Professional Documents
Culture Documents
Tiểu luận nhóm Dược cổ truyền - Viêm khớp dạng thấp
Tiểu luận nhóm Dược cổ truyền - Viêm khớp dạng thấp
Tiểu luận nhóm Dược cổ truyền - Viêm khớp dạng thấp
-----&-----
Chủ đề:
HÀ NỘI – 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
1
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2
I. Đại cương bệnh: 3
1. Định nghĩa bệnh theo Bộ Y Tế Việt Nam: 3
2. Dịch nghĩa bệnh theo Đông Y: 3
3. Giải thích các thuật ngữ xuất hiện: 5
II. Các dược liệu: 7
1. Nguyên tắc điều trị bệnh: 7
2. Nguyên tắc lựa chọn Dược Liệu và cách lựa chọn các thành phần trong công
thức: 7
3. Lưu ý: 8
4. Lựa chọn chính: Trực tiếp kích thích Dương cường Dương, làm ấm các cơ quan
nội tạng, kinh mạch và khử hàn: 8
5. Lựa chọn phụ trợ: Tăng cường khí để cường dương, tăng cường dương giúp tăng
hoạt tính của các loại dược liệu chính: 12
6. Bổ trợ: Thúc đẩy sự thông khí, khử hàn ẩm, đóng vai trò chiến lược trong điều
trị triệu chứng dương suy, trung hòa các loại thảo mộc vị chát và bảo vệ âm: 13
III. Bài thuốc và bình luận: 14
1. Bài thuốc số 1: 14
2. Bài thuốc số 2: 15
3. Bài thuốc số 3: 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 19
2
I. Đại cương bệnh:
1. Định nghĩa bệnh theo Bộ Y Tế Việt Nam:
Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh lý tự miễn điển hình, diễn biến
mạn tính với các biểu hiện tại khớp, ngoài khớp và toàn thân ở nhiều mức độ
khác nhau. Bệnh diễn biến phức tạp, gây hậu quả nặng nề do đó cần được điều
trị tích cực ngay từ đầu bằng các biện pháp điều trị hữu hiệu để làm ngừng hay
làm chậm tiến triển của bệnh, hạn chế tàn phế và nâng cao chất lượng sống cho
người bệnh.[1]
3
- Tính Hàn gây ra hiện tượng co rút cơ, có thể trực tiếp cản trở đường Khí Vận
(chuyển động của “Qi”)khiến bệnh nhân có triệu chứng điển hình là đau
quặn mà có thể thuyên giảm hoặc cảm giác dễ chịu khi tiếp xúc với
“Ôn/ấm”.[2]
- Tính Hàn cản trở sự lan toả “Ôn của Dương” và các đường Khí Vận, Tuần
hoàn máu (khí huyết vận hành). Do đó, bệnh nhân phải chịu cơn lạnh thấu
xương làm đau nhức dữ dội và chuột rút ở cơ cũng như cứng khớp chân tay.
- Thông qua tiêu thụ đồ ăn thức uống lạnh không đúng cách, Hội chứng ngoại
cảm phong hàn. có thể trực tiếp xâm nhập vào dạ dày và tích tụ ở Trung
Giao.[2]
- Khi tính Hàn cản trở Dương và Khí, bệnh nhân có thể bị cơn đau quặn cấp
tính ở dạ dày hoặc bụng và có thể bị tiêu chảy.[2]
- Triệu chứng hàn nguyên nhân có thể do “Dương Hư” ở các cơ quan khác
nhau.[2]
- “Thận Dương Hư” thường gặp ở người lớn tuổi, người thể trạng kém và
bệnh nhân mắc các bệnh mãn tính. Khi “Thận Dương” không đẩy nhanh quá
trình chuyển hóa nước, có thể xảy ra hiện tượng phù thũng hoặc đi tiểu tiện
thường xuyên. Khi “Thận Dương” và “Khí” không thể làm ấm “Hạ Tiêu”
và duy trì chức năng của nó thì có thể xảy ra tình trạng liệt dương, vô sinh,
đau bụng kinh và tiêu chảy phân nước.[2]
- “Tỳ Dương Hư” thường xảy ra ở người bị rối loạn tiêu hóa mãn tính. Khi
“Tỳ Dương” quá yếu, không thể làm ấm các cơ quan nội tạng, kinh mạch và
cơ bắp, sẽ gây ra “lãnh cảm”, đau quặn bụng và tiêu chảy. Khi khí ở Trung
Giao quá yếu gây ra biểu hiện chướng bụng và chán ăn sẽ xuất hiện.[2]
- “Tâm Dương Hư” tồn tại ở những người bị căng thẳng, đau khổ trong thời
gian dài hoặc ở những bệnh nhân mắc bệnh tim phổi nặng. Khi dương trong
lồng ngực quá yếu không thể thúc đẩy khí vận và tuần hoàn máu thì bắt đầu
có cảm giác hồi hộp, khó thở và đau ngực.[2]
4
cách sử dụng “tính ôn” (ấm) và cảm giác ngột ngạt, hơi thở nông kèm theo
đau ngực.[2]
- Khi năng lượng Khí quá yếu không thể giữ được Dương ở mức cần thiết, sẽ
khiến cơ thể bắt đầu đổ mồ hôi nhiều.[2]
- Khi Tâm Khí không thể hỗ trợ cho Tâm Thần, khiến Tinh Thần có biểu hiện
như sắc mặt xanh xao, thờ ơ và phản xạ giảm sút.[2]
3.5. Qi (Khí)
Y học cổ truyền dựa trên sự cân bằng, hài hòa về năng lượng.Khái niệm
cơ bản của nó dựa trên động lực quan trọng của sự sống, được gọi là Qi(khí),
5
tràn khắp cơ thể. Bất kỳ sự mất cân bằng nào đối với Khí đều có thể gây ra bệnh
tật.[3]
2. Nguyên tắc lựa chọn Dược Liệu và cách lựa chọn các thành phần trong
công thức:
- Đầu tiên: sử dụng các loại dược liệu có tính Nhiệt, vị Tân đi vào các kinh
Tâm, Tỳ, Thận. Có thể làm tiêu tan hết khí lạnh (Tán Hàn), làm ấm cơ thể,
giảm chuột rút, khai thông kinh lạc và thúc đẩy khả năng Vận Khí.[2]
- Thứ hai: Sử dụng các loại dược liệu có tính Ôn nhẹ, vị Cam đi vào các kinh
Tỳ, Thận có thể giúp bổ Khí của các cơ quan và nội tạng từ đó nhẹ nhàng
phát huy chức năng của các Dương khác trong cơ thể.[2]
- Nên lựa chọn một lượng nhỏ dược liệu có tính Hàn, vị Toan giúp bổ Âm,
Huyết và sinh Tân Dịch đồng thời giảm tác dụng phụ của các dược liệu tính
vị Tân, đại Nhiệt.[2]
- Có thể sử dụng các loại dược liệu có khả năng điều hoà Khí và Huyết mà có
thể táo hàn thấp.[2]
- Trong hội chứng Dương Suy, nếu như lượng Dương toả ra cực kỳ yếu và
lượng Hàn bên trong cơ thể (Nội Hàn) vượt quá mức. Sự xung đột giữa yếu
tố gây Nội Hàn với dược liệu có tính Đại Nhiệt sẽ diễn ra kịch liệt. Một
lượng nhỏ dược liệu mang tính hàn có thể được thêm vào. Việc lựa chọn
dược liệu này đóng vai trò rất quan trọng trong việc sử dụng kết hợp số
lượng lớn các loại dược liệu có tính Nhiệt để giảm xung đột (tương kỵ) và
nâng cao hiệu quả trong việc phát huy tác dụng chữa bệnh.[2]
7
3. Lưu ý:
3.1. Làm rõ những khác biệt:
Trong nhiều tình trạng, khi khí bị cản trở, “lãnh cảm” cũng có thể xuất
hiện. Khi lượng Âm quá yếu không nuôi dưỡng được gân cốt, chân tay cũng có
thể bị có cứng, chuột rút. Nhiều người bệnh mắc Huyết Hư cũng bị Âm Hư nên
có tính Nhiệt trong Huyết; họ thường sợ tính Hàn vì Khí không mạnh. Do đó cần
phải phân biệt rõ ràng và chính xác bệnh nhân mắc hội chứng gì ngay từ đầu).[2]
3.3. Lưu ý với các tình trạng xuất huyết và thai kỳ:
Trong các công thức mang tính “ôn” có tác dụng làm ấm nội tạng thì
không nên sử dụng các loại dược liệu có tính vị Tân, Nhiệt. Bởi chúng có thể
kích thích khả năng tuần hoàn Huyết, vì vậy không nên sử dụng trong các tình
trạng xuất huyết hay thai kỳ.[2]
4. Lựa chọn chính: Trực tiếp kích thích Dương cường Dương, làm ấm các
cơ quan nội tạng, kinh mạch và khử hàn:
4.1. Gui Zhi (Cinnamomi cassiae ramulus - Quế Chi) and Xi Xin (asari
herba- Tế tân )
Quế chi và tế tân có thể làm ấm kinh mạch, kích thích chuyển động của
khí và lưu thông máu và xua tan cảm lạnh. Chúng được lựa chọn trong các công
thức làm ấm kinh mạch và điều trị hội chứng tê liệt.[2]
Quế chi có vị ngọt, tính ấm, chủ yếu đi vào kinh tâm. Nó có mùi thơm
mang lại cho loại thảo dược này một vị cay nồng nhẹ khiến nó di chuyển nhanh
và nhẹ. Nó đặc biệt có thể làm ấm máu, kích thích tim và thúc đẩy tuần hoàn
máu, do đó, nó có thể điều trị tay chân lạnh, co thắt cơ, đau tê lạnh, v.v. Ngoài
ra, Quế Chi còn đi vào kinh phế và bàng quang, có tác dụng xua tan phong hàn
bề ngoài, nên có thể trị hội chứng ngoại phong hàn.[2]
Tế tân là loại cây có vị cay và tính nóng, có mùi thơm. Nó đi vào kinh
thận. Vì có mùi thơm nồng, vị cay nồng và tính nóng nên dễ dàng thẩm thấu vào
các vùng sâu trong cơ thể. Nó rất hiệu quả trong loại bỏ cảm lạnh và gió những
vùng như: xương, gân và các bộ phận khác của cơ thể vì nó có thể đi vào kinh
thận và dễ dàng tiếp cận các cấu trúc này. Tế tân có có đặc tính xua gió, xua
8
lạnh, ẩm ướt dù ở những góc sâu hay kẽ hở của cơ thể. Nó thường được sử dụng
để giảm đau khi gió, lạnh và ẩm ướt tích tụ ở các bộ phận sâu và thận dương
yếu. Trong tình trạng này, bệnh nhân không chỉ cảm thấy đau và cảm giác lạnh ở
khớp bị ảnh hưởng mà còn bị đau xương. Họ đi đứng khó khăn trong thời gian
dài, gân cốt đặc biệt cứng và đau, đặc biệt là ở phần dưới cơ thể, tứ chi lạnh và
sợ lạnh. Tất cả các triệu chứng trở nên trầm trọng hơn vào mùa đông hoặc thời
tiết ẩm ướt.[2]
Tác dụng phụ của Tế tân là làm tổn thương Âm, máu và dịch cơ thể và có
thể gây suy yếu Khí. Vì tế tân là thảo dược có độc nên liều lượng cần được kiểm
soát.[2]
4.3. Ba Ji Tian (Morindae radix - Ba kích) and Yin Yang Huo (epimedii
herba - Dâm dương hoắc)
Ba kích và Dâm dương hoắc có tính ôn, cam, tân, vào kinh Thận. Chúng
có thể ôn Hạ Tiêu và bổ trợ hơn là kích thích Thận Dương. Vì vậy, chúng có thể
được sử dụng trong tình trạng mãn tính trong thời gian dài hơn. Chúng được
dùng làm vị thuốc chính trong các bài thuốc chữa cảm giác lạnh, yếu lưng và
đầu gối, vô sinh, đi tiểu nhiều, phân lỏng, phù thũng, liệt dương và ù tai do suy
Thận Dương.[2]
9
4.4. Gan Jiang (Zingiberis rhizoma - Gừng), Xiao Hui Xiang (Foeniculi
fructus- Tiểu hồi), Cao Dou Kou (alpiniae katsumadai semen - Thảo đậu
khấu) and Hua Jiao (Zanthoxyli fructus- Xuyên tiêu)
Tất cả các vị thuốc này đều có tính vị tân và ôn, đi vào kinh Tỳ. Chúng có
thể trục hàn ra và làm ấm Tỳ-Dương. Chúng có thể được sử dụng làm thảo dược
chính riêng biệt trong các bài thuốc trị hàn trong Trung Tiêu.[2]
Gừng rất cay và nóng, đi vào Tỳ, vị, tâm và phế. Nó di chuyển hợp lý một
cách nhanh chóng và khuynh hướng hoạt động của nó vẫn còn ở Trung Tiêu.
Như việc nó đặc biệt hiệu quả trong việc làm ấm tỳ và vị, khử hàn và làm táo
thấp, nó có thể điều trị chuột rút và lạnh ở bụng, nôn mửa và tiêu chảy do nội
hàn ở Trung Tiêu.[2]
Tiểu Hồi Hương, Thảo Đậu Khấu và Xuyên Tiêu đều làm ấm Trung Tiêu
và khử thấp hàn. Ba loại dược liệu này có vị cay nồng, tính ôn, đi vào kinh tỳ và
vị. Chúng được sử dụng chữa đau bụng, chướng bụng, kém ăn, nôn mửa và tiêu
chảy.
Tiểu Hồi Hương là một loại thảo mộc thơm. Nó có thể tán hàn và thúc đẩy
sự lưu thông của khí, nó có thể để giảm đau và cải thiện cảm giác thèm ăn.[2]
Thảo Đậu Khấu cũng là một loại cây có mùi thơm. Không giống Tiểu Hồi
Hương thúc đẩy sự lưu thông của khí, điểm mạnh của nó là làm táo thấp và làm
ôn Tỳ. Do đó, nó có thể điều trị buồn nôn, nôn, tiêu chảy và kém ăn.[2]
Xuyên Tiêu có chức năng tương tự Thảo Đậu Khấu, nhưng ôn hơn nhiều
nên khả năng làm táo thấp và trục hàn mạnh hơn. Vì đây là chất độc thảo mộc và
nó di chuyển nhanh chóng ở Trung tiêu, nó chỉ được sử dụng cho hội chứng thấp
hàn cấp tính quá mức trong một khoảng thời gian ngắn, chẳng hạn như đối với
trường hợp nghiêm trọng đau quặn bụng, thường xuyên và cấp bách nhu động
ruột và phân lỏng.[2]
10
Phụ tử là một loại thảo mộc rất cay và nóng. Nó đi vào 12 kinh tuyến và
chuyển động nhanh chóng mà không tồn đọng lại. Nó có thể lan tỏa nhanh
Dương trong cơ thể. Với những tính năng này, nó xử lý hội chứng hàn bên trong
cơ thể. Vì Phụ tử có thể làm ấm nhanh chóng toàn bộ cơ thể trong 12 kinh
tuyến, nó có thể phân tán cái lạnh và khí thấp trong cơ thể giống như mặt trời ở
trong sương mù. Đây là lý do tại sao Phụ tử là một loại thảo dược được sử dụng
rất phổ biến để điều trị hội chứng tắc nghẽn do lạnh, khí thấp, gió, cũng như sự
thiếu hụt Dương của cơ thể. Mặc dù Phụ tử đi vào 12 kinh, nhưng đặc biệt là đi
vào kinh thận. Nó mạnh mẽ trong việc làm ấm và kích thích Thận-Dương và
thúc đẩy chức năng của các cơ quan nội tạng để có thể giải cứu Dương suy. Phù
tử được coi là loại thảo mộc quan trọng nhất để điều trị suy Dương. Mặc dù Phụ
tử là một loại thảo mộc hiệu quả để kích thích hồi Dương, sưởi ấm bên trong và
xua tan cái lạnh, tuy nhiên đó lại là một loại cỏ rất độc. Liều lượng và thời gian
áp dụng việc điều trị phải được kiểm soát cẩn thận.[2]
Quế nhục ít hăng và nóng hơn Phụ tử, nhưng nó có vị ngọt và chỉ đi vào
kinh thận. Điều này làm cho Quế nhục đặc biệt có hiệu quả trong việc sưởi ấm
Hạ Tiêu, sưởi ấm thận và phân tán cái lạnh ở đó. Vì nó ngọt nên nó không
chuyển động nhiều. Điểm mạnh của loại thảo mộc này là nó lan tỏa sự ấm áp
một cách ổn định và mạnh mẽ và xử lý cái lạnh mà chưa thể phân tán trong một
thời gian rất ngắn, chẳng hạn như trong rối loạn bất lực, vô sinh, vô kinh và đi
tiểu thường xuyên. Quế nhục cũng được dùng để điều trị hội chứng phong hàn,
có thể làm ấm và tăng cường ngọn lửa, quan trọng là dẫn ngọn lửa nổi về nguồn
của nó. Hơn nữa, Quế nhục làm ấm thận và máu, phân tán cái lạnh và kích thích
lưu thông máu giúp giảm đau, đặc biệt là khi cơn đau ở bụng, lưng và đầu
gối.[2]
Tiểu hồi hương có thể sưởi ấm Hạ Tiêu vì nó đi vào kinh thận và kinh
gan. Nó có thể thúc đẩy khí vận ở Hạ Tiêu và điều trị đau bụng, chướng bụng và
chuột rút ở các mặt bên của bụng dưới.[2]
Xuyên tiêu và Đinh hương cũng vào hạ tiêu, có thể làm ấm thận dương và
điều trị bệnh lạnh ở lưng dưới và bụng, lạnh tứ chi, tiêu chảy và bất lực.[2]
Ngải cứu vị cay nồng, vào kinh gan và kinh thận. Ngải cứu có vị đắng và
tính ôn. Nó có thể làm ấm kinh gan, thận và tỳ, đặc biệt thích hợp để điều hòa
kinh nguyệt và có thể cầm máu do Hạ Tiêu hàn. Nó có thể được sử dụng như
trưởng vị thuốc trong bài thuốc chữa kinh nguyệt ra nhiều và chảy máu khi
mang thai, cũng như đau bụng kinh do Hạ Tiêu hàn. Nó được coi là một loại
thảo mộc quan trọng cho phụ khoa và rối loạn sản khoa.[2]
11
5. Lựa chọn phụ trợ: Tăng cường khí để cường dương, tăng cường dương
giúp tăng hoạt tính của các loại dược liệu chính:
5.1. Ren Shen (Ginseng radix - Nhân sâm), Huang Qi (astragali radix -
Hoàng kỳ) and Zhi Gan Cao (Glycyrrhizae radix preparata - Cam thảo)
Vì Khí là một phần của dương nên việc suy giảm khí về lâu dài có thể dẫn
đến suy giảm dương. Các loại thảo mộc giúp tăng cường khí thường được sử
dụng trong các công thức tăng cường dương và xua tan tính hàn.[2]
Nhân Sâm vị ngọt, hơi ấm, đi vào kinh Thận, Tỳ, Phế. Nó đặc biệt có thể
điều hòa Nguyên-Khí và giải cứu Dương suy. Nó được dùng làm lựa chọn chính
hoặc lựa chọn phụ cùng với các loại thảo mộc kích thích dương để điều trị các
tình trạng nguy kịch khi khí bị tổn thương nặng và dương bị suy nhược. Vì
Nhân sâm có thể điều hòa mạnh mẽ Nguyên khí, Khí chủ yếu trong cơ thể, nên
nó có thể điều hòa khí của tất cả các cơ quan nội tạng. Nó có thể tăng cường khả
năng làm ấm bên trong của các loại thảo mộc. Nó cũng có thể điều trị các triệu
chứng do thiếu khí trong hội chứng dương suy. Ví dụ, nó làm dịu Tâm-Khí và
làm dịu tâm trí, từ đó điều trị chứng đánh trống ngực và bồn chồn. Nó bổ
Tỳ-Khí và thúc đẩy quá trình tiêu hóa. Hơn nữa, nó còn thúc đẩy quá trình tạo
máu, điều trị chứng mệt mỏi, chân tay lạnh và yếu.[2]
Hoàng Kỳ vị ngọt. Bản chất nó ấm hơn Nhân sâm. Vì nó chỉ đi vào các
kinh Phế và Tỳ nên nó không có chức năng trong việc điều hòa Nguyên khí và
không được sử dụng trong các tình trạng nguy kịch hoặc nói chung là làm suy
yếu khí của tất cả các cơ quan nội tạng. Vì chức năng của nó tập trung vào Tỳ
và Phế, nên nó có thể bổ Tỳ-Khí và thúc đẩy quá trình tiêu hóa, do đó nâng cao
khả năng của dược liệu chính trong công thức làm ấm bên trong. Ngoài ra, vì nó
có thể làm săn chắc khí và nâng cao khí của tỳ, làm ấm cơ và tăng sức mạnh của
cơ, nên nó có thể điều trị các triệu chứng kèm theo của tình trạng suy dương,
chẳng hạn như mệt mỏi và cảm giác nặng nề của cơ thể và tứ chi. Hoàng Kỳ có
thể điều hòa Phế Khí và ổn định bề ngoài, điều này cũng thường thấy trong tình
trạng suy yếu dương.[2]
Cam thảo vị ngọt hơi ấm, thông vào mọi kinh. Theo quan niệm sự kết hợp
giữa vị ngọt, tính ôn và vị cay của các loại thảo mộc sẽ phát triển khả năng bổ
dương, làm dược liệu phụ trong các công thức làm ấm bên trong, Cam thảo
thường được sử dụng kết hợp với các loại thảo mộc có vị cay và tính ấm để bổ
dương của cơ thể. Vì vị ngọt có thể làm chậm tốc độ, giảm căng thẳng và xoa
dịu hai hoặc nhiều xung đột trong quá trình phát triển bệnh lý, nên loại thảo
dược này, với vai trò là chất phụ trợ trong công thức, có thể được sử dụng trong
các tình trạng nghiêm trọng của suy dương. Hơn nữa, tính chất ôn hòa của Cam
thảo còn được sử dụng hiệu quả để điều trị chứng chuột rút cơ bắp do Can-Khí
12
kiểm soát Tỳ. Một liều lượng lớn Cam thảo có tác dụng tuyệt vời trong việc
tăng cường Khí và điều hòa chuyển động của Khí. Nó có thể điều trị tình trạng
suy giảm Tâm-Khí khi Khí không thúc đẩy lưu thông máu gây ra tình trạng bồn
chồn, đánh trống ngực, tức ngực và rối loạn nhịp tim.[2]
5.3. Dang Gui (angelicae sinensis radix - Đương quy) and Pao Sheng Jiang
(quick-fried Zingiberis rhizoma recens - Gừng)
Đương quy có tính vị cam tân ôn, vào các kinh Tâm, Can, Tỳ. Có tác
dụng bổ huyết, hoạt huyết. Có tác dụng hiệu quả và nhẹ nhàng nên được sử dụng
làm chất phụ trợ trong các công thức làm ấm bên trong, đặc biệt khi hàn xâm
phạm vào máu và làm chậm quá trình lưu thông, chẳng hạn như đau bụng kinh,
đau ngực, tứ chi lạnh và hội chứng tắc nghẽn do máu hàn.[2]
Gừng có vị đắng và tính ấm, đi vào kinh Trung tiêu và Tỳ. Nó đặc biệt có
tác dụng ôn ấm Trung tiêu và cầm máu do Tỳ dương hư, chẳng hạn như loét dạ
dày, viêm đại tràng mãn tính và kiết lỵ. Nó cũng có thể được chọn làm phụ trợ
trong công thức ôn ấm Trung tiêu.[2]
6. Bổ trợ: Thúc đẩy sự thông khí, khử hàn ẩm, đóng vai trò chiến lược
trong điều trị triệu chứng dương suy, trung hòa các loại thảo mộc vị chát
và bảo vệ âm:
6.1 Wu Yao (Linderae radix - Ô Dược), Mu Xiang (aucklandiae radix -
Bạch Truật)**, Qing Pi (Citri reticulatae viride pericarpium - Thanh Bì)
and Xiao Hui Xiang (Foeniculi fructus - Tiểu Hồi)
Khi nội hàn tích tụ trong cơ thể, bất kể nguyên nhân là gì tính hàn đều có
thể làm co các kinh mạch, các tạng và cơ bắp. Khí bị tắc nghẽn và cơn đau xuất
13
hiện ở vùng bị ảnh hưởng. Các loại thảo mộc thúc đẩy lưu động Khí và có tính
ấm được sử dụng trong những tình trạng này để hỗ trợ các loại thảo mộc làm
ấm bên trong xua đuổi cảm lạnh, khai thông kinh mạch và do đó giảm đau. Vì
chúng đi vào các kinh mạch và vùng khác nhau nên chúng có thể được chọn để
điều trị tắc nghẽn khí ở khu vực liên quan.[2]
Ô Dược vào kinh Thận và Bàng Quang được sử dụng chủ yếu để giảm
đau do chuột rút ở phía dưới và phía dưới của bụng.[2]
Bạch Truật vào các kinh Gan, Tỳ, Vị và Đại trường, có tác dụng giải tỏa
cơn đau ở vùng hạ sườn và toàn bộ vùng bụng một cách hiệu quả, đặc biệt khi
có hiện tượng chướng bụng và nhu động ruột không đều.[2]
Thanh Bì được dùng chủ yếu để điều trị các cơn đau do Gan-Khí ứ đọng
khi đi vào kinh Gan.[2]
Tiểu Hồi có thể làm ấm trung và hạ tiêu một cách nhẹ nhàng và hiệu quả,
đồng thời điều trị chứng đau bụng và chướng bụng.[2]
Bạch truật 9g
(Atractylodis macrocephalae rhizoma)
14
- Trong công thức này, mỗi nhóm thảo dược có một công dụng riêng và đại
diện cho một khía cạnh trị liệu nhằm mục đích tạo Dương của trung tiêu.[2]
- Nó ở dạng viên thuốc được làm bằng mật ong, giúp dương sinh ra ở trung
tiêu một cách vững chắc và đầy đủ. Nó đặc biệt hữu ích trong tình trạng
thiếu hụt Tỳ Dương mãn tính.[2]
2. Bài thuốc số 2:
2.1. Thành phần:
Maltose 30 g
Tiểu kiến trung thang cho thấy việc sử dụng các chiến lược điều trị quan
trọng để tất cả mọi thứ đều có thể được điều chỉnh một cách cân bằng và đầy
đủ.[2]
- Một lượng lớn Mạch nha được sử dụng làm thành phần chính. Vì nó ngọt
ngào và trung tính và đi vào tỳ kinh, nó có thể bổ Tỳ ngay lập tức mà không
làm tổn hại đến Âm hoặc Dương. Vì tính vị trung tính của nó làm cho nó
hoàn hảo để làm mềm cơ bắp, nó có thể làm giảm đau quặn thắt.[2]
- Khi Mạch nha và tâm-can ôn Quế chi, một trong những loại thảo mộc phụ,
được sử dụng cùng nhau, chúng có thể giúp bổ Tỳ-Dương và tăng cường
chức năng của nó. Vì tính chất cay nồng của Quế chi được điều chỉnh bởi số
15
lượng lớn Mạch nha, loại thảo dược này sẽ không làm tổn thương Âm và
huyết.[2]
- Khi Mạch và toan-khổ-hàn Bạch thược, một loại thảo mộc khác, được sử
dụng cùng nhau, chúng có thể sản sinh Âm của cơ thể và bằng cách này trị
huyết âm hư. Do tính hàn của Bạch thược được giảm thiểu bởi số lượng lớn
Maltose và Bạch thược sẽ không làm tổn thương Dương và Khí.[2]
- Gừng cay nồng kích thích Dương và được sử dụng bổ trợ để tăng cường tác
dụng của Quế chi để ôn trung tiêu. Nó cũng làm ôn hòa vị-khí, tán hàn và
nước tích tụ và cải thiện tiêu hóa.[2]
- Đại táo ngọt ngào và ấm có tác dụng bổ huyết và Tỳ-Khí và dùng bổ trợ cho
nâng cao tác dụng của Bạch thược.[2]
3. Bài thuốc số 3:
3.1. Thành phần:
Phụ tử ( Aconiti radix lateralis) 9g
16
Trần bì (Citri reticulatae pericarpium) 6g
17
Công thức này trình bày các phương pháp và sự thận trọng trong việc cứu
Dương suy bằng cách sử dụng Phụ Tử đã qua xử lý thay vì phiên bản thô.[2]
- Công thức không chỉ tập trung vào trạng thái của Dương mà còn xem xét
mối quan hệ với Âm.[2]
- Nó không chỉ tập trung vào việc điều trị Thận mà còn bổ Tỳ dựa trên mối
quan hệ giữa Thận và Tỳ.[2]
- Nó tập trung vào việc giải cứu và ổn định Dương; tuy nhiên, các loại thảo
mộc tăng cường Khí được sử dụng có tính đến mối quan hệ giữa Dương và
Khí.[2]
Tất cả sự sắp xếp trong công thức này mang lại nguồn cảm hứng cho việc
nghiên cứu các chiến lược điều trị các tình trạng nguy kịch bằng cách xem xét
mối quan hệ của tất cả các khía cạnh liên quan.[2]
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] “Bộ Y Tế - Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh cơ xương khớp ,
2014.pdf.” Accessed: Mar. 01, 2024. [Online]. Available:
https://kcb.vn/upload/2005611/20210723//HD%C4%90T-C%C6%A1-X%C6
%B0%C6%A1ng-Kh%E1%BB%9Bp.pdf
[2] Yifan Yang, Chinese herbal formulas: treatment principles and composition
strategies. Edinburgh ; New York: Churchill Livingstone Elsevier, 2010.
[3] Giovanni Maciocia, The foundations of Chinese medicine: a comprehensive
text, Third edition/25th Anniversary edition. Edinburgh: Elsevier, 2015.
[4] “Three_jiaos.” Accessed: Mar. 04, 2024. [Online]. Available:
https://www.bionity.com/en/encyclopedia/Three_jiaos.html
19