Professional Documents
Culture Documents
Đề Cương Học Phần Thể Loại Và Tác Gia Tiêu Biểu Văn Học Nga Slav
Đề Cương Học Phần Thể Loại Và Tác Gia Tiêu Biểu Văn Học Nga Slav
Đề Cương Học Phần Thể Loại Và Tác Gia Tiêu Biểu Văn Học Nga Slav
3. Nhicolai Gogol: truyện ngắn Chiếc áo khoác; hài kịch Quan thanh tra.
− Truyện ngắn Chiếc áo khoác: (tr172, 173 Sách lịch sử)
+ Viết về số phận bi thảm của con người nhỏ bé, những viên chức thường trong bộ máy quan
liêu cồng kềnh, nhằng nhịt của nước Nga.
+ Hoàn cảnh sáng tác: nghe chuyện khẩu súng săn với viên chức nghèo.
+ Nhân vật chính: AKAKI
➔Chiếc áo khoác là tác phẩm có sức tố cáo mãnh liệt và thấm đượm tinh thần nhân đạo.
➔CN hiện thực trong văn học Nga.
TRIỂN KHAI PHÂN TÍCH truyện ngắn CHIẾC ÁO KHOÁC:
Khái quát
“Chiếc áo khoác” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Gogol, được viết trong thời gian từ năm
1839 đến năm 1842.
Nhân vật chính của truyện là Akaky Akakievich Bashmachkin – một công chức bàn giấy, đã lớn tuổi.
Công việc của ông ta là sao chép các loại giấy tờ, và ông say mê công việc đó. Cuộc sống bình lặng đến
vô cảm bỗng thay đổi khi Akaky cần có một chiếc áo khoác mới với giá tám mươi rúp. Để có được chiếc
áo, nhân vật đã phải làm việc hết mình, tiết kiệm hết mức, và cuối cùng, ước mơ thành hiện thực. Ngày
ông mặc chiếc áo khoác mới đến công sở, các đồng sự vốn trước kia luôn trêu chọc, coi thường ông bỗng
trở nên niềm nở, ân cần, thậm chí có người còn mời ông đến nhà dự tiệc sinh nhật. Nhưng buổi tối, lúc
Akaky ở đám tiệc trở về, ông bị những người “ria mép xồm xoàm” cướp mất chiếc áo. Cầu cứu từ lính
gác, quận trưởng cảnh sát đến “nhân vật quan trọng”, nhưng Akaky không nhận được một sự giúp đỡ nào,
thậm chí còn bị một “nhân vật quan trọng” quát mắng đến nỗi không đứng vững nổi. Trở về nhà, ông lên
cơn sốt và lặng lẽ chết trong cô đơn. Ít lâu sau cái chết của Akaky, người ta đồn có con ma trông giống
ông ta hoành hành trong thành phố, chuyên cướp áo khoác của mọi công chức, bất kể thuộc phẩm trạch
nào. Nạn nhân cuối cùng của con ma chính là “nhân vật quan trọng”. Hình như đã hài lòng với chiếc áo
của “nhân vật quan trọng”, con ma thôi không đi cướp nữa, mặc dù nhiều người vẫn còn quả quyết vẫn
thấy nó xuất hiện ở những khu phố hẻo lánh.
(TÓM TẮT: Chiếc áo khoác kể về bác Akaky Akakievich Bashmachkin, một công chức bàn giấy đã lớn
tuổi. Công việc của bác ta là sao chép các loại giấy tờ và bác say mê công việc đó. Cuộc sống bình lặng
đến vô cảm bỗng thay đổi khi Akaky cần có một chiếc áo khoác mới với giá tám mươi rúp.
Để có được chiếc áo, bác đã phải làm việc hết mình, tiết kiệm hết mức và cuối cùng, ước mơ thành hiện
thực. Ngày bác mặc chiếc áo khoác mới đến công sở, các đồng sự trước kia vốn luôn trêu chọc, coi thường
bác bỗng trở nên niềm nở, ân cần, thậm chí có người còn mời bác đến dự tiệc sinh nhật. Nhưng buổi tối,
lúc ở đám tiệc trở về, bác Akaky bị cướp mất chiếc áo.
Bác chạy khắp nơi, cầu cứu từ lính gác, quận trưởng cảnh sát đến "nhân vật quan trọng", nhưng Akaky
không nhận được một sự giúp đỡ nào, thậm chí còn bị "nhân vật quan trọng" quát mắng đến nỗi không
đứng vững nổi. Trở về nhà, ông lên cơn sốt và lặng lẽ chết trong cô đơn. Ít lâu sau cái chết của Akaky,
người ta đồn có một con ma trông giống bác ta hoành hành trong phố, chuyên cướp áo khoác của mọi
công chức, bất kể thuộc phẩm trạch nào. Nạn nhân cuối cùng của con ma chính là "nhân vật quan trọng".
Hình như đã hài lòng với chiếc áo của "nhân vật quan trọng", con ma thôi không đi cướp nữa mặc dù
nhiều người quả quyết vẫn còn thấy nó xuất hiện ở những khu phố hẻo lánh...)
3.3.2. Anh công chức mất khẩu súng săn
Cốt truyện “Chiếc áo khoác” trước liên có liên quan đến các truyện tiếu lâm lưu truyền trong giới công
chức ở Petersburg.
Gogol luôn cần các truyện cười, chẳng hạn, năm 1835, trước khi viết vở “Quan thanh tra”, Gogol từng
viết cho Pushkin:
“Xin làm ơn cho tôi một cốt truyện nào đó, buồn cười hay không cũng được, nhưng là một truyện tiếu lâ
m thuần túy Nga…” Còn sau đó, năm 1837, trong bức thư gửi N.Ya.Prokopovich ông viết:
“Đặc biệt hãy hỏi xin Julia (tức P.A. Annenkov), nói ông ấy viết cho tôi. Anh ấy có cái để viết, có lẽ
trong giới văn phòng đang có truyện cười gì đó”.
P.A.Annenkov, nhà phê bình, đồng thời là bạn của Gogol, trong hồi ức về nhà văn đã kể lại rằng ý tưởng
viết truyện “Chiếc áo khoác” lần đầu tiên xuất hiện nơi Gogol vào năm 1836, trước khi nhà văn ra nước
ngoài: “… Có lần, trong khi có mặt Gogol, người ta kể một chuyện vui về một anh chàng công chức
nghèo nào đó rất mê săn chim, đã tiết kiệm hết mức và lao động cật lực để ky cóp được số tiền đủ mua
một khẩu súng săn tốt với giá hai trăm rúp. Buổi đầu, anh chàng ngồi trên chiếc thuyền nhỏ bơi trên vịnh
Phần Lan đề đi săn, đặt cây súng quý giá trước mũi, mải trầm tư mộng tưởng đến lúc sực tỉnh, nhìn xuống
dưới mũi mình thì không thấy món đồ chơi mới đâu. Cây súng đã bị cuốn trôi vào đám sậy rậm rịt, anh
ta không thể nào len vào được, mọi cố gắng tìm kiếm đều vô vọng. Anh công chức về nhà, lên giường
nằm và không dậy được nữa: anh ta lên cơn sốt. Chỉ nhờ bạn bè, sau khi biết về sự cố, đã gom góp mua
bù, anh ta mới sống lại, nhưng mỗi khi nhớ lại câu chuyện khủng khiếp đó, mặt anh ta đều tái nhợt như
người chết (…) Câu chuyện vốn cũng có cơ sở thực tế đó đã làm mọi người cười, trừ Gogol cúi đầu nghe
một cách trầm tư. Truyện tiếu lâm là ý tưởng đầu tiên của tác phẩm tuyệt vời “Chiếc áo khoác”, và ý
tưởng đó gieo vào đầu Gogol chính vào buổi tối hôm đó”.
Ý kiến cho rằng những truyện cười dân gian thành thị, đặc biệt là những truyện tiếu lâm về giới công
chức, là một trong những nguồn quan trọng cho sự ra đời những tác phẩm của Gogol, trong đó có “Chiếc
áo khoác”, được nhiều nhà nghiên cứu chia sẻ. Truyện tiếu lâm không chỉ được phổ biến dưới dạng truyền
khẩu, mà còn được ghi chép, tập hợp thành những tuyển tập và xuất bản nhiều lần. Chính trong “Chiếc
áo khoác” cũng có chi tiết: các công chức buổi tối rảnh rỗi thường tụ tập chơi bài, uống trà và kể chuyện
cười cho nhau nghe, như câu chuyện về cái đuôi ngựa của Falconet (tức bức tượng Piotr Đại đế do nhà
điêu khắc người Pháp Étienne Falconet dựng năm 1782 trên quảng trường Senat ở Saint-Petersburg). Hình
tượng nhân vật Akaky chắc chắn có mối liên hệ với các truyện cười dân gian. Ngoài truyện về anh chàng
mất súng ở trên, người ta còn dẫn một truyện khác như nguồn của “Chiếc áo khoác”: có một công chức
nhiều năm làm nghề sao chép, bị trêu chọc bắt chép đi chép lại ba lần một tờ giấy với nội dung rằng chính
ông ta, với tên họ đầy đủ, bị kết tội chém đầu. Người công chức cần mẫn chép đến lần thứ ba thì bảo:
“Hình như công văn này nói về cái đầu của ai đó”. Có thể thấy những tương đồng giữa nhân vật của Gogol
với “cỗ máy sao chép” trong câu chuyện cười: Akaky làm ký lục cho đến lúc bạc đầu, ông tận tụy với
công việc sao chép đơn giản và không thể làm được việc gì khác (khi cấp trên muốn giao ông công việc
có tính sáng tạo hơn một chút là chuyển một bản báo cáo thành một bức thư thì ông cũng đầu hàng). Ngay
cả lúc rảnh rỗi ông cũng sao chép cho vui những tài liệu nào đó không phải vì nội dung hay hình thức của
tài liệu, mà vì đó là của cấp trên gửi đến. Bản thân cái tên của ông ta, Akaky Akakievich (tức Akaky con
của ông Akaky), mà lúc sinh ra được mẹ đặt cho cũng là một sự sao chép (“tên bố nó làm sao thì cứ gọi
nó như vậy”), đã nhấn mạnh cái bản chất “chỉ biết chép mà không biết nghĩ” của nhân vật.
Mối liên hệ với truyện cười dân gian mà bản chất thể loại là hài hước, trào phúng, nghịch dị, đa nghĩa…
đã góp phần tạo nên đặc trưng sáng tác của Gogol. Gogol, như nhận xét của Belinsky, “là một người nổi
tiếng thích đùa và sắc sảo” Tiếng cười Gogol hướng vào những mặt trái, mặt tối, mặt tầm thường thấp
hèn của xã hội và con người Nga thế kỷ XIX. Pushkin lúc sinh thời cũng nhận ra tài năng này của Gogol:
“Ông luôn nói với tôi – chính Gogol đã nhớ lại – rằng không có một nhà văn nào có cái tài vạch ra một
cách rõ ràng cái dung tục tầm thường (poshlost) của cuộc sống như thế, mô tả với sức mạnh như thế cái
dung tục tầm thường của con người tầm thường dung tục (poshlost poshlogo cheloveka), làm cho tất cả
cái vụn vặt nhỏ mọn vốn không ai để ý bỗng trở nên to lớn trước mắt tất cả mọi người”[6] Truyện của
Gogol phơi bày sự trống rỗng, vô nghĩa bao trùm lên cuộc sống những con người Nga, trong số đó có các
công chức thành thị (kiểu nhân vật tiêu biểu của Gogol), cuộc sống đó đã bị thay thế bằng sự tồn tại vật
chất tầm thường. Với “Chiếc áo khoác”, Gogol đã đẩy quá trình mất nhân tính nơi con người đến cực
điểm, khi tạo nên nhân vật Akaky – một con người mà mọi niềm vui chỉ ở khối lượng giấy tờ được cấp
trên giao cho chép, và mối tình duy nhất trong đời là với cái áo khoác.
3.3.3. Con người nhỏ bé
“Chiếc áo khoác” của Gogol đề cập đến một trong những đề tài tiêu biểu của văn học Nga: hình tượng
“con người nhỏ bé”. Đó là kiểu nhân vật văn học thời đại của chủ nghĩa hiện thực, thường ở vị trí thấp
kém trong bậc thang đẳng cấp xã hội, chẳng hạn như những công chức quèn, những kẻ tiểu thị dân hay
thậm chí là quý tộc nghèo. Khi văn học càng mang tinh thần dân chủ, thì hình tượng “con người nhỏ bé”
càng thu hút sự quan tâm của các nhà văn.
Có thể xem Pushkin là người khởi xướng đề tài này trong văn học Nga, với những tác phẩm như “Người
coi trạm”, “Kỵ sĩ đồng”, trong đó mô tả bi kịch của những người công chức nghèo bị vùi dập bởi cường
quyền, bởi những hoàn cảnh phi nhân tính, bởi sức mạnh cái ác, bởi số phận nghiệt ngã. Gogol là người
tiếp tục Pushkin.
Akaky là một “con người nhỏ bé”. Bản thân họ của ông ta đã thể hiện điều đó
Nhân vật của “Chiếc áo khoác” là công chức xuất thân từ tầng lớp bình dân, có phẩm hàm là “titulyarny
sovetnik” - tạm dịch là “cố vấn danh nghĩa”. Đó là phẩm hàm thứ 9 trong 14 bậc công chức dưới thời Nga
hoàng, và thuộc nhóm phẩm hàm thấp nhất, trong xưng hô chỉ được gọi là “vashchee blagorodie” (tạm
dịch là “thưa ông”), mà không có tiếp đầu tố “vysoko” hay “prevoskhoditelstvo” (với nghĩa là “cao, lớn”,
tạm dịch là “bẩm quan lớn”, “bẩm cụ lớn”) như với các phẩm hàm bậc trên (nếu so sánh với cách xưng
hô ở Việt Nam thì Akaky thuộc loại “không phải thằng mà cũng chẳng phải ông”). Vào đầu thế kỷ XIX,
người công chức nếu không thuộc dòng dõi quý tộc, đa phần kết thúc sự nghiệp của mình ở phẩm hàm
này, không thể lên đến bậc cao hơn, bởi vậy mới có những “cố vấn danh nghĩa vĩnh cửu” như Akaky,
ngồi bàn giấy đến bạc đầu và trở thành đối tượng trêu chọc, khinh thường của đồng nghiệp, kể cả những
người trẻ tuổi.
“Con người nhỏ bé” Akaky ban đầu xuất hiện với vẻ trào phúng, khôi hài: “vóc người thấp bé, mặt hơi rỗ
hoa, tóc hơi hung hung, mắt đã hơi kèm nhèm, trán hơi hói, hai bên má hằn những nếp nhăn và có nước
da được gọi là của kẻ bị bệnh trĩ”, cổ áo quá hẹp đến nỗi cái cổ ông ta trở nên “dài một cách lạ kỳ”, mũ
áo lúc nào cũng vương cọng rơm, sợi chỉ, vỏ dưa, bởi vì “ông có tài nghệ đặc biệt là lúc đi trên đường
luôn bước ngay dưới cửa sổ đúng lúc người ta vứt ra từ đó đủ thứ rác rưởi”,… Tuy nhiên, hình tượng đó
dần dần nhuốm màu đáng thương: chiếc áo khóac cũ kỹ đã quá rách nát không còn đủ sức chống chọi với
cái lạnh buốt giá của mùa đông Petersburg, và để sắm được chiếc áo mới, Akaky phải nhịn ăn, thôi không
uống trà, không thắp nến buổi tối, đi nhón chân nhẹ nhàng để đế giày đỡ mau mòn, quần áo đưa đi giặt
thưa hơn. Và Akaky thực sự trở thành nhân vật bi kịch khi bị cướp mất chiếc áo giữa đêm khuya giá lạnh,
cuống cuồng chạy cầu cứu khắp nơi. Đỉnh điểm của bi kịch ấy không phải là lúc Akaky bị “nhân vật quan
trọng” giáng một trận quát tháo sấm sét vào người, mà chính là lúc ông lặng lẽ chết trong cô đơn, không
để lại gì đáng giá ngoài cái áo khoác cũ và mấy cây bút lông ngỗng, mà cũng chẳng có ai thừa kế, chẳng
có ai tiếc thương.
Gogol năm 19 tuổi đã lên thủ đô Petersburg lập thân, lập nghiệp. Thành phố này, cả về thời tiết lẫn con
người, hẳn đã không niềm nở tiếp đón chàng trai đến từ miền quê Ukraina phương nam. Cuộc sống Gogol
chật vật, khốn khó, với nhiều thất bại. Ông từng làm công chức nhà nước một thời gian đủ để căm ghét
công việc bàn giấy tầm thường vô nghĩa và thấu hiểu nỗi nhục nhằn của thân phận “con người nhỏ bé”. Vì
vậy những công chức quèn đã trở thành nhân vật trung tâm trong hầu hết tác phẩm của ông, thường được
xây dựng chủ yếu với bút pháp trào phúng. Tuy nhiên, trong “Chiếc áo khoác”, hình tượng đó được lột tả
trên cả hai phương diện hài lẫn bi, và tính bi kịch ở mức độ tập trung cao nhất. Sau thành công của “Quan
thanh tra” – vở kịch được xem là kiểu mẫu cho hài kịch hiện thực Nga, trong đó nhân vật chính cũng là
một “con người nhỏ bé”, Gogol đã viết: “tôi cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái nhu cầu được sáng tác một
tác phẩm đầy đặn, trong đó không chỉ có cái cần phải cười.” “Tác phẩm đầy đặn” đó là bản trường ca
“Những linh hồn chết” mà theo ý đồ của nhà văn sẽ có quy mô rất lớn (“cả nước Nga hiện ra trong đó”),
nhưng rồi chỉ có tập 1 được hoàn tất và xuất bản, tập 2 bị nhà văn thiêu hủy trước khi qua đời ít lâu. Thời
gian nhà văn hoàn tất tập 1 “Những linh hồn chết” cũng là thời gian ông cho ra đời “Chiếc áo khoác”, và
rõ ràng “Chiếc áo khoác”, tuy khuôn khổ nhỏ hơn, nhưng cũng thể hiện nhu cầu sáng tạo tác phẩm “không
chỉ có cái cần để cười”.
Câu chuyện về Akaky và chiếc áo khoác được kể từ ngôi thứ nhất. Cái tôi - người kể chuyện hiện diện từ
đầu đến cuối truyện: đó là một người rất am hiểu về giới công chức: công việc, tính nết, nếp sống, thói
quen, cách ăn mặc, thú tiêu khiển, tâm lý… của họ, tất cả đều được kể lại một cách rất tỉ mỉ. Trong suốt
diễn biến các sự kiện liên quan đến Akaky, cái tôi – người kể chuyện luôn tỏ thái độ của mình. Mặc dù
giọng lưỡi trào lộng, chua cay, nhưng tâm trạng thì luôn ưu tư, thâm trầm, thương cảm. “Các người hãy
để tôi yên! Tại sao các người cứ hành hạ tôi thế?” – “con người nhỏ bé” chỉ kêu lên yếu ớt có một lần
duy nhất khi bị hạ nhục quá mức, nhưng âm vang của tiếng kêu đó vọng suốt tác phẩm, và cùng với nó là
lời nhắc nhở về sự bình đẳng: “Tôi là anh em của người mà!”
Nhà phê bình phái hình thức Nga B.M.Eikhenbaum trong bài viết nổi tiếng: “Chiếc áo khoác của Gogol
được tạo ra như thế nào?” có nói đến vai trò người kể chuyện và cách thức kể chuyện của Gogol: với
Gogol, cái quan trọng không phải là cốt truyện (cốt truyện thường nghèo nàn, thậm chí không có cốt
truyện), mà là vai trò người kể chuyện. Theo hồi ức của những người đương thời (I.S.Turgenev,
D.A.Obolensky, P.V.Annenkov,…), Gogol hay đọc truyện của mình cho mọi người và đọc rất hay, luôn
thay đổi ngữ điệu, nhấn rõ từng từ, khiến người nghe phải chú ý đến các sắc thái tinh tế của các ý tưởng.
Nếu như truyện của Gogol được viết ra nhằm hướng tới người nghe, người đọc tương tự như sự trình diễn
sân khấu như vậy, thì rõ ràng tiếng kêu “hãy để cho con người nhỏ bé được yên, đừng hành hạ họ nữa”
và “chúng ta là anh em” là những lời của chính Gogol thốt ra, thể hiện một tấm lòng đầy nhiệt huyết, đầy
nhân đạo của nhà văn khi hướng về “con người nhỏ bé”. Đó chính là lý do mà “Chiếc áo khoác” được
xem là ngọn cờ đầu của “Trường phái tự nhiên”, khuynh hướng văn học hiện thực chủ nghĩa xuất hiện
những năm 40-50 thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng của nhà phê bình dân chủ V.G.Belinsky. Một trong những
đặc điểm quan trọng của trường phái này là tinh thần dân chủ, nhân ái và quan tâm sâu sắc đến những
“con người nhỏ bé” như nạn nhân của cái ác ngự trị trong xã hội Nga nửa phong kiến nửa tư bản. Và để
nói về mức độ ảnh hưởng của Gogol trên phương diện này, không gì hơn là dẫn câu nói nổi tiếng được
coi là của F.M.Dostoevsky: “Tất cả chúng ta đều bước ra từ Chiếc áo khoác của Gogol”.
3.3.4. Bóng ma
Nếu “Chiếc áo khoác” của Gogol kết thúc ở cái chết của nhân vật Akaky, thì giá trị nhân đạo, giá trị phản
ánh hiện thực, hay phê phán vạch trần cái ác đều đã đạt ở đỉnh cao. Tuy nhiên, nhà văn chưa dừng lại đó,
mà thêm vào một phần “vĩ thanh” mà chính bản thân nhà văn như cũng bất ngờ về sự hiện diện của nó:
“Nhưng ai có thể ngờ rằng mọi chuyện về Akaky Akakievich đến đây nào đã hết…câu chuyện nghèo nàn
này của chúng ta bỗng nhiên lại có thêm cái kết huyền ảo”.
“Cái kết huyền ảo” này không ngừng là đề tài thảo luận của giới phê bình và nghiên cứu văn học.
Trước hết, “cái kết huyền ảo”, như chính cách nói của nhà văn, là một sự đối lập, bổ sung cho “câu chuyện
nghèo nàn” về nhân vật “con người nhỏ bé”: một con ma nhưng hết sức sống động, được coi là hồn
của ông công chức Akaky, tung hoành cướp bóc, trả thù những kẻ đã hành hạ mình, trả thù cho
những ngày đã phải sống âm thầm nhẫn nhịn.
Môtíp nổi loạn, báo thù không phải hiếm gặp nơi Gogol. Ông có truyện “Cuộc báo thù khủng khiếp”
(trong tập “Những buổi tối ở gần ấp Dikanka”). Vở kịch “Quan thanh tra” cũng có thể là một dạng câu
chuyện về sự báo thù khi viên công chức quèn đói khát không xu dính túi Khlestakov bỗng khiến tất cả
các “nhân vật quan trọng” của thành phố N.N. phải khiếp sợ luồn cúi. Trong “Những linh hồn chết” có
câu chuyện về đại úy Kopeikin nổi loạn sau hành trình cầu xin trợ cấp thương binh bất thành… Các cuộc
báo thù đều huyền ảo hay giống như trò chơi, nhưng đều gây kinh sợ và có nhiều nạn nhân.
Về ý nghĩa hình tượng “hồn ma nổi loạn”, “hồn ma báo thù” trong “Chiếc áo khoác” có những giải thích
khác nhau. Đó là “chiến thắng của lẽ phải” (I.F.Annensky), là biểu hiện của cuộc trỗi dậy tất yếu và tất
thắng của cách mạng (I.Grossman-Roshchin), là khả năng phản kháng cường quyền khủng khiếp của
những con người nhỏ bé, nhưng chưa có điều kiện để thành hiện thực. Người ta còn nhìn thấy ở đây là sự
đánh thức lương tri, không chỉ nơi “con người nhỏ bé” mà cả nơi những kẻ thuộc hàng “nhân vật quan
trọng”.
Ý nghĩa báo thù, phản kháng, thức tỉnh trong cái kết “Chiếc áo khoác” có lẽ là dễ nhận thấy nhất, được
chia sẻ nhiều nhất và nói đến từ lâu nhất.
Người ta cũng nhìn thấy trong cái kết này mối liên hệ với đời sống hiện thực: khi viết đoạn kết, cũng như
toàn bộ “Chiếc áo khoác”, Gogol hướng tới độc giả đương thời, những người có thể hiểu những ám dụ
của Gogol đằng sau các chi tiết trong truyện, liên tưởng đến những người thực, việc thực. Việc con ma
xuất hiện, lột áo khoác của người đi đường, bất kể “đệm bông hay bằng bông, cổ da mèo hay cổ hải ly,
áo khoác da cáo hay da gấu…” là một ám dụ. Vào thời Gogol, áo khoác gắn với các thứ bậc trong giới
công chức Nga. Năm 1834, chính quyền còn ra hẳn một quy định về các loại chế phục mà các công chức
phải tuân thủ. Mặc áo với chất liệu thích hợp, tương ứng với cấp bậc của mình là biểu hiện của sự tôn
trọng công việc, tôn trọng trật tự, trở thành một thứ luân lý của công chức được gọi tên là “phẩm giá áo
khoác” (chest mundira). Bởi vậy, con ma cướp áo mà không quan tâm đến chất liệu áo, cũng mang ý
nghĩa phản kháng lại trật tự, luân lý đó.
Ngoài ra, đây còn là sự phản ánh thực trạng cướp bóc, mất an ninh phổ biến ở thành phố Petersburg và
sự bất lực của chính quyền. Pushkin từng ghi trong nhật ký của mình về điều này: “Đường phố không còn
an ninh nữa… Cảnh sát dường như chỉ quan tâm đến chính trị thay vì đến bọn trộm cướp và bảo vệ đường
phố. Bọn lang thang cướp bóc suốt đêm”. Ẩn ý chính trị có lẽ cũng có ở chi tiết về “nhân vật quan trọng”:
trước sự cố gặp con ma và bị nó cướp áo, nhân vật này rời khỏi nhà và “bước lên đứng trên xe trượt” (stal
v sani) để đến nhà nhân tình – tư thế “đứng trên xe trượt” đó gợi nghĩ đến viên mật thám khét tiếng
A.Benkendorf, thủ trưởng của Phòng III cảnh sát, chuyên giám sát kiểm duỵêt sáng tác của các nhà văn
Nga, bởi ở Petersburg bấy giờ chỉ có ông ta mới đứng trên xe trượt khi đi đường như vậy.
Yu.Mann trong công trình “Thi pháp Gogol” có lưu ý đến cách kể chuyện ở đoạn kết: rằng bóng ma
Akaky chỉ được biết đến qua “những lời đồn” (một hiện thực khủng khiếp được Gogol nói đến không chỉ
một lần trong các tác phẩm của mình), chứ bản thân tác giả chưa bao giờ đồng nhất con ma với Akaky.
Như vậy, hình tượng con ma mang đầy tính huyền hoặc, phi lý, nhưng đồng thời sự hiện diện của nó
không hề phá vỡ tính hiện thực của tác phẩm, khiến “Chiếc áo khoác” hoàn toàn có quyền được xem là
tác phẩm khai sinh ra một chủ nghĩa hiện thực sống động mà về sau sẽ được phát triển trong văn học Nga.
- Cảm xúc phải gắn liền với hành động, chính vì thế mà thơ của Maiakovsky vượt trên cảm xúc
khi mà Maiakovsky hướng tới nhân loại, hướng tới con người xung quanh.
Tình yêu trong quan niệm của Maiacôpxki hoàn toàn vượt ra ngoài khuôn khổ "chăn gối, lứa đôi"
truyền thống. Nó giống như một hiện tượng thiên nhiên và rộng lớn như thiên nhiên:
Tình yêu mọc
sau Thái sơn lồng ngực,
lên cao hơn
cả rừng già mái tóc.
(Thư gửi đồng chí Kôxtrôp)
Tác động của tình yêu còn lớn hơn sự chinh phục một trái tim. Nó "lay động toàn thân", động viên
và phát huy toàn bộ tinh lực của con người. Nó là một sức sáng tạo vô tận:
Yêu nghĩa là:
chạy thốc vào sân
…
Yêu là đánh ghen
với Copecnich,
không đánh ghen,
với người tình địch,
gã làm chồng cô ả Mari.
Yêu là thi thổ sức tài. Và ở Maiacôpxki, sự thi thổ sức tài đã vượt hẳn ra ngoài khuôn khổ của
những thứ "ghen tuông thường tỉnh". Tình yêu chính là động lực sâu xa trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người.
"... Đối với tôi, - Maiacôpxki viết, - tình yêu có phải là tất cả không ? Là tất cả, nhưng phải hiểu
khác đi... Tình yêu là sự sống, là cái cốt yếu. Mọi sự xoay chuyển từ tình yêu, thơ ca cũng như sự
nghiệp và cũng như bao nhiêu điều khác. Tình yêu là trái tim của tất cả. Nếu như trái tim ngừng làm
việc thì tất cả những cái còn lại sẽ lịm chết, sẽ trở nên thừa, không cần thiết. Và nếu như không có
"hoạt động" này, tôi là một người chết" (Thư gửi Lili).
Theo quan niệm truyền thống, tình yêu chỉ là một tiếng nói của trái tim. Đối với Maiacôpxki, tình
yêu là cả trái tim và "cả người anh là tim". Hiểu như vậy, tình yêu là động lực của toàn bộ sáng tác
của anh.
Hiểu như vậy, trong thơ của Maiacôpxki, tình yêu hầu như đồng nhất với cách mạng Trong quan
niệm của anh, cách mạng đem lại tự do, hạnh phúc cho quần chúng, đồng thời trả lại tình yêu cho
người nghệ sĩ.
KẾT LUẬN: Như vậy ta có thể thấy các nhân vật trữ tình của Mayakovsky bộc lộ một cách
kín đáo và chân thành những cảm xúc, kinh nghiệm của mình, nói về bản chất của tình yêu, về
điều mà theo quan điểm của ông và các mối quan hệ trong cuộc sống. Theo Mayakovsky, tình
yêu làm nảy sinh khát vọng sáng tạo không thể nguôi ngoai, kêu gọi hành động, đấu tranh,
đương đầu với mọi thứ cản trở hạnh phúc của con người; tình yêu làm cho một người mạnh
mẽ và hạnh phúc, tô đẹp cho thế giới. Tình yêu là cốt lõi của sự sống những không chỉ là tình
cảm riêng tư mà còn là cảm hứng hành động vì nhân loại, hướng tới con người xung quanh.
8. Quan niệm về tình yêu của A.Blok trong bài thơ Danh vọng, vinh quang, bao giá trị..., so sánh
với A.Pushkin?
Danh vọng, vinh quang, bao giá trị Ta đắm mình trong cốc rượu truy hoan
Ta đều quên đi trong cuộc đời Trước bàn thơ ta cầu em trở lại
Khi mặt em trong cái khung giản dị Ta giơ tay kêu gọi tuổi thanh xuân.
Trên bàn ta như một tấm gương soi
Nhưng vô ích em đi không ngoảnh lại
Nhưng đến lúc em ra đi mãi mãi Mặc ta cầu xin em chẳng đáp lời gì
Ta ném trong đêm chiếc nhẫn hứa hôn Vận chiếc áo choàng xanh lặng lẽ
Ta không muốn nghĩ đến hình em nữa Trong sương đêm em lủi thủi ra đi.
Một người kia xứng đáng với em hơn.
Ở nơi nào, nơi nào lý tưởng
Ngày tháng quay cuồng trong vòng hung ác Em gửi vào kiêu hãnh của em ?
Trong giấc chiêm bao ta thấy mãi Tuổi trẻ đã qua, hết ý nghĩa cuộc đời
Chiếc áo xanh chìm trong sương đêm Và đến lúc để không còn hình bóng
Ta cất cái khung có tấm ảnh em cười.
Thế là hết yêu thương - Ta không cần danh
vọng
PHÂN TÍCH BÀI THƠ:
- Vào năm 1908, Blok đã viết bài thơ nổi tiếng “Danh vọng, vinh quang bao giá trị…”. Bài thơ là
tiếng lòng của thi sĩ khi kể về những cung bậc cảm xúc đã trải qua trong tình yêu đau khổ
của chính mình. Người phụ nữ được nhắc đến trong bài thơ là vợ Madeleeva – người đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đời của anh. Trong suốt sáu năm, anh đã dành tặng
687 bài thơ trữ tình cho cô. Và đây là một trong số đó!
- Về nguồn gốc ra đời bài thơ, có lẽ nó xuất phát từ chính tình yêu, sự ảo vọng, niềm hy vọng,
nỗi tiếc nuối và cả chứa chan nỗi đau khổ của nhân vật trữ tình. Trong tình yêu hôn nhân,
Blok từng được xem là một người “kì quặc” và có khá nhiều mâu thuẫn. Dẫu Madeleeva là vợ, là
thần tượng, là mẫu người lý tưởng nhưng ông lại có mối quan hệ bất chính với nhiều người phụ
nữ khác trong giới thượng lưu, ông cho rằng sự hòa hợp thể xác sẽ không mang lại gắn kết tinh
thần, sự gần gũi về tinh thần quan trọng hơn nhiều so với thể xác. Chính vì vậy, không có gì đáng
ngạc nhiên khi ông nhận lại sự phản bội từ người phụ nữ ấy. Cú sốc tại thời điểm đó đã trở thành
một đòn giáng nặng nề đối với thanh xuân của Blok, khiến cuộc sống ông bị tàn phá nặng nề, hủy
diệt về mặt đạo đức, tê liệt về tâm hồn. Chủ đề của bài thơ chính là nỗi thất vọng trong tình yêu.
Sự phản bội và ra đi của người phụ nữ mà ông một thời hết mực yêu thương đã để lại vết thương
lòng sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ.
- Bằng thủ pháp đối lập, nhân vật trữ tình đã khẳng định dứt khoát rằng: tình yêu anh dành
cho em luôn lớn hơn bất cứ thứ gì trên đời. Danh vọng phù hoa chỉ là tạm bợ, hình ảnh em
trong trái tim thì mãi luôn vĩnh cửu.
- Sự tan vỡ trong hôn nhân có lẽ bắt nguồn từ tính cách và suy nghĩ “kì quặc” của A.Blok: là
yêu một người nhưng không chọn cách chung thủy, là coi vợ như mẫu hình lý tưởng nhưng
vẫn có mối quan hệ bất chính với những người phụ nữ khác. Phải chăng, ông đang khát khao
kiếm tìm cảm giác mới mẻ? Trước sự phản bội ấy của vợ mình, thi sĩ đã có những hành động
quyết liệt, khẳng định sự cự tuyệt, dứt khoát: “vứt”, “quên”...
- Nhiều dấu chấm lửng: Thật khó để Blok có thể chọn ra một từ phù hợp để diễn tả cảm xúc, ông
như nghẹt thở trước dòng kí ức đang trào dâng. Rõ ràng, nhân vật trữ tình chưa thực sự
quên đi sự phản bội và vĩnh viễn xóa hình ảnh người mình yêu ra khỏi ký ức như cách ông
tỏ ra bên ngoài
- Trong ý thức của A.Blok, Lyubov Mendeleev không chỉ là biểu tượng của sự thuần khiết của
một nàng thơ mà còn là những gì tươi đẹp nhất gắn liền với tuổi trẻ. Vì vậy, nhân vật trữ tình
trong bài thơ có khuynh hướng đồng nhất tình yêu ra đi với sự kết thúc của tuổi trẻ. Tác giả quan
niệm rằng sự ra đi của người phụ nữ đã đánh dấu sự chấm dứt của một tuổi trẻ cuồng nhiệt.
SO SÁNH A.Blok và A. Pushkin:
- Hình ảnh “khuôn mặt em lồng trong khung ảnh nhỏ” gợi nhắc ta đến những vần thơ của Pushkin:
“Tôi nhớ một khoảnh khắc tuyệt vời
Bạn đã xuất hiện trước tôi.”
NHẬN XÉT: Dù mang cùng một tâm tư, phần kết thúc ở hai tác phẩm lại hoàn toàn trái ngược.
Nếu ở Pushkin, đến cuối bài thơ, linh hồn thức tỉnh, thì ở Blok, độc giả chỉ thấy nỗi cay đắng
và tuyệt vọng của một người mất đi tuổi trẻ. Trước sức mạnh cứu rỗi của tình yêu, A. Blok
luôn nỗ lực hiến thân trọn vẹn cho tình yêu với người phụ nữ của mình. Chính những tầng bậc
xúc cảm trong bài thơ đã thể hiện rất rõ điều đó.
Pushkin và A.Blok đều gặp gỡ là viết về tình yêu đơn phương từ một phía, đều say mê những
điều tuyệt đẹp, nhưng mỗi người có một cách vượt thoát nỗi buồn khác nhau.
✓ Với Pushkin, ông vượt thoát bằng cách nhà thơ ý thức đc sự vận động của thời gian, sự vận
động của cuộc sống và hướng tới tình cảm cao đẹp, hướng tới mái ấm gia đình và cội nguồn.
→ Tình yêu trong thơ Pushkin mặc dù là đơn phương nhưng k hề bi lụy.
✓ Với Blok thì không như vậy, Blok luôn mang tới cho cta một tình yêu được ví như thượng
đế → không vượt thoát được chính vì vậy mà Blok chìm đắm trong nỗi đau, trong u buồn
→ Thơ Blok khiến cho cta cảm thấy đau buồn đến cùng cực.
9. A.Chekhov: Đặc điểm truyện ngắn Chekhov (Người trong bao, Một chuyện đùa nho nhỏ); Ba
đặc điểm cơ bản của thi pháp kịch A.Chekhov và vở Vườn anh đào.
Chekhov đã góp một tiếng nói cách tân vào sự phát triển của hai thể loại truyện ngắn và kịch của
Văn học Nga và văn học thế giới
9.1. Đặc điểm truyện ngắn Chekhov (Người trong bao, Một chuyện đùa nho nhỏ)
− Nội dung: Truyện ngắn của Chekhov đưa ra những điển hình hóa của cuộc sống phù phiếm, nhỏ
hẹp, tù túng tha hóa con người; đồng thời thể hiện những nỗi buồn nhân thế, những trăn trở, những
sự bừng tỉnh của ý thức con người muốn vùng thoát khỏi bi kịch đời thường. → Đọc truyện ngắn
Chekhov, ta cảm nhân rõ ràng trọn vẹn về nước Nga ngột ngạt, trong xã hội ấy, những “con người
nhỏ bé” gặp biết bao nhiêu điều thảm thương bất hạnh. Nhưng chính trong những điều đau đớn
ấy, con người có khát vọng sống, khát vọng tình yêu, khát vọng sáng tạo và hướng tới hạnh phúc.
− Nhân vật là những con người bình thường trong cuộc sống đời thường. Ông không miêu tả nhiều
đời sống, tư tưởng, tình cảm của “con người nhỏ bé” đáng thương mà tập trung miêu tả những gì
làm cho con người thành “nhỏ bé” → Chekhov muốn các nhân vật của ông chiến thắng cuộc sống,
ý thức đầy đủ về tình cảnh bế tắc, cố gắng bứt phá cho xứng đáng với tiềm năng của con người.
Chính vì vậy, Chekhov xây dựng nhân vật tích cực không ồn ào, không khoa trương, cứ lặng lẽ
chăm chỉ làm việc, cống hiến cho đất nước.
− Chekhov viết truyện ngắn đúng là truyện ngắn:
+ Chekhov là một bậc thầy của NT xây dựng mạch ngầm văn bản. Trên bề mặt văn bản, Chekhov
luôn kiệm ngôn, luôn ý thức phải lựa chọn, cân nhắc từ nào chính xác nhất, diễn đạt đầy đủ
nhất, có sức biểu hiện cao nhất, gợi mở nhiều nhất → Chekhov ưa gợi nhiều hơn tả, để nhân
vật tự bộc lộ hơn là đi sâu phân tích. → Mục đích: Khai thác mối liên hệ tích cực, chủ động
giữa tác giả - văn bản nghệ thuật – độc giả → Bổ sung lớp nghĩa mới cho tác phẩm trên cơ sở
lớp nghĩa trực tiếp của văn bản.
+ Những điều “vặt vãnh”, “tình cờ” trong truyện ngắn Chekhov là những “tín hiệu” của mạch
ngầm văn bản. Các “tín hiệu” của mạch ngầm gợi liên tưởng kết nối, đối sánh, kích thích người
đọc tích cực vận dung cả vốn sống của mình, vừa hòa nhập vào tâm trạng nhân vật, vừa có khả
năng lùi xa để suy ngầm nhân vật.
− Người kể truyện trong truyện ngắn Chekhov không có một “giọng văn thông tấn” lạnh lùng. Giọng
điệu trữ tình , ngập tràn chất thơ của khát vọng.
− Khuynh hướng thủ tiêu cốt truyện, phi trung tâm hóa nhân vật.
− Truyện của Chekhov thường như một lát cắt không đầu không cuối của bản thể. Đi từ đầu đến cuối
truyện, thương có cảm giác “chưa có chuyện gì xảy ra”.
a) Truyện ngắn Người trong bao
b) Truyện ngắn Một chuyện đùa nho nhỏ
9.2. Ba đặc điểm cơ bản của thi pháp kịch A.Chekhov và vở Vườn anh đào.
− Kịch tâm lí với sự giảm thiểu xung đột bề mặt (trong tác phẩm của ông, không nhận ra những
xung đột trên bề mặt văn bản – nôi tâm – đối thoại). Đó là những vở kịch không có xung đột hiểu
theo nghĩa truyền thống là giữa các tính cách, tư tưởng hay ý thức. Hành động kịch trên bề mặt
giản thiểu, tình cờ, quần quanh với những sinh hoạt đời thường. Quan tâm đếm XUNG ĐỘT BÊN
TRONG – XUNG ĐỘT TÂM LÍ
− Phá vỡ sự tung hứng của lời thoại (thông thường, các nhân vật sẽ đối thoại về một nội dung;
nhưng trong kịch Chekhov, mỗi nhân vật nghĩ tới một vấn đề riêng của mình → đối thoại giữa 2
người nhưng không tập trung 1 vấn đề nào cả). Đối thoại trong kịch Chekhov thường là đối thoại
của những người không hiểu nhau. Các nhân vật thường nói những điều trái ngược với tâm trạng,
nói để lần tránh hoặc an ủi chính mình. Người nói dường như chỉ nghe chính mình, tự nói với
mình, dù lời thoại bề ngoài như hướng tới người khác. Lời chú giải của tác giả về cử chi hành động
của nhân vật có thể mâu thuẫn với nội dung lời nói của nhân vật.
− Mỗi nhân vật đều có nỗi niềm riêng → làm lệch hướng xung đột trung tâm. Bao trùm lên các vở
kịch là vận động tâm trạng của các nhân vật. Dường như có một mạch ngầm kết nối tâm trạng của
các nhân vật với nhau và tâm trạng ấy mâu thuẫn với cuộc đời tẻ nhạt, bức bối, đầy vướng bận, lo
âu.
− Xung đột không được giải quyết: nếu coi xung đột chính là mâu thuẫn giữa các nhân vật và cuộc
đời, thì mâu thuẫn ấy cũng không có thắt nút, mở nút gì cả, cho đến hết vở kịch, đối với nhiều
nhân vật, nó không được giải quyết mà thậm chí còn gay gắt thêm, nặng nề thêm
Những cách tân táo bạo, độc đáo và những đóng góp tô lớn của Chekhov với thể loại kịch.
VƯỜN ANH ĐÀO:
− Vườn anh đào là vở kịch bốn hồi có phụ đề “hài kịch”. Địa điểm hành
− động là trang trại có vườn anh đào của một gia đình địa chủ đã sa sút Liubov Andreevna
Ranevskaia. Thời gian hành hành động kéo dài từ tháng 5 đầu xuân cho đến tháng 10 lúc sang thu.
− Vở kịch xoay xung quanh việc Liubov Andreevna cùng con gái là Ania
− với người hầu Iasha, cô gia sư Sharlota từ Paris vội vã trở về quê nhà vì gia đình lâm vào cảnh
túng quẫn phải nghĩ đến chuyện đem trang trại ra bán đấu giá để trang trải nợ nần. Trang trại còn
là nơi bấu víu của người anh vốn tiêu phí cả cuộc đời bên bàn bi-a là Gaev, đó cũng còn là chốn
nương thân của cô con gái nuôi Varia, lão bộc Firs, cô hầu gái Duniasha, anh “sinh viên muôn
thuở” Piotr Trofimov. Ăn bám theo gia đình còn có người kế toán Epikhidov, địa chủ láng giềng
khánh kiệt Pishik. Nhà buôn mới khất Lopakhin, vốn là con của một nông nô trước kia của gia
đình, nay với tư cách là người thân đã đề xuất giải pháp chặt hạ hết mọi cây cối, chia mảnh vườn
ra thành các lô nhỏ và cho thuê để lấy tiền trả nợ, vừa giữ được trang trại vừa không bị phá sản.
Nhưng Ranevskaia từ chối. Hi vọng mong manh r ng Lopakhin sẽ lấy Varia trở thành vô vọng.
Khi trang trại bị đem ra đấu giá, khoản tiền khoản tiền c u trợ của bà cô già gửi từ Iaroslav đến
không đủ để mua lại nó. Trong cuộc đấu giá, chính Lopakhin đã mua được trang trại trong một
cảm xúc say sưa: trở thành chủ nhân trang trại nơi xưa kia cha ông mình từng làm nô lệ. Mặc dù
tuyên bố “không nơi đâu trên cõi đời này tuyệt hơn vườn anh đào”,
− Loopakhin vẫn bắt tay vào việc triệt phá vườn anh đào để phát triển kinh doanh.
−
− Nhan đề “vườn anh đào” gắn với sự thay đổi. Nó là biểu tượng cho quá khứ huy hoàng của giới
quý tộc - nơi diễn ra những buổi dạ tiệc. Đến khi nó suy tàn vì chủ nhân phải bán nó đi rồi tương
lai đầy khát vọng với sự xuất hiện của Anhia => Vườn anh đào bị chặt gãy cũng là khi một đất
nước mới ra đời bởi khát vọng của tầng lớp trí thức
− Các thế hệ gắn liền với sự tồn vong của vườn anh đào: Liubov, Gaev hai nhân vật đều có những
nỗi niềm riêng song đều khắc khoải với dòng nước mắt gắn với sự nuối tiếc quá khứ. Ngoài ra còn
có Lopakhin chủ nhân mới của khu vườn và Trofimov và Ania
− Vở kịch có chú giải sân khấu tỉ mỉ: Miêu tả không gian sân khấu để nhân vật bước vào nhập vai
một cách chính xác. Chi tiết các mùa, tháng gắn với hình ảnh khu vườn từ xuân - thu ứng với thời
gian tâm trạng nhân vật và thời gian của đời người. Thế giới nội tâm nv cũng được khắc hoạ một
cách rõ nét, từng âm thanh hiệu ứng đều được chú ý một cách tỉ mỉ.
− Yếu tố hài kịch: màn ảo thuật của Sharlota, cuộc vũ hội, nv “hai mươi cái xúi quẩy” Epikhodov,
những đối thoại “ông chẳng bà chuộc”, câu nói xen lẫn thuật ngữ bi-a của Gaev
− => Vườn anh đào: Sự đi vào của tầng lớp địa chủ đã sa sút không chủ động, thực tế, sống một cuộc
sống hoài phí; biểu tượng cho ý chí đắc thắng của tầng lớp tư sản mới; đồng thời là biểu tượng cho
khát vọng tương lai của những người trẻ tuổi như Trofimov và Ania
10. Truyện ngắn Một con người ra đời của M.Gorki: sự chuyển đổi vị thế của người kể chuyện,
quan niệm nghệ thuật về con người.
10.1. Sự chuyển đổi vị thế của người kể chuyện.
− Nhân vật tôi là người kể chuyện, nhưng nhân vật tôi cũng là người tham gia vào câu chuyện.
+ Ban đầu, có thể thấy nhân vật tôi là một người rất suy tưởng, chính sự suy tưởng ấy chúng ta
có một thế giới thiên nhiên kì vĩ và tráng lệ. →Khi mà anh ta đứng trước một thế giới thiên
nhiên rộng lớn của vùng Kafkado, với mùa thu vàng và với một bầu trời trong xanh, một khu
rừng dát đầy lad vàng, tiếng suối reo, tiếng sóng vỗ vào núi → Bức tranh thiên nhiên
+ Sau đó, con người suy tưởng ấy đã nhìn thấy dòng người, nhớ ra có những lần anh ta đã đi theo
dòng người ấy để đi tìm, phá vỡ khung cảnh thiên nhiên → Lúc này, anh ta tham gia vào câu
chuyện. Nhìn thấy một người phụ nữ bụng mang dạ chửa cứ đi thụt lại đằng sau. Đây chính là
lúc, nhân vật tôi trở thành người hành động trong câu chuyện: trở thành người đỡ đẻ cho người
phụ nữ.
10.2. Quan niệm nghệ thuật về con người.
− Cao cả thay các chức vị làm người trên trái đất → M.Gorki hướng tới con người hai tiếng ấy thật
tuyệt diệu, 2 tiếng ấy thật thiêng liêng; con người là sự khởi đầu, cũng là sự kết thúc
− Con người phải không được thương hại con người, không làm nhục con người mà phải kính trọng,
bởi thương hại con người nghĩa là giết chết họ. → Nhân vật tôi nhìn thấy vị trí của đứa trẻ ra đời
và khẳng định con người trên trái đất.
− 1 con người ra đời 1 đất nước mới ra đời
− Đau đớn, hạnh phúc của người mẹ Nước Nga cũng đã phải trải qua những cuộc chiến CMT10
như vậy để làm nên những chiến công.
TRIỂN KHAI CỤ THỂ HƠN:
- Thứ nhất, tác giả đặt con người trong mối quan hệ với thiên nhiên và cuộc đời để bộc lộ quan
niệm: “Cao cả thay chức vị làm người trên trái đất.”
- Thứ hai, tác lý giải về sự xuất hiện của con người – con người không tự nhiên sinh ra hay do
một đấng thần kì nào tạo nên mà đó là cả một quá trình sinh nở đầy vất vả và thiêng liêng.
- Thứ ba, tác giả khẳng định, sự tồn tại của con người trên thế giới là rất đáng quý. Qua đó, ông
đã gửi gắm tình thương và suy ngẫm về con người.
Thứ nhất, tác giả đặt con người trong mối tương quan với tự nhiên và cuộc đời để bộc lộ quan
niệm: “Cao cả thay chức vị làm người trên trái đất”. Trước hết, để gửi gắm các quan niệm nghệ
thuật về con người; tác giả đã làm làm rõ hoàn cảnh xuất hiện của con người. Người kể chuyện
xưng “tôi”; tác giả đặt điểm nhìn nghệ thuật là người trực tiếp quan sát và tham gia vào mạch
truyện, mọi con người, sự việc đều đặt dưới lăng kính của nhân vật “tôi”. Đầu tiên, con người xuất
hiện trong thời gian và không gian cụ thể. Đó là mùa thu “vào năm 1892”, “ở vùng giữa Xukhum
và Otsemtsiry, trên bờ sông Kôdor”. Ở đó, cảnh thiên nhiên hoang sơ và kì vĩ: phía dưới là “đám
bọt nước tung trắng xóa của dòng sông Kôdor quay cuồng những chiếc lá trúc đào đã vàng úa như
những con cá mương con nhanh nhẹn”; nơi đó có âm thanh sóng vỗ ầm ì và tiếng kêu của chim
âu, chim cốc. Phía trên, là những “cây rẻ đã nhuộm màu vàng rực”; “những cành trăn đã trụi hết
lá, rũ rượi như một tấm núi rách. Phía bên trái, “trên đỉnh núi, treo lơ lửng những đám mây nặng
nề mau khói báo hiệu một cơn mưa, bóng mây trườn đi trên các sườn núi màu lục mọc tua tủa
những cây xam-sit cằn cỗi”. Thiên nhiên còn nổi bật với vẻ tráng lệ, cổ điển, đẹp đẽ đến vô thực:
“Về mùa thu, cảnh Kapkado giống như một thánh đường tráng lệ dựng lên cho những bậc đại
hiền” ; “một ngôi đền mênh mông bằng vàng, bằng ngọc bích, ngọc thạch”; “tất cả vật báu khắp
thế giới” đều được tập hợp tại nơi đây. Khung cảnh thiên nhiên nước Nga tựa như một cõi mộng
ảo vừa hoang sơ vừa lộng lẫy. Đối lập với thiên nhiên, con người xuất hiện trong hoàn cảnh đói
khổ, cùng cực. Đó là năm đói kém, những con người “phải dứt ra khỏi mảnh đất quê hương kiệt
quệ không còn chút màu mỡ nào” kéo đến Otsemtsiry để xin việc. Họ không ở yên mà đang trên
hành trình đầy vất vả chuyển dời đến một nơi khác để mưu cầu sự sống. Cuộc sống đói khổ và
hành trình kiếm tìm cơ hội tự cứu khiến họ mệt mỏi, như bị “xéo nát đi rồi”. Tác giả đã đặt con
người trong mối tương quan với cuộc đời và hoàn cảnh để đưa ra những quan niệm nghệ thuật về
con người. Quan niệm ấy không phải là nội dung một con người như thế nào mà là cách tác giả
nhìn nhận và suy nghĩ về con người. Sự đối lập giữa thiên nhiên và hoàn cảnh con người không
nhằm nổi bật sự nhỏ bé, bất lực của con người trước cuộc đời. Mà ngược lại để trực tiếp nhấn
mạnh, khẳng định giá trị của cuộc sống con người: “Cao cả thay chức vị làm người trên trái đất”
đó là được thấy bao nhiêu điều kì diệu, trái tim được rung động một cách ngọt ngào mãnh liệt
trong khi chiêm ngưỡng cảnh đẹp. Cũng có nghĩa là, dù hoàn cảnh sống có khổ cực đến đâu thì
trong cuộc sống vẫn còn bao nhiêu điều tốt đẹp, con người có niềm tin rằng ngay cả việc mình
được sinh ra trên trái đất này đã là một niềm hạnh phúc cao cả và lớn lao. Thiên nhiên choáng
ngợp đến vô thực kết hợp cùng sự xuất hiện của con người đã tạo nên một không gian nghệ thuật
đặc biệt, đó là nơi có cuộc sống thực nhưng cũng mang màu sắc huyền ảo như một huyền thoại.
Qua đó, tác giả đã hướng con người tới vẻ đẹp của đất trời, tạo hoá tồn tại bất diệt.
Thứ hai, tác giả lí giải về sự xuất hiện của con người – con người không tự nhiên sinh ra hay do
một đấng thần kì nào tạo nên mà đó là một quá trình sinh nở đầy vất vả và thiêng liêng . Tác giả
đã khắc hoạ chân thực và đầy xúc động quá trình trở dạ sinh con của người mẹ. Đặc biệt, sự sinh
nở ấy còn diễn ra ở một hoàn cảnh hết sức éo le. Chị trở dạ sinh con khi vừa mới mất chồng, đang
trên đường di chuyển đến Otsemtsiry để tìm việc làm; trong một bụi rậm. Và nếu như không có
nhân vật “tôi” phát hiện ra nhờ âm thanh tiếng rên, thì có lẽ sẽ chẳng ai biết sắp có một con người
khác chào đời. Dưới ngòi bút của nhà văn, để một con người ra đời phải trải qua quá trình “khai
hoa” đầy đau đớn và nguy hiểm: đau đớn, trở dạ, cắt rốn rồi chờ nhau. Nỗi đau đớn kinh khủng,
sự quằn quại, vật vã được thể hiện trực tiếp qua từng biểu hiện trên gương mặt, hành động của
người mẹ trong suốt cả quá trình. Khi đau đẻ, “đầu ngả xuống một bên vai, miệng bè ra, méo xệch,
mắt trợn ngược lên như người điên, hai tay ôm lấy cái bụng chửa to tướng, chị thở dữ dội khác
thường, đến nỗi cả cái bụng cũng run lên bần bật; hai tay giữ lấy bụng, khẽ gầm gữ, miệng để lộ
làm răng nanh vàng như chó sói”; “hai chân đạp rướn ra, quằn quại. Người nóng bừng lên như sốt.
Đến khi bắt đầu đẻ con, “người đàn bà quằn quại như miếng vỏ bạch dương hơ lửa, hai tay cứ đạp
xuống mặt đất ở hai bên mình”. Chị làm tất thảy mọi thứ để giảm bớt sự đau đớn và cố gắng sinh
con ra: “nhổ bụi cỏ úa, nhét nó vào mồm”. Quá trình sinh nở đau đớn và kinh khủng đến mức: “chị
trông không còn ra mặt người nữa”; “đôi mắt đã dại hẳn ra; chạy đầy những tia máu”. Trong cả
quá trình sinh nở ấy, cả người đỡ đẻ và người mẹ đều vô cùng chật vật. “Cả hai đều văng những
tiếng chửi”, quá trình đau đớn đến nỗi khiến “tôi” cũng có cảm giác “lòng đau thắt lại”; “gào lên”.
Người mẹ lại càng khổ sở hơn thế, chị kêu gào; “đôi môi tím bầm mím chặt lại”; “bọt sùi hai bên
mép”; “những giọt nước mắt của nỗi đau đớn vô cùng”; “toàn thân chị như vỡ ra, chia hẳn làm
đôi”. Thế mới thấy, để một con người ra đời người mẹ đã phải chịu đau đớn ghê sợ đến thế nào.
Con người không do một vị thần nào tạo nên, cũng không tự nhiên xuất hiện một cách dễ dàng
trên trái đất. Con người được tạo nên và sinh ra bởi chính con người sau quá trình thai nghén và
sự kiện sinh nở đau đớn khủng khiếp như chết đi sống lại. Thế nên, sự xuất hiện của con người
mới thực cao cả và đáng quý. Điều đặc biệt chính là khi viết về quá trình sinh nở này tác giả đã
miêu tả một cách rất trực tiếp, sử dụng những từ ngữ thật sự để trỏ thẳng vào việc sinh nở: “đã
thấy bọc ối nhú ra ngoài”; “hai tay ôm lấy cái bụng chửa to tướng”. Hơn nữa, tác giả đã nhấn mạnh
đến vai trò của người mẹ trong việc sinh nở. Mẹ là người chịu nhiều đau đớn, vật vã thậm chí là
nguy hiểm để đứa con được chào đời. Nhưng điều quan trọng là người mẹ luôn bảo vệ con trong
mọi hoàn cảnh. Trong truyện, dù có chật vật đến đâu, người mẹ vẫn giữ một tư thế “hai tay ôm
bụng” - tư thế để bảo vệ đứa con trong bụng mình. Khi có người đến tiếp cận, người mẹ nghĩ người
đó sẽ gây ra nguy hiểm cho con, nên cố hết sức để bảo vệ con mình dù bản thân đang đau đớn
khôn cùng. Trong suốt quá trình sinh nở vật vã ấy, dù là hành động nhỏ nhất cũng thể hiện người
mẹ đang hết sức bảo vệ con của mình, Đó là khi đôi môi cắn chặt đến ứa máu ra nhưng chị vẫn
thều thào nhắc nhân vật tôi lấy dây trong túi buộc rốn đưa bé lại. Khi nhân vật tôi đưa đứa bé đi
tắm thì chị lại lo lắng rồi lẩm bẩm: “Coi khéo đấy nhé... cẩn thận”. Khi nhân vật tôi đưa đứa bé trở
lại, bất chấp cơn đau quặn qua những tiếng rên và những tiếng thở dài, nhân vật tôi vẫn nghe thấy
tiếng thì thầm hấp hối củ chị: Đưa... đưa… nó đây cho tôi. Hay là ánh mắt ấm ấp, chứa chan đầy
tình yêu thương của chị nhìn khuôn mặt bé tí,phụng phịu của thằng bé đang nằm ngủ dưới bụi
cây… Qua đó, tác giả đã thể hiện quan niệm về sự sinh ra của con người trên trái đất: con người
do chính con người sinh ra, sau sự đau đớn khốn cùng của sự kiện sinh nở; người mẹ chính là đấng
sinh thành phải đánh đổi cả mạng sống để con người được sinh ra. Thế nên, quan niệm này cũng
làm sáng tỏ hơn quan điểm lớn mà ông muốn nêu ra trong bài: “Cao cả thay chức vị làm người
trên trái đất”.
Thứ ba, tác giả khẳng định, sự tồn tại của con người trên thế giới là rất đáng quý, cao cả. Sự tồn
tại đáng quý ấy được thể hiện qua sự xuất hiện của đứa trẻ được chào đón bởi tạo hoá, là nỗi khát
khao mong chờ và là niềm hạnh phúc của những người khác. Trước hết, hài nhi cũng là một con
người, sự xuất hiện của con người được tạo hoá đón nhận. Như đã phân tích ở trên, tác giả đã khắc
hoạ một khung cảnh thiên nhiên đầy tráng lệ và lộng lẫy đến vô thực, nhưng thiên nhiên ấy lại
chính là phông nền để chào đón cho sự kiện quan trọng tiếp theo, sự kiện một con người ra đời”.
Khi con người ra đời, ngay cả thế giới tự nhiên cũng có những sự biến đổi vi diệu thể hiện sự chào
đón tích cực: “cả con chim gì kì diệu đang khẽ hót lên”, sóng biển rì rầm nghe du dương không
biết chán, tiếng suối xa gần róc rách “như tiếng một thiếu nữ thủ thỉ kể chuyện người yêu với bạn
gái mình”. Ngay cả khi đứa trẻ đã say ngủ sau khi bú mẹ, nó cũng được chào đón và ấp ủ bởi thiên
nhiên: “Nó nằm trên một lớp lá thu vàng rực, dưới một bụi cây không hề mọc ở tình Oren bao
giờ”. Sự chào đón của tự nhiên đã cho thấy sự xuất hiện của con người là đáng quý, đáng trân
trọng đến nhường nào. Bên cạnh đó, con người xuất hiện trong niềm chờ mong, khao khát và hạnh
phúc của những người khác. Đó trước tiên là người mẹ, niềm hạnh phúc của mẹ khi đứa con chào
đời được thể hiện rõ nhất qua chi tiết đôi mắt và nụ cười. Đôi mắt khi đón chào đứa con ra đời trái
ngược hoàn toàn với đôi mắt trợn ngược hay đầy tia máu vì đau đớn, đó là đôi mắt trong trẻo,
thánh thiện và tràn ngập hạnh phúc. “Tôi thấy rõ đôi mắt sâu thẳm của chị tươi rói lên một cách kì
lạ, cháy bừng lên ngọn lửa xanh biếc. .... Chị khẽ kêu lên một tiếng, im bặt, rồi lại mở mắt ra, đôi
mắt đẹp vô cùng, đôi mắt thần thánh của người sản phụ. Xanh biếc, đôi mắt ấy nhìn lên bầu trời
xanh biếc, trong đôi mắt bừng lên và hòa tan một nụ cười hoan hỉ biết ơn... Mắt như hai hồ nước
xanh mênh mông... đôi mắt phát ra những luồng ánh sáng ấm áp chứa chan tình thương... Đôi mắt
ấy lại trong trẻo và sáng bừng lên với ngọn lửa biếc của tình thương không bao giờ cạn”.Trong cả
truyện nụ cười của người mẹ được miêu tả mang những sắc thái hạnh phúc khác nhau, đặc biệt
qua chi tiết: “Nụ cười của chị mỗi lúc càng thêm rực rỡ, nụ cười ấy đẹp đẽ, chói lọi đến nỗi tôi gần
như là lóa mắt”. Câu văn như đặc tả được sự chuyển động của nụ cười, nụ cười càng rạng rỡ dần
cũng chính là niềm hạnh phúc và tự hào ngập tràn đang dần dần lớn hơn, mọi đớn đau trước đó
đều là đáng giá cho sự xuất hiện của con người. Đứa trẻ ra đời trong sự cố gắng hết mình và niềm
hạnh phúc ngập tràn của những người khác, cụ thể là nhân vật “tôi”. Khi đã bế trên tay một con
người, mắt anh nhoà lệ, rồi nhìn nó mà cười lớn “Rất mừng được gặp chú bé”. Đó là niềm sung
sướng và hạnh phúc tuyệt diệu khó có thể diễn tả hết thành lời. Đặc biệt, “tôi” còn là người đã
“đỡ” đứa trẻ ra đời, cảm giác ấy của anh cũng chính là khẳng định sự tồn tại của con người là đáng
mong chờ và đáng trân trọng đến nhường nào. Sự tồn tại của con người còn thực sự cao quý bởi
lẽ, mỗi con người khi sinh ra đời đã mang những nét riêng và sứ mệnh cao cả. Khi miêu tả về con
người, ngòi bút của ông trực tiếp viết về những ấn tượng riêng mà họ tạo đến một cách khách quan
nhất. Đó có thể là những quan sát về ngoại hình, hành động, lời nói của họ. Dù cùng đặt trong một
hoàn cảnh như nhau nhưng mỗi người lại mang đến những ấn tượng riêng, có hoàn cảnh riêng. “
Mụ đàn bà cao lêu đêu, người thẳng đuột và dẹt như tấm ván, hàm dài như hàm ngựa, đôi mắt lác
đen như than có cái nhìn hơi đùng đục.” Chị trùm khăn vàng bụng to vượt mặt, chồng mới mất;
mụ đàn bà lác bị lên cơn sốt phải khiêng về. Đứa bé trong trong truyện ngắn vừa sinh ra đã được
gọi là “đấng người đỏ hỏn” “thằng dân Oren mới tinh” sinh ra trong một cuộc sinh nở đặc biệt và
được đón chào bởi cả tạo hoá và con người. Vừa sinh ra, đứa trẻ đã mang những nét riêng: “chưa
chi đã bất mãn với cuộc đời”: “nó vùng vằng, giãy đạp và hét tướng lên, tuy cuống rốn vẫn còn
dính vào mẹ”. Đứa trẻ cũng không cất tiếng khóc như những đứa trẻ khác mà kêu “ya, ya”. Nó
mang dáng dấp của một con người Nga với đôi mắt xanh biếc, khẳng định mình là một công dân
Oren với chất giọng ồ ồ đặc trưng. Cũng chính là ngay từ khi sinh ra, đứa trẻ đã là một phần của
đất nước Nga và bản thân nó cần ý thức được sứ mệnh của mình khi đến với cuộc đời. Nó cần trở
nên mạnh mẽ, để tự bảo vệ được bản thân mình rồi sau đó mới có thể bảo vệ gia đình và quê
hương: “Chú mày phải tự khẳng định cho khỏe vào mới được, chứ không thì kẻ đồng loại sẽ vặt
cổ chú mày”. Đứa trẻ mới ra đời bản thân nó cũng đã hoàn thành một sứ mệnh cao cả đó chính là
làm thay đổi cuộc đời. Đứa trẻ là sợi dây kết nối để những người xa lạ như người mẹ và nhân vật
tôi đến gần và đồng cảm với nhau hơn. Đứa trẻ ra đời tiếp thêm nguồn động lực to lớn để người
mẹ tiếp tục cuộc hành trình, nguồn động lực ấy lớn đến nỗi mà, người mẹ phải bật thốt lên: “Lạy
Chúa tôi, Chúa ơi ! Sung sướng quá, thích quá đi mất ! Ước gì cứ thế này mà đi, đi mãi cho đến
cùng đường cuối đất, và thằng con tôi cứ thế lớn lên, nép vào lòng mẹ mà lớn lên mãi trong cảnh
tự do, con yêu của tôi...” Cuối cùng, tác giả đã gửi gắm tình thương và những suy ngẫm về con
người trong cuộc đời. Đó là niềm thương cảm cho những con người bị dày xéo bởi hoàn cảnh, chỉ
có thể gửi gắm nỗi niềm vào những lời than trong câu hát giữa đoạn đường mệt nhọc, những đứa
trẻ phải sinh ra trong hoàn cảnh éo le; những con người đói khổ trên hành trình di cư tìm việc. Đó
đồng thời cũng là những trăn trở cho tương lai của con người. Sự tồn tại của con người là cao cả
và đáng quý như thế nhưng rồi tương lai con người sẽ đi về đâu. Như đứa trẻ mới sinh ra kia, một
cuộc đời mới được mở ra kéo theo bao mối trăn trở. Điều đó được thể hiện thông qua những băn
khoăn của người mẹ: “Chẳng biết đời nó sẽ ra sao? Anh đã giúp tôi, tôi thật cảm ơn anh...Còn điều
đó có tốt lành cho nó hay không tôi cũng chẳng biết nữa.” Người dân mới của nước Nga, con
người mà số phận chưa ai lường trước được. Trên cái ranh giới của sự hủy diệt của xã hội cũ và
sự nảy sinh của một xã hội mới, một vấn đề bức xúc đặt ra cho văn học thời đại lúc này là vận
mệnh nước Nga, số phận nhân dân Nga, con người Nga sẽ ra sao? Thế nhưng trên tất thảy, ông
viết để động viên và cổ vũ con người. Đúng là không ai có thể lường trước được tương lai, con
người có thể đối mặt với vô vàn biến số nhưng thực tế là ngay từ khi sinh ra, con người đã có bản
năng tự mình đấu chọi lại với thử thách. Như đứa trẻ mới sinh đã “bất mãn với cuộc đời”, cất tiếng
nói “Ya, Ya - Tôi, tôi”. Qua đó, nhà văn muốn nhấn mạnh rằng tương lai của con người nằm trong
bàn tay của chính họ, con người cần vượt lên số phận và làm chủ cuộc đời của chính mình. Tựu
trung, truyện ngắn “Một con người ra đời” đã khẳng định quan niệm nghệ thuật về con người của
M.Gorky: “Cao cả thay chức vị làm người trên trái đất.” Mọi nhân vật, sự kiện, diễn biến đều để
thể hiện quan niệm này. Bằng bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn, cốt truyện đơn giản mà
giàu kịch tính, những chi tiết truyện rất đắt (chi tiết đôi mắt, nụ cười của người mẹ, hình ảnh đứa
trẻ sơ sinh,...) tác giả đã có những kiến giải về con người. Con người sinh tra bởi sự kiện sinh nở
đầy vất vả, dưới sự chào đón nồng nhiệt của tạo hoá và những người khác; sự tồn tại của con người
trên trái đất là vô cùng đáng trân trọng và dù rằng không thể lường trước được điều gì sẽ xảy đến
trong tương lai nhưng con người hoàn toàn có thể chủ động nắm giữ và thay đổi vận mệnh của
mình. Đó là những quan niệm mới mẻ và đầy tính nhân văn.
NGHỆ THUẬT:
- Âm thanh của dòng suối chảy. Ở đây ta thấy cảnh mùa thu được hiện lên giống như 1 khung
cảnh tráng lệ, 1 khung cảnh có mùa thu với màu sắc vàng, với âm thanh của sóng biển, tiếng chim
hót và dòng suối chảy rì rào và trong cái khung cảnh thiên nhiên ấy hiện lên con người. Con người
ở đây được miêu tả với màu sắc xám xịt => tương phản (cảnh sinh nở: Trước khi sinh: khuôn
mặt, tiếng kêu…. Tất cả tạo nên nỗi đau >< Sau khi sinh: tất cả chỉ còn niềm vui, hạnh phúc và
hy vọng; Hiện thực >< người mẹ)
- Bút pháp lãng mạn: tại sao lại có bút pháp lãng mạn? Bởi lẽ ông đem vào đó khát vọng của con
người. Bút pháp lãng mạn để tô điểm thêm sức mạnh của con người, khát vọng về tự do, khát
vọng về tình yêu. Và chính những khát vọng ấy là nguồn động lực rất lớn cho nhân vật của ông
sống và hướng tới tương lai. Và chính vì thế là khi mà chúng ta nhận ra truyện ngắn của M. Groky
có sức mạnh cổ vũ rất lớn đến đại đa số những con người Nga cuối tk 19 đều tk 20 như thế nào.
11. Nghệ thuật tương phản trong bài thơ Đêm đông của Iuri Zhivago (trong tiểu thuyết “Bác sỹ
Zhivago”) của B.Pasternak.
ĐÊM ĐÔNG
Bão tuyết trùm mặt đất
Trải trắng tràn muôn nơi.
Ngọn nến cháy trên bàn,
Ngọn nến cháy.