Tiểu luận nhóm Dược cổ truyền - Viêm khớp dạng thấp

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 20

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

-----š›&š›-----

TIỂU LUẬN DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN

Chủ đề:

Viêm khớp dạng thấp

Nhón thực hiện: Nhóm 2

Lớp: QH 2020 Dược học A

HÀ NỘI – 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM

STT Họ và tên MSV


1 Trịnh Mai Phương 20100193
2 Lê thị Ngọc 20200186
3 Võ Thị Hoài Thanh 20100201
4 Tạ Phương Yến 20100222
5 Nguyễn Tuấn Kiệt 20100166
6 Nguyễn Thị Huyền 20100158
7 Nguyễn Thủy Tiên 20100214
8 Nguyễn Thị Thu Hiền 20100150
9 Đặng Thanh Thủy 20100210
10 Vũ Thị Nga 20100184
11 Vũ Minh Thúy 20100212
12 Hoàng Thị Thông 20100207
13 Hà Duy Thái 20100199
14 Đỗ Thị Hải Ly 20100174
15 Nguyễn Thị lê Na 20100180
16 Trần Thị Phương thảo 20100204
17 Khuất Thị Lan Anh 20100124

1
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2
I. Đại cương bệnh: 3
1. Định nghĩa bệnh theo Bộ Y Tế Việt Nam: 3
2. Dịch nghĩa bệnh theo Đông Y: 3
3. Giải thích các thuật ngữ xuất hiện: 5
II. Các dược liệu: 7
1. Nguyên tắc điều trị bệnh: 7
2. Nguyên tắc lựa chọn Dược Liệu và cách lựa chọn các thành phần trong công
thức: 7
3. Lưu ý: 8
4. Lựa chọn chính: Trực tiếp kích thích Dương cường Dương, làm ấm các cơ quan
nội tạng, kinh mạch và khử hàn: 8
5. Lựa chọn phụ trợ: Tăng cường khí để cường dương, tăng cường dương giúp tăng
hoạt tính của các loại dược liệu chính: 12
6. Bổ trợ: Thúc đẩy sự thông khí, khử hàn ẩm, đóng vai trò chiến lược trong điều
trị triệu chứng dương suy, trung hòa các loại thảo mộc vị chát và bảo vệ âm: 13
III. Bài thuốc và bình luận: 14
1. Bài thuốc số 1: 14
2. Bài thuốc số 2: 15
3. Bài thuốc số 3: 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 19

2
I. Đại cương bệnh:
1. Định nghĩa bệnh theo Bộ Y Tế Việt Nam:
Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh lý tự miễn điển hình, diễn biến
mạn tính với các biểu hiện tại khớp, ngoài khớp và toàn thân ở nhiều mức độ
khác nhau. Bệnh diễn biến phức tạp, gây hậu quả nặng nề do đó cần được điều
trị tích cực ngay từ đầu bằng các biện pháp điều trị hữu hiệu để làm ngừng hay
làm chậm tiến triển của bệnh, hạn chế tàn phế và nâng cao chất lượng sống cho
người bệnh.[1]

2. Dịch nghĩa bệnh theo Đông Y:


2.1. Hội chứng Hàn Thấp/ Hàn Tà/ Hàn Hoá:
2.1.1. Hàn chứng:
- Những triệu chứng chính:[2]
+ Chân tay lạnh buốt và đau nhức dữ dội, chuột rút ở cơ, co cứng cơ
+ Bụng đau quặn, dễ chịu khi uống nước ấm, tiêu chảy gây phân mềm không
có mùi nồng ngoài ra còn gây chướng bụng kém ăn.
+ “Phù Thũng” hoặc đi tiểu thường xuyên, nhiều lần
+ Liệt Dương, vô sinh, tiêu chảy ra nước
+ Chứng Dương Suy (Yang Collapse of Syndrome): Đánh trống ngực, khó thở,
đau ngực và có cảm giác ngột ngạt, thở nông. Ngoài ra còn đổ mồ hôi nhiều,
sắc mặt xanh xao, biểu hiện thờ ơ và phản ứng chậm chạp.
+ Hội chứng Phong Hàn (Floating-Yang of Syndrome): Sắc mặt và hai má đỏ
bừng, đổ mồ hôi nhiều, tứ chi lạnh buốt, lưỡi nhợt nhạt hoặc tím tái cùng ẩm
ướt, mạch yếu hoặc vô căn
- Triệu chứng thứ phát:[2]
+ Đau bụng kinh kèm theo đau quặn ở hai bên bụng dưới, trầm cảm.
- Lưỡi: có màu nhạt, tím hoặc hơi xanh kèm lớp phủ màu trắng.[2]
- Mạch: Trầm - chìm sâu (Trầm mạch), chậm và yếu.[2]

2.1.2. Các bệnh liên quan trong y học phương Tây:


Viêm khớp, viêm đại tràng mãn tính, loét dạ dày, viêm dạ dày, viêm ruột,
cúm, bệnh gan, suy giáp, viêm thận mãn tính, nhồi máu cơ tim, viêm cơ tim, mất
máu nặng, chấn thương, mất nước nặng và dị ứng.[2]

2.2. Phân tích các hội chứng:


2.2.1. Hội chứng Ngoại cảm phong hàn sẽ tiến triển trong một số điều kiện như:
- “Hội chứng Ngoại cảm phong hàn có thể trực tiếp gây ra các Triệu Chứng
Hàn. Sau khi tiếp xúc với Hàn, Mưa hoặc Tuyết, “Hội chứng Ngoại Cảm
Phong Hàn” có thể xâm nhập vào cơ thể qua da và các mô dưới da, sau đó
vào các đường Kinh Mạch và cơ quan nội tạng khác của cơ thể.[2]

3
- Tính Hàn gây ra hiện tượng co rút cơ, có thể trực tiếp cản trở đường Khí Vận
(chuyển động của “Qi”)khiến bệnh nhân có triệu chứng điển hình là đau
quặn mà có thể thuyên giảm hoặc cảm giác dễ chịu khi tiếp xúc với
“Ôn/ấm”.[2]
- Tính Hàn cản trở sự lan toả “Ôn của Dương” và các đường Khí Vận, Tuần
hoàn máu (khí huyết vận hành). Do đó, bệnh nhân phải chịu cơn lạnh thấu
xương làm đau nhức dữ dội và chuột rút ở cơ cũng như cứng khớp chân tay.
- Thông qua tiêu thụ đồ ăn thức uống lạnh không đúng cách, Hội chứng ngoại
cảm phong hàn. có thể trực tiếp xâm nhập vào dạ dày và tích tụ ở Trung
Giao.[2]
- Khi tính Hàn cản trở Dương và Khí, bệnh nhân có thể bị cơn đau quặn cấp
tính ở dạ dày hoặc bụng và có thể bị tiêu chảy.[2]
- Triệu chứng hàn nguyên nhân có thể do “Dương Hư” ở các cơ quan khác
nhau.[2]
- “Thận Dương Hư” thường gặp ở người lớn tuổi, người thể trạng kém và
bệnh nhân mắc các bệnh mãn tính. Khi “Thận Dương” không đẩy nhanh quá
trình chuyển hóa nước, có thể xảy ra hiện tượng phù thũng hoặc đi tiểu tiện
thường xuyên. Khi “Thận Dương” và “Khí” không thể làm ấm “Hạ Tiêu”
và duy trì chức năng của nó thì có thể xảy ra tình trạng liệt dương, vô sinh,
đau bụng kinh và tiêu chảy phân nước.[2]
- “Tỳ Dương Hư” thường xảy ra ở người bị rối loạn tiêu hóa mãn tính. Khi
“Tỳ Dương” quá yếu, không thể làm ấm các cơ quan nội tạng, kinh mạch và
cơ bắp, sẽ gây ra “lãnh cảm”, đau quặn bụng và tiêu chảy. Khi khí ở Trung
Giao quá yếu gây ra biểu hiện chướng bụng và chán ăn sẽ xuất hiện.[2]
- “Tâm Dương Hư” tồn tại ở những người bị căng thẳng, đau khổ trong thời
gian dài hoặc ở những bệnh nhân mắc bệnh tim phổi nặng. Khi dương trong
lồng ngực quá yếu không thể thúc đẩy khí vận và tuần hoàn máu thì bắt đầu
có cảm giác hồi hộp, khó thở và đau ngực.[2]

2.2.2. Chứng Dương Suy (Syndrome of Yang collapse)


- Chứng Suy Dương là do sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa “Âm, Dương,
Khí” và Huyết dưới sự ảnh hưởng của các yếu tố gây bệnh. Khi Huyết và
Âm đột ngột suy yếu, hay Khí và Huyết bị tắc nghẽn đột ngột gây ra Chứng
Dương Suy bởi Dương là yếu tố quan trọng để cân bằng.[2]
- Vì “Tâm Dương” và “Thận Dương” đều từ một “Dương gốc của cơ thể”, vì
vậy nếu mắc Dương Suy chính là “Tâm Dương Suy” và “Thận Dương Suy”.
Trong tình trạng nghiêm trọng và cấp tính này, các tổn thương mà bệnh nhân
phải chịu như cảm giác tứ chi lạnh buốt mà không hề thuyên giảm bớt bằng

4
cách sử dụng “tính ôn” (ấm) và cảm giác ngột ngạt, hơi thở nông kèm theo
đau ngực.[2]
- Khi năng lượng Khí quá yếu không thể giữ được Dương ở mức cần thiết, sẽ
khiến cơ thể bắt đầu đổ mồ hôi nhiều.[2]
- Khi Tâm Khí không thể hỗ trợ cho Tâm Thần, khiến Tinh Thần có biểu hiện
như sắc mặt xanh xao, thờ ơ và phản xạ giảm sút.[2]

2.2.3. Hội chứng Phong Hàn (Floating-Yang of Syndrome):


- Giống như Dương Suy, hội chứng phong hàn là một tình trạng nguy hiểm,
Nó xảy ra khi Thận Dương quá yếu và tính Hàn ở Hạ Tiêu đạt mức tối đa.[2]
- Khi Khí Hàn của môi trường bắt buộc năng lượng Dương giảm sụt khiến cơ
thể mắc bệnh (Hàn Tà) mang những biểu hiện như: Sắc mặt đỏ bừng, chỉ
trên phần má xuất hiện màu đỏ ửng và xuất hiện tình trạng đổ nhiều mồ
hôi.[2]
- Các triệu chứng “cảm mạo” biểu hiện ở mức độ nhẹ và tứ chi co cứng, lạnh
buốt. Lưỡi có màu chậm xám hoặc tím nhạt kèm lớp rêu phủ màu trắng và
mạch của cơ thể sâu, và yếu.[2]

3. Giải thích các thuật ngữ xuất hiện:


3.1. Collapse of Yang: (Dương suy)
Dương khí của cơ thể hư yếu (chứng hư hàn). Biểu hiện chủ yếu là rét
run, chân tay lạnh, thở yếu, ra nhiều mồ hôi, không khát, đi tiểu nhiều hoặc đại
tiện không tự chủ, phân lỏng hoặc đại tiện không tự chủ, mạch trầm vài phút,
lưỡi nhạt-sưng-ngắn.[3]

3.2. Middle-Jiao (Trung tiêu)


Trung tiêu đề cập đến phần giữa của cơ thể và bao gồm các cơ quan Lá
lách, Dạ dày, Túi mật và Gan.[4]

3.3. Kidney-Yang deficiency (Thận Dương hư)


Là tên gọi chung cho những biểu hiện lâm sàng nguyên dương bất túc,
mất chức năng khí hóa không còn tác dụng sưởi ấm làm cho thủy thấp thịnh ở
trong và cơ năng suy nhược.[3]

3.4. Floating-Yang of Syndrome (Hội chứng Phong Hàn)


Thường được dùng để mô tả một loại bệnh lý do tác động của yếu tố lạnh
lẽo và gió lạnh lên cơ thể, gây ra các triệu chứng như cảm lạnh, đau nhức cơ
bắp, đau đầu, mệt mỏi, đau họng, ngạt mũi, ho, sốt nhẹ và khó ngủ.[3]

3.5. Qi (Khí)
Y học cổ truyền dựa trên sự cân bằng, hài hòa về năng lượng.Khái niệm
cơ bản của nó dựa trên động lực quan trọng của sự sống, được gọi là Qi(khí),
5
tràn khắp cơ thể. Bất kỳ sự mất cân bằng nào đối với Khí đều có thể gây ra bệnh
tật.[3]

3.6. Lower-Jiao (Hạ Tiêu)


Hạ tiêu: gồm tiểu trường, đại trường, can, đởm, thận, bàng quang. Công
năng chủ yếu là bài tiết chất cặn bã, nước tiểu.[4]

3.7. Yang deficiency (Chứng Dương Hư)


Thường gọi là chứng hư hàn, là tên gọi chung cho các trường hợp dương
khí bất túc, cơ năng suy thoái các cơ quan trong cơ thể không được sưởi ấm.
Nguyên nhân chủ yếu phần nhiều do tiên thiên phú bẩm bất túc, do đau ốm lâu
ngày thể trạng hư yếu hoặc do hàn tà xâm phạm vào cơ thể làm tổn thương
dương khí. Trong trường hợp này nói đến dương khí bất túc toàn cơ thể, còn
chứng dương hư của các tạng như tâm, tỳ, thận thường có mối liên hệ với nhau
trình bày ở phần khác, chứng dương hư thường gặp trong các bệnh như: Thủy
thũng, tiết tả, tâm quý, hư lao.[3]

3.8. Exogenous pathogenic cold (Ngoại cảm phong hàn)


Ngoại cảm phong hàn thuộc chứng vị hàn trong Đông y, thường gặp trong
các bệnh: vị quản thống, ẩu thổ, tiết tả...Biểu hiện: Bệnh nhân tự cảm thấy lạnh
trong vị, luôn luôn có cảm giác như có cục nước đá trong vị, lạnh đau, trướng
đầy, buồn nôn và thường nôn ra nước trong. Khi gặp lạnh thì đau tăng, khi gặp
ấm thì giảm đau, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng trơn, mạch huyền hoặc trì.[3]

3.9. Meridans (Kinh Mạch)


Kinh mạch là một trong hai đường vận hành của khí huyết toàn thân.
Kinh mạch là đường chính và thẳng, tuần hành ở sâu. Kinh mạch: có 12 đường
kinh chính, 8 mạch kỳ kinh và 12 kinh biệt.[3]

3.10. The cold manifests (Cảm mạo):


Cảm mạo là cảm nhiễm phải tà khí của bốn mùa trong năm, còn gọi là
ngoại cảm. Nguyên nhân là do khí hậu trái thường của thời tiết, như đang lạnh
đột ngột chuyển nắng nóng, và ngược lại. Các khí hậu trái thường đó xâm nhập
vào cơ thể mà sinh ra, nặng lắm thì gọi là trúng; vừa vừa thì gọi là thương; và
nhẹ thì gọi là cảm. Nếu tà khí nặng vào sâu ở kinh lạc là bệnh thương hàn, nếu là
nhẹ mà ở nông chỉ phạm da lông là bệnh thương phong.[3]

3.12. Disperse cold (Tán phong hàn):


Thuốc phát tán phong hàn là thuốc có tính vị phần lớn là cay nóng, chủ
yếu dùng điều trị bệnh do ngoại cảm phong hàn gây nên.[3]

3.13. Tonify Qi (Bổ Khí):


6
Thuốc bổ khí là những loại thuốc có tác dụng tăng cường chức năng tạng
phủ bị suy giảm tức là tăng sức khỏe cho bệnh nhân hư nhược. Chức năng tạng
phủ suy giảm là khí của tạng phủ hư nhược như Phế khí hư, Tâm khí hư, Tỳ khí
hư, Thận khí hư. Nhưng trong cơ thể, hai tạng phủ chủ yếu bổ sung khí lực cho
cơ thể là Tỳ và Phế. thuốc bổ khí chủ yếu bổ 2 tạng này.[3]

3.14. Cold Dampness (Hàn thấp):


Là tên gọi tóm tắt cho các chứng trạng do tà khí từ ngoài xâm phạm hoặc
thể trạng vốn tỳ dương không mạnh dẫn đến thủy thấp ứ đọng ở trong gây nên.
Nguyên nhân phần nhiều do cảm nhiễm sương móc nước mưa, hoặc nằm ngồi
nơi ẩm ướt, ăn thức sống lạnh mà thành bệnh, trên lâm sàng vì bộ vị cảm nhiễm
hàn thấp và mức độ bệnh có nặng nhẹ khác nhau nên chứng trạng cũng thiên về
biểu thiên về lý khác nhau.[3]

II. Các dược liệu:


1. Nguyên tắc điều trị bệnh:
Bổ sung Dương của Tâm, Tỳ, Thận bằng tính “Ôn”, loại bỏ tính Hàn, điều
hoà Khí Huyết.[2]

2. Nguyên tắc lựa chọn Dược Liệu và cách lựa chọn các thành phần trong
công thức:
- Đầu tiên: sử dụng các loại dược liệu có tính Nhiệt, vị Tân đi vào các kinh
Tâm, Tỳ, Thận. Có thể làm tiêu tan hết khí lạnh (Tán Hàn), làm ấm cơ thể,
giảm chuột rút, khai thông kinh lạc và thúc đẩy khả năng Vận Khí.[2]
- Thứ hai: Sử dụng các loại dược liệu có tính Ôn nhẹ, vị Cam đi vào các kinh
Tỳ, Thận có thể giúp bổ Khí của các cơ quan và nội tạng từ đó nhẹ nhàng
phát huy chức năng của các Dương khác trong cơ thể.[2]
- Nên lựa chọn một lượng nhỏ dược liệu có tính Hàn, vị Toan giúp bổ Âm,
Huyết và sinh Tân Dịch đồng thời giảm tác dụng phụ của các dược liệu tính
vị Tân, đại Nhiệt.[2]
- Có thể sử dụng các loại dược liệu có khả năng điều hoà Khí và Huyết mà có
thể táo hàn thấp.[2]
- Trong hội chứng Dương Suy, nếu như lượng Dương toả ra cực kỳ yếu và
lượng Hàn bên trong cơ thể (Nội Hàn) vượt quá mức. Sự xung đột giữa yếu
tố gây Nội Hàn với dược liệu có tính Đại Nhiệt sẽ diễn ra kịch liệt. Một
lượng nhỏ dược liệu mang tính hàn có thể được thêm vào. Việc lựa chọn
dược liệu này đóng vai trò rất quan trọng trong việc sử dụng kết hợp số
lượng lớn các loại dược liệu có tính Nhiệt để giảm xung đột (tương kỵ) và
nâng cao hiệu quả trong việc phát huy tác dụng chữa bệnh.[2]

7
3. Lưu ý:
3.1. Làm rõ những khác biệt:
Trong nhiều tình trạng, khi khí bị cản trở, “lãnh cảm” cũng có thể xuất
hiện. Khi lượng Âm quá yếu không nuôi dưỡng được gân cốt, chân tay cũng có
thể bị có cứng, chuột rút. Nhiều người bệnh mắc Huyết Hư cũng bị Âm Hư nên
có tính Nhiệt trong Huyết; họ thường sợ tính Hàn vì Khí không mạnh. Do đó cần
phải phân biệt rõ ràng và chính xác bệnh nhân mắc hội chứng gì ngay từ đầu).[2]

3.2. Bảo vệ Âm:


Nhiều loại dược liệu tính Nhiệt, vị Tân trong công thức có khả năng làm
Ôn (ấm) nội tạng rất nhanh chóng. Xong có thể tiêu hao Âm và Dịch của cơ thể
nếu sử dụng quá lâu hoặc với liều lượng lớn. Chúng có thể gây ra các tác dụng
phụ như khô miệng, họng, mũi, khát nước, đau họng, táo bón, ngứa, khô da, cảm
giác nóng rát ở dạ dày và đánh trống ngực. Do đó không nên sử dụng lâu dài
hoặc với liều lượng lớn, đặc biệt ở những người mắc bệnh Âm và Huyết Hư.[2]

3.3. Lưu ý với các tình trạng xuất huyết và thai kỳ:
Trong các công thức mang tính “ôn” có tác dụng làm ấm nội tạng thì
không nên sử dụng các loại dược liệu có tính vị Tân, Nhiệt. Bởi chúng có thể
kích thích khả năng tuần hoàn Huyết, vì vậy không nên sử dụng trong các tình
trạng xuất huyết hay thai kỳ.[2]

4. Lựa chọn chính: Trực tiếp kích thích Dương cường Dương, làm ấm các
cơ quan nội tạng, kinh mạch và khử hàn:

4.1. Gui Zhi (Cinnamomi cassiae ramulus - Quế Chi) and Xi Xin (asari
herba- Tế tân )
Quế chi và tế tân có thể làm ấm kinh mạch, kích thích chuyển động của
khí và lưu thông máu và xua tan cảm lạnh. Chúng được lựa chọn trong các công
thức làm ấm kinh mạch và điều trị hội chứng tê liệt.[2]
Quế chi có vị ngọt, tính ấm, chủ yếu đi vào kinh tâm. Nó có mùi thơm
mang lại cho loại thảo dược này một vị cay nồng nhẹ khiến nó di chuyển nhanh
và nhẹ. Nó đặc biệt có thể làm ấm máu, kích thích tim và thúc đẩy tuần hoàn
máu, do đó, nó có thể điều trị tay chân lạnh, co thắt cơ, đau tê lạnh, v.v. Ngoài
ra, Quế Chi còn đi vào kinh phế và bàng quang, có tác dụng xua tan phong hàn
bề ngoài, nên có thể trị hội chứng ngoại phong hàn.[2]
Tế tân là loại cây có vị cay và tính nóng, có mùi thơm. Nó đi vào kinh
thận. Vì có mùi thơm nồng, vị cay nồng và tính nóng nên dễ dàng thẩm thấu vào
các vùng sâu trong cơ thể. Nó rất hiệu quả trong loại bỏ cảm lạnh và gió những
vùng như: xương, gân và các bộ phận khác của cơ thể vì nó có thể đi vào kinh
thận và dễ dàng tiếp cận các cấu trúc này. Tế tân có có đặc tính xua gió, xua
8
lạnh, ẩm ướt dù ở những góc sâu hay kẽ hở của cơ thể. Nó thường được sử dụng
để giảm đau khi gió, lạnh và ẩm ướt tích tụ ở các bộ phận sâu và thận dương
yếu. Trong tình trạng này, bệnh nhân không chỉ cảm thấy đau và cảm giác lạnh ở
khớp bị ảnh hưởng mà còn bị đau xương. Họ đi đứng khó khăn trong thời gian
dài, gân cốt đặc biệt cứng và đau, đặc biệt là ở phần dưới cơ thể, tứ chi lạnh và
sợ lạnh. Tất cả các triệu chứng trở nên trầm trọng hơn vào mùa đông hoặc thời
tiết ẩm ướt.[2]
Tác dụng phụ của Tế tân là làm tổn thương Âm, máu và dịch cơ thể và có
thể gây suy yếu Khí. Vì tế tân là thảo dược có độc nên liều lượng cần được kiểm
soát.[2]

4.2. Gao Liang Jiang (alpiniae oficinari rhizoma - Riềng), Wu Zhu Yu


(evodiae fructus - Ngô thù du) and Ding Xiang (Caryophylli los - Đinh
hương)
Tất cả các vị thuốc này đều có vị cay nồng, tính ấm, đi vào kinh Vị.
Chúng có thể làm ấm Vị, tán hàn và giảm đau quặn ở dạ dày.[2]
Riềng có tính nóng và hăng, có tác dụng mạnh trong việc ôn vị và giảm
đau. Nó có thể được sử dụng làm thuốc chính trong công thức điều trị chứng đau
quặn ở vùng bụng trên, nôn ra chất lỏng trong và thích uống đồ ấm, chẳng hạn
như trong viêm dạ dày mãn tính và loét dạ dày tá tràng.[2]
Ngô thù du có vị rất tân, khổ, nhiệt, vào các kinh Gan, Tỳ, Thận. Nó có
thể làm ấm kinh mạch, hạ thấp Can-Khí và điều trị Can-Khí đi lên do quá lạnh
trong kinh Gan. Dấu hiệu là đau đầu, đặc biệt là ở đỉnh đầu. Ngoài ra, Ngô thù
du có thể phát tán Can-Khí và có thể được sử dụng khi Can-Khí tấn công Dạ
dày, biểu hiện bằng cơn đau quặn thắt kèm theo cảm giác lạnh ở bụng và hai bên
bụng dưới, nôn mửa. nước trong, mạch nhanh và chậm. Mô hình này có thể
được tìm thấy trong các rối loạn như đau nửa đầu, tăng huyết áp, loét dạ dày tá
tràng, viêm dạ dày mãn tính và đau bụng kinh.[2]
Đinh hương có tính tân, ôn , đi vào các kinh Vị, Tỳ, Phế, Thận. Nó có thể
đi xuống Vị-Khí, tán hàn và giảm đau bụng kinh. Nó điều trị chứng ợ hơi và nấc
do lạnh ở dạ dày.[2]

4.3. Ba Ji Tian (Morindae radix - Ba kích) and Yin Yang Huo (epimedii
herba - Dâm dương hoắc)
Ba kích và Dâm dương hoắc có tính ôn, cam, tân, vào kinh Thận. Chúng
có thể ôn Hạ Tiêu và bổ trợ hơn là kích thích Thận Dương. Vì vậy, chúng có thể
được sử dụng trong tình trạng mãn tính trong thời gian dài hơn. Chúng được
dùng làm vị thuốc chính trong các bài thuốc chữa cảm giác lạnh, yếu lưng và
đầu gối, vô sinh, đi tiểu nhiều, phân lỏng, phù thũng, liệt dương và ù tai do suy
Thận Dương.[2]
9
4.4. Gan Jiang (Zingiberis rhizoma - Gừng), Xiao Hui Xiang (Foeniculi
fructus- Tiểu hồi), Cao Dou Kou (alpiniae katsumadai semen - Thảo đậu
khấu) and Hua Jiao (Zanthoxyli fructus- Xuyên tiêu)
Tất cả các vị thuốc này đều có tính vị tân và ôn, đi vào kinh Tỳ. Chúng có
thể trục hàn ra và làm ấm Tỳ-Dương. Chúng có thể được sử dụng làm thảo dược
chính riêng biệt trong các bài thuốc trị hàn trong Trung Tiêu.[2]
Gừng rất cay và nóng, đi vào Tỳ, vị, tâm và phế. Nó di chuyển hợp lý một
cách nhanh chóng và khuynh hướng hoạt động của nó vẫn còn ở Trung Tiêu.
Như việc nó đặc biệt hiệu quả trong việc làm ấm tỳ và vị, khử hàn và làm táo
thấp, nó có thể điều trị chuột rút và lạnh ở bụng, nôn mửa và tiêu chảy do nội
hàn ở Trung Tiêu.[2]
Tiểu Hồi Hương, Thảo Đậu Khấu và Xuyên Tiêu đều làm ấm Trung Tiêu
và khử thấp hàn. Ba loại dược liệu này có vị cay nồng, tính ôn, đi vào kinh tỳ và
vị. Chúng được sử dụng chữa đau bụng, chướng bụng, kém ăn, nôn mửa và tiêu
chảy.
Tiểu Hồi Hương là một loại thảo mộc thơm. Nó có thể tán hàn và thúc đẩy
sự lưu thông của khí, nó có thể để giảm đau và cải thiện cảm giác thèm ăn.[2]
Thảo Đậu Khấu cũng là một loại cây có mùi thơm. Không giống Tiểu Hồi
Hương thúc đẩy sự lưu thông của khí, điểm mạnh của nó là làm táo thấp và làm
ôn Tỳ. Do đó, nó có thể điều trị buồn nôn, nôn, tiêu chảy và kém ăn.[2]
Xuyên Tiêu có chức năng tương tự Thảo Đậu Khấu, nhưng ôn hơn nhiều
nên khả năng làm táo thấp và trục hàn mạnh hơn. Vì đây là chất độc thảo mộc và
nó di chuyển nhanh chóng ở Trung tiêu, nó chỉ được sử dụng cho hội chứng thấp
hàn cấp tính quá mức trong một khoảng thời gian ngắn, chẳng hạn như đối với
trường hợp nghiêm trọng đau quặn bụng, thường xuyên và cấp bách nhu động
ruột và phân lỏng.[2]

4.5. Fu Zi (aconiti radix lateralis preparata - Phụ tử)*, Rou Gui


(Cinnamomi cassiae cortex- Quế nhục), Xiao Hui Xiang (Foeniculi fructus -
Tiểu hồi hương), Hua Jiao (Zanthoxyli fructus- Xuyên tiêu), Ding Xiang
(Caryophylli los - Đinh hương) and Ai Ye (artemisiae argyi folium - Ngải
cứu)
Tất cả các vị thuốc này đều đi vào kinh Thận và thường dùng để điều trị
chứng lý hàn bằng cách kích thích Thận Dương.[2]
Phụ tử và Quế nhục được sử dụng phổ biến nhất trong các loại thảo mộc
có tác dụng làm ấm hạ tiêu, thận và có thể được sử dụng riêng biệt hoặc cùng
nhau làm thảo dược chính trong công thức làm ấm cơ thể. Tuy nhiên, có một số
khác biệt giữa hai loại thảo mộc này.[2]

10
Phụ tử là một loại thảo mộc rất cay và nóng. Nó đi vào 12 kinh tuyến và
chuyển động nhanh chóng mà không tồn đọng lại. Nó có thể lan tỏa nhanh
Dương trong cơ thể. Với những tính năng này, nó xử lý hội chứng hàn bên trong
cơ thể. Vì Phụ tử có thể làm ấm nhanh chóng toàn bộ cơ thể trong 12 kinh
tuyến, nó có thể phân tán cái lạnh và khí thấp trong cơ thể giống như mặt trời ở
trong sương mù. Đây là lý do tại sao Phụ tử là một loại thảo dược được sử dụng
rất phổ biến để điều trị hội chứng tắc nghẽn do lạnh, khí thấp, gió, cũng như sự
thiếu hụt Dương của cơ thể. Mặc dù Phụ tử đi vào 12 kinh, nhưng đặc biệt là đi
vào kinh thận. Nó mạnh mẽ trong việc làm ấm và kích thích Thận-Dương và
thúc đẩy chức năng của các cơ quan nội tạng để có thể giải cứu Dương suy. Phù
tử được coi là loại thảo mộc quan trọng nhất để điều trị suy Dương. Mặc dù Phụ
tử là một loại thảo mộc hiệu quả để kích thích hồi Dương, sưởi ấm bên trong và
xua tan cái lạnh, tuy nhiên đó lại là một loại cỏ rất độc. Liều lượng và thời gian
áp dụng việc điều trị phải được kiểm soát cẩn thận.[2]
Quế nhục ít hăng và nóng hơn Phụ tử, nhưng nó có vị ngọt và chỉ đi vào
kinh thận. Điều này làm cho Quế nhục đặc biệt có hiệu quả trong việc sưởi ấm
Hạ Tiêu, sưởi ấm thận và phân tán cái lạnh ở đó. Vì nó ngọt nên nó không
chuyển động nhiều. Điểm mạnh của loại thảo mộc này là nó lan tỏa sự ấm áp
một cách ổn định và mạnh mẽ và xử lý cái lạnh mà chưa thể phân tán trong một
thời gian rất ngắn, chẳng hạn như trong rối loạn bất lực, vô sinh, vô kinh và đi
tiểu thường xuyên. Quế nhục cũng được dùng để điều trị hội chứng phong hàn,
có thể làm ấm và tăng cường ngọn lửa, quan trọng là dẫn ngọn lửa nổi về nguồn
của nó. Hơn nữa, Quế nhục làm ấm thận và máu, phân tán cái lạnh và kích thích
lưu thông máu giúp giảm đau, đặc biệt là khi cơn đau ở bụng, lưng và đầu
gối.[2]
Tiểu hồi hương có thể sưởi ấm Hạ Tiêu vì nó đi vào kinh thận và kinh
gan. Nó có thể thúc đẩy khí vận ở Hạ Tiêu và điều trị đau bụng, chướng bụng và
chuột rút ở các mặt bên của bụng dưới.[2]
Xuyên tiêu và Đinh hương cũng vào hạ tiêu, có thể làm ấm thận dương và
điều trị bệnh lạnh ở lưng dưới và bụng, lạnh tứ chi, tiêu chảy và bất lực.[2]
Ngải cứu vị cay nồng, vào kinh gan và kinh thận. Ngải cứu có vị đắng và
tính ôn. Nó có thể làm ấm kinh gan, thận và tỳ, đặc biệt thích hợp để điều hòa
kinh nguyệt và có thể cầm máu do Hạ Tiêu hàn. Nó có thể được sử dụng như
trưởng vị thuốc trong bài thuốc chữa kinh nguyệt ra nhiều và chảy máu khi
mang thai, cũng như đau bụng kinh do Hạ Tiêu hàn. Nó được coi là một loại
thảo mộc quan trọng cho phụ khoa và rối loạn sản khoa.[2]

11
5. Lựa chọn phụ trợ: Tăng cường khí để cường dương, tăng cường dương
giúp tăng hoạt tính của các loại dược liệu chính:

5.1. Ren Shen (Ginseng radix - Nhân sâm), Huang Qi (astragali radix -
Hoàng kỳ) and Zhi Gan Cao (Glycyrrhizae radix preparata - Cam thảo)
Vì Khí là một phần của dương nên việc suy giảm khí về lâu dài có thể dẫn
đến suy giảm dương. Các loại thảo mộc giúp tăng cường khí thường được sử
dụng trong các công thức tăng cường dương và xua tan tính hàn.[2]
Nhân Sâm vị ngọt, hơi ấm, đi vào kinh Thận, Tỳ, Phế. Nó đặc biệt có thể
điều hòa Nguyên-Khí và giải cứu Dương suy. Nó được dùng làm lựa chọn chính
hoặc lựa chọn phụ cùng với các loại thảo mộc kích thích dương để điều trị các
tình trạng nguy kịch khi khí bị tổn thương nặng và dương bị suy nhược. Vì
Nhân sâm có thể điều hòa mạnh mẽ Nguyên khí, Khí chủ yếu trong cơ thể, nên
nó có thể điều hòa khí của tất cả các cơ quan nội tạng. Nó có thể tăng cường khả
năng làm ấm bên trong của các loại thảo mộc. Nó cũng có thể điều trị các triệu
chứng do thiếu khí trong hội chứng dương suy. Ví dụ, nó làm dịu Tâm-Khí và
làm dịu tâm trí, từ đó điều trị chứng đánh trống ngực và bồn chồn. Nó bổ
Tỳ-Khí và thúc đẩy quá trình tiêu hóa. Hơn nữa, nó còn thúc đẩy quá trình tạo
máu, điều trị chứng mệt mỏi, chân tay lạnh và yếu.[2]
Hoàng Kỳ vị ngọt. Bản chất nó ấm hơn Nhân sâm. Vì nó chỉ đi vào các
kinh Phế và Tỳ nên nó không có chức năng trong việc điều hòa Nguyên khí và
không được sử dụng trong các tình trạng nguy kịch hoặc nói chung là làm suy
yếu khí của tất cả các cơ quan nội tạng. Vì chức năng của nó tập trung vào Tỳ
và Phế, nên nó có thể bổ Tỳ-Khí và thúc đẩy quá trình tiêu hóa, do đó nâng cao
khả năng của dược liệu chính trong công thức làm ấm bên trong. Ngoài ra, vì nó
có thể làm săn chắc khí và nâng cao khí của tỳ, làm ấm cơ và tăng sức mạnh của
cơ, nên nó có thể điều trị các triệu chứng kèm theo của tình trạng suy dương,
chẳng hạn như mệt mỏi và cảm giác nặng nề của cơ thể và tứ chi. Hoàng Kỳ có
thể điều hòa Phế Khí và ổn định bề ngoài, điều này cũng thường thấy trong tình
trạng suy yếu dương.[2]
Cam thảo vị ngọt hơi ấm, thông vào mọi kinh. Theo quan niệm sự kết hợp
giữa vị ngọt, tính ôn và vị cay của các loại thảo mộc sẽ phát triển khả năng bổ
dương, làm dược liệu phụ trong các công thức làm ấm bên trong, Cam thảo
thường được sử dụng kết hợp với các loại thảo mộc có vị cay và tính ấm để bổ
dương của cơ thể. Vì vị ngọt có thể làm chậm tốc độ, giảm căng thẳng và xoa
dịu hai hoặc nhiều xung đột trong quá trình phát triển bệnh lý, nên loại thảo
dược này, với vai trò là chất phụ trợ trong công thức, có thể được sử dụng trong
các tình trạng nghiêm trọng của suy dương. Hơn nữa, tính chất ôn hòa của Cam
thảo còn được sử dụng hiệu quả để điều trị chứng chuột rút cơ bắp do Can-Khí

12
kiểm soát Tỳ. Một liều lượng lớn Cam thảo có tác dụng tuyệt vời trong việc
tăng cường Khí và điều hòa chuyển động của Khí. Nó có thể điều trị tình trạng
suy giảm Tâm-Khí khi Khí không thúc đẩy lưu thông máu gây ra tình trạng bồn
chồn, đánh trống ngực, tức ngực và rối loạn nhịp tim.[2]

5.2. Du Zhong (eucommiae cortex - Đỗ trọng), Gou Ji (Cibotii rhizoma- Cẩu


tích)**, Yi Zhi Ren (alpiniae oxyphyllae fructus - Ích trí) and Tu Si Zi
(Cuscutae semen - Thỏ ty tử)
Các vị thuốc này có vị ngọt, tính ôn, đi vào kinh Thận. Chúng có tác dụng
bổ thận dương, tăng cường chức năng thận. Trong các bài thuốc ôn hạ tiêu, các
vị thuốc này có thể dùng làm thuốc bổ, đặc trị cảm lạnh do dương suy trong các
bệnh mãn tính. Chúng cải thiện tình trạng của bệnh nhân chậm nhưng đều
đặn.[2]
Đỗ Trọng và Cẩu tích giúp tăng cường cho lưng và có lợi cho khớp. Có
thể dùng trong hội chứng tắc nghẽn mãn tính do phong, hàn, thấp, kèm theo
Thận dương hư, đặc biệt ở người cao tuổi.[2]
Ích trí và Thỏ ty tử có thể bổ thận dương cũng như thận tinh, và có thể
được sử dụng cho bệnh đi tiểu thường xuyên, vô sinh và bất lực do thận dương
hư.[2]

5.3. Dang Gui (angelicae sinensis radix - Đương quy) and Pao Sheng Jiang
(quick-fried Zingiberis rhizoma recens - Gừng)
Đương quy có tính vị cam tân ôn, vào các kinh Tâm, Can, Tỳ. Có tác
dụng bổ huyết, hoạt huyết. Có tác dụng hiệu quả và nhẹ nhàng nên được sử dụng
làm chất phụ trợ trong các công thức làm ấm bên trong, đặc biệt khi hàn xâm
phạm vào máu và làm chậm quá trình lưu thông, chẳng hạn như đau bụng kinh,
đau ngực, tứ chi lạnh và hội chứng tắc nghẽn do máu hàn.[2]
Gừng có vị đắng và tính ấm, đi vào kinh Trung tiêu và Tỳ. Nó đặc biệt có
tác dụng ôn ấm Trung tiêu và cầm máu do Tỳ dương hư, chẳng hạn như loét dạ
dày, viêm đại tràng mãn tính và kiết lỵ. Nó cũng có thể được chọn làm phụ trợ
trong công thức ôn ấm Trung tiêu.[2]

6. Bổ trợ: Thúc đẩy sự thông khí, khử hàn ẩm, đóng vai trò chiến lược
trong điều trị triệu chứng dương suy, trung hòa các loại thảo mộc vị chát
và bảo vệ âm:
6.1 Wu Yao (Linderae radix - Ô Dược), Mu Xiang (aucklandiae radix -
Bạch Truật)**, Qing Pi (Citri reticulatae viride pericarpium - Thanh Bì)
and Xiao Hui Xiang (Foeniculi fructus - Tiểu Hồi)
Khi nội hàn tích tụ trong cơ thể, bất kể nguyên nhân là gì tính hàn đều có
thể làm co các kinh mạch, các tạng và cơ bắp. Khí bị tắc nghẽn và cơn đau xuất

13
hiện ở vùng bị ảnh hưởng. Các loại thảo mộc thúc đẩy lưu động Khí và có tính
ấm được sử dụng trong những tình trạng này để hỗ trợ các loại thảo mộc làm
ấm bên trong xua đuổi cảm lạnh, khai thông kinh mạch và do đó giảm đau. Vì
chúng đi vào các kinh mạch và vùng khác nhau nên chúng có thể được chọn để
điều trị tắc nghẽn khí ở khu vực liên quan.[2]
Ô Dược vào kinh Thận và Bàng Quang được sử dụng chủ yếu để giảm
đau do chuột rút ở phía dưới và phía dưới của bụng.[2]
Bạch Truật vào các kinh Gan, Tỳ, Vị và Đại trường, có tác dụng giải tỏa
cơn đau ở vùng hạ sườn và toàn bộ vùng bụng một cách hiệu quả, đặc biệt khi
có hiện tượng chướng bụng và nhu động ruột không đều.[2]
Thanh Bì được dùng chủ yếu để điều trị các cơn đau do Gan-Khí ứ đọng
khi đi vào kinh Gan.[2]
Tiểu Hồi có thể làm ấm trung và hạ tiêu một cách nhẹ nhàng và hiệu quả,
đồng thời điều trị chứng đau bụng và chướng bụng.[2]

III. Bài thuốc và bình luận:


1. Bài thuốc số 1:
1.1. Thành phần:
Nhân sâm (Ginseng radix) 6g

Gừng (Zingiberis rhizoma) 5g

Bạch truật 9g
(Atractylodis macrocephalae rhizoma)

Cam thảo (Glycyrmhizae radix preparata) 6g

1.2. Phân tích công thức:


Công thức này có thể làm ấm trung tiêu và bổ Tỳ-Dương. Nó trị nội hàn
do Tỳ Dương hư.[2]
- Các loại dược liệu chính chính là Gừng và Nhân sâm. Gừng có thể làm ấm
trung tiêu một cách hiệu quả và nhanh chóng và Nhân sâm có thể bổ Tỳ-Khí.
Chúng củng cố chức năng của nhau, phát tán Dương và tán hàn.[2]
- Bạch truật, dược liệu phụ trợ, bổ khí Tỳ và tăng cường tác dụng của Nhân
sâm. Nó cũng có tác dụng táo thấp xảy ra do sự suy Dương ở trung tiêu và
nó tăng cường tác dụng của Gừng để phát tán Dương.[2]
- Cam Thảo vừa đóng vai trò là trợ lý vừa là sứ giả. Nó có thể bổ tỳ, điều hòa
và điều tiết tác dụng của các loại dược liệu trong bài thuốc này.[2]

1.3. Bình luận:

14
- Trong công thức này, mỗi nhóm thảo dược có một công dụng riêng và đại
diện cho một khía cạnh trị liệu nhằm mục đích tạo Dương của trung tiêu.[2]
- Nó ở dạng viên thuốc được làm bằng mật ong, giúp dương sinh ra ở trung
tiêu một cách vững chắc và đầy đủ. Nó đặc biệt hữu ích trong tình trạng
thiếu hụt Tỳ Dương mãn tính.[2]

2. Bài thuốc số 2:
2.1. Thành phần:
Maltose 30 g

Quế chi (Cinnamomi cassiae ramulus) 9g

Bạch thược(Paeoniae radix lactilora) 9g

Cam thảo (Glycyrmhizae radix preparata) 6g

Gừng (Zingiberis rhizoma recens) 10 g

Đại táo (Jujubae fructus) 4 miếng

2.2. Phân tích công thức:


Công thức này chủ yếu chữa Tỳ-Khí và Dương. Trên thực tế, nó điều trị
một hội chứng mãn tính của trung tiêu bất túc, nơi không chỉ có khí và dương,
nhưng âm và huyết dũng hư, do dương khí suy giảm lâu dài.[2]
- Sự suy yếu Dương và Khí được thể hiện dưới biểu hiện đau bụng từng cơn,
phản ứng co thắt mạnh xảy ra tại vị trí ôn khị ấn, giảm cảm giác thèm ăn,
lạnh và đau nhức tứ chi.[2]
- Thiếu khí và máu được biểu hiện dưới dạng nước da nhợt nhạt, tim đập
nhanh, xanh xao lưỡi.[2]
- Âm hư biểu hiện ở sốt nhẹ, khô miệng, khô họng và khó chịu.[2]

Tiểu kiến trung thang cho thấy việc sử dụng các chiến lược điều trị quan
trọng để tất cả mọi thứ đều có thể được điều chỉnh một cách cân bằng và đầy
đủ.[2]
- Một lượng lớn Mạch nha được sử dụng làm thành phần chính. Vì nó ngọt
ngào và trung tính và đi vào tỳ kinh, nó có thể bổ Tỳ ngay lập tức mà không
làm tổn hại đến Âm hoặc Dương. Vì tính vị trung tính của nó làm cho nó
hoàn hảo để làm mềm cơ bắp, nó có thể làm giảm đau quặn thắt.[2]
- Khi Mạch nha và tâm-can ôn Quế chi, một trong những loại thảo mộc phụ,
được sử dụng cùng nhau, chúng có thể giúp bổ Tỳ-Dương và tăng cường
chức năng của nó. Vì tính chất cay nồng của Quế chi được điều chỉnh bởi số

15
lượng lớn Mạch nha, loại thảo dược này sẽ không làm tổn thương Âm và
huyết.[2]
- Khi Mạch và toan-khổ-hàn Bạch thược, một loại thảo mộc khác, được sử
dụng cùng nhau, chúng có thể sản sinh Âm của cơ thể và bằng cách này trị
huyết âm hư. Do tính hàn của Bạch thược được giảm thiểu bởi số lượng lớn
Maltose và Bạch thược sẽ không làm tổn thương Dương và Khí.[2]
- Gừng cay nồng kích thích Dương và được sử dụng bổ trợ để tăng cường tác
dụng của Quế chi để ôn trung tiêu. Nó cũng làm ôn hòa vị-khí, tán hàn và
nước tích tụ và cải thiện tiêu hóa.[2]
- Đại táo ngọt ngào và ấm có tác dụng bổ huyết và Tỳ-Khí và dùng bổ trợ cho
nâng cao tác dụng của Bạch thược.[2]

2.3. Bình luận:


Có một số đặc điểm khác biệt về công thức này:
- Trước hết, các loại dược liệu có vị ngọt được dùng để bồi bổ tỳ trực tiếp.[2]
- Thứ hai, sự kết hợp giữa các loại dược liệu có tính cam và ôn, và các loại
dược liệu có tính ôn và hàn được sử dụng để tạo ra Dương và Âm tương
ứng.[2]
- Thứ ba, sự kết hợp và tỷ lệ liều lượng được sắp xếp một cách tỉ mỉ để tránh
tác dụng phụ của tổn thương đến các khía cạnh khác trong quá trình bổ túc
một phần. Bằng cách này, Âm, Dương, Khí và máu được tạo ra dần dần, một
cách đều đặn và đầy đủ.[2]
- Khi âm huyết có thể nuôi dưỡng nội tạng các cơ quan, Dương và Khí có thể
đẩy nhanh tác dụng của chúng và mọi triệu chứng dần dần biến mất. Bài
thuốc là một ví dụ rất tốt để điều trị bệnh mãn tính.[2]

3. Bài thuốc số 3:
3.1. Thành phần:
Phụ tử ( Aconiti radix lateralis) 9g

Gừng (Zingiberis rhizoma) 5g

Nhục quế (Cinnamomi cassiae cortex) 3g

Nhân sâm (Ginseng radix) 6g

Bạch truật (Atractylodis macrocephalae 9g


rhizoma)

Phục linh (Poria) 9g

16
Trần bì (Citri reticulatae pericarpium) 6g

Cam thảo (Glycyrrhizae radix preparata) 5g

Ngũ Vị tử (Schisandrae fructus) 3g

Bán hạ (Pinelliae rhizoma) 9g

Sinh khương (Zingiberis rhizoma recens) 3 miếng

Xạ hương (Moschus) 0,1g

3.2. Phân tích thành phần:


Công thức này có thể giải cứu Dương suy và bổ khí. Nó được sử dụng để
điều trị tình trạng dương hư ở Thận, Tỳ và Tâm và hàn khí tích tụ trong cơ thể.
Các triệu chứng là tứ chi lạnh, trạng thái kiệt sức, buồn ngủ, nôn mửa, tiêu chảy,
đau bụng và cảm lạnh, ớn lạnh dữ dội, móng tay và môi tím tái, lưỡi nhạt có rêu
trắng, và mạch yếu và sâu.[2]
- Phụ tử được sử dụng làm thảo dược chính để kích thích hồi dương và trục
hàn. Nó đặc biệt được sử dụng trong tình trạng nguy kịch của dương suy.
Phụ tử đã qua chế biến tốt hơn phụ tử thô.[2]
- Nhục quế và gừng được dùng để đảm bảo giải cứu dương. Nhục quế vào
Thận, làm ấm Thận Dương và tăng cường công năng của Phù Tử. Vị ngọt,
có tác dụng bồi bổ cơ thể, duy trì tác dụng ổn định hạ tiêu, thận. Gừng đi vào
kinh Tỳ. Nó trực tiếp làm ấm Tỳ Dương và loại bỏ cảm lạnh và táo thấp.[2]
- Nhân sâm và cam thảo được sử dụng để hỗ trợ tăng cường Khí, nhằm nâng
cao tác dụng của loại thảo dược chính trong việc ổn định Dương.
- Bạch Truật và Phục Linh bổ khí Tỳ và loại bỏ táo thấp; Bạch Truật và Trần
bì điều hòa Khí và loại bỏ táo thấp và đờm; Xạ Hương có thể mở rộng nhanh
chóng và mạnh mẽ tất cả các kinh mạch và tăng cường hoạt động lan truyền
của Dương Khí.[2]
- Ngũ vị tử, tính ấm và chua, đi vào kinh Phế, Tâm và Thận. Tính chất chua
của nó có thể ổn định Dương trong tình trạng Dương suy. Hơn nữa, với các
loại thảo mộc có vị ngọt, nó có thể tạo ra m và do đó điều khiển Dương. Khi
nó được sử dụng với nhân sâm, Thận-Khí được tăng cường và ổn định. Khi
Ngũ Vị Tử được sử dụng với Xạ Hương, Khí di chuyển trong cơ thể một
cách mượt mà hơn.[2]
- Cam thảo dùng để hài hòa chức năng các loại thảo mộc trong công thức.[2]

3.3. Bình luận:

17
Công thức này trình bày các phương pháp và sự thận trọng trong việc cứu
Dương suy bằng cách sử dụng Phụ Tử đã qua xử lý thay vì phiên bản thô.[2]
- Công thức không chỉ tập trung vào trạng thái của Dương mà còn xem xét
mối quan hệ với Âm.[2]
- Nó không chỉ tập trung vào việc điều trị Thận mà còn bổ Tỳ dựa trên mối
quan hệ giữa Thận và Tỳ.[2]
- Nó tập trung vào việc giải cứu và ổn định Dương; tuy nhiên, các loại thảo
mộc tăng cường Khí được sử dụng có tính đến mối quan hệ giữa Dương và
Khí.[2]
Tất cả sự sắp xếp trong công thức này mang lại nguồn cảm hứng cho việc
nghiên cứu các chiến lược điều trị các tình trạng nguy kịch bằng cách xem xét
mối quan hệ của tất cả các khía cạnh liên quan.[2]

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] “Bộ Y Tế - Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh cơ xương khớp ,
2014.pdf.” Accessed: Mar. 01, 2024. [Online]. Available:
https://kcb.vn/upload/2005611/20210723//HD%C4%90T-C%C6%A1-X%C6
%B0%C6%A1ng-Kh%E1%BB%9Bp.pdf
[2] Yifan Yang, Chinese herbal formulas: treatment principles and composition
strategies. Edinburgh ; New York: Churchill Livingstone Elsevier, 2010.
[3] Giovanni Maciocia, The foundations of Chinese medicine: a comprehensive
text, Third edition/25th Anniversary edition. Edinburgh: Elsevier, 2015.
[4] “Three_jiaos.” Accessed: Mar. 04, 2024. [Online]. Available:
https://www.bionity.com/en/encyclopedia/Three_jiaos.html

19

You might also like