Professional Documents
Culture Documents
Tài Liệu VH Nga 2
Tài Liệu VH Nga 2
TÔI YÊU EM
Bài thơ có cả thảy 8 câu thơ, thì 4 câu thơ đầu chính là những mâu thuẫn giằng xé trong tâm hồn của người thi sĩ, trước
một mối tình đơn phương tan vỡ, trước người con gái ông hằng theo đuổi nay đã mãi mãi ở ngoài tầm tay.
Puskin giãi bày tình yêu sâu sắc của mình bằng những từ ngữ vô cùng giản dị, nhưng chân thành "Tôi yêu em: đến
nay chừng có thể/Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai". Dấu hai chấm thể hiện rằng tình yêu, lời giãi bày của nhà thơ có
rất nhiều điều khó nói, nhiều vướng mắc mà ông muốn giải thích ở những ý thơ tiếp theo. Rằng cho dù nàng Ô- lê-nhi-
na đã từ chối tình yêu chân thành và sâu sắc của Puskin nhưng cho đến tận bây giờ tình yêu ấy vẫn đang còn tiếp diễn,
vẫn chưa lụi tắt hoàn toàn, ông muốn khẳng định rằng: Tôi yêu em, tôi đã yêu em và tôi vẫn yêu em như thế! Tình yêu
ấy không chỉ có trong quá khứ mà tình yêu ấy vẫn hằng tồn tại trong trái tim của chàng trai Puskin, nó là một thứ tình
cảm rất sâu nặng, tha thiết, chứ không phải là thứ tình cảm bồng bột của thanh niên mới lớn, mà đó là tình cảm đã có sự
chứng minh của thời gian, chung thủy và vững bền.
Thế nhưng trong thâm tâm của Puskin trước tình yêu ấy lại có những mâu thuẫn, những giằng xé giữa cảm xúc của
con tim và sức mạnh của lý trí. Nếu như ở hai câu thơ trên là những cảm xúc chân thực của trái tim thì hai câu dưới lại
là lời mách bảo, thúc giục của lý trí, chúng được phân tách với nhau bằng quan hệ từ "nhưng".
Chúng ta nhận thấy sự thay đổi cảm xúc rất rõ ràng, giọng thơ không còn là tiếng nói ngập ngừng của trái tim yêu
chân thành, mà là tiếng nói mạnh mẽ, dứt khoát đầy lý trí. Thâm tâm thi sĩ đang mách bảo, thúc giục ông phải dập tắt đi
cái tình yêu đang bốc cháy, đang âm ỉ tồn tại chỉ chờ thời mà bốc lên dữ dội trong trái tim tác giả. Ông rất lý trí khi
không muốn tình yêu đơn phương của mình đem đến nỗi "u hoài" cho người mình yêu, ông không muốn nàng phải "bận
lòng" khó xử. Puskin mong rằng tình yêu ấy mãi chỉ nằm ngủ yên trong trái tim mình, còn người con gái ông yêu sẽ
được tự do, khoáng hoạt, vui tươi theo đuổi những cái mà nàng muốn, chỉ cần nàng hạnh phúc thì tình yêu của ông hy
sinh cũng là xứng đáng. Tuy nhiên bề ngoài lý trí có phần mạnh mẽ, lấn át là thế nhưng chúng ta cũng dễ dàng nhận
thấy tâm hồn đau đớn vì bị bóp nghẹt của chàng trai, vết thương trong tình yêu bị chối bỏ hãy còn đang rỉ máu, nay lại
một lần nữa Puskin cố ép nó thêm lần nữa, còn đau đớn nào hơn nỗi đau phải từ bỏ tình yêu mà mình hằng trân trọng,
gắn bó. Càng đọc người ta lại càng thấu hiểu tình yêu sâu sắc và tâm hồn cao thượng của Puskin trong tình yêu, sẵn
sàng hy sinh để người mình yêu được hạnh phúc, được vui vẻ, dẫu điều đó có khiến lòng ông đau đớn, tổn thương vô
cùng.
Sau những giãi bày và tiếng nói mạnh mẽ của lý trí thúc giục từ bỏ tình yêu không kết quả, thì trái tim tràn đầy tình
yêu của ông lại tiếp tục cất lên những tiếng nói sôi nổi, nồng cháy mà dường như nhân vật trữ tình không thể nào kiểm
soát, ngăn chặn bằng lý trí được.
Đó là nỗi khổ đau tuyệt vọng của nhà thơ khi mà phải từ bỏ tình yêu ông hằng trông mong, dẫu rằng lý trí đã quyết
tâm gạt bỏ tình cảm, thế nhưng con tim lại trào ra những cảm xúc hết sức tiêu cực, là sự đau khổ, giày vò đầy tuyệt
vọng của một tình yêu âm thầm, không hồi đáp. Nhân vật trữ tình đã phải trải qua tất cả những cảm xúc trong tình yêu.
Điệp khúc "Tôi yêu em" lại một lần nữa vang lên, dai dẳng và bền bỉ, kéo theo đó là những cảm xúc đó là những lúc hồi
hộp, rụt rè khi đứng trước người mình yêu, muốn bày tỏ nhưng lại sợ nàng từ chối, rồi có những lúc phải đau đớn, "hậm
hực lòng ghen" khi thấy người con gái ấy vui vẻ bên chàng trai khác, mà bản thân ông không thể làm gì.
Đi qua hết những cảm xúc day dứt, khổ đau của tình yêu, một lần nữa lý trí của người thi sĩ lại thức dậy, gạt bỏ hết
những cảm xúc tiêu cực, tiến đến sự cao thượng trong tình yêu.
Điệp khúc "Tôi yêu em" lại một lần nữa vang lên, nhưng lần này niềm cảm xúc của tác giả đã trở nên êm đềm,
không còn mãnh liệt và tiêu cực, lúc này đây tình yêu của ông lại trở về với những cảm xúc sâu nặng "chân thành, đằm
thắm". Câu thơ cuối là lời chúc phúc cho người yêu đầy cao thượng, vị tha trong tình yêu của nhân vật trữ tình đồng
thời cũng khẳng định lại một lần nữa tình yêu sâu nặng của chàng trai, sự thông minh, niềm tự hào về tình yêu lớn lao
của mình dành cho cô gái. Đôi lúc người ta còn thấy đâu đó ở câu thơ là một chút hy vọng, chờ đợi, dẫu rằng rất mơ hồ
của chàng trai.
Kết cấu trong thơ Puskin mang tính đối xứng được thể hiện ở sự hài hòa giữa các đối cực. Các đối cực ấy là những xúc
cảm của một chủ thể động, được thể hiện qua sự vận động tâm tưởng nhân vật trữ tình và sở trường của Puskin là hóa
giải mâu thuẫn với các đối cực tâm trạng để đạt tới cảm xúc hài hòa.
II. CON ĐƯỜNG MÙA ĐÔNG
Ba khổ thơ đầu là nỗi buồn được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng nhuốm màu cô đơn. Hình ảnh cánh
đồng, khu rừng được bao phủ trong bạt ngàn tuyết trắng của xứ sở bạch dương hiện lên thật huyền ảo:
Nói như Ostrovsky thì những câu thơ của Puskin “giản dị” và “trơn tru” quá nhưng “không biết rằng ông đã bỏ biết bao
công sức cho câu thơ được giản dị và trơn tru”. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài thơ “Con đường mùa đông”. Chỉ
là những thanh âm quen thuộc như tiếng bánh xe, tiếng lục lạc và tiếng hát của con người nhưng bỗng có sức cuốn hút lạ
thường
Từ không gian nỗi buồn trong tâm tưởng, nhà thơ đã thoát ra để tìm thấy điểm tựa tinh thần trong ba khổ thơ cuối:
“Con đường mùa đông” là một sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của Puskin. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của cảnh sắc thiên
nhiên và tâm hồn con người Nga một cách trọn vẹn, đúng như Belinxki đã nhận xét: “Hơi thơ của Puskin vô cùng trong
trong sáng, nó tràn ngập hiện thực. Nó không rắc phấn trắng, phấn hồng lên cuộc sống mà mô tả hiện thực như nó vốn
có. Thơ của Puskin luôn có bầu trời và bầu trời đó luôn hòa quyện với mặt đất”.
III/ CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH: ANDREY BOLCONSKY VÀ NATASA ROSTOVA
Andrey Bolkonsly là nhân vật trung tâm của tác phẩm, có tâm hồn và trí tuệ, tinh thần yêu nước, trọng danh dự, mang
nhiều khát vọng và ước mộng cao đẹp. Ra trận với ước mong trở thành một Napoleon của nước Nga. Andrey đại diện
cho tầng lớp thanh niên quý tộc tiến bộ đi tìm lí tưởng sống và tìm được lí tưởng chân chính khi thực sự chung một chiến
hào với nhân dân chống giặc ngoại xâm. Andrey thuộc lớp người ưu tú nhất trong xã hội thời bấy giờ. Sống giữa xã hội
thượng lưu nhưng chàng luôn coi thường xã hội ấy và khinh bỉ những cuộc nói chuyện vô bổ, sáo rỗng, trọng hình thức
của giới quý tộc kinh đô trong phòng khách, tiêu biểu là phòng khách của bà Anna Pavlovna. Sự ngán ngẩm của Andrey
đối với giới thượng lưu – cái nôi đã sinh ra và nuôi lớn chàng cho thất Andrey là một người vô cùng nhạy bén, chàng đã
nhận ra được sự nhạt nhep, vô vị trong cuộc sống phòng khách của giới quý tộc thượng lưu. Ý định thoát khỏi ngôi nhà
quý tộc của Andrey manh nha từ cái nhìn uể oải, chán ngán của chàng. Andrey vốn có thể bằng lòng với cuộc sống của
giai cấp chàng, chàng tất nhiên sẽ sống trong nhung lụa với đầy đủ vinh hoa phú quý, nhưng Andrey nhận ra bằng cuộc
sống đó thật tẻ nhạt và rỗng tuếch, bởi niềm vui và hạnh phúc của giai cấp chàng, của những kẻ hưởng thụ được xây đắp
trên mồ hôi, nước mắt và cả máu của quần chúng lao động, do đó cuộc sống nhàn hạ ấy thật tội lỗi và chàng muốn rời xa
nó.
Đối với nhiều người, hôn nhân là bến đỗ của hạnh phúc, gia đình là tổ ấm của mỗi cá nhân nhưng đối với riêng bản thân
Andrey, cuộc sống hôn nhân với Lisa không những không đem lại cho chàng hạnh phúc mà còn khiến chàng cảm thấy vô
cùng khó chịu, buồn tẻ. Chàng không thể tìm ra cái gọi là thú vị, chàng chỉ thấy xung quanh mình toàn là những gì nhàm
chán, và nhàm chán hơn cả là cô vợ Lisa nhỏ nhắn, xinh đẹp của mình: trong số tất cả những người ở phòng khách của
Anna Pavlova thì hình như: “người vợ xinh xắn của chàng lại làm cho càng chán ngấy hơn cả”. Chính vì thế, Andrey đối
xử với Lisa vô cùng khách khí: “công tước nói trong khi đứng dậy hôn tay nàng một cách khách khí như hôn tay một
người lạ”. Sở dĩ Andrey như vậy một phần cũng do sự kiểu cách của Lisa, nàng sử dụng tiếng Pháp thay vì tiếng Nga
trong không gian thân mật gia đình, nàng vẫn nói cái giọng bông đùa, nũng nịu như khi ở trong phòng khách. Andrey và
Lisa không hạnh phúc bởi họ không cùng quan điểm, Lisa không thể sống nếu không hít bầu trời không khí thượng lưu
trong khi đó Andrey đang chết ngộp trong bầu không khí đó.
Với trí tuệ sắc sảo của mình, với lòng tự tôn dòng tộc, Andrey thấu hiểu cuộc sống tù đọng, giả dối cuả xã hội thượng lưu
và đặt mình lên cao hơn nó. Xung đột với hoàn cảnh bên ngoài tạo nên mối xung đột bên trong, gây ra bi kịch trong tâm
hồn Andrey.
Vì muốn thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn, bế tắc, Andrey mơ ước đi tìm “một tâm hồn cao cả hơn người” kiểu Napoleon,
bởi lúc này chàng coi Napoleon là biểu hiện của lòng nhân đạo và lí tưởng anh hùng. Chiến thắng ở Toulon đã đem lại
vinh quang cho Napoleon và Andrey cũng ấp ủ trong mình giấc mộng Toulon, với mong muốn được mọi người ngưỡng
mộ. Vinh quang, đối với Andrey, “cũng là tình yêu thương đối với người khác, mong muốn làm cho họ điều gì đó, mong
được họ ngợi khen”. Khát vọng lập chiến công hoà vào ý thức về sứ mệnh của mình trong một thế giới phải đánh giá
đúng công lao của mình. Trải nghiệm trận đầu Schengraben, Andrey đặc biệt suy tư khi thấy viên đại uý Tushin bình dị,
quả cảm lập chiến công, nhưng không những không được tuyên dương, mà thiếu chút nữa là phải chịu kỉ luật, phải chấp
nhận oan ước chỉ vì không muốn sự thanh minh của mình có thể làm ảnh hưởng đến người
khác. Lần đầu tiên Andrey hiểu ra rằng có thể có những chiến công thầm lặng chẳng bao giờ được vinh danh.
Lối thoát trước mắt đối với Andrey là ra trận, tham gia cuộc chiến tranh 1805. Chàng ra đi mang theo giấc mộng Toulon.
Nhưng giấc mộng ấy có cái gì đó tàn nhẫn, khủng khiếp, bởi nó chứa đựng chủ nghĩa cá nhân cực đoan kiểu Napoleon.
Giấc mộng hư danh này đã có lúc khiến Andrey trở nên hết sức ích kỉ. Chàng sẵn sàng “không do dự mà hi sinh hết thảy
mọi người cho một phút vinh quang, cho một lúc chiến thắng, cho lòng hâm mộ của những người mà mình không biết và
sẽ cũng không bao giờ biết”.
Trước trận Austerlitz, tất cả sự nhộn nhào của quân đội không còn giữ được kỉ cương, việc bất đắc dĩ phải cứu một người
phụ nữ khỏi sự chèn ép của một sí quan và cả việc Kutuzov ngủ gật bởi tin rằng trận chiến sẽ thua – tất cả như một thứ
“văn xuôi với sự bệ rạc của nó” mâu thuẫn với ước vọng vinh quang bay bổng và trừu tượng của Andrey, song anh vẫn
cố gắng tin rằng ý chí cá nhân của mình có thể sẽ xoay chuyển được cục diện trận chiến. Chàng tưởng tượng “mình
giương cao lá cờ lao vào trận địa, đi đến đâu quét sạch đến đấy”. Và sự thật, khi trận chiến diễn ra và lâm vào tình trạng
khủng hoảng, tay nắm chặt cán cờ, kêu gọi binh linh xung quang, Andrey xông xáo, gấp gáp “chạy” tới ước vọng vinh
quang của mình… rồi trúng đạn, ngã xuống và ngất đi. Khi Andrey tỉnh dậy: “Ở phía trên chàng đã không có gì khác
ngoài bầu trời – bầu trời cao, không quang đãng lắm, nhưng vẫn cao vòi vọi, với những đám mây xám lặng lẽ trườn trên
đó”. Tất cả sự nhộn nhào của trận chiến được thay thế bằng sự tĩnh lặng của bầu trời mà Andrey thầm gọi là “bầu trời
cao, công bằng và nhân hậu”. “Im lặng quá, yên tĩnh và trang trọng quá, hoàn toàn không giống như lúc ta đang chạy, -
công tước Andrey nghĩ, - không giống như khi chúng ta chạy, la hét và bắn giết nhau, hoàn toàn không giống như khi
người pháo binh và tên lính Pháp giằng co nhau chiến gậy thông nòng, mặt mày giận dữ và hoảng sợ, - những đám mây
trườn trên bầu trời cao rộng, mênh mông kia hoàn toàn không giống như thế. Sao ta trước đây chưa từng thấy bầu trời
cao vòi vọi này? Và thật hạnh phúc là cuối cùng ta cũng biến đến nó. Phải!
Mọi thứ đều vô nghĩa, đều là giả dối, ngoài bầu trời cao vô tận này”. Cái nhộn nhạo nhân tạo, giả dối của thế gian tương
phản với sự tĩnh lặng tự nhiên chân thực của chân lí vĩnh hằng.Vì thế, thần tượng Napoleon sụp đổ trong mắt Andrey.
Giấc mơ của Andrey trong cơn sốt mê man cũng chính là những suy nghĩ chàng rút ra được: “Chàng mơ thấy cuộc sống
bình lặng và cái không khí hạnh phúc nào thìbỗng cái lão Napoleon nhỏ bé kia hiện ra với cái nhìn dửng dưng, thiển cận
và thoả mãn trước những bất hạnh của người khác, rồi những hoài nghi, nhưng đau khổ bắt đầu kéo đến, và chỉ có bầu
trời kia là hứa hẹn sẽ cho chàng yên tĩnh”. Với Andrey, đó là bầu trời của thinh không vô thường, là bầu trời của cuộc
sống không bon chen lo nghĩ. Đó cũng là bầu trời của an nhiên vĩ đại, không có dối lừa, không có chiến tranh. Đó là bầu
trời của Andrey. Và từ giây phút ấy, Andrey nhen nhóm chủ trương sống cho riêng mình, còn lí tưởng của chàng cũng
tiêu tan khi giấc mộng Toulon đổ vỡ dưới bầu trời Austerlitz.
Khi đi duyệt lại chiến tuyến, thấy Andrey ngã xuống trong tư thế xung phong, tưởng anh đã hi sinh, Napoleon cất lời
khen ngợi: “Thật là một cái chết đẹp!”. Lời nói của Napoleon vọng vào tâm trí Andrey đang dần tỉnh lại. Song lời khen
ấy không đủ sức chiến thắng ý thức về bầu trời lúc trước của Andrey. Tỉnh lại, trước hết anh đưa mắt tìm bầu trời và chỉ
thật sự yên tâm khi thấy lại nó. Lúc đó những lời nói của Napoleon vọng đến tai anh nghe chỉ “vo ve như tiếng ruồi”.
Thần tượng của vinh quang cá nhân sụp đỏ trước chân lí vĩnh hằng. Bầu trời Austerlitz trở thành biểu tượng đánh dấu
bước trưởng thành về nhận thức của Andrey. Bị thương nằm lại chiến trường, dưới bầu trời ấy, Andrey như soi mình qua
một tấm gương tinh thần và tự nhận thức chính bản thân mình. Thế là, từ chỗ trước kia chàng say mê công danh bao
nhiêu thì giờ chàng lại thất vọng chán chường bấy nhiêu. Và Andrey giờ đây, bầu trời lí tưởng của chàng không còn là
bầu trời với những chiến công lừng lẫy nữa, mà chính là bầu trời của cuộc sống không bon chen lo nghĩ, cuộc sống bình
lặng và cái không khí hạnh phúc đời thường giản dị. Bầu trời lí tưởng là bầu trời hoà bình không có chiến tranh.
Tiểu thuyết đưa độc giả qua cuộc hành trình của nhân vật Andrei, một người lính và quý tộc Nga, trong bối cảnh thời kỳ
chiến tranh Napoleon. Chúng ta được làm quen với tâm trạng chán chường cuộc sốngcủa Andrei, một người đã trải qua
những biến cố lớn đầy đau thương và mất mát.Andrei, một nhân vật đầy chất nhân văn và tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống
trong tiểuthuyết "Chiến tranh và hòa bình" của Lev Tolstoi, trở về trại ấp Bogutsarovo với tâmhồn u ám và
mệt mỏi sau những thất bại đầy đau thương trong sự nghiệp và cuộc sốnggia đình không như ý muốn. Điểm động lòng
của câu chuyện là tình yêu sâu đậm giữaAndrei và vợ, Lisa, một tình yêu đã được thử thách bởi số phận đầy đau
đớn.Thất bại trong sự nghiệp và cuộc sống gia đình là những đòn đau mà Andrei phảiđối mặt, những đòn đau không chỉ
làm yếu đuối tinh thần anh mà còn làm nhòa đihình ảnh về một tương lai hạnh phúc. Hình bóng của trại ấp Bogutsarovo
trở nên nhưmột bức tranh tĩnh lặng của sự thất vọng, nơi mà những u ám của tâm trí Andrei bắtđầu hiện rõ. Tình yêu của
Andrei và Lisa, dù rất đẹp và mãnh liệt, lại chấm dứt trongbi thương khi Lisa rời bỏ thế gian sau khi sinh đứa con đầu
lòng. Cảm giác hối hận vàsự chán nản lan tỏa trong tâm hồn Andrei, khiến anh nhìn nhận cuộc sống với ánhsáng tối và
tưởng chừng như không còn hứng thú. Những cảm xúc đau đớn và nặng nềvề tình cảm gia đình chiếm giữ tâm trí của
Andrei, khiến anh đối mặt với bản thânmình và những quyết định khó khăn trong quá khứ. Gương mặt trách móc của
Lisaluôn hiện hữu trong kí ức của Andrei, như một bóng đen che phủ ánh sáng trong trí ócanh.Trải qua những thất bại và
mất mát, Andrei không chỉ chán chường với cuộc sốngmà còn mất đi niềm tin vào ý nghĩa của nó. Trại ấp Bogutsarovo
trở thành không giantĩnh lặng, nơi mà sự lạc quan và hy vọng dường như đã mất đi mãi mãi. Andrei chìmđắm trong
những suy nghĩ về sự hối hận và những quyết định không thể thay đổi đượctrong quá khứ, khiến cho hình bóng anh trở
nên u ám và mờ nhạt. Cuộc hành trình củaAndrei không chỉ là cuộc đấu tranh với bản thân và số phận, mà còn là hành
trình đểtìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống giữa những cảm xúc mất mát và chán nản. Liệu anhcó thể tìm thấy đèn sáng cuối
con đường, hay chỉ là một bóng tối vĩnh viễn, đó là câuhỏi lớn mà cuộc phiêu lưu của Andrei chưa dừng lại để trả
lời.Gương mặt trách móc của vợ quá cố luôn hiện hữu trong tâm trí Andrei, tạo nênmột bóng dáng ám ảnh đau lòng. Anh
ta chìm đắm trong những suy nghĩ về sự hối hận và những quyết định không thể đảo ngược trong quá khứ. Sự chán
chường của Andreikhông chỉ đến từ những thất bại cá nhân, mà còn từ khả năng anh nhìn nhận cuộc sốngxã hội và cuộc
sống gia đình.Andrei, người đã trải qua những trải nghiệm đau thương và thất bại, tỏ ra tuyệtvọng và mất lòng tin vào ý
nghĩa của cuộc sống. Sau khi tham gia vào chiến dịchAuteclit và phải đối mặt với những kết quả không như ý muốn, tâm
trạng của anh trởnên u ám và chán chường. Sự từ bỏ và chán nản trước những thách thức của cuộc sốnghiện rõ trong
quyết định của Andrei khi anh từ chối tham gia vào chiến tranh, mộthành động thể hiện sự hiu quạnh trước sự không
chắc chắn và khó lường của địnhmệnh. Anh ta mất lòng tin vào ý nghĩa của cuộc sống, coi nó như một chuỗi những
sựdối trá và thất bại. Dù đã cố gắng thực hiện những hành động tích cực như giải phóngnông dân, mở trường, và xây
dựng nhà thương, nhưng cái nhìn tiêu cực của Andrei vềtình trạng đau khổ của nông dân không hề giảm bớt. Anh ta quan
sát xã hội xungquanh mình với ánh mắt mệt mỏi và đầy chán chường, thấy rằng những nỗ lực củamình có vẻ như vô
nghĩa trước bức tranh lụi tàn và khó khăn của thế giới. Quan điểmtiêu cực của Andrei về tình trạng của nông dân, đặc
biệt là quan điểm rằng kéo họ rakhỏi tình trạng súc vật sẽ cướp đi hạnh phúc duy nhất của họ, phản ánh sự chán nản
vàtuyệt vọng của anh về khả năng thay đổi thực tế xã hội. Điều này là một biểu hiện củasự mất niềm tin vào khả năng
thay đổi tích cực và ý thức về sự vô lý của cuộc sống.Cuối cùng, khi Andrei nhấn mạnh việc sống cho bản thân và tránh
hai điều ác làsự hối hận và bệnh tật, anh ta đang thể hiện sự hiểu biết về bản thân và nhận thức vềcái gọi là "vinh
quang." Ông nhận ra rằng sự hạnh phúc không chỉ đến từ việc phục vụngười khác mà còn từ việc tìm kiếm sự an
bình và hòa quyện với chính bản thân mình.Bức tranh tâm trạng u ám và tuyệt vọng của Andrei là một cuộc hành trình
sâu sắc vàphức tạp, đồng thời làm tăng thêm sự phức tạp của những chủ đề tâm lý và xã hộitrong tác phẩm của
Tolstoi.Cuộc hành trình của Andrei không dễ dàng, và Tolstoi không mô tả nó như một
chiều, mà thay vào đó, đó là một cuộc đấu tranh với nhiều khó khăn và thách thức, bao gồm cả những núi lớn từ bản thân
anh. Con đường tìm kiếm lẽ sống của Andreicòn rất nhiều khó khăn và thử thách phía trước, đặt ra câu hỏi về ý nghĩa của
cuộcsống và ngày mai của anh ta.Andrey, một người từng là lãnh đạo quân sự xuất sắc, giờđây là kẻ đơn độc trong bóng
tối của sự thất bại gia đình. Chàng cho rằng: “Tôi đãsống để tìm vinh quang. Mà vinh quang là cái gì? Chẳng qua cũng
vẫn là tình yêungười khác… Tôi đã sống cho những người khác như thế và tôi không phải suýt làmhỏng mà chính là đã
hoàn toàn làm hỏng cuộc đời của tôi. Và chỉ có từ khi sống choriêng mình thì tôi bắt đầu cảm thấy được yên tĩnh hơn.”
Hành trình chán chường củaanh không chỉ là cuộc đối đầu với những khó khăn trong hôn nhân và công việc màcòn là
cuộc chiến không trọng lực với bản thân và ý nghĩa của cuộc sống.
c. Giai đoạn 3. Andrei và những sự thay đổi tích cực13Sau giai đoạn mà Andrei chán chường với cuộc sống, thì cũng đến
lúc cuộc sốngcủa chàng có những chuyển biến, có những sự thay đổi tích cực. Từ cảm thấy sự chánnản, không còn hứng
thú kỳ vọng vào cuộc sống thì giờ đây, một Andrei đã có nhữngbước chuyển trong sự nhìn nhận cũng như là tiềm thức,
có những sự gặp gỡ mới, cónhững cảm xúc mới, những tác động, những mối duyên gặp gỡ đã dường như gópchút công
sức khiến cho Andrei có những thay đổi tích cực hơn, mới mẻ hơn, và làmsống dậy những tháng ngày chán chường, tẻ
nhạt của cách nhìn cuộc sống giai đoạntrước đó, “chàng nhớ đến cánh đồng cỏ, cây ngải, cánh đồng yến mạch, quả cầu
đenxoay tít, và cái giây phút tình yêu của chàng với cuộc sống bỗng dưng vút lên hư gọichào”. Nhìn cảnh vật với những
cảm xúc tích cực hơn, tình yêu đã khiến lòng chàng
rạo rực, thay đổi.Tuy trong lòng vẫn hoài nghi “ làm gì có mùa xuân, có ánh nắng, có hạnh phúc”.Nhưng chính mối
duyên gặp gỡ với Pierre cũng khiến “ một cái gì lâu nay đã thiếp đi,một cái gì tốt nhất trong tâm hồn chàng bừng tỉnh,
vui sướng và trẻ trung”. Đây là thứcảm giác chàng biết nó vẫn tồn tại trong thâm tâm chàng mặc dầu nó không phát
huyđược mà thôi. Hai người với hai tính cách, hai cách nghĩ khác nhau, nhưng lại gặp gỡvà nói chuyện với nhau rất say
xưa, họ lắng nghe quan điểm của đối phương, Pierrenói về Hội Tam điểm, về ý nghĩa chân chính của cuộc sống, còn
những thứ khác chỉlà giấc mộng... chính Pierre cũng phát hiện ra cái thứ ánh sáng mới, ánh sáng khácthường và long lanh
trong đôi mắt của Andrei, cùng với sự im lặng, dường như nhữnggì Pierre nói không thật sự vô nghĩa. Sự gặp gỡ buổi
hôm đó với Pierre giống như mộtbước đi đầu tiên mới mẻ trong một cuộc sống mới sắp tới của Andrei, mặc dù cho
bênngoài chẳng có sự thay đổi nào cả. Nhưng bằng những gì nhỏ bé nhất, chúng ta đềuthấy được rằng cuộc sống nội tâm
của chàng đang dần được tái sinh.Những nỗ lực của Pierre, xong tiếp đến lại là những ánh hi vọng tràn ngập nhờ sựxuất
hiện của nàng Natasha. Cuộc gặp gỡ với nàng trong đêm trăng tại trang trạiOtradnoye mới thực sự hồi sinh tâm hồn cho
Andrey. Bóng dáng cô thiếu nữ “mắtđen, tóc đen, vóc người mảnh dẻ lạ lùng, mặc chiếc áo dài bằng vải hoa vàng,
đầuchít một tấm khăn mùi xoa trắng để tuột ra ngoài mấy món tóc rối”, và cảnh đêmtrăng với tiếng nói ước vọng của
người con gái muốn bay lên trời cùng ánh trăngxuân… tất cả đã khơi dậy khao khát hòa nhập mà Andrey cố gắng trấn áp
ở trong lòngmình mà không được. Chàng công tước bỗng dưng thấy lòng se lại mà chẳng hiểu vìsao. Trời trong xanh
hơn, đẹp hơn, và ánh nắng thật rực rỡ. Chàng thản nhiên lắngnghe, lắng nghe vì chờ đợi và sợ rằng nàng sẽ nói một điều
gì về mình. Trong suynghĩ của chàng nổi lên le lói biết bao ý nghĩ rối ren bất ngờ “ cùng với bao hy vọng trẻtrung không
ăn nhập gì với cuộc đời chàng”. Chính chàng cũng nghĩ rằng bản thânkhông đủ sức để hiểu được cho cái thứ tâm trạng
mới mẻ này của mình. Sự thay đổilạc quan, biết nghĩ ngợi đến suy nghĩ của người khác về mình, biết để tâm đến
ngườikhác, cảm giác như trỗi dậy một tâm hồn sống động, bị vô thức bỏ quên trước đó vậy.Không chỉ cảm xúc, lòng
chàng rạo rực đổi thay, mà đến hiện tại, mọi cảnh vậtxung quanh chàng, và đặc biệt là qua con mắt của chàng cũng tràn
ngập sức sống, trànngập tươi đẹp, “ cây sồi già cũng đổi mới hẳn, ... khẽ đung đưa trong nắng chiều,vẻngờ vực và buồn
rầu trước kia cũng không còn dấu vết... và chính chàng công tước vôcớ cảm nhận sự vui mừng sảng khoái, tưởng chừng
như mỗi tế bào trong mình như đổi mới sống lại”. Tất cả những kí ức khi trước, về chiến trường, về đôi mắt trước khitắc
thở của vợ, về cuộc gặp với Pierre và cả cô nàng hôm ấy, vầng trăng. Tất cả đềuhiện lên trong kí ức của chàng, nhưng có
lẽ đó không còn là những kí ức vô thức, màphải chăng là những kí ức được chàng chủ động nhớ về, những kí ức sống
dậy tâm trí.“Không, cuộc đời không chấm dứt ở tuổi ba mươi mốt, một công tước Andrei độtnhiên nghĩ thầm, và ý nghĩ
này có cái sức mạnh của một điều quyết định, không thểnào thay đổi được nữa” . phải chăng là một sự quyết định mang
tính chấm dứt mộtcuộc đời, nhưng là một cuộc đời chán chường trước đó, chứ không phải sự dừng lại ởcái tuổi ba mươi
mốt còn quá nhiều dang dở và dự định ở đây. Chàng không nhữngbiết bản thân biết sự quyết định này, mà chàng còn
muốn những người khác cùng biết,đó là Pierre, là người con gái đêm nào muốn bay lên trời. Để cho mọi người thấy
rằngchàng sống không phải chỉ vì chàng, để cho họ không sống cách biệt với cuộc sốngcủa chàng, “... để cho mọi người
cùng sống chung với ta”. Lời tuyên ngôn đanh thépnhư một sự chứng tỏ vừng vàng về sự đổi mới, về sự sống dậy tích
cực.Và rồi, từ những lần gặp gỡ với Natasha, tiếp xúc, khiêu vũ với nàng, chàng lạicàng có những chuyển biến tích cực
hơn, “ chàng thấy mình trẻ lại và tràn đầy sinhkhí mới mẻ, sau khi chàng dừng lại nghỉ sức, dẫn nàng về chỗ cũ và đứng
nhìn nhữngngười đang khiêu vũ” đến Pierre còn nhận ra “ một sắc thái mới mẻ, trẻ trung trêngương mặt bạn”. Không còn
là cái vẻ mặt lầm lì như trước mà chỉ mỗi khi nhắc đến Natasha thì cái vẻ mặt chàng bỗng dưng hoạt bát lên thiếu tự tin,
chàng nhìn nàng
không phải bằng cặp mắt chán đời mà nhìn nàng bằng ánh mắt long lanh kì lạ. Sứcmạnh của tình yêu, của sự chìm đắm
trong hạnh phúc đã khiến một con người sốngtrong đen tối như được tỏa ánh sáng kì diệu, hoàn toàn không còn là một
Andrei códấu vết của vẻ chua chát, khinh đời, thất vọng trước đây. Chàng tràn đầy niềm tin, tinvào cuộc sống, tin vào
tương lai.Có thể thấy công tước Andrei chàng là một người có một sức sống tiềm tàng, mộtngười có ý chí và đầy nghị
lực, biết yêu thương con người, biết lắng nghe, biết suynghĩ rất nhiều về những thứ đã qua trong cuộc đời, yêu cuộc đời
rất nhiều. Những tìnhyêu ấy không phải trước đó không có, mà có thể chàng đã vô tình ẩn chìm nó trongđáy lòng mà
chưa có cơ hội cho nó nhen nhóm cháy lại. Cuộc đời với chàng như trảiqua gần đủ những dư vị cuộc sống, khi từ bắt đầu
có ý định công danh, khi lại vỡ lởcông danh, chán chường cuộc đời, nhìn đời như những dư vị tẻ nhạt chán ngắt, và đểrồi
chính lúc này, chính là lúc những tình yêu cuộc sống, yêu mọi người được đốtcháy, được sống dậy và tan vào sự sống.
“Andrey là một người có nghị lực kiêncường, bản chất chàng là tích cực, giàu tính sáng tạo”. Đây chính là sự trỗi dậy,
sựthay đổi mạnh mẽ nhất trong hành trình cuộc sống của chàngVà thế rồi chàng lại ra đi, lại lăn xả trên cuộc sống của
mình, Andrei bị cuốn vàonhững hoạt động luật pháp, nhưng để rồi chàng nhận ra công việc này thật vô bổ, vàchàng lại
tiếp tục đi tìm con đường phù hợp với mình.
d. Giai đoạn 4. Andrei đến với cuộc chiến tranh vệ quốc và tìm được con đường đúng đắn
Andrei nghĩ rằng anh sẽ có một tình yêu hạnh phúc và hoàn hảo sau khi cầuhôn Natasha. Nhưng không, cha anh lão
công tước Bolkonsky không đồng ý nên lễcưới của họ phải hoãn lại một năm khiến hai người xa cách nhau. Natasha một
cô gáihoạt bát, nông nổi không chịu nổi cảnh cô độc và những cám dỗ. Natasha vì thiếu suynghĩ đã đánh mất đi bản
thân, nàng từ bỏ tình yêu mà nàng đã gìn giữ suốt một nămchờ đợi và mau chóng quyết định chia tay với Andrei để đến
với tên Anatol lừa đảo.Mối duyên với Natasha bị đoạn trừ với Andrei là nhát dao cắt đứt trái tim củaanh.Điều đó khiến
tâm trí Andrei không chỉ không theo kịp những suy nghĩ trước đâyđã xuất hiện lần đầu tiên khi anh nhìn lên bầu trời ở
trận Austerlitz mà anh còn sợ nhớlại những ý nghĩ đó, những ý nghĩ đã mở ra một bầu trời vô hạn tươi sáng chỉ còn
làbóng tối mù mịt, chật chội mà thôi: “Có thể tưởng chừng như bầu trời vô tận trước kiađã từng mở rộng ra trên đầu
chàng nay bỗng biến thành một cái vòng thấp hẹp, cụthể, đang đè lên chàng, trong đó cái gì cũng rõ ràng, nhưng không
có gì vĩnh viễn vàbí ẩn nữa”. Một lần nữa, chiến tranh vệ quốc năm 1812 nổ ra. Andrei làm việc ở bộ thammưu tổng
hành dinh bên cạnh Kutuzov. Với trí tuệ sắc bén, Andrei nhanh chóng nhậnra hầu hết những kẻ giữ vai trò then chốt
trong cơ quan kháng chiến của quân Nga đềulà những kẻ ích kỉ, lừa đảo. Bọn người này không quan tâm đến nguy cơ
mất nước màchỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mình: “Tất cả những người thuộc phái này đềukiếm chác những
đồng rúp, những huân chương chữ thập, những cấp bậc và trongviệc kiếm chác ấy họ chỉ theo dõi chiều gió xoay về
hướng nào, là cả bầy ong đựcchuyển về hướng ấy, đến nỗi mà hoàng thượng cũng khó lòng mà xoay sang hướngkhác
được”. Và nhận thấy ý chí kiên cường bất khuất của các quân nhân đã sẵn sànghi sinh cho đất nước. Do đó, với sự
quyết đoán, Andrei đã đề nghị Nga hoàng chophép anh tham gia quân đội dã chiến để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm
lược. Hànhđộng can đảm này không chỉ thể hiện ý thức cao cả về trách nhiệm cứu nước củaAndrei mà còn minh chứng
cho quyết tâm và sự kiên định của anh trong cuộc chiếnbiên giới năm 1805. Với ý chí vững vàng và nghị lực bất khuất,
Andrei vượt quanhững khó khăn và đau thương cá nhân, trở nên mạnh mẽ hơn. Anh quyết khôngkhuất phục trước số
phận và sẵn sàng đối mặt với mọi thử thách trên con đường tìmkiếm ý nghĩa cuộc sống. Trước cơ hội lịch sử quan trọng
của đất nước, Andrei tỉnhgiấc và nhận ra ánh sáng của lý tưởng, thoát khỏi bóng tối của quá khứ. Tinh thần yêunước
trong Andrei là ngọn lửa mãnh liệt, khiến anh quên đi cảm xúc buồn bã chỉ đểtập trung vào việc chống lại quân
thù“Lòng căm phẫn đối với quân thù mới nảy sinhlàm chàng quên cả nỗi buồn riêng”.Andrei, một chỉ huy đầy trách
nhiệm, dành tâm huyết cho công việc quân sự vàcó trái tim ấm áp “chàng quan tâm săn sóc đến binh lính cũng như sĩ
quan và rất âncần đối với họ”. Tình cảm này đã tạo ra sự kích thích và lòng tự hào trong trung đoàn,khiến họ gọi Andrei
là "công tước của chúng ta". Quyết định này không chỉ thể hiệnsự gắn bó với binh lính mà còn là bước đầu
tiên trên con đường danh dự. Trước trậnBorodino, Andrei đã chia sẻ với Pierre về quan điểm của mình rằng nhân tố
quyếtđịnh chiến thắng, quyết định số phận của đất nước không phải là những người thuộc16tầng lớp trên, tầng lớp của
chàng mà là ở tinh thần của anh em binh lính quần chúng.Chàng còn quả quyết nói với bạn rằng “Ai tin chắc rằng mình
thắng thì người ấy sẽthắng”, “mười vạn quân Nga và mười vạn quân Pháp sẽ đánh nhau, và trong số haimươi vạn quân
này thì đạo quân nào chiến đấu ác liệt nhất và không sợ hy sinh nhất,đạo quân ấy sẽ thắng”. Lời quả quyết của Andrei
phản ánh sự kiên định với nhận thứcrõ ràng rằng mọi người Nga đều chịu nỗi đau mất nước, người thân và nhà cửa,
kèmtheo tình cảm căm hận sâu sắc với đối thủ. Tất cả những khía cạnh này kết hợp tạothành một sức mạnh tinh thần
mạnh mẽ, có khả năng quét sạch kẻ thù. Lập luận vàgiải thích của Andrei một lần nữa làm nổi bật sự sáng tạo của anh,
đồng thời làm nổibật lòng yêu nước và niềm tin mạnh mẽ trong anh và cả trong cộng đồng người Nga:“Ngày mai dù có
thế nào ta cũng sẽ thắng trận”. Trải qua nhiều khó khăn và tháchthức, Andrei từng gặp thất bại và gục ngã, nhưng với ý
chí và nghị lực phi thường,anh dần trưởng thành trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống. Andrei nhận thứcrằng
“chiến tranh không phải là cái gì lịch sự phong nhã, đó là cái việc bỉ ổi nhất trênthế gian”. Trước đây, Andrei tham gia
cuộc chiến với mong muốn danh vọng và sựthăng tiến, sẵn lòng hy sinh người thân và người đồng loại để đạt được mục
tiêu cánhân. Nhưng giờ đây, anh nhận ra rằng mục đích của cuộc chiến không phải là vềdanh vọng cá nhân mà là vì gia
đình và Tổ quốc. Andrei hiểu rõ rằng hạnh phúckhông nằm trong cung đình hay quyền lực, mà là ở việc đồng lòng chiến
đấu bên cạnhđồng đội đến phút cuối cùng.Tư duy của Andrei đã thay đổi từ khi ở Bogusarovo vớitâm trạng ích kỷ đến
khi tham gia Borodino, nơi anh hoàn toàn hòa nhập vào cộngđồng, tập thể toàn dân. Anh dũng cảm đứng vững trước
sức mạnh địch tại Borodino,không rời khỏi vị trí, và bị thương trong hàng người đồng đội. Hình ảnh quả đạn quayvòng
ám ảnh Andrei, nhưng anh không sợ chết, mà muốn sống để yêu cuộc sống vàquê hương hơn bao giờ hết bởi chàng đã
trót “yêu cuộc sống, yêu đám cỏ này, yêumảnh đất này, bầu không khí này”. Tâm lý sợ chết hiện tại không làm Andrei
trở nênnhu nhược, yếu đuối, mà ngược lại, nó thể hiện sự kiên định và dũng cảm của anh.Andrei đã tự nguyện tham gia
chiến đấu mặc cho nguy hiểm, và sự sợ hãi của anhkhông phải là do sợ chết mà là do anh đã hòa mình vào đại dương
nhân dân, nhìn thấysức mạnh của nhân dân và tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Anh yêu thiên nhiên và cuộcsống ở Nga và
không muốn kết thúc khi con đường của anh vẫn còn nhiều điều chưađược khám phá. Trước khi qua đời, Andrei
gặp lại Natasha, tha thứ và cảm thấy yêu nàng hơn.Tuy nhiên, tôn giáo đã khiến anh có những suy nghĩ không hoàn
toàn đúng đắn và tiêucực: “Thương yêu đồng loại, thương yêu kẻ thù của mình, thương yêu tất cả - thươngyêu
Thượng đế trong tất cả những sự thể hiện của Người. Có thể thương yêu mộtngười chí thân bằng tình yêu của con
người, nhưng chỉ có thể thương yêu một kẻ thùbằng tình yêu của Thượng đế”. Những suy nghĩ đối với tôn giáo và nhân
đạo chungchung trước lúc Andrei qua đời một phần giới hạn giá trị tích cực của anh. Tuy nhiên,không thể phủ nhận tất
cả những phẩm chất tích cực của Andrei trên hành trình tìmkiếm ý nghĩa cuộc sống. Ngay cả trong những giây phút cuối
cùng, anh vẫn trăn trởvới những câu hỏi về sự sống, cái chết, tình yêu cuộc sống và tình yêu thượng đế, thểhiện sự khát
khao tìm tòi không ngừng của anh. Quan trọng hơn, thông qua tôn giáo,Andrei nhận ra một chân lí quan trọng: chết
không đáng sợ như chúng ta thường nghĩ,mà ngược lại, là một khởi đầu mới, một "sự thức tỉnh". Có được
sự thấu hiểu này,17Andrei ra đi với lòng thanh thản. Mặc dù anh đã hy sinh, nhưng anh trở thành một anhhùng chân
chính, và con đường của Andrei, từ suy nghĩ tự phát, dần dần phát triểnthành suy nghĩ tự giác trong tương lai. Andrei là
hình tượng tiêu biểu của tầng lớpthanh niên quý tộc tiến bộ thời đại, sẵn lòng bỏ quê hương quý tộc để tìm kiếm
chânlý. Anh có thể được xem là tiền thân của những nhà cách mạng Tháng Chạp, họ trảiqua những khó khăn và chiến
đấu dũng cảm trên chiến trường Borodino. Đối mặt vớithách thức, họ trở nên mạnh mẽ và trưởng thành, lòng yêu
nước sôi nổi trong họ làđộng lực để chống lại chính quyền, đấu tranh chống lại hệ thống chuyên chế lỗi thờivà tàn bạo.
Mặc dù Andrei đã rời đi, nhưng những đặc điểm cao quý của anh vẫn đượctruyền lại cho Nikolenka - con trai của anh.
Nikolenka, giống như Andrei, yêu quýPierre và luôn ủng hộ chú Pierre trong tranh luận với Nikolai về hội 48 kín. Cả hai
đềutin rằng nếu Andrei còn sống, anh sẽ đồng lòng với Pierre, người có thể trở thành mộtnhà cách mạng Tháng Chạp
trong tương lai.3. Ý nghĩa của sự vận độngCuộc đời của Andrei trải qua những biến cố đầy thăng trầm. Quá trình vận
độngcủa nhân vật Andrei Bolkonsky trong câu chuyện đã mang lại những ý nghĩa sâu sắcvề cuộc sống, tình yêu, chiến
tranh và sự sống. Andrei trải qua một sự biến đổi lớn, từmột lính quân lạnh lùng đến người tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống.
Sau những mất mát vànhận thức về vô nghĩa của cuộc sống, anh tìm kiếm ý nghĩa cao cả trong việc phục vụđất nước và
tự do. Hành trình của Andrei cũng phản ánh sự biến đổi chính trị và xãhội trong thời kỳ chiến tranh Napoléon. Anh tham
gia vào những cuộc cải cách quânđội và xã hội, đại diện cho lòng mong muốn thay đổi và phát triển. Và Andrei trải
quamối quan hệ phức tạp với Natasha Rostova, một tình yêu ảnh hưởng sâu sắc đến quyếtđịnh và sự phát triển của anh.
phản ánh tinh thần hy sinh của Andrey vì lợi ích cao cả.Hơn hết, trải qua những đau thương của chiến tranh Andrei nhìn
nhận và hiểu rõ ýnghĩa của hòa bình và gia đình. Quá trình này không chỉ thể hiện quan điểm củaTolstoy về chiến tranh
và hòa bình mà còn là cách đối mặt với những vấn đề lớn nhấtcủa xã hội. Anh từ bỏ những ước mơ và giá trị vật chất ban
đầu để hướng đến mụctiêu tối cao hơn.Như vậy, quá trình phát triển của Andrei Bolkonsky không chỉ là câu chuyện
cánhân mà còn là một phần quan trọng trong bức tranh toàn diện về chiến tranh, xã hộivà ý nghĩa cuộc sống mà Lev
Tolstoy muốn truyền đạt trong tiểu thuyết "Chiến tranhvà hòa bình". Hay cũng chính là bối cảnh xã hội nước
Nga lúc bấy giờ.
IV/ VỀ CHIẾN CÔNG, VINH QUANG, BAO GIÁ TRỊ
Chủ đề tình yêu không phải chủ đề mới, nó luôn hiện diện trong nền văn học song hành cùng sự phát triển của văn minh
con người. Nhắc đến chủ đề này ta không thể không kể đến những áng thơ của A.Blok. Có lẽ, chính những ảnh hưởng
của gia đình, thời đại và của tư tưởng triết học Nga cuối TK XIX và đầu TK XX đã ảnh hưởng trực tiếp tới tư tưởng của
nhà thơ. Ông thường thể hiện tình yêu như một điểm sáng trong bóng tối của thế giới, một nguồn năng lượng và hy vọng
trong cuộc sống. Bài thơ “…” mang âm hưởng đau buồn, thất vọng và đầy nuối tiếc về một tình yêu đã từng rất đẹp
nhưng phải tan vỡ.
Mở đầu bài thơ là những hình ảnh “về chiến công, dũng cảm và vinh quang…” làm ta liên tưởng đến địa vị, danh lợi
và giá trị con người, điều đó khiến cho ta phải đặt câu hỏi: “Vậy thì nó có ý nghĩa gì mà nhà thơ lại nhắc đến nó?”.
“Về chiến công, lòng dũng cảm, vinh quang
Anh đã quên trên mặt đất đau khổ
Khi gương mặt em trong khung ảnh nhỏ
Trước mặt anh rạng rỡ đặt trên bàn.”
Hình tượng người phụ nữ trong bài thơ ở khổ đầu tiên hiện lên biết bao giá trị lớn lao đối với nhà thơ. Hình ảnh
người phụ nữ trong khung ảnh nhỏ trên bàn như là biểu tượng của sự thần thánh, vô danh, huyền diệu. Đối với ông,
người phụ nữ ấy mang lý tưởng của vẻ đẹp tinh thần, là biểu tượng của sự hài hòa của vũ trụ và ánh sáng. A.Blok
dùng phép so sánh hơn, đặt người phụ nữ trong sự đối sánh với những giá trị mà người ta hằng ước ao “Chiến công,
danh vọng, vinh quang” để khẳng định tầm quan trọng của người phụ nữ, không có người phụ nữ, những vật ngoài
thân ấy không còn giá trị, không có gì đáng để lưu luyến trên cõi đời này nữa. Người phụ nữ của ông hơn cả chiến
công, lòng dũng cảm và vinh quang. Cả thế giới rộng lớn bỗng chốc chỉ thu bé lại vừa bằng “gương mặt em trong
khung ảnh nhỏ”.
Bên cạnh đó, bằng thủ pháp đối lập, nhân vật tôi đã khẳng định dứt khoát rằng: tình yêu anh dành cho em luôn lớn
hơn bất cứ thứ gì trên đời. Danh vọng phù hoa chỉ là tạm bợ, hình ảnh em trong trái tim thì mãi luôn vĩnh cửu.
Khung ảnh chân dung trên bàn trở thành một thứ biểu tượng tình yêu mà Blok dành cho vợ. Theo lời kể, sau đám
cưới, bức tranh ấy luôn được đặt ở trên bàn làm việc của nhà thơ. Và đây cũng là một loại biểu tượng mà Blok đặc
biệt coi trọng. Ông tin chắc rằng, chính bức chân dung này là hiện thân cho người vợ luôn đứng sau, hỗ trợ ông trong
mọi công việc. Trong thơ, Blok luôn đề cao, thể hiện sự tôn trọng, coi người phụ nữ mà ông yêu là một phần quan
trọng trong cuộc đời mình.
=> Tất cả chiến công, lòng dũng cảm hay vinh quang giờ đối với anh đã không còn giá trị gì cả, chỉ còn lại đau
khổ lưu trong cuộc đời. Chỉ còn lại hình bóng của em: gợi nỗi đau, niềm thương, hạnh phúc,..bởi vậy trong
tâm hồn nhân vật trữ tình mâu thuẫn luôn luôn giằng xé. Khung ảnh nhỏ nhưng chứa đựng tất cả những kỉ
niệm, niềm vui, hạnh phúc và đau khổ của anh; bởi nụ cười của em càng đẹp, càng rạng rỡ bao nhiêu thì trái
tim của anh càng quặn thắt bấy nhiêu. Đó là sự đối lập giữa công danh địa vị với tình yêu. Và tình yêu ấy tuy
đã xa rời nhưng nó vẫn luôn tồn tại và chế ngự con người, khung ảnh và nụ cười là tất cả những gì mà nhân
vật trữ tình hướng tới, dù trong bi kịch thế nào đi chăng nữa nhưng hình ảnh ấy vẫn toát lên niềm yêu của
con người. Khung ảnh và nụ cười là nhỏ bé so với tất cả, nó đặt trong so sánh giữa cái tầm thường với cái vô
thường; nó càng bình thường thì lại càng cao quý bấy nhiêu. Đó là những gì có giá trị nhất với nhân vật trữ
tình. Quá khứ, A.Blok coi vợ là nàng thơ, là tinh khôi, là quý giá. Bi kịch thay, thực tại phũ phàng ngay lập tức dập
tắt những hồi ức tươi đẹp của quá khứ:
“Nhưng đến giờ em đi khỏi nhà anh
Chiếc nh̀ ẫn thề anh vứt vào đêm vắng
Giờ người khác em gửi trao số phận
Anh đã quên rồi gương mặt đẹp xinh.”
Khổ thơ tiếp là sự hô ứng, tiếp nối và đan xen hành động giữa nhân vật “tôi” và người phụ nữ, người phụ nữ hiện lên
qua đó với sự phản bội phũ phàng, đáng quên. Trước sự phản bội của vợ mình, thi sĩ đã có những hành động quyết
liệt, khẳng định sự cự tuyệt, dứt khoát: “vứt”, “quên”. Hình ảnh “chiếc nhẫn” chính là biểu tượng cho hôn nhân, một
tình yêu chung thủy và khi nhân vật trữ tình ném nó vào màn đêm cũng có nghĩa là những kỷ vật biểu tượng cho tình
yêu ấy, những điều mà ông từng coi là quý giá, tất cả giờ đây đều không còn nghĩa lý gì để nhớ nhung, để níu giữ.
Thế nhưng, liệu ông có thực sự quên?
=> Chiếc nhẫn gợi tới “nhà thờ”: bởi lẽ họ đã trao chiếc nhẫn tại nhà thơ, nhà thờ là nơi chứng kiến một cuộc
hôn nhân đầy hạnh phúc; nhưng rồi cuối cùng chiếc nhẫn ấy lại bị “vứt đi” - bi kịch của con người bắt đầu. Chiếc
nhẫn để trao hạnh phúc, trao tình yêu, được chứng nhận bởi pháp luật thì bây giờ em đã gửi số phận cho người
khác; và chỉ còn lại anh với chiếc nhẫn ấy => không còn giá trị gì nữa cả.
“Ngày trôi đi, nguyền rủa xoáy thành đàn…
Rượu và đam mê làm đời anh tàn tạ…
Trước bàn cưới, về em anh chợt nhớ
Anh gọi em như tuổi trẻ của mình.”
Sự xuất hiện của hàng loạt dấu chấm lửng trong câu đã thể hiện cảm xúc đặc biệt trong nhà thơ. Thật khó để Blok có
thể chọn ra một từ phù hợp để diễn tả cảm xúc, ông như nghẹt thở trước dòng kí ức đang trào dâng. Rõ ràng, nhân
vật trữ tình chưa thực sự quên đi sự phản bội và vĩnh viễn xóa hình ảnh người mình yêu ra khỏi ký ức như cách ông
tỏ ra bên ngoài. Trong sự nỗ lực để thoát khỏi nỗi thống khổ về tinh thần, ông đã tìm đến những thú vui tiêu khiển:
những quán rượu, những địa điểm giải trí, không chỗ nào không có dấu chân của nhà thơ. Có thể thấy rằng, Blok vẫn
cảm thấy đau đớn. Cả rượu, đam mê hay những người phụ nữ đẹp đều không thể lấp đầy khoảng trống sau sự ra đi
của người vợ. Ông luôn cảm thấy một nỗi cô quạnh khó tả mà không một phụ nữ nào khác có thể lấp đầy. Trong ý
thức của A.Blok, Mendeleev không chỉ là biểu tượng của sự thuần khiết của một nàng thơ mà còn là những gì tươi
đẹp nhất gắn liền với tuổi trẻ. Vì vậy, nhân vật trữ tình trong bài thơ có khuynh hướng đồng nhất tình yêu ra đi với
sự kết thúc của tuổi trẻ. Tác giả quan niệm rằng sự ra đi của người phụ nữ đã đánh dấu sự chấm dứt của một tuổi trẻ
cuồng nhiệt, vô tư.
=> Rượu không làm anh quên đi, mà anh càng vùi sâu vào nó thì anh lại càng tĩnh tại trong tâm hồn anh và
hình bóng em cứ trở đi trở lại ngay cả trong cuộc sống và giấc mơ . Hình ảnh ấy còn cao hơn tất cả, vẫn là
bóng hình dáng của em mà anh gặp lại trong mơ. Trong hơi men và cả sau cơn say nhưng hình bóng của em
vẫn luôn tồn tại, khiến anh đau khổ cùng cực không có lối thoát nào.
Nếu như thi sĩ cảm thấy đau khổ, lưu luyến những quá khứ thì trái lại người phụ nữ lại thẳng thắn cự tuyệt, không có
một chút luyến lưu hay thương tiếc gì. Trong lúc đau khổ và tuyệt vọng, ông đã viết nên những vần thơ khiến người
đọc không ai không cảm thấy đau đớn. Cả bài thơ nhuộm màu nỗi nhớ và thấm đẫm những nuối tiếc, sự cay đắng
khi bị phản bội:
“Anh gọi em nhưng em chẳng ngoái nhìn
Nước mắt anh em không thèm đoái tới
Trong chiếc áo choàng màu xanh quấn lại
Em ra khỏi nhà trong ẩm ướt đêm”.
Hình ảnh “áo choàng xanh” là hình ảnh tượng trưng cho sự phản bội trong tình yêu, nó gợi lên những nỗi đau về
hạnh phúc đổ vỡ và dư vị cay đắng của sự phản bội. Có thể thấy những vần thơ của bài thơ “Thơ về Người Đàn bà
Kiều diễm”, người phụ nữ đã từng xuất hiện với hình ảnh mang vẻ đẹp tuyệt diệu cùng sự im lặng:
Giữa đêm khuya tịnh không lời đáp
Em đi ra đám lau sậy ven bờ
Đem theo cả nguồn Em thắp sáng
Rồi từ xa Em quyến rũ tôi theo”
(Thơ về Người Đàn bà Kiều diễm)
Nếu như ở trên, đó là sự im lặng khiến thi sĩ rung động và thổn thức, còn sự im lặng lúc này đây, nó lại đưa thi sĩ
chìm sâu vào trong sự tuyệt vọng. Nhân vật trữ tình lại quay trở về với quá khứ để làm sống dậy khoảnh khắc chia
ly đầy đau đớn, tuyệt vọng. Khi con người ta đã hết tình cảm họ trở thành những con người xa lạ đầy nhẫn tâm, bất
cần và bất nhẫn. Có thể thấy được điều đó qua hình ảnh người phụ nữ dứt áo ra đi. Trong không gian ẩm ướt cùng
với thời gian đêm tối có lẽ để lại một sự ám ảnh dai dẳng cho nhà thơ đến mãi sau này. Có lẽ cũng vì vậy mà hình
ảnh ấy cứ trở đi trở lại trong bài thơ của Blok:
“Trong giấc ngủ, áo xanh anh mơ thấy
Chiếc áo mặc vào em đi khỏi trong đêm…”
=> Chiếc áo choàng xanh “xanh”: nhà thơ tượng trưng luôn sử dụng màu sắc đưa vào trong thơ. Trong bài
thơ này, “xanh” được Blok biểu thị sự lo lắng, đau đớn, sự phản bội >< nguyên mẫu, có ý nghĩa cao hơn
nữa: - “xanh” - cuốn đi tất cả tuổi trẻ của con người, những năm tháng tuổi trẻ với tình yêu, “em ra đi” như
đem theo cả bầu trời yêu thương sụp đổ.
- Màu xanh ấy còn như một ẩn ức của con người, ẩn ức trong chiều sâu tâm khảm, trong vô thức của con
người. Hình ảnh ấy không bao giờ có thể lấy lại được nữa, nó sẽ mãi là sự ám ảnh của con người.
Từ thực tại trở về với quá khứ, từ hiện thực trở vào giấc mơ, dù nó đã là quá khứ nhưng nó vẫn còn ám ảnh thi sĩ
đến tận vô thức. Có lẽ nhân vật trữ tình chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong tình yêu và không có niềm vui
trần thế nào có thể thay thế được:
“Giờ không còn mơ về trìu mến, vinh quang
Tất cả đi qua, tuổi trẻ không còn nữa!
Gương mặt em trong lồng khung ảnh nhỏ
Bàn tay anh đem cất khỏi chiếc bàn.”
Hình ảnh “Gương mặt em trong lồng khung ảnh nhỏ” lại một lần nữa trở lại làm ta nhớ đến những vần thơ của
Pushkin: “Tôi nhớ một khoảnh khắc tuyệt vời/Em đã xuất hiện trước tôi.” trong bài thơ “Anh nhớ mãi khoảnh khắc
tuyệt vời”. Dù cùng mang một tâm trạng nhưng phần kết thúc của hai bài thơ lại hoàn toàn trái ngược nhau. Nếu
Pushkin đến cuối bài thơ là sự thức tỉnh của linh hồn:“Trái tim lại rộn ràng náo nức/Và trái tim sống dậy đủ điều”
thì Blok lại là nỗi cay đắng và tuyệt vọng của một người đã mất đi thanh xuân. Trước sức mạnh của tình yêu, Blok đã
hiến dâng trọn vẹn cho tình yêu với người yêu. Thông qua các cung bậc xúc cảm trong bài thơ đã thể hiện rõ điều
đó.
Nhà thơ sử dụng cấu trúc vòng tròn, dòng đầu tiên lặp lại và đối lập với dòng cuối cùng. Ở cuối bài thơ, nhà thơ
dường như muốn tái hiện lại những xúc cảm đầu tiên, nhưng ông không còn nghĩ về sự dũng cảm hay vinh quang mà
dường như đang nỗ lực tìm kiếm là sự dịu dàng, nhưng rốt cuộc cũng không tìm thấy nó.
Hình ảnh “gương mặt em trong lồng khung ảnh nhỏ” lại lần nữa được trở lại vẫn gợi lên tâm trạng đau đớn và xót xa
hơn khi hạnh phúc đổ vỡ, vẫn là hình ảnh người mình yêu trong khung ảnh nhưng bây giờ sự đối lập ở đây đó là
nhân vật trữ tình đã quyết tâm kết thúc mối quan hệ đó. Có lẽ tuổi trẻ kia đã là quá khứ và tình yêu dành cho người
phụ nữ ấy dù vẫn luôn ám ảnh thi sĩ nhưng hiện tại nó đã không còn quan trọng nữa vì thi sĩ quyết định buông bỏ tất
cả.
=> Kết cấu vòng tròn thể hiện rất rõ, hình ảnh chồng lấp “khung ảnh em cười” (khổ 1 là quá khứ, khổ cuối là
quá khứ -> quá khứ vĩnh viễn tồn tại và không bao giờ biến mất => Công danh, vinh quang không thể nào so
sánh với tình yêu, tình yêu là thứ mà con người không bao giờ đạt được khi mà họ bị rơi xuống bi kịch.
=> Thơ Blok mang ý nghĩa tượng trưng, nó cao hơn tất cả những gì mà thực tại mang đến cho chúng ta về thế
giới bí ẩn của tình yêu không thể nào giải thích được, rằng tại sao cô gái đã phản bội người mình yêu nhưng
vẫn đem tới nỗi đau, đem tới sức mạnh thần bí, con người sống trong nỗi đau khổ và sống trong cả niềm hạnh
phúc tình yêu của mình.
=> Bài thơ là đặc trưng tình yêu của Blok và Tính nữ được trở đi trở lại trong thơ qua hình ảnh người phụ nữ
trong tình yêu, mà nó còn thể hiện qua nỗi đau, sự mất mát mà không ai có thể cứu giúp con người được, chỉ
có con người ấy sống, tồn tại và vươn lên mà thôi.
Như vậy, tình yêu trong thơ Blok khởi điểm từ những câu chuyện tình với những người đàn bà qua cuộc đời ông, các
bài thơ trữ tình ông viết đầy lãng mạn tượng trưng nhưng không hề thoát li hoàn toàn hiện thực mà vẫn mang sắc
màu chân thành, xúc động đời thường. Nét đặc sắc trong thơ tình yêu của Blok là cảm xúc mê hoặc bởi những người
đàn bà với cái cái đẹp thần bí, kín đáo, những mẫu hình trong mơ tưởng,...Thứ tình ông dành cho tình yêu lứa đôi
được gọi tên bằng chữ đắm say, tôn thờ. Đó là những vần thơ có sức ám ảnh lòng người một cách lạ lùng, những
dòng thơ "như có phép màu", những vần thơ "bất chợt đi vào tâm trí chúng ta và ở lại đó mãi mãi", khiến trong hình
dung của mọi người "Blok mãi mãi là con người trẻ trung" - như nhận xét của Paustovsky. Chính sự tôn thờ ấy mà
khi mất đi người mình yêu, Blok mới có những cảm xúc đau đớn đến tuyệt vọng như vậy.
=> Kết luận: Khổ thứ 2,3,4,5 thực tại, khổ cuối trở về quá khứ, đan xen nhau trong mối tình, nhằm nhấn mạnh tình
yêu trong thực tại và cuộc đời.
3. Đặc trưng truyện ngắn thông qua tác phẩm “Say nắng”
3.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế
Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật là một phương diện trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà
văn, gắn liền với miêu tả ngoại hình và miêu tả hành động của nhân vật. Điều đó cũng có nghĩa là tính tất yếu trong
hành động thường liên quan chặt chẽ và vô cùng mật thiết với tính tất yếu trong hành động nội tâm của nhân vật.
Trong bài nhắc đến khái niệm “nội tâm" nhằm chỉ toàn bộ cuộc sống bên trong của nhân vật. Đó là những tâm trạng suy
nghĩ, tâm tư, cảm xúc, cảm giác, những phản ứng tâm lý của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ, tình huống mà nhân vật
chứng kiến hoặc thể nghiệm trên bước đường đời của mình. Nhà văn có thể trực tiếp biểu hiện nội tâm của nhân vật
bằng ngôn ngữ của chính mình với tư cách người kể chuyện. Những biện pháp phổ biến mà nhà văn thường hay sử
dụng nhất là được biểu hiện thông qua “độc thoại nội tâm" và “đối thoại nội tâm" của nhân vật. Những điều này được
thể hiện bằng chính ngôn ngữ của nhân vật, chúng xuất hiện một cách thầm lặng nhưng cũng đều là “ý đồ” của tác giả
trong tâm tư của nhân vật. Nhân vật tự biểu hiện, phơi bày mọi xúc cảm, suy nghĩ trong tâm trạng của mình qua những
suy nghĩ, cảm xúc cụ thể, có thể nổi để đặt được sự thành công trong miêu tả tâm lý nhân vật. Nhà văn phải thực sự
“dấn thân” vào nhân vật và phải đắm chìm cũng như sống cùng nhân vật của chính mình xây dựng nên. Nhân vật tự
biểu hiện, phơi bày những diễn biến trong tâm trạng của mình qua những suy nghĩ, cảm xúc cụ thể. Có như vậy người
sáng tạo mới có thể thể hiện hết những cung bậc của trạng thái cảm xúc, những thay đổi của diễn biến tâm lý phức tạp.
Đó chính là điều mà một nhân vật cần đạt tới. Tất cả những điều đó đã được Bunin thể hiện thành công trong truyện
ngắn “Say nắng”.
Nhà văn đã vô cùng thành công khi miêu tả tâm lý nhân vật chàng trung úy trong ấn phẩm “Say nắng” với vô
vàn những bút pháp miêu tả tâm lý đa dạng, Bunin đã làm sống dậy cả một thế giới tâm lý vô cùng lôi cuốn, phong phú
và cũng không kém phần phức tạp. Nhà văn vốn không tách riêng, không đứng ngoài nhân vật để miêu tả tâm lý của
nhân vật, ông như dấn thân vào nhân vật hơn, đồng cảm cùng nhân vật, chia sẻ và thấu hiểu nỗi đau đớn, tuyệt vọng,
bất lực của chàng trung úy. Bằng ngôn ngữ tinh tế, bậc thầy giới văn học Nga đã miêu tả cặn kẽ từng cung bậc cảm xúc,
từng trạng thái của tâm lý mà ông cho rằng sẽ chạm đến độc giả. Ông đã để nhân vật của mình tự độc thoại nội tâm, tự
đặt ra những câu hỏi và tự trả lời cho những câu hỏi ấy. Tất cả nhân vật như trở nên sinh động hơn. Thêm vào đó,
Bunin còn sử dụng thủ pháp đối lập và lặp trong nghệ thuật miêu tả tâm lý, góp phần hoàn thiện một cách sâu sắc tâm
lý nhân vật. Cho dù chàng trung úy ấy mang trong lòng một tình yêu đến si mê, cuồng nhiệt, đắm say với một người phụ
nữ chỉ ở cạnh chàng trong vòng một ngày – một người mà đến tên tuổi chàng còn chẳng thể biết rõ. Một cơn “say
nắng” đã khiến chàng phải trải qua những trạng thái tâm lý vô cùng phức tạp: từ buồn bã đến nhớ nhung, rồi đau khổ
và tuyệt vọng đến bất lực,... Những cung bậc của cảm xúc cứ tăng dần theo cấp độ, ở đỉnh cao thăng hoa rơi vào trầm
tư. Và đến đỉnh điểm đó là khi những giọt nước mắt lăn trên má chàng trai. Sự thành công trong miêu tả tâm lý nhân
vật của Bunin cũng chính là thành công của truyện ngắn “say nắng”.
Như đã nhận định, Nhà văn xứ Nga – Ivan Bunin luôn sát sao với nhân vật của mình dù cho có là chi tiết nhỏ
nhất. Nhà văn đã tập trung như hòa làm một với nhân vật của mình để có thể cảm nhận hết được những diễn biến tâm
lý đang diễn ra sâu bên trong chàng trung úy. Tất cả mọi hành động của ông như sống cùng nhân vật, đặt mình vào vị trí
của nhân vật, thấu hiểu những đổi thay, những trạng thái cảm xúc của chàng trai khi người phụ nữ mà chàng yêu đã ra
đi mãi mãi, không bao giờ trở lại nữa. Truyện có sự đan xen, kết hợp rất tự nhiên giữa lời của người kể chuyện với lời
của nhân vật. Điều độc đáo này khiến cho độc giả khó có thể nhận ra đâu là lời của nhà văn, đâu là những dòng suy nghĩ
của nhân vật. Nhà văn đóng vai trò là người kể chuyện biết tuốt. Với “điểm nhìn Zero”, Bunin đã miêu tả một cách tinh
tế từng trạng thái cảm xúc của chàng trung úy. Thủ pháp đối lập trong miêu tả tâm lý Bunin không chỉ nhập thân vào
nhân vật, cùng nhân vật sống với nỗi đau khổ, tuyệt vọng mà ông còn đặt nhân vật của mình trong sự đối lập của nhiều
yếu tố để từ đó tâm trạng, cảm xúc của nhân vật được bộc lộ một cách rõ nét. Trước hết, độc giả sẽ rất dễ nhận thấy có
sự đối lập giữa tình yêu, hi vọng, mong muốn ở chàng trung úy với một bên là hiện thực cuộc sống. Nhà văn đã tạo ra
cuộc gặp gỡ, đã để tình yêu này sinh trong người thiếu phụ và chàng trung úy. Tình yêu ấy trở nên sâu đậm, mãnh liệt
trong trái tim của chàng trung úy. Nhưng đối lập với tình yêu sâu đậm ấy lại là hiện thực về một người phụ nữ đã có gia
đình. Nhà văn đã xây dựng sự đối lập giữa một bên là tình yêu cháy bỏng của chàng trai với một bên là hiện thực trớ
trêu về hoàn cảnh của người phụ nữ chàng yêu. Chính vì vậy, chàng “không sao có thể tự dưng mà đến cái thành phố
đó, nơi có chồng nàng, có đứa con gái 3 tuổi của 4 nàng, nói chung là toàn bộ gia đình của nàng và toàn bộ cuộc sống
thường ngày của nàng”. Yêu mà không thể có được người mình yêu, yêu mà không thể được gặp, được nhìn thấy người
mình yêu thì cuộc sống còn có ý nghĩa gì. Tình yêu ấy ngay từ lúc chớm nở đã để lại trong lòng độc giả sự đau đáu và
chắc có lẽ điều đó cũng trớ trêu như cái cách nó bắt đầu. Sự mâu thuẫn ấy đã làm cho chàng trai trung úy vô cùng đau
khổ và day dứt. Nhưng có lẽ tình yêu quá lớn, quá mãnh liệt, cơn “say nắng” ấy làm chàng trai trẻ bất chấp tất cả, vượt
lên tất cả để quyết định đến với người mình yêu, quyết định dành cả cuộc đời cho người phụ nữ ấy “từ nay toàn bộ
cuộc đời tôi là của em, là thuộc quyền em, vĩnh viễn, cho đến khi xuống. Sau khi đưa nàng đi, trở về phòng, cảm xúc đầu
tiên của chàng trang mới chỉ là thấy “có cái gì đó đã khác trước”. Chàng lính cảm thấy sự vắng bóng, sự thiếu thốn một
cái gì đó khó lí giải trong chính mình. Diễn biến tâm lý tiếp tục được Bunin chắp bút tăng dần theo cấp độ: “Trái tim
chàng trung úy bỗng thắt lại”, rồi “đi đi lại lại” và “nước mắt đã trào lên mi”. Tất cả những suy nghĩ tiếp sau cứ xoáy vào
xung quanh người thiếu phụ. Hết “ngỡ ngàng”, “ngạc nhiên” đến “đau lòng” rồi “hoảng sợ”, “tuyệt vọng”, rồi “nhớ tất
cả những gì về nàng”. Chàng “đau khổ”, “trái tim chàng như vỡ vụn ra”, thậm chí “có thể chết ngay ngày mai cũng
được”. Con tim chàng trai đã bị “trúng thương”. Chàng tuyệt vọng khi không còn cách nào để có thể gặp lại nàng. Chàng
trai đau khổ tột cùng, rơi vào cảm giác sâu hõm của một chân bước hụt vào vũng lầy. Nhà văn Bunin còn rất tinh tế khi
tạo nên sự mâu thuẫn giữa cảnh vật và tâm trạng con người. Khi người thiếu phụ ra đi, chàng trai trở về căn phòng mà
hai người đã ở cùng nhau qua một đêm. Một mâu thuẫn diễn ra trong căn buồng đó là tất cả mọi thứ như vẫn còn in
đậm bóng dáng của người phụ nữ: “mùi nước hoa Ănglê”, “chiếc khăn tay”, “chiếc chén uống dở”... với hiện thực là
người phụ nữ đã đã không còn ở đó nữa. Tất cả mọi thứ, đều in hằn sâu sắc hình ảnh của nàng. Đặc biệt là hình ảnh
“chiếc giường”. Chàng càng cố gắng để không nhìn vào mọi vật trong gian phòng (“không còn đủ sức để nhìn vào chiếc
giường ấy nữa”, “cố không nhìn vào chiếc giường ở đằng sau tấm bình phong”) thì mọi vật lại càng như phơi bày ra, làm
hiện bật rõ lên hình ảnh của nàng. Thật là điều nghịch lý, trớ trêu làm sao. Tất cả mọi thứ chung quanh dường như đều
kéo chàng vào sự giằng xé, giày vò đến vô cùng. Và chàng quyết định “kiếm cho được kế thoát thân”, chàng tìm đến với
cuộc sống bên ngoài: là “chợ”, là “nhà thờ”... Một lần nữa Ivan Bunin lại tạo ra sự đối lập gay gắt giữa cảnh vật trong
cuộc sống với tâm trạng của nhân vật. Tất cả cảnh vật “đều tốt đẹp cả, tất thảy đều hạnh phúc vô ngần và cực kỳ vui
vẻ”. Dù là trong cảnh oi nồng ấy, giữa tất cả mọi mùi vị chợ búa ấy, trong toàn bộ cái thành phố không quen biết này và
trong cái khách sạn huyện lỵ cũ kĩ này vẫn có niềm vui kia. Bên cạnh những nghệ thuật nổi bật, bậc thầy văn chương
nước Nga Ivan Bunin đã tinh tế thêm vào nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật những cho tiết vô cùng ấn tượng rằng ông
để chàng trung úy sống với chính thế giới nội tâm của mình. Nhân vật của ông tự độc thoại với mình, tự đặt ra những
câu hỏi cho mình và tự trả lời chúng. Khi chỉ còn sự cô độc trong căn phòng chứa đầy kỉ niệm của đêm hôm trước,
chàng trung úy trẻ đã bật lên tự hỏi rằng: “Mình làm sao thế này nhỉ?Mà nàng có gì đặc biệt và thật ra thì cái gì đã xảy
ra?”... “vắng nàng giờ đây ta làm thế nào để qua được cả một ngày trời ở cái nơi hiểu lánh này”. Những câu hỏi vang
lên từ chính trái tim đáng rạo rực, si mê đến “điên cuồng” của chàng trai. Những câu hỏi chứa chất tâm trạng rối bời,
giằng xé:“Chứng minh để làm gì nhỉ? Thuyết phục để làm gì nhỉ”, “mình làm thế nào bây giờ, làm sao thoát được cái
duyên nợ bất thình lình và đột ngột này?”. Chàng trai đang rơi vào tình thế vô cùng bế tắc và tuyệt vọng: “Đi đâu bây
giờ? Làm gì bây giờ”... Những câu hỏi cứ liên tiếp dồn dập vang lên, như xé nát trái tim chàng. Chàng hoàn toàn tuyệt
vọng, hoàn toàn mất hết phương hướng, không biết đi đâu, về đâu, không biết nên làm gì. Cái thứ tình yêu “say nắng”
đã khiến chàng trở nên hoang mang và suy sụp. Chàng tự hỏi mình và cũng không thể tự tìm ra cho mình câu trả lời
được. Và có lẽ chàng trung úy đã mất đi người mình yêu đã không thể làm gì để gặp lại người phụ nữ ấy. Nhà văn đã để
nhân vật sống trong những trạng thái cảm xúc phong phú, phức tạp, ông đã để nhân vật tự độc thoại nội tâm và “quay
cuồng” với mớ nghĩ suy chẳng có hồi đáp nào. Những giằng xé, day dứt, những đau khổ tột cùng đã được thể hiện sâu
sắc qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Tình yêu của chàng trại không chỉ là cơn “say nắng” tầm thường nhứ thông thường
nữa mà là “say nắng” đặc biệt đến khác biệt. “Say nắng” khiến cho nhân vật không còn biết đến cuộc sống xung quanh,
“say nắng” khiến chàng trung úy không biết phải đi đâu, về đâu, phải làm gì và phải sống như thế nào? Đó phải chăng là
kết quả của tiếng sét ái tình – một kết quả không có hậu...? Biện pháp lặp trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của
truyện ngắn “say nắng”. Nhà văn có thể nhập thân vào nhân vật đồng cảm cùng nhân vật có thể dùng ngôn ngữ tinh tế
để diễn tả tâm lý, hay tạo nên những mâu thuẫn, đối lập để thể hiện tâm lý một sách sâu sắc, cũng có thể đề nhân vật
tự độc thoại nội tâm. Mặt khác, tác giả còn miêu tả tâm lý nhân vật thông qua cách nhấn mạnh bằng thủ pháp lặp.
Trước hết là lặp hành động: “đi đi lại lại” trong căn phòng của chàng trung úy. Hoạt động đó được nhắc đến lần đầu sau
khi chàng trung úy tiễn người phụ nữ ra đi và trở lại phòng. Nó tiếp tục được nhắc đến lần thứ hai sau khi chàng ngồi
suy nghĩ miên man về nàng. Ngay trong hành động đã thể hiện tâm trạng rối bời, đứng ngồi không yên của chàng trai,
đúng với tâm thế của một đôi “đang yêu”, vô cùng lắng lo và bất an khi chưa hay tin người kia. Tiếp đó là sự lặp lại của
tâm trạng. Chàng trai lo lắng và băn khoăn không biết cuộc sống của mình sẽ ra sao nếu thiếu nàng. Ba lần tâm trạng ấy
được lặp lại một cách liên tục: “Và chàng cảm thấy đau lòng, cảm thấy toàn bộ cuộc sống sau đây của mình nếu không
có nàng thì sẽ vô dụng biết bao nhiêu, đến nỗi chàng đâm ra hoảng sợ vì tuyệt vọng”, tiếp đó là: “vắng nàng, giờ đây ta
làm thế nào để qua được cả một ngày trời ở cái nơi hẻo lánh này?”, đến lần thứ ba: “Và ta sẽ làm gì, sẽ làm sao để sống
qua được cái ngày vô tận này. với những nối nhớ nhung ấy”. Tất cả đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu
sắc về một chàng lính “thủy chung” với mục tiêu của mình dù chỉ là “một đêm qua đường”. Mọi sự bắt đầu đều đã
mang đến éo le, làm sao có thể nên duyên với một người phụ nữ đã có gia đình, điều này vốn đã chẳng có kết cục tốt
đẹp. Mọi sự đối lập và mâu thuẫn dường như được Bunin đẩy lên cao trào, không bàn đến tình yêu thì xuất thân ở hai
tầng lớp khác nhau đã là một “chìa khóa” – đất diễn rộng mở cho các nhà văn nói chung cũng như Bunin nói riêng đào
sâu về những “sâu xa khác biệt” của giới tầng lớp quý tộc cũng như tầng lớp thường dân. Nói như vậy để hiểu rằng
Bunin đã vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
1.2. Ngôn ngữ gợi tả, giàu sức gợi cảm
Trong hầu hết các sáng tác của Bunin, bối cảnh chủ yếu là khung cảnh nông thôn Nga yên bình và thơ mộng.
Truyện ngắn “Say nắng” cũng không ngoại lệ, một câu truyện tình yêu đơn giản, trong trẻo mà sâu lắng. Một mối tình
giữa chàng trung úy điển trai và một người đẹp chưa từng quen biết. Sau đêm ân ái, si mê cô gái xinh đẹp kia đã rời đi
trong sự tỉnh táo lạ thường. Chỉ để lại chàng trung úy trong sự bối rối, ngơ ngác, cô độc và đau buồn. Sự gặp gỡ và khởi
đầu tình yêu như một cơn “Say nắng” rất đỗi tự nhiên, không giống như một hoàn cảnh người ta sắp xếp trước hay đã
được ông trời định đoạt.
Xuyên suốt câu chuyện có sự đan xen, kết hợp tự nhiên giữa lời của người kể chuyện với với lời của nhân vật
trong chuyện. Bunin đã miêu tả một cách tinh tế từng trạng thái của hai nhân vật, ngôn ngữ trong chuyện rất nhẹ nhàng
sâu lắng nhưng lại cho ta thấy rõ cảm giác sâu sắc một cách lạ thường, dường như nó mơ màng nhưng lại rất rõ nét cứ
thế chạm nhẹ vào tâm hồn người đọc nhưng sự mờ ảo và rất nên thơ ấy lại để lại trong mỗi chúng ta một sự suy tư rất
khó diễn tả.
Câu chuyện sử dụng ngôn ngữ dung dị, đơn giản là để chạm tới mọi nhân dân Nga và mọi đọc giả sau này.
Trong chuyện không sử dụng ngôn ngữ hàn lâm, mỹ lệ. Ngôn ngữ nhẹ nhàng, dung dị nhưng chạm đến trái tim của
người đọc, giàu sức gợi tả và giàu sức gợi cảm. Sự gợi hình gợi cảm trong “Say nắng” được tạo nên từ ngôn ngữ dung dị
kết hợp với những hình ảnh thiên nhiên đạm chất trữ tình, lãng mạn đã phác lên một bức tranh thiên nhiên, một bức
tranh tình yêu đẹp giữa đất nước Nga trữ tình. Một tình yêu đơn thuần, đẹp và buồn, cái buồn xuất phát từ tâm trí của
nhân vật chàng trung úy. Thấm lên từng hàng cây, khung cảnh của câu chuyện.
Sức gợi của ngôn ngữ đã giúp chúng ta nhìn thấy một câu chuyện đẹp đúng nghĩa. Ở đây không phải cái đẹp
lộng lẫy, cái đẹp của sự chỉn chu sang trọng. Ngôn ngữ trong “Say nắng” của Bunin tạo nên một cái đẹp đơn thuần nhất,
một cái đẹp phải cảm nhận bằng tâm hồn chứ không thể chỉ cảm nhận bằng mắt. Cái đẹp mà Ivan Bunin thể hiện trong
câu chuyện là sự rung động từ những trái tim yêu, bằng những thổn thức, bồi hồi trong tâm hồn, sự xao xuyến luyến
lưu của nỗi nhớ tình nhân.
Hình ảnh thiên nhiên nước Nga hiện lên khắp câu chuyện: “Phía đằng trước là màn đêm điểm những đốm
sáng. Từ trong bóng tối ấy, những làn gió mạnh, dịu mềm phả vào mặt, còn những đốm sáng rập rình lìu mãi về một
bên: con tàu có cái sặc sỡ của sông Volga quay lái chạy một vòng rộng, cập vào một bến nhỏ.” Tác giả sử dụng ngôn ngữ
thuần túy, lối miêu tả nhẹ nhàng mà tinh tế
vẫn tạo cho người đọc nhiều luyến lưu về câu chuyện tình giữa chàng trung úy điển trai và người phụ nữ lạ
mặt không quen biết.
1.3. Cốt truyện thu hút, đơn giản, tập trung vào tâm lý nhân vật
Say nắng có cốt truyện rất đơn giản: một mối tình ngoài vợ ngoài chồng giữa chàng trung úy điển trai và người
đẹp không quen biết. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu cả hai đều rơi vào trạng thái si mê, và may mắn, cùng thoát khỏi lưới
tình sau một đêm ân ái. Trong cơn say nắng này, chỉ có người thiếu phụ xinh đẹp đã tỉnh táo rời đi, để lại chàng trung
úy trong sự bối rối, ngơ ngác, cô độc, buồn rầu. Dường như, trong bảo tàng ký ức của chàng trung úy và trong những
trang văn rất đẹp của Ivan Bunin, mùi của làn da cháy nắng, mùi của chiếc xiêm vải gai… vẫn còn vương lại, như những
dấu ấn nửa hư nửa thực của một cuộc tình đã mất. Cốt truyện xoay quanh 2 nhân vật với những cảm xúc, tâm trạng
được Bunin tập trung khắc họa. Bunin phải thực sự nhập thân vào nhân vật, phải sống cùng nhân vật của mình, đồng
cảm với từng niềm vui, nỗi buồn của nhân vật. Cốt truyện đan xen giữa lời của người kể chuyện với lời của nhân vật.
Điều đó khiến ta khó có thể nhận ra đâu là lời của nhà văn, đâu là suy nghĩ của nhân vật. Nhà văn cũng để nhân vật tự
bộc lộ, sống với chính thế giới nội tâm của mình. Nhân vật của ông tự độc thoại với mình, tự đặt ra những câu hỏi cho
mình và tự trả lời chúng. Thông qua cốt truyện, Bunin có thể bộc lộ cảm xúc trữ tình của mình đối với cảnh vật và con
người được mô tả.
1.4. Kết thúc mở
Người đọc bắt gặp một cái kết chóng vánh, mơ hồ như tiêu đề “Say nắng” đã gợi ra. Thay vì kéo dài những giây
phút thăng hoa trong tình yêu của hai nhân vật chính là chàng thiếu úy và “người đẹp không quen biết”, I. Bunin dành
cho tác phẩm của mình một cái kết dường như thật thiếu trọn vẹn, day dứt và tiếc nuối. Sau khi tiễn nàng đi, viên thiếu
úy trở về căn phòng thuê với nỗi ám ảnh trong tâm hồn, sự hoảng hốt và tuyệt vọng khi những dấu vết về nàng đang
dần dần tan biến. Anh buộc phải rời khỏi căn phòng ấy để lên chuyến tàu tiếp theo, khi “những ánh lửa tản mạn giữa
màn đêm chung quanh cứ lùi dần về sau”. tâm trạng nặng trĩu đó đeo bám anh đến cả khi anh lên tàu: “Viên sĩ quan
ngồi lặng trong căn phòng trống trải bốn phía trên boong tàu và anh cảm thấy mình đã già thêm chục tuổi”. Đến cả khi
kết thúc tác phẩm, độc giả lẫn chàng trai đều chẳng hay biết gì về cô nàng đã qua đêm với anh ngoại trừ những chi tiết
rất mờ nhạt như thành phố phía Nam, người chồng cùng đứa con gái ba tuổi của nàng. Tình yêu của họ chấm dứt khiến
cho chàng trai đau khổ, song âu đó cũng là một cái kết thỏa đáng cho một mối tình ngoài vợ ngoài chồng.
Tuy dở dang, đau đớn là vậy, song chúng ta cũng có thể coi đây là một “lối thoát” trọn vẹn nhất cho câu
chuyện say nắng của hai con người xa lạ vô tình va phải nhau trên chuyến tàu. Dường như độc giả sẽ chẳng thể kì vọng
gì hơn ở một tình yêu chỉ nảy mầm và đơm hoa trong vỏn vẹn một ngày, khi mà tất cả những bước quan trọng nhất
như làm quen, thấu hiểu, cảm thông,… đều đã được lược bỏ hết sang một bên. Hai nhân vật chính gặp nhau và sà vào
vòng tay của nhau ngay tắp lự, dành trọn cho đối phương những cảm xúc “cả đời này, cả đời này cũng chưa từng trải
qua”… Trong mối tình sớm nở tối tàn ấy của mình, cả hai đã vừa bỏ lỡ nhau, song cũng vừa kịp thời tìm thấy nhau, yêu
thương nhau, gieo vào lòng nhau những ấn tượng tốt đẹp, sâu đậm mà suốt đời không tài nào quên được.
Truyện ngắn vốn có khả năng tái hiện những lát cắt của cuộc sống thực tại; nó đi sâu vào phân tích, diễn đạt
những khoảnh khắc ngắn trong cuộc đời dài rộng, không ngừng diễn tiến của con người nói riêng và xã hội nói chung.
Kết thúc mở trong truyện ngắn có thể coi là một thủ pháp kinh điển, khi mà các sự kiện, mâu thuẫn trong tác phẩm sẽ
không được giải quyết một cách hoàn hảo, từ đó những khoảng trống được mở ra và gieo vào lòng người đọc, khiến
người đọc trăn trở, tưởng tượng và suy ngẫm mãi về cái kết ấy: “Kết thúc mở mang một ý nghĩa tượng trưng nghệ
thuật lớn lao. Nhà văn muốn chỉ ra (…) rằng dòng đời mô tả trong truyện vẫn còn đang tiếp tục và trong nó hạnh phúc
cùng khổ đau, khát vọng và bất lực, niềm vui và buồn đau đan cài, không thể phân tách” (PGS.TS Đào Tuấn Ảnh). Đối với
“Say nắng”, hiển nhiên Bunin đã thành công gieo vào lòng người đọc cảm xúc vừa trống trải lại vừa bâng khuâng như
vậy: ta sẽ không khỏi cảm thán “Liệu rằng sau khi cuộc tình đã kết thúc, viên thiếu úy sẽ dành cả đời để tương tư về
nàng hay không?”; “Liệu rằng họ sẽ còn cơ hội gặp lại nhau ở thành phố phía Nam nơi nàng đang êm ấm với gia đình
nhỏ của mình hay không?”; “Hay liệu rằng trong tương lai gần, viên sĩ quan phải chăng sẽ lần nữa nếm được trái ngọt
của tình yêu với một cô gái khác?”… Sự bí ẩn về tương lai phía trước cùng sự khó đoán trong số phận của các nhân vật
mang một chiều sâu không bao giờ chạm đáy, độc giả được trao đặc quyền “định đoạt kết cục” cho nhân vật, từ đó
“đồng sáng tạo”, tham gia vào xây dựng cái kết chân chính mà họ mong muốn ở tác phẩm… Bằng cách để ngỏ kết
truyện, “Say nắng” của Bunin đã để lại những dấu ấn đậm sâu trong lòng người đọc.
Cách kết thúc truyện ngắn cho ta thấy một “tác phong Bunin” rất đặc trưng khi ông viết về tình yêu. Tác giả
kiên định với quan niệm “tình yêu là nhựa sống của con người”, vậy nên kết thúc của “Say nắng” dĩ nhiên cũng truyền
tải thông điệp tương tự. Bằng chứng xác đáng nhất chính là hình ảnh tiều tụy, héo mòn về cả thể xác lẫn tinh thần của
viên thiếu úy sau khi người tình của anh đi mất: anh trở nên tê liệt trong xúc giác, thính giác lẫn vị giác, tâm hồn anh
trống rỗng, già nua như thể đã “già đi chục tuổi”. Nhấn mạnh cái kết nhuốm màu tuyệt vọng trong lòng viên sĩ quan,
I.Bunin truyền tải được bi kịch của một tình yêu không trọn vẹn, một tình yêu bị đánh mất. Qua đó, ta cũng thấy được
quy luật của tình yêu: tình yêu đẹp, say đắm, nồng nàn, khiến con người kết nối, chia sẻ và đồng điệu với nhau; song
tình yêu cũng có thể là sự chia ly, dang dở; cũng bởi tình yêu là nhựa sống mà khi con người không còn tình yêu bên
cạnh nữa, họ cũng mất đi niềm vui, đam mê hay hi vọng… Bên cạnh tính mở của mình, cái kết cho “Say nắng” dễ gợi lên
liên tưởng cho người đọc đến những chuyện tình đẹp mà dang dở khác đã từng xuất hiện trong loạt truyện ngắn của
Bunin, như chuyện tình nàng Russia với chàng gia sư (“Ruxia”), nàng Olia (“Hơi thở nhẹ”), hay nhân vật “tôi” với Natali
và Sonia,…v.v. Những tư tưởng về tình yêu mà nhà văn gửi gắm trong các truyện ngắn của mình tuy đồng điệu mà luôn
mới mẻ, hấp dẫn.
Tựu trung lại, kết thúc mở cho “Say nắng” của I.Bunin là một trong những điểm sáng tiêu biểu của tác phẩm,
góp phần tăng thêm sức nặng ý nghĩa cho một cốt truyện có phần mộc mạc mà vẫn cuốn hút. Cách kết thúc tác phẩm
này cũng là một thủ pháp đặc trưng, mang tính tiêu biểu trong thể loại truyện ngắn nói chung.
Được mệnh danh là một trong những ông thánh truyện ngắn, Chekhov là một
trong những người đặt nền móng cho sân khấu kịch tâm lí hiện đại, là người sáng tạo
nên cách viết mới cho toàn thế giới. Sự nghiệp viết kịch của ông để lại cho hậu thế
bốn tác phẩm kinh điển, còn những truyện ngắn đặc sắc nhất của ông luôn được giới
văn sĩ và giới phê bình quý trọng. Nguyễn Tuân từng ca ngợi: “Truyện Bê-li-cốp là
một áng văn đả kích lên tuyệt đỉnh: hình thù, tên họ nhân vật đã thành một cái sự, đã
thành một hình dung từ ngày nay vẫn còn tác dụng lớn”. Thông qua những biến động
xã hội của nước Nga lúc bấy giờ, Chekhov đã thành công khi phát hiện ra nhiều góc
nhìn mới lạ về cuộc sống, về con người nơi đây. Lối sống cũ kĩ, rập khuôn theo
chuyên chế, giáo điều của xã hội Nga thế kỉ XIX, đã sản sinh ra những con người
“sống trong bao” như nhân vật Belikov được kể đến trong tác phẩm “Người trong
bao” của nhà văn.
Hình tượng nhân vật Belikov: vừa yếu ớt như một nhân cách vừa mạnh như
một căn bệnh dễ lây lan. Hình tượng Belikov được Chekhov phóng đại lên tới mức
nghịch dị không chỉ nhằm mục đích đả kích, gây cười, mà còn như để nhấn mạnh bi
kịch khủng khiếp của nỗi sợ cuộc sống. Tổng hòa tất c những biểu hiện “trong bao”,
Belikov trở thành một con người quái dị. Song nếu nhìn vào những biểu hiện đơn lẻ,
có thể thấy những nét tâm lí đời thường ấy quen thuộc đối với mỗi người đến mức
không thấy bất bình thường nữa. Những nét tính cách ấy tiềm ẩn ở trong mỗi người.
Truyện của Chekhov định hướng vào tâm lí đời thường nên có thể coi người đọc cũng
không nằm ngoài thế giới của Belikov. Chính vì trong mỗi người dân thành phố (và
cả người đọc) đều có một phần Belikov nên y mới thôi miên được tất cả. Nỗi sợ cuộc
sống không chỉ thủ tiêu ý ý chí của người mang nó trong mình, mà còn là căn bệnh
rình rập, đe dọa cuộc sống của mọi người. Thủ pháp nghịch dị được nhà văn dùng để
“lạ hóa” cái đời thường, chỉ ra sự khủng khiếp, “bất bình thường” của nó.
Hình tượng Kovalenko và Varenka đối lập với Belikov, nhưng không được
Chekhov lí tưởng hóa, đó không phải là giải pháp mà chỉ là một phương án có thể.
Kovalenko là một thầy giáo vừa mới chuyển về ngôi trường mà Belikov đang làm
việc. Belikov có tình cảm với người chị gái, Varenka. Ý nghĩ lấy vợ choán lấy tâm trí
của ông giáo viên kia, nhưng ông ta cứ sợ này sợ nọ. Và rồi tình cảm đó cũng nhanh
chóng qua đi. Belikov đã nhìn thấy hai chị em kia đi xe đạp, điều mà Belikov cho là
khủng khiếp. Ông ta đến nhà của họ, nhưng chỉ gặp Kovalenko vì Varenka đã đi vắng
và chỉ trích rất nhiều về việc đó. Kovalenko cũng không phải vừa, tạo nên một cuộc
tranh cãi gay gắt. Cuối cùng, Kovalenko túm lấy cổ áo của Belikov, xô ông ta xuống
cầu thang, làm ông ta ngã đau điếng. Tất cả, kể cả chuyện yêu đương, chấm hết bằng
điệu cười khoái chí của Varenka. Belikov trở về nhà mà không đi bệnh viện, một
tháng sau thì chết. “Câu chuyện tình yêu” của Belikov thực chất là một “sự kiện giả”
không thay đổi hiện trạng cuộc sống của anh ta. Nếu nhìn vào nó từ bên ngoài bằng
con mắt trào phúng thì có thể thấy hình tượng bà Mavra ở đường viền câu chuyện là
một ví dụ nhấn mạnh tính điển hình xã hội của nhân vật Belikov.
“Truyện trong truyện” là kiểu kết cấu truyện có sự đan lồng một hoặc một số
truyện thành phần vào trong một cốt truyện lớn bao trùm, thường gọi là truyện khung.
Kiểu kết cấu “truyện lồng truyện” tạo ra hai điểm nhìn trần thuật từ bên trong và bên
ngoài Điều này sẽ tạo ra khoảng cách tự sự/sử thi giữa nhà văn và độc giả, hiệu quả
gián cách động, người đọc có thể tiếp cận nhân vật cả từ góc độ chủ quan và khách
quan, vừa có thể thấu hiểu tâm lý của nhân vật, vừa có thể nhìn nhận sự việc từ góc
độ người ngoài cuộc.
Kết cấu “truyện trong truyện” của “Người trong bao” được thể hiện ở chỗ tác
giả không trực tiếp kể về cuộc đời của nhân vật Belikov mà được kể gián tiếp thông
qua truyện khung là cuộc trò chuyện giữa hai nhân vật Burkin và Ivan Ivanưch tại
một nhà kho sau chuyến đi săn về muộn.
Câu chuyện được kể lại ở ngôi kể thứ 3, người kể lại toàn bộ câu chuyện là
Burkin – giáo viên trường phổ thông, đồng nghiệp với Belikov. Anh kể cho bác sĩ
Ivan Ivanưch về Belikov. Vì đi săn ra khỏi rừng quá muộn mà “phải dừng lại nghỉ
đêm trong gian nhà kho của ông trưởng xóm Prôcôphi ở tận cuối
làng Mirônôxítxkôê”. Rồi họ kể cho nhau về đủ thứ chuyện, từ chuyện vợ ông trưởng
làng là bà Mavra, “một phụ nữ khỏe mạnh không đến nỗi ngu đần, nhưng cả đời
không đi ra khỏi làng, chưa từng nhìn thấy thành phố, đường sắt, và chục năm trở lại
đây lúc nào cũng ngồi ru rú bên bệ lò, chỉ buổi tối mới đi ra ngoài nhà”.
Rồi Burkin nói đến trường hợp của Belikov - “một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp”, đồng
nghiệp vừa mới chết của Burkin. Kết thúc câu chuyện là khi cả hai nhận ra đã muộn
và Burkin đi ngủ, còn Ivan Ivannưch khi nghe tiếng bước chân của bà Mavra thì “cứ
thở dài và trở mình luôn luôn, sau đó ông dậy rồi lại đi ra ngoài, ngồi xuống bên
cửa, lấy thuốc ra hút”.
Câu chuyện bên trong là câu chuyện cuộc đời Belikov qua người kể chuyện
ngôi thứ nhất hạn tri – Burkin. Burkin là đồng nghiệp của Belikov, đồng thời là hàng
xóm của Belikov, nhà ngay đối diện. Vì vậy khi đọc tác phẩm, độc giả sẽ có một phần
tin tưởng đối với câu chuyện mà Burkin kể kèm lời nhận xét, đánh giá của anh ta. Tuy
nhiên, anh ta không phải đấng toàn năng mà là một con người bình thường tự xem
mình là nghiêm chỉnh, chín chắn, đứng đắn, nhưng lại phải sợ hãi, quy phục, chịu
đựng Belikov. Anh ta và những người như anh ta (mà Burkin gọi là “chúng tôi”) luôn
sống trong sợ hãi: “Sợ nói to, sợ gửi 13 thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, giúp đỡ người
nghèo, dạy học chữ”; là những người vô tâm, vô tình, Belikov sống mười lăm năm
mà hắn không hề để ý là Belikov chưa có vợ: “Không hiểu sao chúng tôi đều chợt
nhớ rằng Bêlikốp không có vợ, và bây giờ chúng tôi mới lấy làm lạ rằng bấy lâu nay
chúng tôi đã bỏ qua, đã hoàn toàn không để ý đến chi tiết quan trọng đến thế trong
đời hắn”; và khi xuất hiện cô gái quá thì Varenka, mới nghĩ đến chuyện ghép đôi cho
Belikov – không phải vì nghĩ đến hạnh phúc cho hắn, mà vì đó là trò đùa giải khuây
cho cuộc sống tẻ nhạt vô vị của chính Burkin.
Câu chuyện bên ngoài được thể hiện qua hình ảnh biểu tượng cái bao. Hình
tượng người trong bao là một sáng tạp đầy độc đáo và giàu giá trị khái quát. Cái bao
tượng trưng cho lối sống ích kỉ, thu mình, ích kỷ, hèn nhát và lạc hậu. Belikov chính
là người mang trong mình một cái bao, là biểu tượng, là sản phẩm của xã hội Nga đầy
căng thẳng và ngột ngạt cuối thế kỉ XIX. Đó là xã hội tồn tại những con người tự thu
mình vào chiếc bao của riêng mình, luôn mặc cảm và trốn tránh thế giới, cách ly với
thế giới. Họ không dám thể hiện mình, nói lên suy nghĩ của mình, làm những việc
được cho là đi ngược lại với tư cách, chuẩn mực của xã hội. Dù Belikov chết nhưng
lối sống trong bao vẫn còn tồn tại, để lại ám ảnh lâu dài và huỷ hoại cuộc sống tinh
thần của những con người Nga. Vì vậy, thông qua hình tượng cái bao, Chekhov muốn
gửi gắm đến nhiều thông điệp ý nghĩa. Tác giả đã lên tiếng phê phán lối sống ích kỉ,
cá nhân của một bộ phận tri thức Nga, lên án xã hội phong kiến Nga áp đặt những chỉ
thị, lệnh cấm lên con người tạo ra một xã hội gò bó tù túng. Thông qua đó, tác giả
muốn loại bỏ lối sống thu mình trong cái bao, sống một cách tự do và thoải mái,
chống lại các định kiến và hủ tục lạc hậu của xã hội đã ăn mòn trong nếp sống và suy
nghĩ.
Gọi Burkin là người kể chuyện hạn tri, không đáng tin cậy vì anh ta cũng sợ và
ghét Belikov. Câu chuyện được kể lại với giọng đầy ác cảm, mỉa mai nên không thể
xem những đánh giá, những nhận xét, những mô tả về Belikov là vô tư khách quan
đáng tin cậy được. Tâm trạng xấu hổ, sợ dư luận, sợ bị làm trò cười cho thiên hạ, sợ
cấp trên cho từ chức của Belikov tất cả đều là lời của Burkin, đều là Burkin và những
người như Burkin “suy bụng ta ra bụng người” mà đổ cho Belikov. Về tổ chức điểm
nhìn trần thuật, Chekhov đã có sự khéo léo, linh hoạt trong luân phiên điểm nhìn của
người kể chuyện với điểm nhìn của nhân vật tạo nên hình thức truyện lồng trong
truyện.
Người kể chuyện với điểm nhìn của nhân vật Burkin có điểm nhìn bình đẳng
với thế giới được miêu tả, đã cho thấy nhận định của anh ta về Belikov: “Con người
này lúc nào cũng có khát vọng mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ, tạo ra cho
mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài.”
Còn người kể chuyện ngôi thứ ba đã đứng cao hơn thế giới được miêu tả, để thuật lại
những sự kiện và nhân vật trong câu chuyện đó một cách khách quan. Việc luân phiên
điểm nhìn trần thuật vừa đảm bảo được tính khách quan vừa vẫn thể hiện được tính
chủ quan, gây được cảm giác gần gũi và chân thật của câu chuyện. Thái độ của những
nhân vật người kể chuyện trong truyện ngắn thể hiện hai cấp độ phản ứng đối với câu
chuyện: Burkin kể xong chuyện, có lúc đã “bước ra khỏi nhà kho”, rồi sau đó lại vào
ngủ và coi những liên tưởng của Ivan Ivanuch đã lan man “sang chuyện khác”, còn
Ivan Ivanuch, sau khi đã vào ngủ, nghe tiếng chân bà Mavra, liên tưởng đến mình,
“thở dài và trở mình luôn luôn, sau đó ông dậy rồi lại đi ra ngoài, ngồi xuống bên
cửa, lấy thuốc ra hút”. Bên ngoài là ánh trăng và những vì sao.
Ngay đoạn đầu tác phẩm, Chekhov đã tả nhân vật kể chuyện Burkin “trong bóng tối
không nhìn rõ mặt ông”, khác hẳn với Ivan Ivanưch “ngồi phía ngoài cánh cửa, ánh
trăng chiếu lên người ông”. “Không, không thể sống như thế mãi được!”. Chekhov
để nhân vật thốt lên những lời như thế trên nền bức tranh tuyệt đẹp: “Thật khó mà tin
rằng tạo hoá lại có thể yên lặng như thế. Vào đêm trăng, khi nhìn thấy con đường
quê thoáng đãng với những ngôi nhà nhỏ, những đống cỏ khô, những hàng kiễu rủ,
lòng ta bỗng thấy thanh thản,… tâm hồn ta trở nên dịu dàng, nhè nhẹ buồn và tốt
đẹp. Có cảm giác rằng đến cả những vì sao cũng soi xuống tâm hồn ta với những vẻ
đầy thương cảm và trìu mến, rằng cái ác đã bị loại bỏ trên mảnh đất này và vạn vật
đều êm đẹp, yên lành…”. Bức tranh thiên nhiên ấy không chỉ làm phông nền cho
truyện, mà còn gắn với những ưu tư, suy nghĩ của con người về cuộc đời, về những
vấn đề mang tính triết lí xã hội lớn lao.
Nếu ta liên tưởng phần kết với đoạn đầu truyện ngắn (Burkin “nằm trên đống
cỏ khô, trong bóng tối”, còn Ivan Ivanuch “ngồi phía ngoài cửa và ngậm tẩu thuốc
lá; ánh trăng chiếu lên người ông”), thì có thể thấy tác phẩm có một kết cấu vòng
tròn quẩn quanh đến bức bối và trăn trở, đồng thời có thể thấy thái độ hàm ẩn của tác
giả đối với hai người kể chuyện. Thái độ ấy thể hiện “giọng điệu trữ tình – mỉa mai
nước đôi” của truyện ngắn.