Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 28

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


BÀI TẬP LỚN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG

CHỦ ĐỀ: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – KẾT QUẢ SÀNG
LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG THỜI
ĐẠI MỚI

1
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 1
ST Họ MSS Nhiệm vụ Kết Chữ
T và tên V quả ký
1.

2.

3.

4.

5.

6.

NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)

2
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU·········································································5
Lý do chọn đề tài······································································5
Nhiệm vụ của đề tài···································································6
PHẦN NỘI DUNG······································································7
Chương 1···············································································7
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ
KỶ XX··························································································7
1.1. Bối cảnh thế giới và những tác động đến Việt Nam·························7
1.2. Bối cảnh trong nước và những yêu cầu nhiệm vụ cần giải quyết··········7
Chương 2··············································································11
QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA
ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM·············································11
2.1 Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX················································································ 11
2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản·······························11
2.2.1. Phong trào vào đầu thế kỷ XX······································11
2.2.2. Phong trào sau chiến tranh thế giới lần thứ Nhất···············12
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản······························13
2.3.1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-
1920)·················································································· 13
2.3.2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam···························15
2.3.3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản·················16
Tiểu kết chương 2····································································17
Chương 3··············································································19
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM···························19
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên·······19
3.1.1. Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng······················19
3.1.2. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên···························19
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên········································································22
3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc
(1930 – 1975)········································································ 22
3.2.2. Giá trị đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay·······25
Tiểu kết chương 3····································································29
PHẦN KẾT LUẬN····································································30

3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO············································32

4
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối
truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch
sử. Do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng nên các phong trào này đã
lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về
đường lối cứu nước. Đến đầu năm 1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
kết thúc thời kì khủng hoảng này.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo quần chúng
nhân dân kiên cường vượt qua những chặng đường đấu tranh với muôn vàn khó khăn,
đầy gian khổ, hy sinh, để thực hiện sứ mệnh lịch sử chưa hề có tiền lệ: Tiến hành đồng
thời cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; qua đó, lập nên những
chiến công oanh liệt, những thắng lợi vẻ vang và đạt được những thành tựu phát triển
to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh những thành
tựu vẫn còn những hạn chế cần tiếp tục khắc phục. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng cũng gặp không ít khó khăn, hay do nóng vội, chủ quan, cũng có những
lúc Đảng phạm sai lầm. Điều quan trọng là mỗi khi phạm phải sai lầm, Đảng không
bảo thủ, bàng quan, trái lại đều kiên quyết sửa chữa, thể hiện tinh thần cầu thị, trách
nhiệm chính trị trước nhân dân, dân tộc.
Lợi dụng những hạn chế, các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá, mục
đích hạ thấp uy tín của Đảng hoặc nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng bằng nhiều
cách khác nhau. Họ thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm đó và quy kết Đảng ta
không đủ năng lực lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong điều kiện
mới của đất nước. Do đó, việc nghiên cứu về sự ra đời của Đảng góp phần khẳng định
sự ra đời và lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt
Nam, phản bác những tư tưởng chống phá của các thế lực thù địch để bảo vệ Đảng,
cũng là góp phần bảo vệ cho sự phát triển của đất nước hiệu quả hơn.
Đó là lý do chúng em chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - kết quả
sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử dân tộc Việt Nam trong thời đại mới” làm bài tập
lớn để kết thúc môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị,
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Hai là, làm rõ những nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước
Việt Nam theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ đầu 1930.

5
Ba là, làm rõ quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn
Ái Quốc (1911-1920) và sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng chính trị và
tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam
Bốn là, làm rõ sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản, sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Năm là, làm rõ giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

6
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO
CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX

1.1. Bối cảnh thế giới và những tác động đến Việt Nam
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu – Mỹ có sự chuyển biến
mạnh mẽ trong đời sống kinh tế – xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển
thành chủ nghĩa đế quốc, đẩy mạnh xâm chiếm và nô dịch các nước ở chây Á,
châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Trước bối cảnh đó, các dân tộc bị áp bức đã
đứng lên đấu tranh khỏi ách thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào giải phóng
dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á. Cùng với phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa,
phong trào giải phóng dân tộc trở thành bộ phận quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản, thực dân. Các phong trào diễn ra đầu thế kỷ XX
đã tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Trong bối cảnh thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), sự ra
đời của Quốc tế Cộng sản (1919), Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920)
thông qua Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa do V. I. Lenin khởi xướng mang lại ý nghĩa to lớn không chỉ đối với
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nước tư bản, mà còn có tác động sâu
sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Thúc đẩy đấu tranh theo
khuynh hướng vô sản, thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa,
trong đó có Việt Nam và Đông Dương.
bbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbb
bbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbb
1.2. Bối cảnh trong nước và những yêu cầu nhiệm vụ cần giải
quyết
Ngày 01/09/1958, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, sau từng
bước thỏa hiệp của triều đình nhà Nguyễn (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến
ngày 06/06/1884 với Hiệp ước Patonot, Pháp đã hoàn toàn chinh phục nước ta,
Việt Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị
giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”1.
Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội
phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến
còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều

1
Hồ Chí Minh (???): Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.12, tr. 401.

7
chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Mưu đồ của thực dân Pháp là
muốn biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu
thụ hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức
lao động rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.
Chế độ cai trị của thực dân Pháp được coi là “chế độ độc tài chuyên chế nhất,
nó vô cùng khả ố và khùng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân
chủ châu Á đời xưa”1.
Về văn hóa – xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để
dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, du nhập những giá trị phản văn hóa,
duy trì các tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến, tạo nên nhiều tệ nạn xã
hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ Việt Nam, tuyên
truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của “đại Pháp”.
Chế độ áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa của
thực dân Pháp đã làm biến đổi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam.
Các giai cấp cũ phân hóa, giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với địa vị kinh tế
khác nhau và do đó cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của
dân tộc.
Khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, giai cấp địa chủ bị phân
hóa. Một bộ phận địa chủ câu kết và làm tay sai cho Pháp trong việc ra sức đàn
áp phong trào yêu nước và bóc lột nông dân; một bộ phận khác nêu cao tinh
thần dân tộc, khởi xướng và lãnh đạo phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ
phong kiến; một số trở thành lãnh đạo phong trào nông dân chống thực dân
Pháp và phong kiến phản động; một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo
lối tư bản.
Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất ( khoảng hơn 90% dân
số), bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Đây là lực lượng hùng
hậu, có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất cho nền độc lập tự do của dân
tộc và khao khát giành lại ruộng đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong
lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân,
phong kiến.
Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành gắn liền với cuộc khai thác
thuộc địa, với việc thực dân Pháp lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu
đồn điền,... Ra đời trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, ngoài
những đặc điểm của công nhân quốc tế thì công nhân Việt Nam còn có những
đặc điểm riêng. Giai cấp này sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời
đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có
năng lực lãnh đạo cách mạng.

1
Phan Văn Trường: Bài đăng trên tờ La Cloche Fêlée, số 36, ngày 21/1/1926.

8
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Bao
gồm tư sản mại bản – có lợi ích gắn liền với tư bản Pháp, tham gia vào đời
sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực dân Pháp, tư sản dân tộc – bị thực
dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế. Phần lớn tư sản dân
tộc Việt Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước nhưng không có khả năng tập hợp
các giai tầng để tiến hành cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc, tư
bản chèn ép, khinh miệt, họ có tinh thần dân tộc, yêu nước, rất nhạy cảm về
chính trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, hay dao động,
thiếu kiên định, do đó tầng lớp tiểu tư sản không thể lãnh đạo cách mạng.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân
phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp
bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân
dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu
thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó
là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang
đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành
quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó,
chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Song thực tiễn cũng
đặt ra yêu cầu chống đế quốc, giải phóng cho dân tộc xong, phải xóa bỏ chế độ
phong kiến, lựa chọn con đường phát triển mới cho dân tộc Việt Nam. Đây là
sứ mệnh lịch sử đặt ra cho tất cả các giai cấp trong xã hội Việt Nam.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Khoảng nửa sau thế kỷ XIX, thế giới có những chuyển biến mạnh mẽ về
đời sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản dần chuyển thành chủ nghĩa đế
quốc, cùng với đó là các cuộc xâm chiếm và nô dịch đối với các nước châu Phi,
châu Á và Mỹ Latinh đã làm xuất hiện mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản, giữa các dân tộc bị áp bức và thực dân. Các phong trào đấu
tranh đã liên tục nổ ra.
Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga, sự ra đời của Quốc tế
Cộng sản và công bố của bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” đã ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tĩnh phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam và Đông
Dương.
Tại Việt Nam, dưới sự cai trị và áp bức của thực dân Pháp, các chính
sách nô dịch văn hóa, chính sách “chia để trị”, các cuộc khai thác thuộc địa đã

9
làm cho nhân dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô
cùng khổ cực. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam
đã thay đổi. Việt Nam từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến. Sự phân hóa thành các giai, tầng mới với địa vị kinh tế khác nhau
và thái độ chính trị đối với vận mệnh dân tộc cũng khác nhau. Sự phân hóa
hình thành trong xã hội Việt Nam hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản thứ
nhất đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp. Mâu thuẫn cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa
số là nông dân với địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn
nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai
yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng độc lập dân tộc là yêu cầu cơ bản,
chủ yếu nhất vì phản ánh nguyện vọng bức thiết của cả dân tộc Việt Nam ở đầu
thế kỷ XX.

10
Chương 2
QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA
ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

2.1 Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến từ cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX
Trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã chứng
kiến sự xuất hiện của nhiều phong trào yêu nước, được tác động bởi các ý tưởng và
triết lý phương Tây, nhưng vẫn giữ lại một số đặc trưng của hệ tư tưởng phong kiến.
1. Phong trào cải cách và hiện đại hóa: Các nhà lãnh đạo như Phan Bội Châu
và Phan Chu Trinh đã khuyến khích cải cách và hiện đại hóa xã hội Việt Nam theo lối
mở cửa và học hỏi từ phương Tây. Họ đề xuất những ý tưởng về dân chủ, công bằng
xã hội và giáo dục phổ cập để nâng cao tình hình của dân tộc.
2. Phong trào dân tộc yêu nước: Các nhà lãnh đạo và nhà tri thức trong giai
đoạn này đã nhấn mạnh ý thức dân tộc và tình yêu nước, sự tự hào về văn hóa và
truyền thống dân tộc. Họ đã khuyến khích tinh thần đoàn kết và kháng chiến chống lại
sự chiếm đóng của các nước phương Tây, đặc biệt là Pháp.
3. Phong trào giáo dục và văn hóa: Các nhà lãnh đạo và nhà tri thức đã nhận
thức được tầm quan trọng của giáo dục và văn hóa trong việc giữ gìn và phát triển bản
sắc dân tộc. Họ đã tạo ra các trường học mới, báo chí và văn học để truyền bá các ý
tưởng dân tộc và tình yêu nước.
Mặc dù ảnh hưởng của các ý tưởng phương Tây rất rõ ràng trong các phong
trào này, nhưng các nhà lãnh đạo và nhà tri thức vẫn giữ lại một số giá trị và tư tưởng
phong kiến, như tôn trọng truyền thống và văn hóa dân tộc, dù đôi khi chúng bị pha
trộn hoặc thích ứng với bối cảnh lịch sử mới.
SSSSSSSSSSS
2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
2.2.1. Phong trào vào đầu thế kỷ XX
Phong trào yêu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, đặc biệt là trong
những năm đầu của thế kỷ, chủ yếu là phản ứng chống lại sự áp đặt và xâm lược
của các thực dân Pháp, và không phải là theo hệ tư tưởng phong kiến mà là theo
hướng tư sản và dân tộc.
1. Dòng chính tư sản đấu tranh chống Pháp: Các nhà lãnh đạo như Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học đã dẫn dắt các phong trào đấu tranh
độc lập dân tộc. Họ lên án sự thực dân của Pháp và vận động nhân dân chống lại
chúng. Trong thời kỳ này, ý thức dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ, và các phong
trào đấu tranh độc lập dân tộc bắt đầu hình thành.

11
2. Sự ra đời của các tổ chức cách mạng: Các tổ chức như Việt Nam
Quang Phục Hội, Đông Du Học, Đại Nam Nhất Thống Duy Tân Hội đã được
thành lập để thúc đẩy sự phát triển văn hóa, giáo dục và chính trị, nhằm mục tiêu
giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của Pháp.
3. Nhấn mạnh vào giáo dục và cách mạng tư sản: Các nhà lãnh đạo trong
phong trào yêu nước tư sản như Phan Chu Trinh thúc đẩy việc cải cách giáo dục,
đặc biệt là với mục tiêu nâng cao tri thức và ý thức dân tộc. Họ cũng khuyến khích
việc học hỏi từ phương Tây để nâng cao trình độ dân trí và chuẩn bị cho cuộc cách
mạng dân tộc.
4. Khích lệ văn hóa và sáng tác: Phong trào yêu nước tư sản cũng khích lệ
sự phát triển của văn hóa dân tộc, thông qua việc sáng tác văn học, nhạc phẩm, và
tác phẩm nghệ thuật khác nhằm tôn vinh tinh thần yêu nước và ý chí độc lập.
Tóm lại, phong trào yêu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX chủ yếu theo
hướng tư sản và dân tộc, với mục tiêu chống lại sự thực dân của Pháp và thúc đẩy
sự phát triển văn hóa, giáo dục và chính trị cho dân tộc.
SSSSSSSSSSSSSSSSSSSSSSS
2.2.2. Phong trào sau chiến tranh thế giới lần thứ Nhất
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, phong trào yêu nước ở Việt Nam tiếp tục
phát triển theo hướng tư tưởng tư sản, nhưng cũng có sự phức tạp và đa dạng trong
các ý kiến và phong cách cách mạng. Dưới đây là một số điểm chính:
1. Sự ảnh hưởng của Cách mạng Nga: Sự kiện Cách mạng Nga năm 1917 đã
tạo ra một làn sóng cách mạng và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở nhiều quốc gia, bao
gồm Việt Nam. Cảm hứng từ Cách mạng Nga đã thúc đẩy một số phong trào xã hội
chủ nghĩa và cách mạng ở Việt Nam, nhưng không phải là trào lưu chính.
2. Tư tưởng dân tộc tự chủ và độc lập: Cảm hứng từ các lý tưởng dân tộc tự
chủ và độc lập tiếp tục là động lực mạnh mẽ cho phong trào yêu nước. Các nhà lãnh
đạo như Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh vẫn tiếp tục tuyên truyền ý thức dân tộc và
tư tưởng tự do, mặc dù một số đã chú trọng vào các phương pháp và lý tưởng khác
nhau.
3. Tư tưởng cải cách xã hội và chính trị: Một số nhà lãnh đạo và nhà tư
tưởng tại Việt Nam đã tập trung vào việc cải cách xã hội và chính trị, nhằm xây dựng
một xã hội công bằng và phát triển. Các ý kiến phổ biến bao gồm cải cách hệ thống
giáo dục, phát triển nền kinh tế độc lập và công bằng, và cải thiện điều kiện sống của
người lao động.
4. Sự hình thành các tổ chức cách mạng và đảng phái: Trong giai đoạn này,
các tổ chức cách mạng và đảng phái bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, với mục tiêu là cải
thiện điều kiện cho dân chúng và đấu tranh chống lại sự thực dân và bất công. Các tổ

12
chức như Đảng Cộng sản Đông Dương và Đảng Dân Chủ Xã Hội đã được hình thành
và hoạt động trong thời kỳ này.
Tóm lại, phong trào yêu nước ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
vẫn tiếp tục theo hướng tư tưởng tư sản, nhưng cũng phản ánh sự đa dạng và phức tạp
của tư tưởng cách mạng và chính trị trong thời điểm lịch sử đó.
SSSSSSSSSSSSSSSSSSSSSSSSS
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản
2.3.1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-
1920)
Trước năm 1911, Việt Nam đang trong giai đoạn phong kiến chịu sự áp đặt
của thực dân Pháp. Sự giảm sút của chính quyền truyền thống và áp lực từ các
chính sách thuế và quản lý từ Pháp có thể đã làm cho nhiều người trong dân chúng
cảm thấy không an toàn hoặc không hài lòng về tình hình đất nước, thúc đẩy họ
tìm kiếm cơ hội mới ở nước ngoài.
Mục tiêu học vấn và nghiên cứu: NAQ có thể đã muốn tìm kiếm cơ hội học vấn
và nghiên cứu mới ngoài biên giới của Việt Nam. Phương Tây là trung tâm của nền
văn hóa và giáo dục phát triển trong thời đó, vì vậy, việc đi đến đó có thể mang lại
cơ hội học tập và phát triển nghiên cứu mà NAQ không thể có được ở Việt Nam.
Sự kỳ vọng vào cải thiện cuộc sống: Phương Tây được xem là nơi có nền
kinh tế và công nghiệp phát triển, cũng như nơi có cơ hội nghề nghiệp tốt hơn.
NAQ có thể đã hy vọng rằng việc chuyển đến phương Tây sẽ mang lại cho anh ta
và gia đình mình một cuộc sống tốt hơn từ mặt kinh tế và xã hội.
Sự tìm kiếm tự do cá nhân và chính trị: Trong bối cảnh phong kiến và thực
dân, việc tìm kiếm tự do cá nhân và chính trị có thể đã là một yếu tố quan trọng khi
NAQ quyết định rời bỏ quê hương. Phương Tây thường được xem là nơi có tự do
cá nhân và dân chủ lớn hơn so với các quốc gia chịu áp lực từ thực dân.
Cơ hội gặp gỡ và tương tác với các nhà hoạt động xã hội và chính trị: NAQ
có thể đã muốn tìm kiếm cơ hội gặp gỡ và làm việc cùng với các nhà hoạt động xã
hội và chính trị ở phương Tây, để học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm về việc thúc đẩy
những giá trị và mục tiêu anh ta tin tưởng.
Tóm lại, quyết định của NAQ rời Việt Nam để đi phương Tây trước năm
1911 có thể được ảnh hưởng bởi một sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm bối
cảnh lịch sử, mục tiêu học vấn và nghiên cứu, sự kỳ vọng vào cải thiện cuộc sống,
tìm kiếm tự do cá nhân và chính trị, và cơ hội gặp gỡ với các nhà hoạt động xã hội
và chính trị.
Quá trình từng bước lựa chọn con đường cách mạng vô sản (từ năm
1911 đến năm 1920)

13
Khởi đầu từ giai cấp trí thức và nhà cách mạng: Trong những năm đầu của
thế kỷ 20, các nhà hoạt động cách mạng ở nhiều quốc gia trên thế giới đã bắt đầu
khám phá và chấp nhận lý thuyết Marx và Lenin. Đặc biệt, các nhà cách mạng tại
Nga (như Lenin), Đức (như Rosa Luxemburg), và các nước khác đã đóng góp vào
việc phát triển ý tưởng và phong trào vô sản.
Sự phát triển của các phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa: Trong giai
đoạn này, các phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa đã trở nên mạnh mẽ và tổ
chức hơn. Công nhân và các tầng lớp lao động bắt đầu tổ chức những cuộc biểu
tình, đình công và các hoạt động đòi hỏi quyền lợi công bằng và cải thiện điều kiện
sống. Các lãnh tụ cách mạng vô sản đã tham gia hỗ trợ và chỉ đạo các hoạt động
này, tăng cường sự hình thành và phát triển của phong trào.
Sự phản kháng chống lại chế độ tư bản và thực dân: Trong nhiều quốc gia,
sự khủng hoảng kinh tế và xã hội đã gây ra sự bất mãn và phản kháng từ phía công
nhân và nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các phong trào cách
mạng vô sản. Sự bất mãn này cũng thúc đẩy sự phản kháng chống lại chế độ tư bản
và thực dân, góp phần vào quá trình hình thành và phát triển của phong trào.
Tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng: Trong thời kỳ này, các nhóm
cách mạng đã bắt đầu tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng vô sản. Các tổ
chức như Cộng sản, Tổng công ty Chủ nghĩa xã hội, và các tổ chức cách mạng
khác đã được hình thành và phát triển, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang
nhằm mục tiêu lật đổ chế độ tư bản và xây dựng xã hội vô sản.
Tăng cường hợp tác quốc tế: Trong giai đoạn này, các nhà lãnh đạo cách
mạng vô sản đã tăng cường hợp tác và trao đổi ý kiến với nhau, tạo điều kiện cho
việc phát triển và lan rộng phong trào vô sản trên toàn cầu. Các hội nghị quốc tế
như Hội nghị Thượng Hải, Hội nghị Zimmerwald và Hội nghị Thanh niên vô sản
đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự hợp tác và hỗ trợ giữa các phong
trào cách mạng vô sản.
Tóm lại, trong giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920, quá trình lựa chọn con
đường cách mạng vô sản đã trải qua nhiều bước quan trọng, bao gồm sự phát triển
của các phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa, sự phản kháng chống lại chế độ
tư bản và thực dân, xây dựng lực lượng cách mạng và tăng cường hợp tác quốc tế.
SSSSSSSSSSSSSSSSSSSSS
2.3.2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức
cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản: Chủ nghĩa Mác-Lênin là một
hệ thống tư tưởng-chính trị xã hội chủ nghĩa, đề xuất bởi Karl Marx và Friedrich
Engels, sau đó được Vladimir Lenin và các lãnh tụ cách mạng khác phát triển và
ứng dụng vào thực tiễn. Chủ nghĩa này xác định rằng lịch sử xã hội tiến triển qua

14
các giai đoạn khác nhau, từ chế độ nô lệ, chế độ phong kiến đến chế độ tư bản, và
cuối cùng sẽ là xã hội vô sản.
Sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo
lý luận Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, trong đó cần phải giải
phóng dân tộc từ ách đô hộ và thực dân. Điều này đã dẫn đến sự phát triển của
CMGPDT, trong đó ông đã tạo ra một hệ thống lý luận cách mạng đặc biệt cho
Việt Nam, bao gồm các nội dung sau:
a. Phân tích tình hình xã hội và kinh tế của Việt Nam: Hồ Chí Minh phân
tích cẩn thận tình hình kinh tế và xã hội của Việt Nam, nhấn mạnh sự áp đặt của
chế độ thực dân Pháp và những tác động tiêu cực của chế độ phong kiến lên dân
tộc và kinh tế Việt Nam.
b. Xác định vị thế của giai cấp công nhân và tư sản: Ông nhấn mạnh vai trò
của giai cấp công nhân là lực lượng chủ đạo trong cuộc cách mạng và tư sản là lực
lượng lạc quan về việc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa.
c. Xây dựng chiến lược và phương pháp cách mạng: Hồ Chí Minh phát triển
chiến lược và phương pháp cách mạng dựa trên nguyên lý Mác-Lênin, nhấn mạnh
vào sự tự lực, tự do, và đoàn kết của dân tộc, kết hợp với sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
d. Tạo ra lối đi độc lập và phát triển dân tộc: CMGPDT của Hồ Chí Minh
đặt mục tiêu giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội vô sản, tạo ra một hệ thống tư
tưởng-chính trị độc lập và phát triển cho Việt Nam, mang tính chất cách mạng và
tiến bộ.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam và xây dựng một hệ thống lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc đặc biệt, góp phần quan trọng vào sự phát triển của phong trào giải phóng
dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự chuẩn bị về tổ chức
Sự hình thành của HVNCMTN: HVCM-TN ra đời vào năm 1925 và trở thành
một tổ chức quan trọng trong việc tổ chức và hướng dẫn công nhân tham gia vào các
hoạt động cách mạng.
Lan rộng ý thức cách mạng: HVCM-TN đã giúp lan rộng ý thức cáclãnh đạo
chính của HVCM-TN, đã có ảnh hưởng lớn đến phong trào công nhân thông qua việc
tổ chức và lãnh đạo các hoạt động cách mạng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh đã đưa vào phong trào công nhân giúp nó phát
triển mạnh mẽ hơn, từ một phong trào công nhân đòi hỏi quyền lợi cụ thể đến một
phong trào công nhân với mục tiêu chính trị cụ thể và nhận thức sâu sắc về mục tiêu
giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội vô sản. Giá trị của tư tưởng cách mạng của Hồ

15
Chí Minh đã khẳng định rõ ràng trong sự phát triển và hình thành của CMVN trong
giai đoạn này.

SSSSSSSSSSSSSSSSSS
2.3.3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản
Giai đoạn trước khi có sự tác động của Hồ Chí Minh (trước Chiến tranh thế
giới lần thứ Nhất đến năm 1925):
Khởi đầu của phong trào công nhân: Công nhân Việt Nam bắt đầu tổ chức và
tham gia vào các hoạt động cách mạng từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, trong bối
cảnh chống lại chế độ thực dân Pháp.
Hình thành các tổ chức công nhân: Các tổ chức công nhân đã được hình thành
ở các khu vực công nghiệp và các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn.
Những tổ chức này thường tập trung vào các vấn đề lao động và quyền lợi của công
nhân.
Các cuộc biểu tình và đình công: Công nhân thường tổ chức các cuộc biểu tình
và đình công để đòi hỏi quyền lợi của họ, như các vụ biểu tình phản đối việc tăng thuế
và các cuộc đình công đòi tăng lương.
Giai đoạn từ năm 1926 đến cuối năm 1929, khi có sự hoạt động của Hội Việt
Nam cách mạng Thanh niên (HVNCMTN)

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


Bbbb
Nnn
nnnn

2.Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản: Phản ứng chống lại áp đặt và
xâm lược của thực dân Pháp. Sự ra đời của các tổ chức cách mạng như Việt Nam
Quang Phục Hội, Đông Du Học, Đại Nam Nhất Thống Duy Tân Hội. Nhấn mạnh vào
giáo dục và cách mạng tư sản.
3.Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản: Sự chọn lựa con đường cách
mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Quá trình từng bước lựa chọn con
đường cách mạng vô sản từ năm 1911 đến năm 1920. Sự chuẩn bị về tư tưởng-chính
trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Sự phát triển của phong
trào cách mạng vô sản trước và sau sự tác động của Hồ Chí Minh.

16
Chương 3
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
3.1.1. Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm và đã “hai lần cố gắng
về An Nam, nhưng phải quay trở lại” vì “mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn
mật”. Người đang cố gằng đi lần thứ ba, thì một đồng chí từ Hồng Công tới Xiêm và
tin cho Người biết tình hình Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị tan rã, những
người cộng sản chia thành nhiều phái. Người quyết định rời Xiêm về Trung Quốc và
tới nơi ngày 23-12-1929. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có quyền
quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương Người
triệu tập đại biểu của hai nhóm Đông Dương cộng sản đảng và An nam cộng sản đảng
họp Hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp
ngày 6-1-1930. Ngày 8-2-1930 các đại biểu về nước.
Ngoài Nguyễn Ái Quốc là đại biểu Quốc tế Cộng sản, Dự Hội nghị có hai đại biểu
của Đông Dương Cộng sản đảng và hai đại biểu của An Nam Cộng sản đảng.
“Sau khi nghe Nguyễn Ái Quốc nói về lý do họp Hội nghị, phân tích những sai
lầm của sự chia rẽ và nhiệm vụ phải thành lập Đảng Cộng sản, các đại biểu đều đồng
ý thống nhất vào một đảng. Số đảng viên của Đảng khi mới thống nhất hai tổ chức
cộng sản có đại biểu dự Hội nghị là 310 người”1.
Với quan niệm Đông Dương có ba quốc gia dân tộc, phải thành lập đảng cách
mạng trong từng quốc gia dân tộc, theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị “đặt
tên đảng mới là Đảng Cộng sản Việt Nam” 2. Việc làm ấy về sau bị đánh giá là được
thực hiện “bằng một con đường khác mà Quốc tế Cộng sản không lường trước”3.
Bbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbb
bbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbb
3.1.2. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và
Sách lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn
đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Hai văn kiện trên là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt
Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân,
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.

17
nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam "chủ trương làm tư sản dân quyền c.m và
thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản” 1. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa
nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách
mạng Việt Nam được xác định là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” 2. Cương lĩnh đã xác định: Chống
đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và
ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt
ở vị trí hàng đầu.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: "a) Dân chúng được tự do tổ
chức; b) Nam nữ bình quyền, v.v.; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá” 3. Về
phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết
sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ
nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của
đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ...
Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội và phương diện
kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội cần được giải quyết ở
Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách
thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công nhân và nông
dân.
Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân - đây là lực
lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết
tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và
tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình... phải thu
phục cho được đại bộ phận dân cày,... hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập”4. Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn
dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu
nước và các tổ chức yêu nước, cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các
giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4.

18
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng, trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng không được thỏa hiệp, “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì
của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp" 1. Có sách lược đấu tranh cách mạng
thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, nhưng
kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải
đánh đổ”2.

Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ: trong khi thực hiện
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh
nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng
tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới”3. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ
nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng”4. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một
số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”5.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận
điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam; thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến
Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và
chủ yếu của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ
các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác
định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác
định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để
thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử, cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất
các tổ chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy
tín chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu
tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong
Hội nghị hợp nhất dù “vắt tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4, 6.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4, 6.

19
và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử
mới.
Tóm lại: mmmmmmmmmmmm

3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và
Cương lĩnh chính trị đầu tiên
3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930 –
1975)
Giá trị thực tiễn của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Vào năm 1930, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và ra đời của
Cương lĩnh chính trị là một bước ngoặt mở ra một trang mới của lịch sử cách mạng
Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường
lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam giai đoạn trước.
Trong công cuộc đấu tranh giành chính quyển từ năm 1930-1945, sau khi ra đời
Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao
trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Cao trào cách mạng đầu tiên vào năm 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong
trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh đã làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay
sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn
cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một
số nơi theo hình thức Xô Viết. Qua đó, đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra
là để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công - nông, về xây dựng Mặt
trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo
vệ chính quyền, rèn luyện lực lượng vào tạo điều kiện cho cuộc cách mạng tháng Tám
sau này. Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939), bằng sức mạnh đoàn
kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải
nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính
trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được
nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh
nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...Cao trào cách
mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của
Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá
tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng
lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc
Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước. Ngày
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên

20
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 - 1954). Những năm 1945 - 1946, Đảng
ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính
quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây
dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ
mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức
kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi
viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền
và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa
cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những
điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên
phạm vi cả nước. Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực
dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với
quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không
chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp
giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ
chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc (1954 - 1975), sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, còn ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, biến miền
Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Khi đó, Đảng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đảng
đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, chủ trương đánh lâu dài; kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và
nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết
hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
và sức mạnh thời đại. Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã
hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

21
Cuối cùng kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Giá trị thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Khi ra đời vào năm 1930, Cương lĩnh đã thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội nửa thuộc địa nửa phong
kiến Việt Nam, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc
đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Văn kiện đã xác định phương hướng Cách mạng của dân tộc Việt
Nam, là đánh đổ đế quốc xâm lược và phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn
độc lập. Từ đó, văn kiện trở thành lý luận soi đường cho phương hướng đấu tranh cho
dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ về sau.
Cách mạng tháng 8/1945 thắng lợi đã thể hiện rõ ràng giá trị thực tiễn của
Cương lĩnh chính trị đầu tiên trong việc xác định lực lượng giải phóng dân tộc là toàn
dân tộc, mọi giai cấp, tầng lớp đều có vai trò của mình trong cuộc kháng chiến, chỉ khi
toàn bộ dân tộc đồng lòng vì một mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, khi đó Việt
Nam mới có thể giành chiến thắng. Tiêu biểu như trong chiến dịch Điện Biên Phủ
1954, giai cấp công nhân mới có đủ khả năng thuyết phục, tập hợp các giai tầng khác
để cùng nhau đấu tranh giành thắng lợi. Sự lãnh đạo của một Đảng thống nhất đã đề ra
những nhiệm vụ rõ ràng cho hai miền Nam-Bắc trong công cuộc kháng chiến chống
Mỹ giai đoạn 1954-1975, qua đó tạo tiền đề cho chiến thắng đế quốc Mỹ giành độc
lập, tự do hoàn toàn cho dân tộc 1975. Chính vì vậy, con đường cách mạng vô sản mà
Cương lĩnh đã khẳng định là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam từ năm 1930.
3.2.2. Giá trị đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay
Tình hình nước Việt Nam hiện nay
Việt Nam đang trải qua một giai đoạn phát triển đa chiều với nhiều tiến bộ
đáng kể trong các khía cạnh khác nhau. Về mặt kinh tế, Việt Nam tiếp tục duy trì tốc
độ tăng trưởng ấn tượng, với sự đa dạng hóa cấu trúc kinh tế và sự tăng cường hiệu
quả sản xuất. Chính phủ tập trung vào việc thúc đẩy các chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài và phát triển các ngành công nghiệp hiện đại.
Mặc dù còn một số thách thức, như tác động của đại dịch và biến đổi khí hậu, nhưng
Việt Nam vẫn duy trì sự ổn định và phát triển bền vững. Trong lĩnh vực chính trị, Việt
Nam đang tiếp tục thực hiện các biện pháp cải cách nhằm tăng cường tính minh bạch,
trách nhiệm và công bằng trong quản lý nhà nước. Quyền lợi và nhu cầu của công dân
được đặt lên hàng đầu, và chính phủ liên tục thúc đẩy sự tham gia của công dân trong
quyết định quan trọng của đất nước. Đối với các giá trị độc lập và tự do, Việt Nam
đang khẳng định cam kết vững chắc của mình. Từ quyền tự do cá nhân đến quyền tự
do kinh doanh và ngôn luận, chính phủ đang tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự
phát triển tự nhiên và bền vững của các giá trị này. Trong khi đó, dân chủ đang được

22
thúc đẩy thông qua việc tăng cường tranh luận công cộng, tự do bày tỏ ý kiến, và sự
tham gia của công dân trong các quyết định quan trọng của đất nước. Việt Nam không
ngừng tìm kiếm các biện pháp để nâng cao mức độ minh bạch và trách nhiệm trong
quản lý nhà nước, đồng thời khuyến khích sự đa dạng ý kiến và thảo luận xây dựng.
Sự ra đời và lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã có ảnh hưởng
sâu rộng và không thể phủ nhận đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam
hiện nay. Từ khi thành lập vào ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng đã không ngừng phấn
đấu và lãnh đạo dân tộc Việt Nam qua những giai đoạn lịch sử khác nhau, từ cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đến chiến tranh giải phóng dân tộc và quá trình xây
dựng đất nước sau chiến tranh.
Một trong những giá trị quan trọng nhất mà Đảng Cộng sản Việt Nam mang lại
cho Việt Nam là sự đoàn kết quốc dân. Để chiến thắng các thế lực thực dân, Đảng đã
thể hiện khả năng tập hợp, thống nhất ý chí của toàn dân, tạo nên một lực lượng vững
mạnh để chiến đấu cho độc lập và tự do. Sự đoàn kết này không chỉ giúp Việt Nam
vượt qua các thách thức trong quá khứ mà còn là nền tảng cho sự phát triển hiện tại và
tương lai. Ngày nay, sự đoàn kết vẫn là một trong những nguồn lực quan trọng giúp
đất nước vượt qua những thách thức đa dạng, từ kinh tế đến an ninh.
Ngoài ra, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã đưa ra các chiến lược phát triển
kinh tế và xã hội mang tính chiến lược. Từ chính sách công nghiệp hóa, nông nghiệp
hiện đại hóa đến đầu tư vào giáo dục và y tế, Đảng đã thúc đẩy một cuộc cách mạng
kinh tế giúp Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất
khu vực. Sự lãnh đạo của Đảng đã hướng dẫn quá trình chuyển đổi kinh tế từ nền kinh
tế nông nghiệp dựa vào lao động nông thôn sang một nền kinh tế công nghiệp hóa và
dịch vụ.
Trong việc bảo vệ đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn đặt lợi ích quốc
gia lên hàng đầu. Từ việc tham gia các tổ chức quốc tế đến việc thúc đẩy hòa bình và
ổn định trong khu vực, Đảng đã chơi một vai trò tích cực trong việc giữ gìn an ninh
quốc gia và quyền chủ quyền của Việt Nam. Không chỉ trong mặt biển đảo mà còn
trong việc đối phó với những thách thức an ninh mới, như khủng bố, tội phạm tổ chức,
và thảm họa thiên tai, Đảng đã luôn nắm bắt và đối phó một cách linh hoạt và hiệu
quả. Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn đặt bình đẳng lên hàng đầu
trong chính sách và pháp luật. Qua việc thực hiện các chính sách xã hội, như chính
sách giáo dục, y tế, lao động và phát triển kinh tế công bằng, Đảng đã tạo ra một môi
trường bình đẳng cho tất cả các tầng lớp trong xã hội. Việc đảm bảo mỗi công dân có
cơ hội tiếp cận với giáo dục, y tế và công việc lành mạnh là biểu hiện rõ nét của sự
bình đẳng mà Đảng hướng tới.

23
Một giá trị khác mà Đảng Cộng sản Việt Nam mang lại cho đất nước là sự phát
triển bền vững. Không chỉ tập trung vào mục tiêu ngắn hạn, Đảng đã đề ra những
chiến lược và kế hoạch phát triển dài hạn, giúp đất nước tiến bộ một cách ổn định và
bền vững. Sự quan tâm đến môi trường, sử dụng tài nguyên một cách bền vững, và
phát triển công bằng là những nguyên tắc mà Đảng luôn theo đuổi trong quá trình phát
triển đất nước.
Cuối cùng, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là một tổ chức chính trị mà còn
là người đồng hành và người lãnh đạo của nhân dân Việt Nam. Trong mọi giai đoạn
lịch sử, Đảng đã luôn đứng với nhân dân, lắng nghe và thấu hiểu ý nguyện của họ, và
hướng dẫn họ vượt qua những khó khăn và thách thức. Sự ra đời và lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang tiếp tục tạo ra những giá trị vô cùng quý báu,
giúp xây dựng và bảo vệ một Việt Nam mạnh mẽ, phồn thịnh và bền vững. Đây không
chỉ là sự thành công của một tổ chức mà còn là niềm tự hào của toàn dân Việt Nam.
Giá trị của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được chứng minh qua lịch sử
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của
dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và chính là ngọn đuốc soi sáng nhân dân ta trong công
cuộc đổi mới ngày cáng phát triển với khẩu hiệu độc lập, tự do, hạnh phúc.
Men theo dòng lịch sử, dân tộc Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi to
lớn, góp phần làm thay đổi vận mệnh đất nước, thay đổi cả số phận của người dân và
từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Khi xem xét và đưa ra quan điểm về con đường cách mạng Việt Nam đối
với việc thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng hơn 80 năm, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã nhận định: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được
những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách
thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đưa dân
tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống
xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa
Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn
nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.”1
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đưa ra được đường lối chiến lược
thắng lợi cho dân tộc, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr23.

24
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước
ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu
vực và trên thế giới.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã có
một giá trị thực tiễn đặc biệt quan trọng đối với lịch sử và phát triển của Việt Nam.
Trong giai đoạn đầu, Đảng đã xuất phát từ nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
Pháp, xây dựng lực lượng đồng lòng và chiến lược thống nhất. Cương lĩnh chính trị
đầu tiên đã xác định mục tiêu của cách mạng, gồm giải phóng dân tộc và xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, và nó đã đảm bảo rằng con đường giải phóng và phát triển
của cách mạng luôn hướng tới độc lập quốc gia và phát triển của nhân dân Việt Nam.
Những giá trị và tư tưởng từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên vẫn còn giữ giá trị và
phù hợp trong bối cảnh thế giới biến đổi và thách thức quốc tế ngày nay. Đảng Cộng
sản Việt Nam đã không chỉ thể hiện sự đoàn kết và phối hợp trong quá khứ, mà còn
trong hiện tại, đặc biệt trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh, và hội nhập
kinh tế toàn cầu. Tư tưởng về độc lập, tự do, và sự phát triển của đất nước vẫn là mục
tiêu tối cao và là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã tạo cơ sở cho sự đoàn kết toàn dân tộc và tạo
ra sức mạnh tổng hợp, giúp Việt Nam vượt qua nhiều thách thức và bảo vệ chủ quyền
và lãnh thổ của nước. Trong tương lai, việc duy trì và củng cố sự đoàn kết này vẫn là
một yêu cầu quan trọng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, và chủ quyền
biển đảo.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn đứng vững trong việc đánh giá và khắc phục
sai lầm, dẫn dắt nhân dân trong các cuộc kháng chiến thành công. Mỗi sai lầm đã giúp
Đảng trưởng thành và phát triển, và Đảng luôn ưu tiên lợi ích và hạnh phúc của nhân
dân. Việt Nam đã và đang tiếp tục xây dựng tương lai mạnh mẽ dựa trên những giá trị
và tư tưởng từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

25
PHẦN KẾT LUẬN

Khoảng nửa sau thế kỷ XIX, thế giới có những chuyển biến mạnh mẽ về đời sống
kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản dần chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, thành công
của Cách mạng Tháng Mười Nga, sự ra đời của Quốc tế Cộng sản và công bố của bản
“Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” đã ảnh
hưởng mạnh mẽ và thức tĩnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa,
trong đó có Việt Nam và Đông Dương.
Tại Việt Nam, dưới sự cai trị và áp bức của thực dân Pháp, các chính sách nô
dịch văn hóa, chính sách “chia để trị”, các cuộc khai thác thuộc địa đã làm cho nhân
dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực. Dưới
sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi, với hai mâu
thuẫn cơ bản: giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp, giữa nông dân với địa chủ
phong kiến. Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết.
Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam
nhưng độc lập dân tộc là yêu cầu cơ bản, chủ yếu nhất vì phản ánh nguyện vọng bức
thiết của cả dân tộc Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
Đầu thế kỉ XX cũng đánh dấu sự phát triển của các phong trào yêu nước ở Việt
Nam do các sĩ phu Nho học tiến bộ khởi xướng. Họ tiếp thu ảnh hưởng tư tưởng tư
sản từ bên ngoài đội vào theo một nhãn quan chính trị bị hạn chế, thiếu hệ thống và
thiếu chính xác. Các phong trào thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, có tổ chức chặt
chẽ, các tôn chỉ mục đích và hướng đi rõ ràng nên nhanh chóng thất bại. Cũng trong
thời kỳ này, các nhóm cách mạng đã bắt đầu tổ chức và xây dựng lực lượng cách
mạng vô sản. Các tổ chức như Cộng sản, Tổng công ty Chủ nghĩa xã hội, và các tổ
chức cách mạng khác đã được hình thành và phát triển, cùng với việc xây dựng lực
lượng vũ trang nhằm mục tiêu lật đổ chế độ tư bản và xây dựng xã hội vô sản. Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam,
trong đó cần phải giải phóng dân tộc từ ách đô hộ và thực dân. Điều này đã dẫn đến sự
phát triển của CMGPDT, trong đó ông đã tạo ra một hệ thống lý luận cách mạng đặc
biệt cho Việt Nam.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã có
một giá trị thực tiễn đặc biệt quan trọng đối với lịch sử và phát triển của Việt Nam.
Trong giai đoạn đầu, Đảng đã xuất phát từ nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
Pháp, xây dựng lực lượng đồng lòng và chiến lược thống nhất. Cương lĩnh chính trị
đầu tiên đã xác định mục tiêu của cách mạng, gồm giải phóng dân tộc và xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, và nó đã đảm bảo rằng con đường giải phóng và phát triển
của cách mạng luôn hướng tới độc lập quốc gia và phát triển của nhân dân Việt Nam.

26
Những giá trị và tư tưởng từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên vẫn còn giữ giá trị và
phù hợp trong bối cảnh thế giới biến đổi và thách thức quốc tế ngày nay. Cương lĩnh
chính trị đầu tiên đã tạo cơ sở cho sự đoàn kết toàn dân tộc và tạo ra sức mạnh tổng
hợp, giúp Việt Nam vượt qua nhiều thách thức và bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ của
nước. Trong tương lai, việc duy trì và củng cố sự đoàn kết này vẫn là một yêu cầu
quan trọng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, và chủ quyền biển đảo.

27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng
sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh).

2 Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8.
Trang 562.

3 PGS.TS Đào Duy Quát (2021), Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện
đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-
1945, https://dangcongsan.vn/tieu-diem/su-hinh-thanh-phat-trien-hoan-thien-
duong-loi-chien-luoc-cach-mang-giai-phong-dan-toc-cua-dang-thoi-ky-1930-
1945-589546.html , ngày truy cập 3/7/2024.

4 ST (2022), Lịch sử và ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
(03/02/2930),
https://congdoanhaiphong.vn/tin-tuc-su-kien/danh-muc-trong/lich-su-va-y-
nghia-su-ra-doi-cua-dang-cong-san-viet-nam-03-02-1930-4095.html , ngày
truy cập 3/7/2024.

28

You might also like