Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 21

ỨNG DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY

TRONG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC


PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3
---š+›---

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ


Theo quy luật của tự nhiên thì mọi sự vật đều luôn có sự phát triển, trong
đó đổi mới là một động lực quan trọng cho sự phát triển.
Trong dạy học, đòi hỏi luôn luôn có sự đổi mới ở nhiều lĩnh vực nhưng đổi
mới phương pháp dạy học là lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất và luôn là một
yêu cầu cấp thiết của ngành giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học cần xuất
phát từ nhận thức của người thầy về mục tiêu học tập, cách thức cấu trúc nội
dung bài giảng và ý thức tự giác của người trò trong quá trình học tập. Người
thầy chủ động định hướng cho người học "con đường học tập". Sự định hướng
cần nhằm vào việc kích thích sự tự giác, tích cực, chủ động của người học; không
nên bày sẵn để người học chỉ nhai lại, học vẹt, không có sự sáng tạo... Người học
là chủ thể chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ chứ không phải là "cái
bình chứa kiến thức" một cách thụ động.
Xong, trong thực tế, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn kỹ năng tư duy. Học sinh
chỉ học bài nào nhớ bài nấy, cô lập nội dung các môn, phân môn mà chưa có sự
liên kết kiến thức với nhau, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lôgíc, tư duy
hệ thống. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết
cách tự ghi chép thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào bộ nhớ của mình.
Mặt khác, hiện nay không chỉ phần đông học sinh mà cả giáo viên đều
nhận định là nội dung phân môn Tập làm văn (đặc biệt là Tập làm văn lớp 3) là
một phân môn "khó" trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học vì nó mang tính
chất tổng hợp các phân môn khác của Tiếng Việt. Chính vì vậy nên việc tiếp thu
và nhớ bài của các em còn gặp rất nhiều khó khăn. Sử dụng phần mềm
MINDMAP - lập Bản đồ tư duy được phát minh bởi Tony Buzan sẽ giúp học
sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh cùng
tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Vận dụng Bản đồ tư duy (BĐTD)
trong dạy học sẽ dần hình thành tư duy mạch lạc, hiểu biết sâu sắc, có cách nhìn
vấn đề một cách có hệ thống... góp phần đổi mới phương pháp dạy học (PPDH).
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, với mong muốn góp phần nâng cao chất
lượng dạy Tập làm văn lớp 3 nói riêng và trong dạy học nói chung phù hợp với
đổi mới phương pháp dạy học, trong năm học này tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu,
mạnh dạn vận dụng và bước đầu thành công việc "Ứng dụng Bản đồ tư duy
trong đổi mới phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3". Sau đây là
nội dung tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1
A. THỰC TRẠNG
Môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn lớp 3 nói riêng là phân
môn có vai trò quan trọng trong việc dạy học sinh hình thành và phát triển cho
học sinh các kỹ năng "nghe - nói - đọc - viết". Trong giờ Tập làm văn, để đạt
được mục tiêu đề ra, bên cạnh việc đổi mới PPDH của giáo viên, học sinh cần
phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Học tốt phân môn Tập làm
văn sẽ giúp hoc sinh học tốt các môn học khác, đồng thời giáo dục các em tình
cảm lành mạnh, trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp và góp phần đắc lực vào
việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, hình thành nhân cách con người Việt
Nam. Qua việc thực hiện "Ứng dụng Bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp
dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3" trong năm học này, bản thân tôi gặp một
số thuận lợi và khó khăn sau:
1. Thuận lợi:
- Ứng dụng BĐTD là một phương pháp học tập thoải mái, vui vẻ, sáng tạo.
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên được nhiều người ủng
hộ.
- Giáo viên và học sinh có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, từ
nhiều phương tiện khác nhau.
- Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 3 có nhiều nội dung phù hợp
với phương pháp sử dụng BĐTD, phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức
cho học sinh làm việc.
- Giáo viên được tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng Bản
đồ tư duy trong dạy học.
- Phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh
Tiểu học là ghi nhớ nhanh nhờ vào những hình họa sống động, nhiều màu sắc,
khắc phục sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, ứng
dụng Bản đồ tư duy trong dạy học sẽ gây hứng thú cho người học, khích lệ sự tư
duy tích cực.
2. Khó khăn:
- Ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học là một phương pháp mới nên giáo
viên và học sinh sẽ không tránh khỏi lúng túng trong một số kỹ năng như vẽ, xử
lý thông tin, ý tưởng...
- Nội dung phân môn Tập làm văn lớp 3 được cho là khó, lại có nhiều dạng
bài nên giáo viên khó dạy, học sinh khó học.
- Khi ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy đòi hỏi giáo viên phải có
nhiều kỹ năng khác ngoài kỹ năng sư phạm.
- Chỉ lạm dụng vẽ bản đồ tư duy mà ít chú ý đến nội dung bài học.
- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa phù hợp: số học sinh, trang thiết
bị, đồ dùng dạy học...
- Năng lực học sinh không đồng đều nên đôi khi vẽ Bản đồ tư duy trong
học tập là sự máy móc không hiệu quả.
B. BIỆN PHÁP CỤ THỂ

2
Qua việc tìm hiểu và vận dụng PPDH bằng Bản đồ tư duy trong dạy
học nói chung và dạy Tập làm văn lớp 3 nói riêng, tôi nhận thấy phương pháp
dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy của giáo viên và công tác
học tập của học sinh. Bước đầu giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi
trong học sinh lớp 3 tình yêu đối với phân môn Tập làm văn; đồng thời đem đến
cho các em cái nhìn mới về phân môn Tập làm văn. Vậy thế nào là Bản đồ tư
duy? Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học nói chung và dạy tập làm văn lớp 3
như thế nào? Đó là những vấn đề tôi muốn được chia sẻ cùng nghiệp trong bài
viết này.
I. Bản đồ tư duy - một trong những công cụ hỗ trợ dạy học
1. Khái niệm: Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình
ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD là một công cụ hỗ trợ tư duy nền
tảng, có thể miêu tả nó là một kỹ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ với
hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của
bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
- Bản đồ tư duy - giúp học sinh học được các phương pháp học.
Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện
pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Ở Tiểu học, đa số
các em rất chăm học nhưng vẫn học kém, học trước quên sau, không biết liên kết
các kiến thức với nhau. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, học sinh sẽ học
được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động sáng tạo, phát triển tư duy.
- Bản đồ tư duy - giúp học sinh học tập một cách tích cực.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu và cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu
sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ
của mình. Vì vậy việc sử dụng BĐTD sẽ giúp học sinh học tập một cách tích cực,
huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc sử dụng BĐTD phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, phát triển
nhiều kiến thức hội họa, sở thích của học sinh. Các em tự do chọn màu sắc,
đường nét, các em tự "sáng tác" trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu nên các em
thấy yêu quý, trân trọng "tác phẩm của mình".
BĐTD đáp ứng đầy đủ chủ đề "Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực" mà Bộ Giáo dục - Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai. Với BĐTD,
học sinh tích cực làm việc theo nhóm và trình bày ý kiến của mình theo phương
pháp "thầy chủ đạo, trò chủ động".
- Bản đồ tư duy sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc.
3
Đây chính là công cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não. Nếu
vận dụng đúng cách, nó sẽ hoàn toàn giải phóng những năng lực tiềm ẩn của mỗi
người.

2. Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học như thế nào?


Thực tế giảng dạy cho thấy, nhiều học sinh Tiểu học chưa biết cách học,
cách khắc ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một
cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm
được ý chính hoặc không biết liên kết các kiến thức có liên quan với nhau, đặc
biệt là học sinh lớp 3.
Để sử dụng được BĐTD trong dạy học Tiểu học nói chung và dạy Tập làm
văn lớp 3 nói riêng, tôi thiết nghĩ yếu tố quan trọng nhất vẫn là ở học sinh. Nghĩa
là các em phải nắm chắc kiến thức cơ bản sách giáo khoa truyền thụ và biết liên
kết các kiến thức liên quan nhau. Để tiết Tập làm văn có sử dụng BĐTD đạt hiệu
quả, người giáo viên nên thực hiện theo các bước sau:
- Trước tiên, GV cho HS làm quen với BĐTD bằng cách giới thiệu cho HS
một số “bản đồ” cùng với dẫn dắt của GV để các em làm quen với BĐTD. Tuỳ
vào mức độ của từng học sinh, lớp học, vùng, miền,... giáo viên có thể dẫn dắt
học sinh: Từ một vấn đề hay chủ đề chính đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ
hai, thứ ba... mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó, mỗi ý nhỏ lại có các ý
nhỏ hơn...; các nhánh, các đường nhánh có thể là đường thẳng hay đường cong....
- Tập cho HS “đọc hiểu” BĐTD, sao cho chỉ cần nhìn vào BĐTD bất kỳ
HS nào cũng có thể thuyết trình được nội dung một bài học hay một chủ đề, một
chương theo mạch lôgic của kiến thức.

4
- Khi HS đã biết đọc thành thạo BĐTD, GV cho HS thực hành vẽ trên giấy
BĐTD theo mạch kiến thức mà HS nghĩ ra hay theo chủ đề mà GV đưa ra cho
từng HS, từng nhóm.... GV hướng dẫn học sinh: Chọn từ khóa - tên chủ đề hoặc
hình vẽ tương ứng với chủ đề chính cho vào vị trí trung tâm, chẳng hạn: gia đình,
quê hương, trường học, bảo vệ môi trường... để HS có thể tự mình ghi tiếp kiến
thức vào tiếp các nhánh nhỏ hơn theo cách hiểu của các em.
- Vẽ BĐTD theo nhóm hoặc từng cá nhân.
- Từ đó, giáo viên luôn hướng cho HS có thói quen khi tư duy lôgic theo
hình thức sơ đồ hoá trên BĐTD.
II. Vận dụng Bản đồ tư duy trong dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3
Sau khi đã giúp học sinh nắm rõ về BĐTD thì việc ứng dụng BĐTD trong
việc dạy học sẽ mang lại hiệu quả rõ rệt. Hầu như ở môn học nào và ở bất kỳ
phần nào trong tiết dạy, giáo viên cũng có thể áp dụng BĐTD. Sau mỗi bài học,
học sinh sẽ dễ rút ra những kiến thức trọng tâm của bài học. Sau đây là một vài
minh họa việc "Ứng dụng BĐTD trong việc đổi mới PPDH phân môn Tập làm
văn lớp 3 mà qua thực tế giảng dạy tôi đã tích lũy được.
1. Sử dụng Bản đồ tư duy khi kiểm tra bài cũ
Khi kiểm tra bài cũ, tôi đưa ra một từ khóa nêu lên nội dung kiến thức của
bài cũ rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em tìm
ra các nội dung liên quan đến từ khóa để các em có thể vẽ nhánh con và hoàn
thiện BĐTD. Qua BĐTD đó, học sinh sẽ nhớ lại các nội dung đã học và từ đó
khắc sâu kiến thức.
Ví dụ 1: Dạy tiết Tập làm văn Tuần 5 (SGK/45-TV3 tập 1)
Đề bài: Dựa vào cách tổ chức cuộc họp mà em đã biết, hãy cùng các bạn tổ chức
một cuộc họp tổ.
==> Ở trong tuần đó, HS đã được học bài Tập đọc Cuộc họp của chữ viết,
để giúp các em nhớ lại diễn biến của cuộc họp, tôi Kiểm tra bài cũ ( 5') như sau:
Bước 1: Tôi đưa ra từ khóa: Tổ chức cuộc họp
Bước 2: + Tôi đặt câu hỏi để học sinh nhớ lại diễn biến của cuộc họp:
? Nêu trình tự của một cuộc họp? (5 phần) - HS sẽ vẽ được 5 nhánh lớn.
+ Tôi tiếp tục đặt câu hỏi, HS sẽ tự trả lời và vẽ tiếp các nhánh con:
? Ai là người nêu mục đích và tình hình của cuộc họp? (Tổ trưởng)
? Ai là người nêu nguyên nhân đó? (tổ trưởng nêu, thành viên ý kiến)
? Làm thế nào để tìm cách giải quyết? (bàn bạc, thảo luận, thống nhất ý kiến)
? Giao vệc cho mọi người bằng cách nào? (thành viên bàn bạc, TT thống nhất)
Bước 3: Sau khi hoàn thành, các em "đọc" kiến thức trên bản đồ.

5
Ngoài ra, giáo viên có thể giới thiệu BĐTD sau đây (vì BĐTD là một hệ
thống mở nên không yêu cầu tất cả HS có chung một kiểu BĐTD). Giáo viên
nên chỉnh sửa cho học sinh về mặt kiến thức, và góp ý thêm về màu sắc, đường
nét. Qua BĐTD, HS sẽ nhìn vào các dữ liệu, dễ dàng nêu được diễn biến của một
cuộc họp và trách nhiệm của mỗi người. Từ đó, các em sẽ vận dụng để tổ chức
cuộc họp theo yêu cầu cụ thể của tiết học

Ví dụ 2: Dạy tiết Tập làm văn Tuần 10 (SGK/83-TV3 tập 1)


Đề bài: Dựa vào bài "Thư gửi bà", em hãy viết một bức thư cho người thân kể về
việc học tập của em.
Ở trong tuần đó, học sinh đã được học bài Thư gửi bà, để giúp các em nhớ
lại bố cục một bức thư, tôi kiểm tra bài cũ như sau:
Bước 1: Tôi đưa ra từ khóa "Bức thư"
Bước 2: Tôi đặt câu hỏi để học sinh nhớ lại trình tự của một bức thư
Yêu cầu 1: Một bức thư gồm mấy phần? (3 phần) - HS sẽ vẽ được 3 nhánh lớn.
Yêu cầu 2: Mỗi phần ứng với nội dung nào? - HS tự trả lời và vẽ tiếp các nhánh
con vào BĐTD
Bước 3: Sau khi hoàn thành, các em "đọc" kiến thức trên bản đồ.
Từ chỗ các em lần lượt thay phiên nhau lên bảng điền vào các nhánh con
của bản đồ, hoàn thiện được một hệ thống kiến thức bài cũ, tôi thấy như vậy dễ
kiểm tra và học sinh nào cũng hào hứng, tích cực xung phong trả lời, không khí
lớp học vui vẻ, tiếp thu bài tốt.

6
Sau đây là BĐTD minh họa:

2. Sử dụng Bản đồ tư duy khi dạy học bài mới


Ở mỗi tiết dạy Tập làm văn lớp 3, tôi đã sử dụng BĐTD như là một đồ
dùng trực quan phục vụ cho việc dạy bài mới nhất là những tiết Tập làm văn
dạng "Nói -viết theo chủ điểm". Đối với việc dạy bài mới, để sử dụng BĐTD có
hiệu quả, tôi phải chuẩn bị kỹ ở nhà. Từ nội dung bài học, tôi đúc kết thành một
BĐTD rồi vẽ trên máy (nếu dạy bằng máy chiếu) hoặc trên giấy rô ki (nếu dạy
thường). Khi lên lớp, tôi sẽ sử dụng BĐTD để hướng dẫn học sinh khai thác từng
nội dung bài học. Mỗi nội dung ứng với một nhánh con của bản đồ. Từ đó sẽ giúp
các em tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức của bài học. Sau khi hoàn
thiện, học sinh nhìn vào bản đồ là có thể tái hiện lại được toàn bộ nội dung kiến
thức bài học.
Trong quá trình dạy bài mới, tùy theo tiết dạy và thời gian, tôi thường cho
học sinh thảo luận nhóm bằng cách vẽ BĐTD theo các bước sau:
Bước 1: HS lập BĐTD theo nhóm (hoặc cá nhân) với sự góp ý của giáo viên.
Bước 2: Đại diện của nhóm lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD của nhóm mình.
Bước 3: HS thảo luận, bổ sung để hoàn thiện BĐTD về các kiến thức của bài học
đó.
Giáo viên sẽ là người cố vấn giúp học sinh hoàn thành BĐTD, từ đó dẫn
dắt đến kiến thức của bài học.
Ví dụ 1: Khi dạy TLV tuần 3: Kể về gia đình (SGK/83-TV3 tập 1)
Khi hướng dẫn học sinh Kể về gia đinh, tôi đã thực hiện theo các bước sau:

7
- Cho HS đọc yêu cầu của bài tập (tập trung giúp học sinh hiểu yêu cầu Kể về gia
đình với một người bạn mới quen)
- HS tập trung động não tìm những từ ngữ liên quan đến gia đình mình.
- GV treo BĐTD (đã chuẩn bị sẵn) lên bảng. Giới thiệu cho HS một số từ ngữ có
liên quan đến Gia đình.

- HS nhìn BĐTD suy nghĩ về Gia đình của mình.


- HS tập vẽ vào giấy nháp BĐTD về Gia đình mình.
- Gọi một vài em lên để giới thiệu về Gia đình mình cho cả lớp nghe.
- Cho học sinh nhận xét theo các tiêu chí:
+ Đúng nội dung: Có mấy câu? Dùng từ, đặt câu đúng chưa? Sắp xếp câu
hợp lý chưa?
+ Màu sắc, đường nét?
- GV nhận xét chung.
Ví dụ 2: Khi dạy TLV tuần 11: Nói về Quê hương (SGK/92-TV3 tập 1)
Tiết Tập làm văn tuần 11 đã giảm tải bài tập nghe - kể Không nỡ nhìn để
giành toàn bộ thời gian cho bài tập Nói về Quê hương. Với những đối tượng học
sinh ở trường tôi, hầu hết các em sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên tôi yêu cầu
HS nói về nơi mình đang ở. Sau đây là phần minh họa:
Bước 1: Hướng dẫn HS lập BĐTD
* Cho HS đọc yêu cầu của bài tập.
- Tôi hướng dẫn HS tìm từ trung tâm bằng câu hỏi: Cô đố các em, nơi các em
đang ở được gọi là gì?
- HS trả lời: Quê hương
- Từ câu trả lời đó, tôi đưa ra từ trung tâm của BĐTD: Quê hương
* Tôi cho học sinh đọc các câu hỏi gợi ý:

8
Gợi ý: a) Quê em ở đâu?
b) Em yêu cảnh vật gì ở quê hương?
c) Cảnh vật đó có gì đáng nhớ?
d) Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
? Khi nói về một bài văn, em nói như thế nào? ( mở bài, thân bài, kết luận)
? Mỗi phần ứng với gợi ý nào? ( Mở bài: gợi ý a
Thân bài: gợi ý b,c
Kết bài: gợi ý d )
* Tiếp theo, tôi yêu cầu HS suy nghĩ về Quê hương của mình bằng cách hỏi trực
tiếp, mỗi câu hỏi sẽ có nhiều em được trả lời:
- Gia đình em sống ở đâu? (Gđ em sống ở nông thôn/ Em sinh ra trên quê lúa
Thái Bình/ Nơi em ở là một vùng nông thôn yên bình, giản dị)
- Cảnh vật nơi em ở có gì đẹp? (dòng sông, cánh đồng, con đường làng, mái
đình, trường học, lũy tre xanh...)
- Em thích nhất cảnh vật nào? (Cánh đồng rộng mênh mông bát ngát/ Con đường
làng hai buổi đến trường/ Dòng sông đỏ nặng phù sa, quanh co uốn khúc/ Lũy tre
xanh rì rào trong gió...)
- Tình cảm của em với nơi em ở như thế nào? (gần gũi, thân thương, gắn bó, tự
hào, bảo bệ, giữ gìn...)
* GV treo BĐTD (đã chuẩn bị sẵn) lên bảng. Giới thiệu cho HS một số từ ngữ có
liên quan đến Quê hương.

* HS nhìn BĐTD suy nghĩ về Quê hương của mình.


* HS tập vẽ vào giấy nháp BĐTD về Quê hương của mình.

9
Bước 2: Báo cáo, thuyết minh
* Gọi một vài em lên để giới thiệu về Quê hương của mình theo BĐTD cho cả
lớp nghe.
* Lớp theo dõi.
Bước 3: HS thảo luận, bổ sung để hoàn thiện BĐTD (theo các tiêu chí như đã
nêu ở ví dụ 1).
Cuối cùng, GV giúp học sinh hoàn thành BĐTD của mình rồi yêu cầu cao
hơn là nói, viết thành một bài văn về nơi em ở.
Như vậy, từ việc tìm hiểu gợi ý, bằng BĐTD đã chuẩn bị sẵn, GV giúp học
sinh động não nghĩ về Quê hương của mình và lập BĐTD về Quê hương của
nình. Sau đó, chỉ cần dựa vào BĐTD, các em có thể nói, viết được một bài văn
giới thiệu về nơi mình ở.
3. Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học.
Khác với việcsử dụng BĐTD ở thời điểm Kiểm tra bài cũ, sử dụng khi
củng cố bài vào cuối giờ học có mục đích là: giúp HS dễ dàng thâu tóm nội dung
bài học, giúp khắc sâu nhớ rõ kiến thức bài học. Đến khi ôn thi, HS không phải
mất một lượng thời gian lớn để đọc lại kiến thức mà chỉ cần quan sát lại sơ đồ
tổng thể là có thể tái hiện nội dung bài học một cách cụ thể, chi tiết. Như thế vừa
nâng cao hiệu quả học tập, vừa tiết kiệm thời gian.
Vận dụn BĐTD để củng cố bài, tôi thường tổ chức cho nhiều nhóm hoạt
động theo các bước sau:
- Chia nhóm, giao từ khóa và các câu hỏi cho các nhóm (câu hỏi do tôi đã chuẩn
bị trước).
- Tổ chức cho HS thảo luận và hoàn thiện bản đồ.
- Treo kết quả của nhóm lên bảng và đại diện nhóm trình bày.
- HS nhận xét. GV đánh giá, bổ sung.
Điều đặc biệt là tổ chức phương pháp BĐTD theo nhóm học sẽ kích thích
mọi học sinh tham gia vào quá trình thảo luận, góp ý kiến, nhất là những HS rụt
rè, nhút nhát.
Ví dụ: Khi dạy TLV tuần 16: Nói về thành thị, nông thôn ( SGK/138-TV3 tập 1),
tôi tổ chức phương pháp đó như sau:
- Cuối giờ học, tôi chia lớp tôi thành các nhóm, mỗi nhóm 6 em (mỗi nhóm có 5
em).
- Tiếp theo, tôi đưa ra từ khóa của BĐTD và yêu cầu các nhóm cần phải hoàn
thành:
Nhóm 1, 3, 5: Thành thị
Nhóm 2, 4, 6: Nông thôn

10
- Yêu cầu các nhóm thảo luận theo các câu hỏi sau:
1. Lý do em chọn Thành thị hay Nông thôn?
2. Cảnh vật nơi đó có gì đẹp?
3. Con người có gì đáng yêu?
4. Tình cảm của em với nơi đó?
- Sau khi HS thảo luận xong, tôi cho các nhóm treo lên bảng hoặc tường và trình
bày.
- Các nhóm khác nhận xét theo tiêu chí đã quy định.
- GV chốt và cho điểm các nhóm.
Và dưới đây là một số sản phẩm BĐTD của các nhóm:

Như vậy, việc vận dụng BĐTD và từng thời điểm, mục đích nội dung khác
nhau thực sự phát huy được tác dụng. Giờ dạy - học thực sự là giờ "vừa học - vừa
làm", kết hợp giữa học và "hành" hấp dẫn và tạo được sự hứng thú học tập rõ rệt.

11
III. Giới thiệu một số Bản đồ tư duy do học sinh lớp tôi tự thiết lập:
Tập làm văn: Viết thư

Tập làm văn: Kể về thành thị, nông thôn

12
Tập làm văn: Kể về gia đình

Tập làm văn: Kể về thành thị, nông thôn

13
Tập làm văn: Kể về quê hương

Tập làm văn: Tổ chức cuộc họp

14
C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Hưởng ứng việc đổi mới PPDH ở cấp Tiểu học của Phòng Giáo dục Quỳnh
Phụ; được sự quan tâm, động viên của Ban Giám hiệu nhà trường, trong nhiều
năm qua, tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và mạnh dạn vận dụng BĐTD vào giảng
dạy nói chung và dạy Tập làm văn lớp 3 nói riêng. Trải qua quá trình vận dụng,
vừa học vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, bản thân tôi đã đạt được một số kết quả
như sau:
+ HS học được các phương pháp học tập, tăng tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy.
+ HS có thói quen làm việc, học tập một cách khoa học.
+ HS tiếp cận kiến thức nhẹ nhàng hơn, sâu sắc hơn, bền vững, dễ nhớ và
nhớ nhanh hơn, lâu hơn do được giao lưu học hỏi giữa các thành viên trong lớp.
+ Không khí lớp học vui tươi giúp học sinh thoải mái, tự tin hơn trong việc
trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe ý kiến của những thành viên khác.
+ Việc tự tay "thiết kế" BĐTD làm cho học sinh vô cùng thích thú học
phân môn Tập làm văn. Và hiện nay, tiết học Tập làm văn ở lớp tôi, học sinh
không còn cảm thấy "khó" nữa, mà trái lại tôi đã cảm nhận được sự thành công
của tiết dạy đọng trên ánh mắt và nụ cười của học trò ngay trong tiết học.
+ Kỹ năng nói của học sinh ngày càng được hoàn thiện hơn. HS biết tự tìm
từ, ý, đặt câu, biết vận dụng biện pháp nghệ thuật, khả năng diễn đạt ngôn ngữ
tiến bộ rã rệt, các em nói lưu loát, trôi chảy.
+ Đặc biệt, giáo viên sẽ tiết kiệm thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài
giảng và quan trọng nhất là giúp học sinh nắm kiến thức thông qua một "bản đồ"
thể hiện các liên kết chặt chẽ chuỗi kiến thức.
Trong đợt kiểm tra định kỳ cuối học kỳ 1vừa qua, lớp tôi phụ trách môn
Tiếng Việt các em đạt 100% và điểm giỏi đạt 50%.
Tuy kết quả tôi nêu trên hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng
góp phần động viên tôi trong đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung; phát
hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi và phụ đạo học sinh yếu nói riêng.
D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Là một giáo viên trẻ với vốn kinh nghiệm còn ít, song với lòng nhiệt tình
say mê, yêu nghề mến trẻ, trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm hiểu thực tiễn trình
độ, khả năng tâm lý lứa tuổi của học sinh và luôn áp dụng các PPDH phù hợp
theo hướng đổi mới; cùng với kết quả đạt được trong quá trình giảng dạy có
"Ứng dụng BĐTD", tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:
1. Người giáo viên phải tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao
với công việc, không ngừng học hỏi để trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ,

15
tìm tòi sáng tạo, khiêm tốn, siêng năng học hỏi đồng nghiệp trên thực tiễn cũng
như qua sách vở.
2. Để việc ứng dụng BĐTD có hiệu quả, cũng như để nâng cao chất lượng
học tập của học sinh, người giáo viên phải có định hướng tôt các hoạt động, có
hiểu biết thực tế, chuẩn bị công phu, thực sự trong quá trình giảng dạy. Đảm bảo
tính tích hợp hợp lý giữa các phân môn của môn Tiếng Việt. Vận dụng kiến thức
sư phạm, thủ thuật sư phạm để tổ chức cho học simh lĩnh hội tri thức; tránh sự
nhàm chán, buồn tẻ cho học sinh.
3. Khi ứng dụng BĐTD trong giảng dạy, giáo viên cần chú ý các đường
nét, hình ảnh, màu sắc của "bản đồ". Bản đồ phải được sử dụng với mức độ hợp
lý, không bị lạm dụng, không quá tải đối với học sinh, không gây nhiễu loạn làm
học sinh mất tập trung vào kiến thức bài học.
4. Trong qúa trình giảng dạy, giáo viên không nên nóng vội mà phải bình
tĩnh xem xét PPGD của mình, chú ý cách tổ chức hoạt động vủa học sinh, để phát
huy tính tích cực của các em. Đó chính là việc sử dụng hệ thống câu hỏi đa dạng,
phù hợp với mọi đối tượng học sinh và gây được hứng thú học tập cho các em.
5. Người giáo viên phải luôn nhận thức được đổi mới PPDH là một yêu
cầu cấp thiết. Trọng tâm của đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay là "lấy học
sinh làm trung tâm". Trong quá trình giảng dạy, giáo viên không áp đặt cho học
sinh mà coi nhiệm vụ học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết quả giáo
dục. Luôn gợi mở, khám phá, tìm tòi biện pháp tốt nhất để học sinh nắm chắc
kiến thức. Rèn cho các em cách tư duy thông minh sáng tạo, làm việc độc lập,
nâng cao hiệu quả tự học. Đặc biệt khi dạy phân môn Tập làm văn, giáo viên phải
chú trọng rèn cho các em kỹ năng nói và viết, tạo điều kiện cho học sinh có nhiều
niềm vui trong dạy học.
PHẦN III. KẾT LUẬN CHUNG
1. Kết luận
Xuất phát từ lòng nhiệt tình say mê, yêu nghề mến trẻ, tìm tòi nghiên cứu,
tôi thực sự tâm đắc khi lựa chọn việc Ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương
pháp dạy học. Qua các giờ dạy, tôi thấy HS tự tin hơn, thân thiện hơn và điều
quan trọng là HS rất tích cực, say mê tìm hiểu kiến thức, phát triển năng lực tư
duy. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn
đáp gợi mở, thuyết trình... có tính khả thi cao, góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt
là cấp Tiểu học.

16
Xong hiện nay, phần lớn GV Tiểu học, nhất là những GV cao tuổi chưa
chú ý đến đổi mới PPDH. Trong nhận thức của nhiều GV còn e ngại: ngại khó,
ngại đầu tư học tập, nghiên cứu. GV còn rụt rè, tự ti, coi việc "Ứng dụng BĐTD
trong dạy học" là một thứ đồ chỉ dùng cho những "bữa tiệc" (là các tiết thao
giảng, chuyên đề) mà chưa coi nó là đồ dùng thường xuyên trong các "bữa ăn
hàng ngày" (là các tiết dạy hàng ngày trên lớp). Vì vậy, để góp phần tạo nên
hứng thú, say mê, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của
học sinh, bản thân giáo viên cần tự học, tự rèn, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn của mình. Nghiên cứu, nắm vững nội dung chương trình, trên cơ sở
đó tìm tòi vận dụng sáng tạo phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để nâng
cao hiệu quả giờ dạy. Không những thế, người giáo viên phải tâm huyết với nghề
nghiệp để khắc phục khó khăn về cơ sở vật chất trong các giờ lên lớp, giáo viên
phải khai thác triệt để đồ dùng dạy học để nâng cao chất lượng giờ dạy.
Trên đây là một vài kinh nghiệm về việc "Ứng dụng BĐTD trong đổi mới
phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3" của bản thân tôi rút ra
trong quá trình giảng dạy mà theo tôi là rất quan trọng. Tuy nhiên, do thời gian
thực nghiệm chưa dài, năng lực của bản thân tôi còn hạn chế nên trong phạm vi
bài viết này tôi không tránh khỏi những tồn tại, thiếu sót. Với tinh thần chia sẻ và
học hỏi, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các đồng
chí, đồng nghiệp để giúp tôi có thêm những kiến thức, kinh nghiệm, giúp tôi hoàn
thiện mình hơn nữa trong quá trình giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học theo tinh thần đổi mới.
Xin trân thành cảm ơn!
2. Kiến nghị - đề xuất
- Tôi xin kính đề nghị Phòng Giáo dục Quỳnh Phụ, cụm chuyên môn, tổ
chuyên môn thường xuyên tổ chức các chuyên đề Tập làm văn theo từng chủ đề,
từng khối lớp để giáo viên có cơ hội học hỏi trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Quỳnh Phụ, ngày 20 tháng 2 năm 2020

17
phô lôc

NỘI DUNG TRANG

1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................

PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẾN ĐỀ........................................................................... 2

A. THỰC TRẠNG: ....................................................................................................... 2

1. Thuận lợi: ....................................................................................................................... 2

2. Khó khăn: ........................................................................................................................ 2

B. BIỆN PHÁP CỤ THỂ............................................................................................ 3

I. Bản đồ tư duy - một trong những công cụ hỗ trợ dạy học 3


1. Khái niệm: .................................................................................................................. 3
2. Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học như thế nào? ......................... 4
II. Vận dụng BĐTD trong dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 5
1. Sử dụng Bản đồ tư duy khi kiểm tra bài cũ: ........................................ 5
2. Sử dụng Bản đồ tư duy khi dạy học bài mới: .........................................
7
3. Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học: ...................
10
III. Giới thiệu một số BĐTD do học sinh lớp tôi tự thiết lập
12
C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC .................................................................................
15
D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ........................................................................
16
PHẦN III. KẾT LUẬN CHUNG .....................................................................
17
1. Kết luận: ........................................................................................................................
17
2. Kiến nghị - đề xuất: .................................................................................................
17

18
Tµi liÖu tham kh¶o

1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3.

2. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy: Dạy tốt - học tốt ở Tiểu học bằng
Bản đồ tư duy - NXB Giáo dục Việt Nam.

3. Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc – NXB Lao động – Xã hội.

5. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan).

6. Tài liệu tập huấn chuyên môn do Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
Quỳnh Phụ tổ chức hè 2012.

19
nhËn xÐt cña héi ®ång xÐt duyÖt huyÖn

20
21

You might also like