những kết
quả này gợi ý việc các cá nhân cần hạn che những cảm xúc tiêu cực khi đứng
trước những vấn đề khó khăn, không sợ hãi trước thất bại, luôn coi đó là một
bài học quý giá, đề ra những mục tiêu cụ thể và vừa tầm, ứng phó họp lý với
những nhiệm vụ và tăng cường các mối quan hệ xã hội nhằm tạo ra những
nguồn hồ trợ cần thiết cho bản thân.
Hạn chế và hướng nghiên cứu trong tương lai: Mặc dù thu được một số
kết quả đáng kể, nhưng nghiên cứu cũng tồn tại một số hạn chế như cỡ mẫu
nhỏ, điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Ngoài ra, các bảng hỏi
theo hình thức tự báo cáo nên sẽ không tránh khỏi những báo cáo mang tính