Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 119

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


------------------------------------

VŨ ĐÌNH VỤ

NHÂN VẬT THA HÓA


TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

VŨ ĐÌNH VỤ

NHÂN VẬT THA HÓA


TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM


MÃ SỐ: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


PGS.TS. TRƢƠNG ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Trương Đăng Dung. Mọi tham khảo dùng trong luận
văn đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên công trình, thời gian, địa điểm
công bố. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá,
tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Tác giả

Vũ Đình Vụ
LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian nghiên cứu cùng với sự tận tình chỉ bảo của PGS.TS
Trương Đăng Dung, đến nay tôi đã hoàn thành luận văn này. Qua luận văn,
tôi xin gửi đến PGS.TS Trương Đăng Dung lời cảm ơn chân thành và lòng
biết ơn sâu sắc nhất. Trong suốt thời gian thực hiện, thầy đã luôn tận tình chỉ
dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Qua luận văn, tôi cũng xin gửi lời biết ơn chân thành đến quý thầy cô
trong khoa Văn học, các thầy cô phòng sau đại học, thầy cô trong thư viện
trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi
nhất giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi mong luận văn này như một lời cảm ơn để gửi tới bạn
bè, gia đình và đặc biệt là người vợ thân yêu đã cổ vũ, động viên và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Một lần nữa, xin chân trọng cảm ơn.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014

Tác giả luận văn

VŨ ĐÌNH VỤ
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài. ........................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề. .............................................................................................. 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu. ................................................................................... 9
4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 9
5. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu. ......................................................... 10
6. Cấu trúc luận văn. ....................................................................................... 10
B. PHẦN NỘI DUNG ................................................................................... 11
Chƣơng 1. VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI SAU ĐỔI MỚI 1986 VÀ HIỆN
TƢỢNG HỒ ANH THÁI. ............................................................................ 11
1.1. Tình hình chính trị xã hội và tình hình văn học. ...................................... 11
1.1.1. Tình hình chính trị xã hội. ..................................................................... 11
1.1.2. Tình hình văn học.................................................................................. 12
1.2. Hồ Anh Thái – hiện tượng độc đáo của nền văn học đương đại. ........... 17
1.2.1. Vài nét về tác giả. .................................................................................. 17
1.2.2. Sự nghiệp văn chương........................................................................... 18
1.2.3. Quan niệm văn chương. ........................................................................ 19
Chƣơng 2. NHÂN VẬT THA HÓA VÀ MỘT SỐ KIỂU NHÂN VẬT
THA HÓA TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI. ......................... 26
2.1. Nhân vật tha hóa trong tác phẩm văn học. ............................................... 26
2.1.1. Nhân vật trong tác phẩm văn học.......................................................... 26
2.1.2. Kiểu nhân vật tha hóa trong văn học. ................................................... 28
2.2. Một số kiểu nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái. .............. 37
2.2.1. Nhân vật đam mê danh vọng, quyền lực. .............................................. 39
2.2.2. Nhân vật say sưa dục vọng.................................................................... 48
2.2.3. Nhân vật tham lam của cải, vật chất. .................................................... 55
2.2.4. Nhân vật sống sa đọa............................................................................. 58

1
2.2.5. Nhân vật sống nhẫn tâm, độc ác. .......................................................... 65
2.2.6. Nhân vật biến dạng................................................................................ 72
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT THA HÓA
TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI .............................................. 77
3.1. Nghệ thuật mờ hóa nhân vật. ................................................................... 79
3.1.1. Không lai lịch. ....................................................................................... 79
3.1.2. Không ngoại hình. ................................................................................. 81
3.1.3. Không đời sống nội tâm. ....................................................................... 83
3.2. Nghệ thuật đặt tên nhân vật...................................................................... 84
3.3. Nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ nhân vật. ................................................... 89
3.4. Nghệ thuật miêu tả hành động nhân vật. .................................................. 92
3.5. Giọng điệu giễu nhại. ............................................................................... 95
3.6. Nghệ thuật xây dựng nhân vật bản năng. ................................................. 99
3.7. Nghệ thuật xây dựng nhân vật biến dạng. .............................................. 101
C. PHẦN KẾT LUẬN. ................................................................................ 104
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 107

2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Con người luôn là chủ đề trung tâm của văn học từ văn học dân gian,
văn học Trung đại đến văn học hiện đại và văn học hậu hiện đại. Với tư cách
là sinh vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài, con người luôn sống có ý
thức và tự tạo nên "cái tôi" riêng biệt. Sự hình thành và phát triển của nhân
cách là sự thống nhất của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội để xác lập "cái
tôi" cá nhân. Sự biến đổi to lớn, sâu sắc của đời sống kinh tế – xã hội tác động
mạnh mẽ đến con người cũng như sự hình thành nhân cách con người.
Khi đất nước chuyển sang phát triển theo nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập, nước ta tiến một bước dài về
kinh tế xã hội cũng như đời sống và quyền con người. Nhưng khi mà giá trị
vật chất được con người đặt lên quá cao, khi mà đại đa số mọi người đều chạy
theo lối sống thực dụng thì tình trạng tha hóa, biến chất về đạo đức của một số
bộ phận con người trong xã hội lại càng nhiều và tốc độ càng nhanh chóng.
Vấn đề đạo đức con người đã được những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, đạo diễn
phim… đề cập đến. Nhưng những tác phẩm văn học, những bài báo, bộ phim
hay công trình nghiên cứu của các nhà khoa học mới chỉ lột tả được phần nào
trong lối sống và đạo đức của con người trong xã hội hiện nay. Nhà văn chính
là những người nhanh nhạy nhất với vấn đề đạo đức của con người, đồng thời
cũng là người đau đời nhất. Thiên chức của nhà văn là làm cho con người trở
nên hoàn thiện, hoàn mỹ hơn vì trong mỗi con người bao giờ cũng tồn tại hai
mặt: tốt đẹp – tha hóa, thiện – ác, cao cả – thấp hèn, buồn, tiêu cục – tích
cực… Ở đó, con người đứng trên ranh giới nhỏ nhoi giữa hai bờ thiện ác, nếu
không giữ được mình, con người sẽ bị tha hóa một cách nhanh chóng.
Văn xuôi Việt Nam từ sau đổi mới 1986 có những bước tiến dài và ghi
dấu ấn với nhiều tên tuổi như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Ma

3
Văn Kháng, Nguyễn Bình Phương, Phạm Thị Hoài, Phan Vàng Anh, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… Trong lớp những nhà văn
kể trên không thể không kể đến Hồ Anh Thái – một gương mặt văn học có
nhiều cá tính và kĩ thuật viết hậu hiện đại.
Hồ Anh Thái là nhà văn có ý thức trách nhiệm trước đời sống nên anh
nhanh chóng thấu hiểu bản chất thật của sự sống đang diễn ra trước mắt.
Trước mắt anh là cuộc sống xô bồ vì xã hội ta bây giờ lắm loại người, nhiều
kiểu sống. Vì thế, nhân vật tha hóa trở thành một tuyến nhân vật rất quan
trọng trong sáng tác của Hồ Anh Thái.
Con người vốn rất phức tạp, cho nên Hồ Anh Thái đặc biệt quan tâm
đến con người tự nhiên, bản năng. Theo anh, con người có những khao khát
bản năng mang tính, nhân bản nhưng cũng có những bản năng lại nhấn
chìm con người trong hố đen của sự suy đồi. Bên cạnh con người bản năng,
Hồ Anh Thái còn nhìn thấy sự tha hóa ở con người đương đại. Với Hồ Anh
Thái, xã hội càng phát triển thì con người càng trở nên tha hóa. Đằng sau
sự tha hóa của con người là cả một xã hội nhố nhăng, ngổn ngang không gì
cải biến được.
Tác phẩm của Hồ Anh Thái luôn nhận được sự quan tâm của công
chúng bởi phong cách viết trẻ trung và cách nhận thức đời sống sâu sắc. Sáng
tác của Hồ Anh Thái có nhiều cách tân nghệ thuật, với cách viết và lối tư duy
nghệ thuật mới mẻ theo hướng hội nhập với kĩ thuật viết hậu hiện đại so với
các nhà văn cùng thời. Đặc biệt, cách xây dựng nhân vật của Hồ Anh Thái
thường mang đến những bất ngờ cho độc giả, nhất là cách xây dựng nhân vật
tha hóa. Tìm hiểu con người tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái là góp
phần tìm hiểu thế giới nhân vật trong sáng tác của tác giả nói riêng và của các
nhà văn hiện nay nói chung, đó là lí do chúng tôi chọn “Nhân vật tha hóa
trong sáng tác của Hồ Anh Thái” làm đề tài cho luận văn này.

4
2. Lịch sử vấn đề.
Với lối viết trẻ trung cùng kĩ thuật viết hiện đại, sáng tác của Hồ Anh
Thái luôn thu hút sự quan tâm của dư luận từ bạn đọc đến giới phê bình trong
và ngoài nước. Dư luận về Hồ Anh Thái tập trung chủ yếu tập trung trong giới
chuyên môn qua những công trình nghiên cứu, phê bình, đánh giá, giới thiệu
sách, những khóa luận tốt nghiệp của sinh viên và luận văn của học viên trong
các trường đại học. Những công trình nghiên cứu, đánh giá về sáng tác của
Hồ Anh Thái là khá cô đọng, có giá trị định hướng và khơi gợi sự khám phá.
Chúng tôi có thể lược ra những bài viết, phê bình, đánh giá tiêu biểu về
nhà văn Hồ Anh Thái cũng như sáng tác của anh:
Trong Giấc mơ lạ tặng cho người đọc, Nguyễn Thị Minh Thái nhận
xét: “Trong tình hình bộn bề xuất bản hôm nay, lạ nhất là tiểu thuyết Hồ Anh
Thái vẫn có chỗ đứng riêng trên thương trường sách văn học, vẫn được số
lớn người có nhu cầu đọc, và nóng lòng chờ đợi; và chờ đợi theo cách riêng
mà Hồ Anh Thái được quyền “ấn định”: cung cấp một giấc mơ tiểu thuyết
thật mới” [80. tr. 469]. Những tác phẩm của Hồ Anh Thái ngay khi ra đời đã
thu hút sự chú ý rộng rãi của bạn đọc cũng như giới phê bình bởi tính độc đáo
của nó. Tính độc đáo trong văn phẩm Hồ Anh Thái có thể phân tích từ nhiều
góc độ như: cấu trúc tác phẩm, đề tài, ngôn ngữ và đặc biệt là giọng điệu tác
phẩm không lẫn với bất cứ tác giả nào. Tác phẩm của Hồ Anh Thái mỗi lần
xuất bản lên đến hàng nghìn cuốn, cùng với đó là một số lượng lớn độc giả,
giới phê bình đón đọc. Chính vì thế, Hồ Anh Thái là nhà văn “hốt” nhất trong
nền văn chương đương đại nước nhà. Không chỉ nổi tiếng trong nước, các tác
phẩm của Hồ Anh Thái còn được dịch ra hơn 10 thứ tiếng như Mỹ, Pháp,
Thụy Điển, Hàn Quốc, Đan Mạch, Ấn Độ… Không những vậy, tác phẩm của
Hồ Anh Thái được sinh viên và các nhà nghiên cứu Mỹ sử dụng làm tư liệu
nghiên cứu và giảng dạy.

5
Trong Hồ Anh Thái – người lúc nào cũng đang viết, Hoài Nam cũng
khẳng định: “Nhà văn chuyên nghiệp là người phải biết tự ép mình vào một
thứ kỉ luật viết. Và nhà văn chuyên nghiệp là người có đủ kỹ năng và nghệ
thuật để khi ngồi vào bên bàn, có thể huy động cảm hứng đến. Hồ Anh Thái
đã làm được điều ấy” [56]. Trong số những nhà văn Việt Nam hiện nay, Hồ
Anh Thái là người viết khỏe nhất, viết đều đặn nhất, được bạn đọc đón nhận
nồng nhiệt nhất và anh sống khỏe bằng ngòi bút của mình. Hồ Anh Thái là
một cây bút hết sức chuyên nghiệp trong sáng tạo nghệ thuật. Anh đều đặn
viết hàng ngày và lao động viết một cách nghiêm túc chứ không viết theo kiểu
“ngẫu hứng” như nhiều người. Với hơn 30 năm tìm tòi, khám phá Hồ Anh
Thái đã có khoảng 30 đầu sách đã xuất bản. Nếu nhìn vào số liệu năm xuất
bản, độc giả có thể thấy hầu như năm nào Hồ Anh Thái cũng cho ra đời một
cuốn sách. Với những thành công vang dội cả trong và ngoài nước như vậy,
năm 2000, Hồ Anh Thái được đông đảo các bạn viết tôn vinh và bầu giữ chức
Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội.
Trong Người luôn làm mới mình, Tôn Phương Lan nhận xét: “Dường
như với anh, viết là một sự khai phá mới trên mảnh đất đã có chi chít dấu
chân. Tạo ra một “thương hiệu” cho mình, chí ít là anh đã làm đa dạng
gương mặt văn chương đất nước những năm đầu của thế kỉ mới” [77. tr. 267].
Đây là nhận xét hoàn toàn chính xác vì với sự hiểu biết có chiều sâu về lịch sử
xã hội cùng với thiên chức của một nhà văn thực tài, anh viết về cuộc sống
tươi nguyên đang cuồn cuộn chảy trước mắt. Có thể nói, anh là người chuẩn
bị tương đối đầy đủ về mặt văn hóa, trong đó có cả những giá trị văn chương
trong nước và của nhiều nước trên thế giới. Càng dấn thân trên con đường văn
chương, nhà văn càng hiểu biết sâu hơn về văn hóa. Anh khám phá những vỉa
sâu trong tâm hồn con người và viết về những vấn đề của nó. Lúc mới cầm
bút viết văn Hồ Anh Thái đã vậy, sau này anh cũng vậy.

6
Trong Hồ Anh Thái và dấu ấn hậu hiện đại, Bùi Thanh Tuyền và Lê
Biên Thùy trong khi khảo sát 31 truyện ngắn trong hai tập Sắp đặt và diễn;
Tự sự 265 ngày đã chỉ rõ: “Hồ Anh Thái là một gương mặt tiêu biểu đã góp
công cho sự tìm tòi, thể nghiệm, tạo dựng một thứ văn học mới có khả năng lật
trở, soi chiếu nhiều phương diện của thực tại hôm nay” [109]. Đề tài trong các
tác phẩm của Hồ Anh Thái thường ghi đậm dấu ấn về sự khủng hoảng niềm
tin của con người. Tác phẩm của Hồ Anh Thái thường xoáy sâu vào câu
chuyện về một thế giới vô nghĩa, phi lý và tương ứng với nó là hệ thống
những nhân vật nghịch dị, quái đản. Trong khi xây dựng nhân vật, Hồ Anh
Thái đã sử dụng thủ pháp dân gian hóa nhân vật ở phương thức đặt tên, lai
lịch và diện mạo. Đồng thời không chịu đi vào một khuôn phép, chuẩn mực
nào, Hồ Anh Thái đã xây dựng được những hình tượng nghệ thuật độc đáo.
Hình thức giễu nhại là một trong những đặc trưng nổi bật của phong cách
sáng tác hậu hiện đại, cũng được Hồ Anh Thái sử dụng triệt để. Nhà văn công
khai bày tỏ thái độ của mình đối với sự phi lý và bất công trong cuộc sống.
Anh đã tinh tường khi phát hiện ra cái nhố nhăng trong thực tại và bằng giễu
nhại, anh lật tẩy những trò hề trong xã hội đương thời.
Bên cạnh đó còn những bài viết, phê bình, nghiên cứu như: Ngọc Anh
với Nhà văn Hồ Anh Thái, sáng tạo, bứt phá trên từng con chữ; Diệu
Hường với Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh Thái; Nguyễn Đăng Điệp với
Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc; Thúy Liễu với Người thích đi chệch
đường ray…?; Nguyễn Minh với Nhà văn Hồ Anh Thái: lấy sự ôn hòa mà
đáp lại; Thiên Ý với Nhà văn Hồ Anh Thái: một mình qua đường; Mai
Phương với Nhà văn Hồ Anh Thái: hành trình sáng tạo không mệt mỏi,
Trần Thị Hải Vân với Một chiêm nghiệm cõi người, Vũ Bão với Vẫn là nỗi
đau truyền kiếp, Vân Long với Cái ảo trên nền thực, Nguyễn Thị Minh Thái
với Giọng tiểu thuyết đa thanh…

7
Những khóa luận, luận văn như: “Những cách tân nghệ thuật trong
tiểu thuyết Hồ Anh Thái” của Phan Lan Anh; “Nghệ thuật trần thuật trong
tiểu thuyết Hồ Anh Thái” của Nguyễn Hữu Tâm; “Cảm hứng giễu nhại
trong sáng tác của Hồ Anh Thái” của Nguyễn Bá Thạc; “Kết cấu tiểu thuyết
hiện đại qua tiểu thuyết Hồ Anh Thái” của Nguyễn Thị Ngọc Hà; “Hồ Anh
Thái và nỗ lực cách tân tiểu thuyết” của Hoàng Thị Xuân; “Điểm nhìn
trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái” của Hoàng Thu Thủy; “Nghệ thuật trào
phúng trong sáng tác của Hồ Anh Thái” của Trần Thị Hoài Phương; “Nghệ
thuật tự sự trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái” của Nguyễn Thanh Tâm; “Văn
xuôi Hồ Anh Thái nhìn từ quan niệm nghệ thuật về con người” của Võ
Anh Minh; “Phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Anh Thái” của Mai
Thanh Hiền; “Hình tượng nhân vật và không gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết Hồ Anh Thái” của Lê Thị Kim Dung… Từ các công trình trên chúng
ta có thể thấy sáng tác của Hồ Anh Thái luôn nhận được sự quan tâm từ công
chúng. Điều đó chứng Hồ Anh Thái là một hiện tượng đặc biệt của nền văn
học đương đại Việt Nam.
Liên quan đến đề tài mà chúng tôi lựa chọn, công trình Quan niệm
nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hoàng Thị
Tố Nga đã đề cập đến vấn đề tha hóa và nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa
trong tác phẩm và của con người trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, công trình
nghiên cứu này mới chỉ nghiên cứu trong phạm vi trong tiểu thuyết Mười lẻ
một đêm, chưa khảo sát một cách đầy đủ sáng tác của Hồ Anh Thái nên con
người tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái chưa được nhìn nhận một cách
sâu sắc, toàn diện và đầy đủ.
Trong Hình tượng nhân vật và không gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết Hồ Anh Thái , Lê Thị Kim Dung cũng đã chỉ ra các nhân vật trong
sáng tác của Hồ Anh Thái dấn thân vào con đường băng hoại đạo đức nên tha
hóa, đồng thời tác giả cũng đưa ra những biện pháp nghệ thuật mà Hồ Anh

8
Thái sử dụng để xây dựng nhân vật của mình. Nhưng tác giả luận văn mới
phần nào đề cập đến con người tha hóa, chưa chỉ ra những biện pháp nghệ
thuật xây dựng nhân vật tha hóa của Hồ Anh Thái.
Trong Nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái của Điêu Thị Tú
Uyên, tác giả mới chỉ đề cập đến nhân vật trong truyện ngắn của Hồ Anh
Thái, chưa đề cập đến nhân vật trong tiểu thuyết mà tiểu thuyết mới là “giấc
mơ dài” nhà văn.
Trên tinh thần tiếp thu từ những gợi mở của các nhà nghiên cứu đi
trước, chúng tôi mong muốn đi sâu vào nghiên cứu và phân tích nhân vật tha
hóa và nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh một
cách toàn diện và đầy đủ hơn. Điều đó không chỉ xác định giá trị của những
đóng góp trong sáng tác của Hồ Anh Thái cho nền văn học mà còn khẳng
định tài năng cũng như vị trí của nhà văn gốc Nghệ này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Luận văn có nhiệm vụ đi sâu tìm hiểu nhân vật tha hóa trong sáng tác
của Hồ Anh Thái, qua đó thấy được giá trị của những sáng tác của tác giả
trong đời sống văn chương, thấy được phần nào hiện thực cuộc sống trong xã
hội hiện nay, đồng thời thấy được hồi chuông cảnh tỉnh về tình hình đạo đức,
lối sống của con người hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn còn tìm hiểu bút pháp
nghệ thuật được Hồ Anh Thái sử dụng khi xây dựng nhân vật tha hóa.
4. Đối tƣợng nghiên cứu.
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu là những nhân vật tha hóa trong
sáng tác của Hồ Anh Thái, đặc biệt là nhân vật tha hóa trong tiểu thuyết, đồng
thời chỉ ra các biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hóa của Hồ Anh
Thái. Để hoàn thành tốt công việc, luận văn tìm hiểu thêm một số tác phẩm
văn học đương đại để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn.

9
5. Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.1 Phạm vi nghiên cứu.
Với đề tài này, phạm vi nghiên cứu bao gồm các tiểu thuyết: Người và
xe chạy dưới ánh trăng (Nxb Tác phẩm mới, 1987), Cõi người rung chuông
tận thế (Nxb Trẻ, 2013), Dấu về gió xóa (Nxb Trẻ, 2012), Đức Phật, nàng
Savitri và tôi (Nxb Thanh niên, 2010), Người đàn bà trên đảo (Nxb Phụ nữ,
2003), Trong sương hồng hiện ra (Nxb Phụ nữ, 2003), SBC là săn bắt chuột
(Nxb Trẻ, 2012), Mười lẻ một đêm (Nxb Lao động, 2009).
Đồng thời, để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn, người viết còn tham
khảo các tập truyện ngắn của Hồ Anh Thái: Tự sự 265 ngày (Nxb Trẻ, 2014),
Bốn lối vào nhà cười (Nxb Trẻ, 2014 ), Mảnh vỡ của đàn ông (Nxb Trẻ,
2014), Tiếng thở dài qua rừng kim tước (Nxb Trẻ, 2014).
Ngoài ra, chúng tôi cũng tham khảo một số tác phẩm của Nguyễn Thị
Thu Huệ, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu và một số
tác giả khác để so sánh và đối chiếu, phương pháp tiếp cận thi pháp học.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phương pháp chủ yếu được người viết sử dụng trong quá trình nghiên
cứu là: phương pháp phân tích – tổng hợp; phương pháp thống kê – phân loại;
phương pháp so sánh – đối chiếu.
6. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và Thƣ mục tài liệu tham khảo,
luận văn được trình bày trong 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Vài nét về văn xuôi sau đổi mới 1986 và hiện tượng Hồ Anh
Thái.
Chương 2: Nhân vật tha hóa và một số kiểu nhân vật tha hóa trong sáng
tác của Hồ Anh Thái.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ
Anh Thái.

10
B. PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI SAU ĐỔI MỚI 1986 VÀ HIỆN TƢỢNG
HỒ ANH THÁI.
1.1. Tình hình chính trị xã hội và tình hình văn học.
1.1.1. Tình hình chính trị xã hội.
Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi đã mở ra một kỉ nguyên
mới cho lịch sử nước nhà. Đất nước thoát khỏi cuộc chiến nhưng hậu quả của
chiến tranh để lại hết sức nặng nề. Cùng với đó là cơ chế quan liêu bao cấp đã
không còn phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Điều đó đòi hỏi một
công cuộc cải cách toàn diện đất nước để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng
hoảng đang ngày càng trầm trọng.
Từ ngày 15 – 18/12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã diễn ra
tại Hà Nội. Đại hội đổi mới của Đảng đã dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự
thật, đánh giá đúng sự thật mà trước hết là chỉ ra những nguyên nhân sâu xa
của cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Những sai lầm và khuyết
điểm trong lãnh đạo kinh tế – xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong
hoạt động tư tưởng – tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đưa ra đường lối phát triển đất
nước trong tình hình mới. Về kinh tế, Đảng yêu cầu là xóa bỏ kinh tế bao cấp,
thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, đồng thời đổi mới về cơ chế quản
lí kinh tế. Về chính trị, cần đổi mới về phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi
mới về quan hệ quốc tế. Về văn hóa, Đảng xác định văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội ở nước ta.
Gần 30 năm sau công cuộc đổi mới 1986, đất nước đã đạt được những
thành tựu rực rỡ, đã làm thay đổi bộ mặt đời sống, kinh tế, chính trị xã hội của
đất nước. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải

11
thiện và nâng cao. Về kinh tế, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt
tốc độ tăng trưởng nhanh. Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới
về chính trị, xã hội, văn hóa với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của
nhân dân, xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Khoa học – công nghệ cùng
với giáo dục – đào tạo được Nhà nước hết sức chăm lo. Nhà nước coi chính
sách phát triển khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng
đầu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, gần 30 năm qua việc xây dựng nền văn hoá
mới và giải quyết các vấn đề xã hội, con người luôn luôn được quan tâm.
Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với phát triển văn hoá, xã hội và con người. Các
quyền con người, đặc biệt là các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, đã được
bảo đảm đầy đủ hơn bất cứ thời kì lịch sử nào trước đây.
1.1.2. Tình hình văn học.
Văn học phát triển thường vừa lệ thuộc vừa có tính độc lập với sự phát
triển của xã hội. Mỗi biến cố lớn của lịch sử thường để lại những dấu ấn đậm
nét trong văn học. Trong Về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm văn học, Trần
Đăng Suyền khẳng định: “Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà
văn. Nhưng mỗi nhà văn lại sống trong một thời đại cụ thể, chịu sự chi phối
bởi một hoàn cảnh lịch sử xã hội, văn hóa cụ thể nào đó. Vì thế, xét đến cùng,
tác phẩm văn học là con đẻ của thời đại và về một phương diện nào đó, nó
mang dấu ấn của thời đại sản sinh ra nó”[68. tr.12]. Chính vì thế, sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12 năm 1986, cùng với sự đổi mới về kinh
tế, chính trị thì văn học cũng có những bước chuyển mình mạnh mẽ để vươn
lên những đỉnh cao mới. Yêu cầu đổi mới văn học đòi hỏi nhà văn phải nhìn
con người trong những mối quan hệ đời thường đầy đa đoan và phức tạp,
khám phá con người ở khía cạnh đời tư bằng cặp mắt nhiều chiều và bằng
cách viết đa thanh. Quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi
động và đa dạng trên các thể loại: văn xuôi, thơ, kịch, lý luận phê bình, văn

12
học dịch và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Các nhà văn đã dành tất cả tâm
lực của mình cho một cuộc đổi mới toàn diện văn chương như đổi mới quan
niệm, cách viết, đề tài… và đặc biệt nhất là đổi mới quan niệm nghệ thuật về
con người với nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc.
Cuộc gặp gỡ giữa đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với gần 100
văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hoá vào tháng 10 năm 1987 có ý nghĩa
rất quan trọng về tư tưởng và tâm lí. Cuộc gặp gỡ đã thực sự “cởi trói” cho
văn học, để văn học có “thêm dũng khí và hào hứng mà tự cứu mình” [22, tr.
134]. Từ việc chỉ ra đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng đến
sự khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo, yêu cầu có những thể nghiệm
mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật và phát triển các loại hình, thể
loại nghệ thuật và các hình thức biểu hiện. Sau cuộc gặp gỡ, đời sống văn học
nghệ thuật diễn ra rất sôi nổi. Bên cạnh những cây bút gạo cội thì một loạt cây
bút trẻ xuất hiện tiêu biểu cho khát vọng đổi mới nền văn học, nhất là về
phương diện thể nghiệm và tìm hướng đi mới.
Chiến tranh kết thúc, con người phải đối diện với những vấn đề thế sự,
nhân sinh và cả những chuyện rất riêng tư, văn học tất yếu phải đổi mới theo
tinh thần thời đại. Sự đổi mới đầu tiên có lẽ bắt đầu từ việc mở rộng phạm vi
phản ánh hiện thực. Từ một hiện thực chủ yếu được giới hạn trong đời sống
chính trị xã hội, tác phẩm văn chương đã tìm đến một hiện thực rộng lớn hơn
của đời sống nhân sinh thế sự. Nhiều cây bút đã đi vào khám phá và thể hiện
“mọi khía cạnh của đời sống cá nhân với những quan hệ thế sự đan dệt nên
cuộc sống đời thường phồn tạp mà vĩnh hằng” [50. tr. 12]. Đó là nền tảng cho
sự mở rộng đề tài trong văn chương thời đổi mới, trong đó, đề tài đạo đức xã
hội là một đề tài mới mẻ, là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn hướng đến. Từ
đây, các nhà văn truy tìm trong cơ chế thị trường những nguyên nhân làm nảy
sinh tiêu cực. Nhà văn đã không ngần ngại đưa vào trang viết những hiện
tượng tiêu cực của xã hội, thể hiện tính dự báo trong thời đổi mới: Con người

13
luôn phải cảnh giác và tránh xa cái ác, cái phi đạo đức, phi nhân tính, đồng
thời lên án, phê phán những hiện tượng xấu xa, bỉ ổi, những việc làm tiêu cực,
sai trái của con người hiện nay.
Ngay trong và sau công cuộc đổi mới 1986, nhiều tác phẩm có giá trị
xuất hiện đã gây chấn động dư luận như : Thời xa vắng của Lê Lựu; Tướng
về hưu của Nguyễn Huy Thiệp; Thiên sứ của Phạm Thị Hoài; Bến không
chồng của Dương Hướng; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường; Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng; Những mảnh
đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập; Vòng tròn bội bạc; Ăn mày dĩ vãng
của Chu Lai; Góc tăm tối cuối cùng của Khuất Quang Thụy; Bước qua lời
nguyền của Tạ Duy Anh; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh… Những tác
phẩm xuất hiện gần đây như: Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của
Nguyễn Xuân Khánh; Những mảnh hồn trần của Đặng Thân; Thành phố đi
vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ; Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê; Cõi
người rung chuông tận thế; Đức phật, nàng Sivitri và tôi; Mười lẻ một đêm;
Tự sự 265 ngày của Hồ Anh Thái…
Chưa bao giờ nền văn học nước nhà có một lực lượng hùng hậu tham
gia vào hoạt động văn nghệ như thế, từ thế hệ nhà văn trưởng thành trong
kháng chiến chống Mĩ đến các nhà văn trưởng thành sau công cuộc đổi mới
1986. Nếu Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu… đã
dũng cảm thay đổi mình để trở thành những cây bút tiên phong của văn học
đổi mới thì sự xuất hiện của Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…
đã đưa tiến trình đổi mới nền văn học trở nên sôi động và tạo bước ngoặt mới
trong sự phát triển của văn học dân tộc. Khi Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, … xuất hiện thì văn học đổi
mới đạt thành tựu rực rỡ. Mỗi nhà văn một phong cách, góp thêm cho văn học

14
đổi mới những tiếng nói riêng, phong phú và đa dạng. Những năm trở lại đây,
nền văn học nước nhà còn xuất hiện thêm những gương mặt mới làm rạng rỡ
nền văn học dân tộc như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Đỗ Bích Thúy,
Nguyễn Đình Tú, Di Li, Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Thị Cẩm… đưa nền
văn học nước nhà tiến kịp với tiến trình của nền văn học thế giới.
Tuy sự liệt kê đó chưa đủ nhưng từng đó cũng đủ cho chúng ta thấy đây
là lực lượng rất hùng hậu, tạo nên sự sôi động trong đời sống văn chương sau
công cuộc đổi mới và văn học thời kì đổi mới là một bức tranh phong phú, đa
dạng, đậm sắc màu, thậm chí rất phức tạp. Mỗi người một dáng vẻ, một giọng
điệu riêng nhưng tất cả đã góp phần hình thành diện mạo mới cho nền văn
đương đại, đặc biệt là những nhà văn trẻ. Tất cả cho hiệu quả của công cuộc
đổi mới của văn xuôi đương đại.
Công chúng đón nhận và theo dõi văn học với sự thích thú đáng ngạc
nhiên. Nhiều cuộc tranh luận gay gắt diễn ra. Những tác phẩm từng gây xôn
xao dư luận một thời như: Thời xa vắng của Lê Lựu; Thiên sứ của Phạm Thị
Hoài; Tướng về hưu, Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp; Bên kia bờ ảo vọng
của Dương Thu Hương; Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn
Kháng; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu;
Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư; Cõi người rung chuông tận thế,
Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái…
Trong bối cảnh xã hội đổi mới, khi những cánh cửa được mở ra, những
chân trời mới được vẫy gọi, cái mới lạ thường là đề tài dễ thu hút con người.
Các hiện tượng văn học trên cũng thế, nghĩa là họ đã được quan tâm, chú ý
bởi chính cái mới mẻ, lạ lẫm mà họ trình hiện trên văn đàn đổi mới. Khen chê
là điều tất yếu trong cơ chế tiếp nhận của công chúng khi các giá trị không tìm
được tiếng nói đồng thuận. Con đường đi lên của văn học phải chấp nhận điều
đó như một quy luật.

15
Cùng với sự sôi động của nền văn học, con người cá nhân từng bước
chiếm vị trí trung tâm của văn học. Văn học hôm nay có vẻ như tàn nhẫn với
con người. Nhưng, đằng sau sự tàn nhẫn đó bao giờ cũng có nỗi đau sâu sắc
và thấm thía về nhân tình của người cầm bút. Đó là niềm tin vào sức mạnh bất
diệt của nhân tính, vào khả năng vươn tới cái thiện và đạo đức của con người.
Văn học hôm nay không thờ ơ trước cái ác và bi kịch của cá nhân vì văn học
là nơi để tác giả bộc lộ quan điểm của mình trước cái ác, các xấu, cái tha hóa
của con người.
Trên hành trình cách tân mạnh mẽ của văn học dân tộc nửa sau thập kỉ
80 của thế kỉ XX, văn đàn Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của một hiện
tượng độc đáo, đó là hiện tượng Hồ Anh Thái. Nếu Nguyễn Minh Châu là nhà
văn tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác lấy đời tư của con người để khám
phá những quy luật vĩnh hằng của các giá trị nhân bản, Nguyễn Huy Thiệp
tiêu biểu cho khuynh hướng lấy con người cá nhân để cân đo trạng thái nhân
thế thì Hồ Anh Thái lấy cá nhân làm thước đo giá trị, chuẩn mực đạo đức con
người. Chính vì lấy con người cá nhân làm thước đo giá trị đạo đức nên khi
đọc Hồ Anh Thái, độc giả có thể nhìn thấy một “cõi người” lẫn lộn giữa tốt
đẹp – xấu xa, thật – giả, đen – trắng, cao thượng – thấp hèn... Thế giới ấy
được thể hiện qua cái nhìn rất thật và sâu sắc của nhà văn về con người, đồng
thời nói lên được sứ mệnh cao cả của văn chương là phản ánh một cách sinh
động và trung thực về con người.
Đối tượng trong sáng tác của Hồ Anh Thái là cuộc sống và con người
thời mở cửa, đó là giới công chức nhà nước, giới trí thức, sinh viên, giới trẻ…
Sự xuống cấp trong nhân cách, lối sống, đạo lý, văn hóa của họ phần nào
phản ánh sự xuống cấp của xã hội đương đại với nhiều phức tạp và bất ổn. Tất
cả được nhà văn khám phá, mổ xẻ, lật tẩy bằng một chất giọng khách quan,
lạnh lùng và đậm chất trào phúng, hài hước.

16
1.2. Hồ Anh Thái – hiện tƣợng độc đáo của nền văn học đƣơng đại.
1.2.1. Vài nét về tác giả.
Hồ Anh Thái sinh năm 1960, quê gốc ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An nhưng anh sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Thuở nhỏ Hồ
Anh Thái từng sống ở Nam Định cùng gia đình và ngay từ nhỏ anh đã phải sơ
tán về nông thôn để tránh bom đạn kẻ thù. Anh không thuộc thế hệ trực tiếp
cầm súng chống giặc nhưng anh được chứng kiến cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc của dân tộc.
Hồ Anh Thái sống một mình trong căn nhà nhỏ, lối đi vào cũng nhỏ
ở phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Anh không thích đàn
đúm, không thích nhậu nhoẹt nên hiếm khi anh mời ai về nhà. Anh sống
trọn vẹn trên căn gác, với bốn bề là sách và băng đĩa. Trong đó rất nhiều
sách tiếng Anh, sách ấn Độ và những cuốn sách của anh bằng cả tiếng
Việt lẫn tiếng Anh.
Hồ Anh Thái tốt nghiệp phổ thông năm 1977 rồi học Đại học Ngoại
giao và nhận được bằng cử nhân ngành Quan hệ Quốc tế năm 1983. Sau khi
tốt nghiệp, anh về làm việc ở Bộ Ngoại giao rồi đi lính.
Năm 1988, Hồ Anh Thái sang học tập và làm việc ở Đại sứ quán Việt
Nam tại ấn Độ và anh sống tại đất nước này sáu năm. Đây là một bước quan
trọng trên đường đời nhà văn. Anh trở thành nhà ấn Độ học khi tuổi đời còn
rất trẻ. Vào tuổi 31, anh tốt nghiệp Học viện Hindi, và nhận hàm Bí thư thứ ba
Sứ quán Việt Nam tại ấn Độ.
Mấy năm sau Ấn Độ, Hồ Anh Thái bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ
Văn hóa phương Đông tại Mỹ, rồi về làm việc trong nước. Hiện nay anh
là Tiến sĩ ngành Văn hóa phương Đông, công tác tại Bộ Ngoại giao Việt
Nam. Ngoài vai trò một nhà ngoại giao, Hồ Anh Thái còn là một giảng viên,
một nhà Ấn Độ học, Đông Phương học.

17
1.2.2. Sự nghiệp văn chƣơng.
Khởi nghiệp viết văn từ khi còn là một học sinh, Hồ Anh Thái nổi lên
như một hiện tượng lạ. Với giọng văn trẻ trung, tươi mới về đời sống thanh
niên, sinh viên với những cuộc phiêu lưu, những khát khao khám phá đời
sống. Những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Anh Thái được người đọc biết đến
trong thời gian này là Trong sương hồng hiện ra, Người và xe chạy dưới
ánh trăng, Người đàn bà trên đảo, truyện ngắn Món tái dê, Chàng trai ở
bến đợi xe...
Đầu những năm 1990, sau nhiều năm nghiên cứu và làm việc ở nhiều
nước Âu – Mỹ, đặc biệt là 6 năm tại Ấn Độ, anh trở lại trên văn đàn với
những chùm truyện ngắn độc đáo về Ấn Độ: Người đứng một chân, Người
Ấn, Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Cuộc đổi chác…
Từ năm 2000, anh có những tác phẩm được đánh giá cao và gây tranh
luận như Cõi người rung chuông tận thế, Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà
cười, Mười lẻ một đêm”...Cũng trong năm 2000, anh được bầu là chủ tịch
Hội Nhà văn Hà Nội.
Năm 2007, anh trở lại với đề tài Ấn Độ bằng tiểu thuyết Đức Phật,
nàng Savitri và tôi. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học Việt Nam tái
hiện chân dung Đức Phật.
Với các tiểu thuyết và tập truyện ngắn đã xuất bản, phần lớn trong đó
đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn
sung sức nhất và được đón đọc nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay. Hồ Anh Thái
viết văn như một thứ lao động nghiêm ngặt, anh chăm chút cho từng câu chữ
với tinh thần không chấp nhận cái gì sẵn có, không thụ động chờ cảm hứng
đến rồi mới cầm bút viết.
Với những cống hiến cho nền văn học nước nhà, Hồ Anh Thái được
nhận Giải thưởng truyện ngắn 1983 –1984 của báo Văn nghệ với truyện
Chàng trai ở bến đợi xe; Giải thưởng văn xuôi 1986 – 1990 của Hội Nhà văn

18
Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với tiểu thuyết Người và xe
chạy dưới ánh trăng; Giải thưởng văn học 1995 của Hội Liên hiệp Văn học
Nghệ thuật Việt Nam với tập truyện ngắn Người đứng một chân. Giải thưởng
của Hội Nhà văn Hà Nội 2012 cho tiểu thuyết SBC là săn bắt chuột, tác
phẩm ghi nhận sự tìm tòi, đổi mới cách viết của tác giả, đồng thời phản ánh
một cách hài hước, sâu cay hiện thực đời sống của Hà Nội.
Là nhà văn có cá tính sáng tạo, Hồ Anh Thái đã và đang cho ra đời
những những tác phẩm mới với những thử nghiệm độc đáo và mới lạ để tác
phẩm của mình luôn hấp dẫn. Hồ Anh Thái thực sự là một hiện tượng độc đáo
của nền văn chương đương đại Việt Nam.
1.2.3. Quan niệm văn chƣơng.
Hồ Anh Thái có thói quen đọc rất nhiều ngay từ thời niên thiếu. Anh
đọc ngấu nghiến, dồn dập ngay từ khi còn nhỏ nên anh sớm hiểu về cuộc
chiến tranh trên quê hương mình ở phương diện văn hóa – xã hội. Đến khi
cầm bút, anh quyết định không bắt chước các nhà văn đàn anh mà tạo cho
mình một hướng đi riêng. Anh cho rằng để tìm một hướng đi cho mình, thế hệ
hậu chiến phải nhận món nợ từ quá khứ nhưng cũng phải thay đổi, phải phê
phán, đồng thời phải xây dựng trên nền tảng quá khứ. Có thể nói, Hồ Anh
Thái là nhà văn chuẩn bị tương đối đầy đủ về mặt văn hóa, trong đó có cả
những giá trị văn chương, không chỉ văn chương trong nước, mà cả văn
chương thế giới. Càng dấn thêm trên con đường văn chương, nhà văn càng
thấy phải hiểu biết sâu hơn về văn hóa. Anh là nhà văn của cuộc sống đang
cuồn cuộn trước mắt. Anh khám phá những vỉa, những tầng sâu trong cuộc
sống và nêu lên những vấn đề còn tồn tại trong đó. Hồ Anh Thái từng tâm sự:
“Tôi quan niệm tiểu thuyết như một giấc mơ dài, gấp sách lại người ta vừa
mừng rơn như vừa thoát khỏi một cơn ác mộng, lại vừa tiếc nuối vì phải chia
tay với những điều đời thực không có” [78, tr.253]. Trong mấy chục năm cầm
bút, nhà văn đã tạo ra một chuỗi giấc mơ dài và mỗi tiểu thuyết ra đời là một

19
giấc mơ độc đáo. Điều đó chứng tỏ, quan niệm viết tiểu thuyết của Hồ Anh
Thái đã được xây dựng trên sự tự ý thức của người cầm bút. Bên cạnh đó là
quá trình đổi mới tư duy, giọng điệu và cách ứng xử với ngôn ngữ dân tộc.
Anh đã bền bỉ tạo nên một dòng chảy và để lại những ấn tượng khó phai trong
lòng độc giả.
Trong Phong cách không phải là cái vỏ ngoài bất biến và ngoan cố
do Lê Hồng Lâm phỏng vấn, Hồ Anh Thái không chỉ quan niệm tiểu thuyết là
giấc mơ dài mà anh còn quan niệm “người viết văn phải là người vật vã lao
động trên từng con chữ, mà là chữ sáng tạo” [86, tr. 224]. Với anh, sáng tác
văn chương là một sự khai phá mới trên mảnh đất đã chi chít dấu chân nên
không thể viết hời hợt, thiếu sự tìm tòi. Anh không chấp nhận những cách viết
dễ dãi, những nhà văn có trái tim vô cảm trước đời sống. Quan niệm của Hồ
Anh Thái tương đồng với quan niệm của nhà văn Nam Cao thể hiện trong
truyện ngắn Đời thừa: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo
tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những cái gì chưa có” [60, tr. 9]. Hồ Anh Thái “cảnh giới” mình khi làm nghề
văn “Người viết văn không phải vì thế mà bạ gì cũng viết. Biết sử dụng chữ
cũng phải thận trọng như biết dùng súng dùng dao. Không khéo thì sẩy tay
cướp cò. Trúng vào người vô tình ngang qua. Trúng vào chính mình. Chớ cậy
có chữ. Nhà văn là người biết được mình nên viết gì. Nói vậy đúng quá. Nhà
văn là người biết được mình không nên viết gì […] Chớ viết nhờn tay quen
tay. Chớ viết vì ngứa chân ngứa tay ngứa da đầu” [84, tr.107]. Đó là một
quan niệm hết sức nghiêm túc về văn chương, đồng thời là lương tâm nghề
nghiệp và ý thức trách nhiệm đối với ngòi bút vì nghề văn là một hoạt động
sáng tạo và người nghệ sĩ là một người sáng tạo. Anh đã lao động khó nhọc
trên từng câu chữ để tìm kiếm, khám phá, đấu tranh tự vượt lên mình để
hướng tới những sáng tạo đích thực. Chỉ có tìm tòi, khám phá và sáng tạo thì

20
mới tìm thấy bản ngã đích thực của mình, mới khẳng định vị trí của mình trên
văn đàn. Trong những thập kỷ qua, Hồ Anh Thái đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong lao động “trên từng con chữ” của một nhà văn thực sự coi việc
viết là một nghề. Với anh, nhà văn chuyên nghiệp phải biết tự ép mình vào
một thứ kỷ luật viết và phải biết “ngồi vào bàn và anh phải có đủ kĩ năng để
huy động cảm hứng đến” [78, tr.255]. Hồ Anh Thái tự đặt lịch là mỗi ngày
phải đều đặn viết ít nhất hai tiếng. Với ý thức và lương tâm nghề nghiệp đúng
đắn, cho nên hầu như năm nào độc giả cũng được tiếp nhận tác phẩm mới của
Hồ Anh Thái.
Với một quan niệm đúng mực về nghề văn, Hồ Anh Thái đã tạo cho
mình một giọng điệu đa phong cách. Anh luôn tìm tòi, sáng tạo, đổi mới để
không lặp lại chính mình và không lặp lại phong cách của người khác. Cũng
trong Phong cách không phải là cái vỏ ngoài bất biến và ngoan cố, Hồ Anh
Thái mong muốn: “Các công cụ văn chương mà thế giới này có, tôi đều muốn
sử dụng. Đồng thời tôi là người không bằng lòng với những gì sẵn có và dễ
kiếm, cho nên luôn tìm cách tạo ra những công cụ mới” [86, tr.223]. Thành quả
trong cuộc khám phá ấy mang lại niềm cảm hứng cho chính tác giả. Hồ Anh
Thái đã luôn thay đổi, tự làm mới mình qua đề tài, cảm hứng và phương pháp
sáng tác. Trong cuộc phỏng vấn của báo Người lao động, Hồ Anh Thái chia sẻ:
“Hiện thực và không gian nghệ thuật của mỗi cuốn sách đòi hỏi một cách xử lý
riêng, một giọng điệu riêng, một văn phong riêng. Tôi tránh lặp lại người khác
và lặp lại chính mình. Tôi cho rằng người có phong cách chính là không khư
khư bám lấy một phong cách cố định, bất biến. Có phong cách là phải đa giọng
điệu” [86, tr.250]. Anh không dừng lại lâu ở một lối viết nào. Những vấn đề
mới mẻ, những cách viết độc đáo, những sáng tạo mới cả về nội dung và nghệ
thuật là sáng tạo đích thực mà Hồ Anh Thái muốn cống hiến cho nghệ thuật và
cho cuộc đời. Nhà văn sợ rằng văn nghệ sĩ luôn lấy làm hài lòng với phương
pháp mình lựa chọn. Vì lẽ đó, anh luôn có ý thức tìm tòi làm mới tư tưởng của

21
mình. Chính vì thế, mỗi đề tài, anh đều có cách viết phù hợp. Nếu tiểu thuyết là
nơi Hồ Anh Thái thể hiện cái nhìn mới mẻ, thì truyện ngắn ẩn chứa cái nhìn ở
chiều sâu triết lý và nhận thức về cuộc sống và con người.
Không ngừng thay đổi phong cách, giọng điệu nên qua mỗi tác phẩm,
độc giả lại bắt gặp một Hồ Anh Thái khác. Hồ Anh Thái từng tâm sự “Tôi chỉ
viết những gì tôi thích và hợp với mình, như vậy thì không phải tự ép mình,
không gò gẫm như đánh vật” [86, tr.259]. Chính vì thế, độc giả bắt gặp một
Hồ Anh Thái với giọng tươi vui, hóm hỉnh và trẻ trung trong Chàng trai ở
bến đợi xe, giọng sâu lắng trữ tình trong Người và xe chạy dưới ánh trăng,
giọng tình cảm yêu thương cảm thông với bạn bè, với người thân và mọi
người xung quanh trong Cánh võng không người, Mảnh vỡ của đàn ông,
giọng xót xa thương cảm cho nhưng đứa trẻ bị bỏ rơi giữa cuộc đời trong Lũ
con hoang, giọng triết luận trong Tiếng thở dài qua rừng kim tước và đọc
những sáng tác của nhà văn giai đoạn gần đây, độc giả lại bắt gặp một Hồ
Anh Thái với chất giọng giễu nhại, châm biếm và ẩn chứa trong giọng điệu ấy
là nụ cười chua chát về cõi nhân sinh. Tác giả lật tẩy những trớ trêu nghịch
cảnh trong cuộc sống để rồi từ đó nêu ra những triết lý, triết luận về đời sống,
về kiếp người. Hồ Anh Thái khẳng định: “Tôi đã nhại giọng chua cay của
người này người khác theo lối tỉnh táo mà thấy rằng cả thực tại ấy, cả cái
giọng chua cay ấy đều đi đến một kết cục tất yếu, hư vô và tức cười của kiếp
người” [86, tr. 227]. Hồ Anh Thái phát hiện cuộc đời như một nhà cười một
khi bước chân vào hình như ai cũng thấy có một khía cạnh nào đó là mình.
Cách viết này của anh có gì đó giống với cách viết của Vũ Trọng Phụng
nhưng anh khác với nhà văn họ Vũ ở chỗ, anh viết để tái sinh đối tượng còn
Vũ Trọng Phụng viết để giết chết đối tượng.
Khi văn học bắt đầu đi vào khám phá con người ở muôn mặt của cuộc
sống đời thường thì những giá trị tinh thần, khát vọng cá nhân được đề cao.
Con người cá nhân ở đây không phải là con người của chủ nghĩa cá nhân, của

22
cái tôi cực đoan, mà của những số phận nằm trong mối quan hệ với xã hội.
Đằng sau mỗi con người, mỗi thân phận đó luôn là những vấn đề có ý nghĩa
thời đại. Vấn đề số phận cá nhân đã khơi nguồn cho một cảm hứng nhân văn
mới mẻ. Hồ Anh Thái có một cái nhìn mới, rất riêng và cảm hứng nhân văn ở
anh thấm đẫm cái nhìn yêu thương đối với con người. Chất nhân văn đằm sâu
tạo thành sức hút, thành “thương hiệu” Hồ Anh Thái. Đằng sau những bi kịch
nhân sinh, nhà văn không mất đi niềm hy vọng vào con người. Anh tỉnh táo,
lý trí và có độ sắc khi phê phán cái xấu, cái hạn chế của con người. Anh dám
nhìn thẳng vào những nhức nhối bủa vây cõi người để gióng lên hồi chuông
khẩn thiết về sự khô kiệt nhân tính của con người. Tuy nhiên, Hồ Anh Thái
luôn tìm kiếm những hạt mầm thiên lương trong những tâm hồn đang tha hóa
với thái độ bao dung, đưa họ đến với tình yêu thương và niềm tin. Vì thế, độc
giả bắt gặp một nhân vật Đông trong Cõi người rung chuông tận thế, trên
con đường dấn thân đi tìm nguyên nhân cái chết của ba đứa cháu đã từ đồng
lõa với cái ác đến sám hối, từ chỗ đứng chênh vênh giữa bờ thiện ác đã thức
tỉnh để tìm cho mình con đường xa rời các ác. Trong Đức Phật, nàng Savitri
và tôi, Tướng cướp Anguli Mala chuyên giết người cướp của nhưng được
Đức Phật giác ngộ mà trở nên lương thiện; một công tử hào hoa, ăn chơi bốc
giời của kinh thành Varanasiđa như Yasa đã quy y để sống cuộc đời của một
khất sĩ; một nàng Juhi tưởng chừng suốt đời chìm đắm trong mê cung của dục
lạc nhưng cuối cùng nàng cũng nhận ra rằng người đời đau khổ vì thích quyền
sở hữu, yêu mến một cái gì là thích ràng buộc mình vào đó. Gỡ được ra khỏi
mọi ràng buộc và sở hữu là được giải thoát; hay một hoàng tử Siddhattha thay
cho việc bắn cung vào một mục tiêu di động là con chim đang bay, chàng chỉ
chấp nhận bắn tên vào một mũi tên khác bắn lên trời, thay cho việc phóng lao
vào một con dê, chàng chỉ chịu phóng lao vào hình nộm đi động. Chàng từ bỏ
ngôi báu để giác ngộ rồi thành Đức phật chuyên đi giác ngộ những sinh linh
đang rơi vào vòng tội lỗi, đau khổ, tuyệt vọng.

23
Cũng như sáng tác của một số cây bút văn xuôi thời đổi mới như
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, tiểu thuyết của
Hồ Anh Thái, cũng mang dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại. Con người trong
tiểu thuyết của Hồ Anh Thái là con người đầy phức tạp, đều là những lát cắt
chân thực cuộc sống đương cung đại. Điều này đã tạo nên giá trị đặc biệt cho
tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, qua đó thổi vào văn chương đương đại dân tộc
một luồng sinh khí mới lạ.
Tiểu kết: Con người luôn là vấn đề trung tâm của văn học, là phương
tiện cơ bản để phản ánh hiện thực cuộc sống, là hình thức khái quát đời sống.
Con người còn là nơi để nhà văn thể hiện quan niệm của mình về đời sống. Vì
thế, một nhân vật được xây dựng thành công thường là những sáng tạo độc
đáo và không lặp lại. Sự xuất hiện của con người cá nhân trong văn học gắn
liền với hành trình của chính nó trong xã hội. Tác phẩm văn học hướng vào
việc khám phá những bí mật của con người, tạo ra những chân dung mới về
các kiểu tính cách của con người. Đặc biệt văn học hiện nay thường diễn tả
sâu sắc thế giới nội tâm và đời sống tinh thần của con người. Tính chất
“hướng nội”, sự phát triển tâm lý phức tạp, chiều sâu và sự phong phú của các
quá trình ý thức và vô thức là đặc điểm tinh thần của con người hiện đại. Bản
thân thế giới tinh thần này cũng là một hiện thực. Đời sống và năng lực tinh
thần của mỗi con người cũng có số phận của nó và do đó, cũng cần được tái
hiện sâu sắc trong văn học.
Nhìn lại gần 30 năm của nền văn học đổi mới, chúng ta nhận ra có
những điểm hội tụ mà ở đó tác giả, tác phẩm, sự tiếp nhận, phản hồi của công
chúng văn học đang nói lên sức sống sinh động của đời sống văn học. Những
hiện tượng nổi bật như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương,
Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Hồ Anh Thái… chính là những điểm hội
tụ như thế.

24
Hồ Anh Thái với những quan niệm mới mẻ về con người đã để lại dấu
ấn đậm nét trong văn xuôi đương đại Việt Nam. Để có thể thành công trên,
Hồ Anh Thái đã lao động cật lực trên từng con chữ của một nhà văn chuyên
nghiệp. Với nền tảng văn hóa vững chắc, Hồ Anh Thái không rơi vào tình
trạng tự thỏa mãn. Anh luôn tìm cách bứt phá để tạo ra những cái mới mẻ, táo
bạo cho văn chương. Hồ Anh Thái khám phá cái thế giới bí ẩn, khuất lấp, bên
trong mỗi con người, bằng một lối đi riêng để khẳng định mình. Tác phẩm
của anh tái hiện nhiều kiếp người, cảnh người ở nhiều thời điểm, nhiều tình
huống để qua đó nói lên cảm nhận sâu sắc về nhân sinh. Hơn nữa, Hồ Anh
Thái là người có nhiều tìm tòi cách tân thể loại nhằm tạo sự phù hợp, hiệu quả
trong thể hiện con người theo cảm quan của mình.

25
Chƣơng 2
NHÂN VẬT THA HÓA VÀ MỘT SỐ KIỂU NHÂN VẬT THA
HÓA TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI.
2.1. Nhân vật tha hóa trong tác phẩm văn học.
2.1.1. Nhân vật trong tác phẩm văn học.
Tác phẩm văn học là sự phản ánh, khúc xạ, vang hưởng, dự cảm của
nhà văn về đời sống hiện thực, vì thế những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội
đều ít nhiều tác động đến đời sống chung của văn học, góp phần tạo nên sự
phong phú, đa dạng cho tác phẩm văn học. Nhưng xét đến cùng, cái quyết
định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân vật. Khi đọc
một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong độc giả thường là số phận, tình
cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện trong tác
phẩm. Hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học đương đại đều
tập trung miêu tả số phận của con người. Cho dù nhà văn miêu tả thần linh,
ma quỉ, đồ vật... thì đều gán cho nó những phẩm chất của con người vì nhà
văn sáng tạo nhân vật là để “thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan
niệm về các cá nhân đó. Nói cách khác, nhân vật là phương tiện khái quát các
tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng” [51, tr. 279]. Trong
Tính hệ thống của tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, Trần Nho Thìn
khẳng định: “Chúng tôi cho rằng nhóm những đối tượng phản ánh của văn
học là không thay đổi, văn học thời kì nào cũng viết về con người” [97, tr.66].
Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để khái quát những tính cách, số phận con
người và thể hiện quan niệm của mình về cuộc đời, thể hiện những hiểu biết,
những ước ao và kì vọng về con người. Vì vậy nhà văn Tô Hoài cho rằng
"Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một
sáng tác" [29, tr.127). Còn Nguyễn Văn Long thì cho rằng: “Con người vừa
là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng

26
của văn học, đồng thời cũng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi
vấn đề xã hội, mọi sự kiện và biến cố lịch sử” [50, tr.16].
Nhân vật trong tác phẩm văn học không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng, chủ
đề tác phẩm mà còn là nơi tập trung các giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Thành bại của một đời văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc
xây dựng nhân vật. Những nhân vật xây dựng thành công và có sức sống lâu
bền đều là những nhân vật có giá trị điển hình sâu sắc. Những nhân vật này
làm cho tên tuổi các nhà văn trở thành bất tử. Nhân vật có thể có tên nhưng
cũng có thể không có một tên gọi cụ thể. Trong nhiều trường hợp nhân vật có
khi chỉ là bông hoa, con mèo, con cóc, con chuột thậm chí là thần tiên hoặc
ma quỷ. Nhưng những sự vật, những đồ vật này trở thành nhân vật khi được
"người hóa", nghĩa là cũng mang tâm hồn tính cách như con người.
Nhân vật trong tác phẩm văn học không giống với các nhân vật thuộc
các loại hình nghệ thuật khác. Nhân vật văn học được xây dựng bằng chất liệu
ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng
tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối
quan hệ của nó. Nhân vật trong tác phẩm văn học có thể có tên hay không có
tên, xuất hiện ít hay nhiều, miêu tả sâu sắc hay sơ lược, sinh động hay đơn
giản, giữ vai trò quan trọng hay không quan trọng… đều không ảnh hưởng
nhiều lắm đối với tác phẩm vì khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích
gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm.
Nhân vật trong tác phẩm văn học được thể hiện rất đa dạng. Có nhân
vật hiện ra khá đầy đặn từ ngoại hình cho đến nội tâm, từ hành động cho đến
tiểu sử như trong tác phẩm tự sự. Có nhân vật hiện ra qua ngôn ngữ như trong
kịch bản văn học. Có nhân vật chỉ được bộc lộ qua cảm xúc, ý nghĩa như nhân
vật trong tác phẩm trữ tình. Có nhân vật không được miêu tả chân dung, ngoại
hình, hành động. Có nhân vật chỉ đơn giản là những con vật, những đồ vật
được nhân hóa… Có thể nói nhân vật hiện ra muôn màu, muôn vẻ.

27
Thế giới nhân vật do nhà văn sáng tạo ra rất phong phú. Xét từ góc độ
nội dung tư tưởng và căn cứ vào phẩm chất nhân vật có thể chia ra nhân vật
chính diện, nhân vật phản diện, nhân vật trung gian. Xét ở tầm quan trọng và
vai trò của nhân vật trong tác phẩm có thể chia ra nhân vật chính, nhân vật
phụ, nhân vật trung tâm. Xét từ góc độ thể loại có thể có nhân vật tự sự, nhân
vật kịch, nhân vật trữ tình. Xét từ góc độ cấu trúc nhân vật ta có nhân vật
chức năng, nhân vật tư tưởng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách.
Như vậy, trong tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Đọc tác phẩm, độc giả cần khám phá các nội dung từ đời sống và giá trị
tư tưởng được nhà văn thể hiện thông qua nhân vật.
2.1.2. Kiểu nhân vật tha hóa trong văn học.
2.1.2.1. Quan niệm tha hóa trong lịch sử triết học.
Trên thế giới, khái niệm “tha hóa” bắt đầu được hình thành trong chủ
nghĩa duy tâm cổ điển Đức như một phạm trù triết học khi họ phê phán các
quan hệ phong kiến. Trong số các nhà triết học Đức thì Johann Gottlieb Fichte
(1762-1814) là người đầu trên dùng khái niệm “tha hóa”. Ông cố gắng dựa
vào khái niệm đó để diễn đạt sự kiện sinh ra “không phải Tôi”, xa lạ và đối
lập với “Tôi là Tôi”. Điều này nói lên rằng ngay từ khởi đầu, bằng hoạt động
của mình, con người đã sáng tạo ra chính mình.
Tuy Johann Gottlieb Fichte là người đầu tiên dùng khái niệm tha hóa
nhưng một trong những nhà tư tưởng đầu tiên của nhân loại khai sinh ra khái
niệm “tha hóa” với tư cách là một phạm trù triết học lại là Georg Wilhelm
Friedrich Hegel (1770 – 1831). Trong tác phẩm “Lôgíc học và hiện tượng học
tinh thần”, ông đã chỉ ra vòng tròn tha hóa. Tinh thần tha hóa thành giới tự
nhiên, giới tự nhiên tha hóa thành xã hội, xã hội lại tha hóa và trở về với tinh
thần. Đó là quá trình tự tha hóa để biến thành cái khác, cái đối lập, sự phủ
định rồi lại trở về với bản nguyên.

28
Còn Ludwig Andreas Feuerbach (1804 – 1872) thì cho rằng, con người
là sản phẩm của tự nhiên, bản chất của nó là tổng thể các khát vọng, nhu cầu,
ham muốn và khả năng tưởng tượng của chính mình, đồng thời ông khẳng
định con người có sự thống nhất hữu cơ với tự nhiên. Ông cho rằng, tôn giáo
là bản chất con người đã bị tha hóa. Về cơ bản quan niệm của Feuerbach
không làm lệch cách hiểu ấy, song ông thiên về ý nghĩa “đánh mất”, sự tự
đánh mất của cá nhân trong sinh hoạt tôn giáo, nói cách khác, ông đã biến
khái niệm tha hóa hay tự tha hóa như khách quan hóa ý niệm, thành tha hóa
như một hiện tượng xã hội.
Sau này Karl Heinrich Marx (1818–1883), đã vận dụng khái niệm “tha
hóa” của tiền nhân và nhất là của Hegel để xem xét quá trình tha hóa của lao
động. Tha hóa chính là sự đánh mất giá trị, bản chất thông thường, vốn có của
sự vật, hiện tượng, cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Karl Marx rất chú ý
đến việc phân tích sự tha hóa. Xuất phát từ chỗ tha hóa biểu hiện từ những
mâu thuẫn của một giai cấp phát triển nhất định trong xã hội do sự phân công
lao động có tính đối kháng đẻ ra và gắn liền với chế độ tư hữu. Trong điều
kiện đó, các quan hệ xã hội được hình thành một cách tự phát và vượt khỏi sự
kiểm soát của con người, còn những kết quả và sản phẩm hoạt động thì bị tha
hóa khỏi các cá nhân và các tập đoàn xã hội được thể hiện ra là do những
người khác hoặc do những lực lượng siêu nhiên áp đặt. Ông thừa nhận sự tha
hóa của lao động với tư cách là cơ sở của tất cả mọi hình thức tha hóa khác.
Trong đó có cả những hình thái tha hóa về tư tưởng đã cho phép hiểu được ý
thức bị bóp méo, sai lầm là kết quả của những mâu thuẫn đời sống xã hội hiện
tại. Việc chỉ ra tha hóa ở khía cạnh đời sống có tính loài của con người cho
phép Karl Marx làm rõ bản chất của xã hội với hệ thống các thiết chế đan xen
và tác động lẫn nhau, trong đó có hoạt động chủ đạo, chi phối tất cả những
quan hệ khác.

29
Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện đầu tiên ở Đức vào cuối những năm 20 –
30 và phát triển mạnh vào những năm 50 – 60 của thế kỉ XX. Người xây dựng
cơ sở quyết định cho chủ nghĩa hiện sinh phát triển là Martin Heidegger
(1889-1976), Karl Theodor Jaspers (1883-1969).
Chủ nghĩa hiện sinh lấy con người làm trung tâm, làm đối tượng và
mục tiêu để hướng tới. Triết học hiện sinh coi con người là một nhân vị, nhờ
đó mà con người mang một bộ mặt riêng biệt, khác với mọi tính cách mang
tính phổ quát. Con người tự do lựa chọn cách sống, thái độ sống của mình,
nghĩa là con người có ý thức để trở thành hiện sinh. Con người hiện sinh là
con người tỉnh ngộ, dám nhìn thẳng vào sự thật với nhãn quan và khả năng
của cá nhân mình. Thuyết hiện sinh cho rằng tha nhân là yếu tố cấu tạo tôi,
sống là sống với người khác, tôi không thể sống riêng lẻ mà luôn luôn liên hệ
với người khác. Tôi không thể sống hay suy tưởng mà không có người khác
và người khác cũng là những chủ thể có tự do như tôi.
Về luân lý, chủ nghĩa hiện phủ nhận sự tồn tại phổ biến của những
nguyên tắc đạo đức. Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là bản chất của sự
hiện sinh của cá nhân con người. Giá trị hiện sinh của cá nhân được thể hiện
trong sự lựa chọn tự do của cá nhân. Tự do của cá nhân không phục tùng
Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào và cũng không chịu sự ràng buộc của
bất cứ tính tất yếu khách quan nào. Tự do của con người là tuyệt đối. Tuy vậy,
thế giới đang diễn ra lại không làm sâu sắc thêm cái bản thể tự do của con
người mà còn đi ngược lại nó, làm mất đi nhân vị và bản sắc riêng của mỗi cá
nhân. Xã hội làm cho các hoạt động của cá nhân trở nên nhàm chán và vô vị.
Khi con người hiện sinh bị xã hội cùng với các thiết chế của nó tha hóa, con
người càng cảm thấy cô đơn.
Về quan điểm lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá
nhân tuyệt đối, cho rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ
là một phương thức hiện sinh của cá nhân, hơn nữa là phương thức hiện sinh

30
không chân thực. Khi xã hội và cá nhân có liên hệ chặt chẽ thì sự tồn tại của
cá nhân sẽ không còn là cá nhân thực sự mà là cá nhân đã bị đối tượng hóa, bị
mất cá tính do bị ràng buộc với người khác và với xã hội. Do đó, tồn tại xã
hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người. Để khôi phục sự hiện
sinh của mình, con người cần thoát khỏi sự ràng buộc của những người khác
và xã hội. Xã hội chính là sản vật tha hóa của con người, bản thân nó không
phải là cái tồn tại khách quan tự thân phát triển theo quy luật, mà chỉ là một
mớ ngẫu nhiên những con người bị tha hóa.
Con người theo chủ nghĩa hiện sinh là con người nhập cuộc, cho nên
mới xuất hiện cái gọi là “tha nhân”. Sự hiện hữu của “tha nhân” là tội tổ tông,
là nguồn gốc của sự tha hóa của con người. Cho nên “tha nhân” gắn chặt với
thân phận con người vì “tha nhân” chính là kẻ tranh chấp với cái tôi chủ thể,
vì thế “tha nhân” làm cái tôi bị tha hóa. Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng tha hóa
là hiện tượng vĩnh cửu vì nó thuộc về bản chất con người và quan tâm đến
hình thức tha hóa của con người.
2.1.2.2. Một số định nghĩa về tha hóa.
Ở Việt Nam hiện nay, từ “tha hóa” thường được dùng để chỉ những gì
thuộc về con người và các hoạt động liên quan đến con người, theo hướng
ngày càng trở nên xấu đi. Với cách hiểu này, tha hóa thuộc về nhân tố chủ
quan, gắn liền với chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn là con người.
Đất nước ta đến năm 1865 mới có Gia Định báo. Lúc này, các khái
niệm học thuật phương Tây mới bắt đầu xuất hiện nhiều hơn vào nước ta. Tuy
nhiên nhiều khái niệm triết học phương Tây chưa thể xâm nhập vào sinh hoạt
tinh thần của người Việt. Cuốn từ điển lớn như An Nam – Pháp của Jean
Francois Marie Génibrel (1851-1914) xuất bản năm 1898, có ghi nhận và giải
nghĩa các từ “tha nhân, tha hương”, “tha phương”; “tha bang dị cảnh” ...
nhưng chưa hề có từ “tha hóa”.

31
Trong hồi ký Đời viết văn của tôi của Nguyễn Công Hoan, có một mục
đặt tên là “Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký”, nhà thơ Tản Đà nói
rằng mục này đăng những bài viết về những “cảnh xuống” của con người
(bản in lần đầu của Nhà xuất bản Văn học 1971, tr.138). Từ “cảnh xuống” đó,
Tản Đà và Nguyễn Công Hoan dùng để chỉ sự tha hóa của con người. Như
vậy, “cảnh xuống” có thể coi là tiền thân của “tha hóa” sau này.
Hiện nay, từ “tha hóa” có nhiều khái niệm. Trong đời sống cộng đồng,
tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa đạo đức nói về những trường hợp người
bị biến chất, bị mất đi những phẩm chất tốt đẹp vốn có của mình trước đây.
Trong nghiên cứu khoa học – xã hội, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa triết
học, nói về một hiện tượng, một quy luật diễn ra theo chiều hướng xấu đi
trong đời sống xã hội.
Trong cuốn Từ điển Pháp – Việt (NXB Khoa học xã hội, bản in lần thứ
4, năm 1997, trang 51) do Lê Khả Kế chủ biên thì “tha hóa là làm xa lánh,
làm mất đi, chuyển nhượng”.
Trong cuốn Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam (NXB TP.HCM năm 2000,
trang 1663), Nguyễn Lân viết: “tha hóa: ( tha là khác, hóa: là biến thành) biến
chất đi thành ra xấu”.
Trong Từ điển tiếng Việt (Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng,
2000) do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “tha hóa (con người) là biến chất
thành xấu đi; biến thành cái khác đối nghịch lại”.
Trong cuốn Từ điển Việt – Anh (NXB Thế giới, năm 2004, trang 1836)
của Bùi Phụng thì tha hóa “là suy đồi, hư hỏng, thối nát”.
Trần Đức Thảo trong công trình nghiên cứu Vấn đề con người và chủ
nghĩa lí luận không có con người cũng cho rằng sự tha hóa của con người có
nghĩa là sự phủ định con người, tức con người bị đặt trong tình trạng bất nhân
và ở đâu có sự phủ định con người, có sự chà đạp lên sự sống, khát vọng, ước
mơ chính đáng, tốt đẹp của con người thì ở đó có sự tha hóa.

32
Tha hóa thường được xem xét về mặt ý thức xã hội, đặc biệt là về tư
tưởng chính trị và đạo đức, là do chúng biến thành cái khác theo hướng tiêu
cực so với trước. Người ta không nhắc đến sự tha hóa của sự vật – hiện tượng
ngoài con người mà tha hóa được dùng để chỉ những gì thuộc về con người và
các hoạt động của con người. Tha hóa thuộc nhân tố chủ quan, gắn liền với
chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Như vậy, tha hóa là suy thoái, tội lỗi, đánh mất giá trị, đánh mất bản
chất thông thường, chất người vốn có của mình, tự biến mình thành kẻ khác
và do đó đánh mất chính mình, xóa bỏ những giá trị độc đáo của con người và
của cá nhân. Chủ thể con người có thể bị tha hóa hoặc tự tha hóa. Nhưng dù
thế nào thì tha hóa là quá trình con người bị mất đi bản chất vốn có của mình
làm cho cho mình trở nên xa lạ với chính mình và những người xung quanh,
là xu hướng tội lỗi, bị khinh bỉ và nguyền rủa.
2.1.2.3. Nhân vật tha hóa trong văn học.
Sự phát triển khoa học kỹ thuật ở các nước tiên tiến ở phương Tây vào
đầu thế kỷ XIX, sự hình thành và thống trị của chủ nghĩa tư bản trên các nước
Tây Âu phát triển như Anh, Pháp dẫn đến sự thay đổi sâu sắc bộ mặt xã hội
do sự phân hóa đẳng cấp. Sự thay đổi đó đã kéo theo sự thay đổi về văn hóa
tinh thần, đồng thời với nó là sự khủng hoảng về tư tưởng xã hội và đạo đức
con người. Xã hội tư bản và các tiêu cực của nó đã làm tha hóa con người.
Thế giới mà con người tạo ra càng văn minh thì sự tha hóa càng có nguy cơ
nảy nở. Danh vọng, vật chất, tiền tài đã biến con người trở nên lạnh lùng, tàn
nhẫn. Sự bừng ngộ này trở thành ấn tượng mạnh trong sáng tạo của nhà văn.
Vì thế, nhân vật tha hóa trong lịch sử văn học thế giới gắn liền với sự xuất
hiện của trào lưu văn học hiện thực phê phán.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán xuất hiện ở Pháp, Anh, Nga và cả ở
phương Đông sau này, nhưng tiêu biểu và đầu tiên là chủ nghĩa hiện thực phê
phán Pháp hình thành vào khoảng năm 1830. Nó đã phản ánh những biến

33
động cách mạng, những tư tưởng lớn của thời đại. Cho tới ngày nay, văn học
hiện thực đã cung cấp cho kho tàng văn học loài người hàng loạt những tác
gia và tác phẩm xuất sắc, hết sức phong phú và đa dạng, đặc biệt là về thể loại
tiểu thuyết. Tiểu thuyết hiện thực phê phán bộc lộ rõ khả năng mô tả chân
thực cuộc sống theo quan điểm lịch sử với một bức tranh khái quát xã hội
rộng lớn, vẽ lên những quan hệ đấu tranh phức tạp giữa những lực lượng xã
hội khác nhau. Cũng chính xã hội đó đã đẻ ra những con người tha hóa trong
xã hội.
Văn học hiện thực phê phán xuất hiện như là một trào lưu sở trường về
việc mô tả cái xấu, cái ác. Trong văn học hiện thực phê phán, nhân vật chính
thường không phải là nhân vật chính diện. Các nhân vật nổi tiếng thường là
nhân vật phản diện, nhân vật tha hóa. Vì thế, nhân vật tha hóa xuất hiện
thường gắn liền với những tên tuổi lớn của văn học thế giới. Các nhà văn đã
cảnh báo về sự tha hóa của con người.
Marie – Henri Beyle, được biết đến với bút danh Stendhal (1783 –
1842) được coi như nhà văn chuyển tiếp giữa lãng mạn và hiện thực. Trong
tiểu thuyết của ông, các nhân vật trung tâm một mặt thể hiện những hoài vọng
về cái đẹp, sự hoàn thiện và lý tưởng về con người có ý chí muốn vượt qua
những thử thách để khẳng định mình. Mặt khác, thực tại xã hội nghiệt ngã với
những quan hệ tính toán lọc lừa đã đẩy các nhân vật của ông đi vào tha hóa
như Julien Sorrel trong Đỏ và đen
Honoré de Balzac (1799 – 1850) là nhà văn hiện thực phê phán. Tác
phẩm của ông phản ánh sự tha hóa của con người trong xã hội khi mà đồng
tiền chi phối tất cả giá trị đạo đức và các mối quan hệ xã hội. Đó là cuộc tranh
đấu thầm lặng nhưng gay gắt giữa cái thiện và cái ác, giữa cái cao cả và cái
thấp hèn diễn ra trong nội tâm của con người. Những nỗi khổ đau, những tấn
bi kịch xảy ra cho nhiều người, ở nhiều hoàn cảnh trong một xã hội mà đồng
tiền là chân lý đã đẩy con người đến bờ vực của sự tha hóa như Vautrin,

34
Anastasie và Delphine trong Lão Gôriô; Rastignac trong Bước thăng trần
của đời kĩ nữ, Miếng da lừa; Lucien Chardon trong Vỡ mộng, Bước thăng
trần của đời kĩ nữ…
Vấn đề tha hóa trong tác phẩm của Franz Kafka (1883 – 1924) lại là
một căn bệnh xã hội. Nó len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống như một
thứ thuốc độc, phá hủy bản chất và cuộc sống của con người. Con người tha
hóa đó không chỉ là sự biến đổi xấu đi về nhân tính mà nhân vật còn bị biến
dạng, lột xác, vật hóa như Gregor Xamxa trong Biến dạng .
Đó còn là sự tha hóa của Raxcônnhicốp trong Tội ác và trừng phạt của
Đôxtôiepxki; Paven Sisikôp trong Những linh hồn chết của Gôgôn;
Heathcliff trong Đỉnh gió hú của nữ văn sĩ Emili Brontë; Claude Frollo trong
Nhà thờ Đúc Bà Paris, Thénardier trong Những người khốn khổ của Victor
Huygo; Blifin trong Tôm Jôn – đứa trẻ vô thừa nhận của nhà văn Henry
Findinh, Rebecca trong Hội chợ phù hoa của William Makepeace
Thackeray…
Trong văn học Việt Nam, nhân vật tha hóa thực sự xuất hiện cùng với
trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Trong xã hội thực dân nửa
phong kiến, tình trạng con người tha hóa diễn ra khắp nơi, diễn ra ở mọi đối
tượng. Hiện thực xã hội đen tối đó được các nhà văn phản ánh đậm nét như
Ngô Tất Tố với Tắt đèn…; Nam Cao với Chí Phèo, Trẻ con không được ăn
thịt chó, Đời thừa, Mua nhà...; Nguyễn Công Hoan với Báo hiếu trả nghĩa
cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Xuất giá tòng phu, Mất cái ví, Cụ chánh bá
mất giày, Đàn bà là giống yếu, Oẳn tà roằn...; Vũ Trọng Phụng với Giông
tố, Số đỏ, Vỡ đê…; Nguyên Hồng với Bỉ vỏ…
Thời kì 1945 – 1975, do chú trọng các nhiệm vụ chính trị, lấy việc phản
ánh và động viên kịp thời cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc làm mục đích
tối thượng nên văn học chưa đi sâu vào phản ánh cuộc sống thường nhật của
con người, chưa đi sâu vào khám phá số phận và hạnh phúc cá nhân. Truyện

35
ngắn và nhất là tiểu thuyết thường hướng tới những bức tranh hiện thực hoành
tráng, trong đó, đề tài chiến đấu và lao động sản xuất của quân và dân ta nổi
lên hàng đầu. Ở đó chủ yếu là con người hiện thực, con người hành động, con
người xã hội, con người giai cấp, con người cộng đồng và con người phi
thường. Chiến tranh có quy luật riêng. Muốn vượt qua những thử thách khắc
nghiệt của chiến tranh, con người cần sống một cách thực tế, không nên quá
suy tư và đa cảm, phải giản ước mọi ham muốn, không được mơ hồ về kẻ thù,
không được phép nghĩ nhiều tới lợi ích và nguyện vọng riêng tây, và nhất là
cần huy động mọi phẩm chất cao đẹp tiềm ẩn trong bản thân mình. Đó là thực
tế có thể ngặt nghèo song không thể khác được. Chính vì thế, con người quần
chúng, con người tập thể hiện lên đôi khi thiếu cá tính và mờ nhạt về tâm lí.
Tuy nhiên, từ sau thắng lợi của mùa xuân năm 1975, đặc biệt sau đổi
mới 1986, đất nước bước vào thời kỳ mới, văn học cũng bị chi phối bởi quy
luật của thời kì mới. Số phận con người cá nhân trở thành mối quan tâm hàng
đầu của văn học vì thế con người tha hóa trong văn học được phục hưng trở
lại. Bên cạnh cái đẹp, cái anh hùng, cái cao cả, con người trong văn học giờ
đây còn có cả cái xấu xí, cái thô kệch, thấp hèn. Đó là những hiện tượng tiêu
cực, sự tồi tệ, sự tha hoá, nhếch nhác của xã hội, sự suy đồi đạo đức của con
người. Nhà văn không chỉ miêu tả khát vọng sống, hạnh phúc cá nhân, tình
yêu lứa đôi mà nhà văn còn đi sâu vào miêu tả sắc dục của con người – một
“vùng cấm địa” mà trước kia ít nhà văn dám động tới. Một số nhà văn còn đi
sâu vào khám phá thế giới thế giới tâm linh, tiềm thức, giấc mơ… của con
người. Đây là một thế giới phức tạp và đầy bí ẩn của con người, để hiểu được
con người bên trong con người. Từ đây con người được nhìn nhận một cách
trọn vẹn, đầy đủ hơn. Đặc biệt, nhà văn thực sự trăn trở về tình hình tha hóa
của con người trong cuộc sống ngày nay. Tình trạng tha hóa của con người
xuất hiện ngày càng nhiều trong trang viết của Lê Minh Khuê, Đỗ Hoàng
Diệu, Ma Văn Kháng, Dương Hướng, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thị Thu

36
Huệ, Nguyễn Huy Thiệp… và đặc biệt là con người tha hóa trong sáng tác
của Hồ Anh Thái.
Khai thác đề tài đạo đức xã hội, Hồ Anh Thái đã thể hiện bản lĩnh trong
việc dùng ngòi bút tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giữa cái tốt đối với
cái xấu, cái đạo đức với cái phi đạo đức vì sự tha hoá diễn ra mọi lúc, mọi
nơi, lúc nhanh, lúc chậm. Nó như một thứ vi trùng len lỏi một cách tinh vi vào
từng con người, làm biến đổi nhân cách con người. Hồ Anh Thái đi sâu vào
những góc khuất, góc tăm tối nhất trong tâm hồn con người để gióng lên hồi
chuông cảnh tỉnh về nhân cách con người trong xã hội hiện nay. Hồ Anh Thái
đã cùng với Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng là những nhà văn tiên phong
trong cuộc đua để cứu lấy nhân tính con người.
Viết về những nhân vật bị tha hoá, biến chất, trước hết nhà văn bắt
nguồn từ sự tự nhận thức của mình trước hiện thực cuộc sống. Cuộc sống
không chỉ có cái đẹp, cái cao cả như một thời văn chương ngợi ca mà cuộc
sống còn chứa đựng cả cái ác, cái xấu, cái sai trái. Đó là mảnh đất màu mỡ
cho sự sinh sôi nảy nở của những hiện tượng tiêu cực, sự tồi tệ, sự tha hoá, sự
suy đồi về đạo đức của con người. Ở đó có những con người bạc ác, đểu cáng,
có những con người vụ lợi, dối trá. Các nhà văn đã dùng trang viết của mình
để viết về kiểu người biến chất, đểu cáng, bạc ác ấy. Đây là kiểu nhân vật bị
thoái hóa về nhân cách, bị vấy bẩn về tâm hồn, sống độc ác và tàn nhẫn. Nó
không chỉ ngự trị trong tiềm thức mà trở thành hành động vô luân thú tính.
2.2. Một số kiểu nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái.
Người Trung Quốc xưa có quan niệm rất chí lí về con người. Con
người là trung tâm của vũ trụ. Trời – cha ở trên. Đất – mẹ ở dưới. Sinh ra con
người ở giữa. Do đó, con người hội tụ đủ mọi tinh hoa của trời đất. Con người
chỉ có thể “bản thiện” khi mới sinh ra nhưng theo thời gian, do sự tiếp xúc với
xã hội, tính thiện ấy sẽ bị chi phối, con người dần trở nên tha hóa. Để trở
thành tinh anh, con người cần phải vượt qua những thử thách của xã hội,

37
những cám dỗ của cuộc sống thường nhật. Nhà văn chính là người nhanh
nhạy nhất với vấn đề nhân cách, đạo đức của con người. Vì thế, đồng tiền và
quyền lực là môi trường làm tha hóa con người trong sáng tác của Lê Minh
Khuê; dục vọng cá nhân, lối sống chạy theo đồng tiền, thoát ly truyền thống,
phá vỡ mọi chuẩn mực đạo đức xã hội làm tha hóa con người trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp; dục vọng làm tha hóa con người trong sáng tác của
Dương Hướng… còn quyền lực, danh lợi, tiền bạc, dục vọng, mê tín, ăn chơi
sa đọa, thái độ lạnh lùng vô cảm của con người… chính là những nguyên
nhân làm tha hóa con người trong sáng tác của Hồ Anh Thái.
Ngay từ tác phẩm đầu tay, sáng tác của Hồ Anh Thái gây ấn tượng
mạnh với độc giả và giới nghiên cứu văn chương. Không phải ngẫu nhiên mà
trong Người còn đi dài với văn chương, Lê Minh Khuê khẳng định Hồ Anh
Thái “đã tìm ra trong đời sống có những bóng ma, có quỷ dữ. Và những nhân
vật ma quỷ khống chế đời sống theo quan niệm cũ, trở thành những nhân vật
của tương lai. Quả nhiên chỉ vài năm sau đời sống mất dần sự bình yên. Tâm
hồn con người bị nhiễm độc.” [78, tr. 267]. Tuy là nhà văn mới chập chững
bước vào nghề nhưng Hồ Anh Thái không dửng dưng, thờ ơ với cuộc sống.
Chính tình yêu cuộc sống và sự bất bình trước cái xấu, cái ác là cảm hứng
sáng tạo những tác phẩm chuyên chở các vấn đề quan trọng của văn học.
Hệ thống nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái khá đầy đủ
và đại diện cho các tầng lớp trong xã hội. Điều này chứng minh một điều, Hồ
Anh Thái không hề đơn giản khi nhìn nhận, khám phá và đánh giá hiện thực
cuộc sống con người. Trong Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc, Nguyễn
Đăng Điệp cũng khẳng định: “Bằng nỗ lực không mệt mỏi, anh đã tạo nên
những cái nhìn độc đáo về đời sống. Chiều sâu trong cái nhìn nghệ thuật của
Hồ Anh Thái trước hết thể hiện ở chỗ anh biết vượt qua những lối mòn tư duy
coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản để nhìn
cuộc đời như nó vốn có. Hiện thực trong thế giới nghệ thuật Hồ Anh Thái vì

38
thế, không phải là thứ hiện thực “dẹt”, “phẳng” mà góc cạnh, nhiều chiều”
[78, tr.386]. Trước cái ngổn ngang, bề bộn của hiện thực cuộc sống nhưng với
sự nhạy bén và tinh tế, đa chiều, Hồ Anh Thái đã có cái nhìn rất riêng và sâu
vào những góc khuất của đời sống và con người để nói lên tiếng lòng của
người cầm bút. Trong thế giới đó, con người rất dễ bị tha hóa, biến chất.
Những kẻ trí thức có học thì hoang dâm, những kẻ giàu có thì dối trá, bịp
bợm... Cuộc sống không đơn giản mà vô cùng phức tạp. Con người cũng rắc
rối chứ không dễ hiểu. Khám phá con người bằng cái nhìn đa diện, nhiều
chiều, xoáy sâu vào đời sống nội tâm, nhà văn đã góp được một tiếng nói
thành thật về con người. Sự tha hóa trong thế giới nhân vật của Hồ Anh Thái
biểu hiện rất đa dạng: kẻ thì mới có mầm mống, mới chớm hư hỏng, kẻ thì
hoàn toàn hư hỏng và trở thành con thú đội lốt người. Nguyên nhân của sự tha
hóa cũng rất đa dạng: kẻ thì do hoàn cảnh đưa lại, kẻ thì do bản chất, kẻ thì
thiếu giáo dục từ gia đình. Sự tha hóa của các nhân vật này có lúc công khai,
lộ liễu nhưng có lúc lại ngấm ngầm. Sự thật trong đời sống xã hội đôi lúc rất
tàn nhẫn. Nhưng tàn nhẫn đến mấy cũng phải phơi bày nó ra để cảnh tính con
người để hướng con người đến với giá trị của chân – thiện – mĩ.
Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, độc giả có thể bắt vô số những nhân
vật tha hóa. Từ người có quyền lực cao nhất đến những con người bình
thường, từ giới lãnh đạo, giới trí thức đến bọn lưu manh, côn đồ, gái điếm…
Bao nhiêu mặt phải, mặt trái của xã hội thì có bấy nhiêu hạng người được Hồ
Anh Thái đưa ra trước mắt độc giả. Trong số rất nhiều nhân vật tha hóa được
Hồ Anh Thái đưa vào tác phẩm, chúng tôi tạm thời đưa ra một số kiểu nhân
vật tha hóa được nhà văn cho trở đi trở lại trong nhiều trang viết của mình.
2.2.1. Nhân vật đam mê danh vọng, quyền lực.
Con người có khi tốt khi xấu, có khi cái tốt cái xấu lẫn lộn hoặc lấn át
nhau. Cái tốt, cái xấu đó được bộc lộ rất rõ trong quá trình thực hiện quyền
lực của con người, nhất là khi con người là chủ thể duy nhất có thể nghĩ ra

39
được các phương tiện hoặc nghĩ ra các phương pháp thực hiện các mưu đồ
quyền lực của mình. Vì thế quyền lực luôn có xu hướng bị tha hóa.
Trong hệ thống nhân vật tha hóa thì tha hóa trong giới ham quyền lực là
đáng sợ nhất. Bởi lẽ, hành động của giới quyền lực thường được che đậy bằng
một lớp đạo đức giả, không phải ai cũng có thể phát hiện được. Trong thực tế,
quyền lực đã và đang bị biến dạng, trở thành trợ thủ đắc lực cho người cầm
quyền thực hiện mưu đồ của mình.
Khuynh trong Người và xe chạy dưới ánh trăng là người đại diện cho
kiểu nhân vật tha hóa bởi tiền tài, danh vọng và gái đẹp. Khuynh điển trai,
giỏi tiếng Anh nhưng lại nhiều tham vọng. Khuynh coi vị trí công tác là mục
đích, là lẽ sống của cuộc đời mình. Lí tưởng và niềm hạnh phúc lớn nhất của
Khuynh là được thăng quan tiến chức, được “đua chen tới một địa vị không
thua kém bất cứ một người nào” [83, tr.128]. Với niềm tin chắc chắn đây đều
là con em các anh, các chị trong nội bộ ngành và đều thân thích với mình, nên
câu hỏi đầy vẻ gia trưởng từ cửa miệng của vị hiệu phó Khuynh là: “cháu con
ai?”. Câu hỏi của vị hiệu phó không khác gì một mẩu đá dăm lọt vào trong
giày khiến người đi cảm thấy khó chịu. Khuynh đã đóng một cái vai không hề
hợp với tư cách của một vị hiệu phó. Nhưng tham vọng của Khuynh thực sự
bùng lên mạnh mẽ khi anh được chuyển từ tuyến lửa ra Hà Nội công tác với
chức danh Trợ lí Bộ trưởng. Với quyền lực trong tay, Khuynh mặc sức tung
hoành, bắt người khác phục tùng mình. Mất đoàn kết nội, gây ra nhiều vụ làm
chậm trễ, thậm chí có hại cho guồng máy hoạt động của Bộ đều có bàn tay
của Khuynh. Với những mưu mô quỷ quyệt, Khuynh đã kìm hãm công việc
và tương lai của người khác. Với thủ đoạn hèn hạ, Khuynh đã cướp đi tương
lai của Toàn và dành suất đi nước ngoài học tập cho em vợ. Nhưng mỗi lần
sai trái, Khuynh lại tỏ ra như một đứa trẻ được chiều chuộng quá mức hóa
thành hư, dám lếu láo cãi lại, thậm chí là mạt sát cả thủ trưởng: “Tại sao anh
không tin tôi, mà tin vào một lũ dân đen không có “thân phận ngoại giao”?

40
Anh quên rằng trâu buộc thì ghét trâu ăn là lẽ ở đời hay sao? Thôi được, tôi
biết thân mình như cái múi chanh, anh vắt xong thì anh vứt. Với người không
có hậu như thế, tôi cũng chả cộng tác giúp việc được. Tôi sẽ xuống Vụ, xuống
Viện, nếu cần thiết tôi chuyển sang Bộ khác” [83, tr.108]. Những thủ đoạn rẻ
tiền như dối trá cùng với những lời thề thốt rằng mình trong sạch, thậm chí
bằng cả việc giận dỗi và làm mình làm mẩy như đàn bà đã nhiều lần giúp
Khuynh thành công. Nhưng thuốc dùng nhiều sẽ bị nhờn, chiến thuật cổ điển
không thể áp dụng trong đời sống hiện đại, bộ mặt dối trá nào cũng có ngày bị
phát hiện. Khi bản chất xấu xa bị đưa ra ánh sáng, mất hết chức quyền,
Khuynh như một kẻ vô hồn, mất hết ý thức. Chức vụ, phẩm hàm, tư cách của
Khuynh đã bị tước bỏ. Trong dáng đi của Khuynh ở cuối tiểu thuyết có một
sự buông tuồng không thể có ở một ông trợ lí bộ Trưởng.
Người đàn bà trên đảo là cuộc chiến căng thẳng giữa lớp người trẻ
tuổi, có năng lực và can đảm mà Hòa là đại diện với sự lười biếng, tham
nhũng của đám quan chức thủ cựu và công chức quan liêu mà ông Quản là
người đại diện. Đây là đám quan chức già cỗi, cứ muốn bám lấy ghế nhưng
lại thiếu đi phẩm chất cốt yếu của con người.
Ông Quản – phó giám đốc công ty lâm trường bộ – là người ít học, cạn
nghĩ nhưng lại thích “chứng tỏ quyền lực trước đông người, ông không hề
nguôi lòng tin rằng người khác sẽ phải khuất phục mình” [82, tr.129] chứ
mình không chịu khuất phục ai. Ông lạm dụng quyền lực, biến quyền lực
công thành ý chí cá nhân. Chỉ vì muốn trả thù đối thủ mà ông bắt cả tập thể
phải phục tùng ý đồ sai trái của mình. Với ông, niềm khao khát cháy bỏng
được làm mẹ của Luyến lại là hành vi vô đạo đức, hành vi xúc phạm luân
thường đạo lí, làm tổn thương đức hạnh. Ông hung hãn và hiếu thắng, ông
đập bàn, gào thét, quát nạt như mất hết tri giác. Ông đưa ra quyết định mà
không lường trước về hậu quả. Trong khi đó cứ nghĩ đến ngày đối thủ bị mất
chức thì ông vui mừng và hạnh phúc. Đây là thói đạo đức giả nhân danh uy

41
tín của cơ quan, của công ty mà xâm phạm đến quyền làm người của người
khác. Ông tự biến thành một kẻ độc tài chuyên quyền, độc đoán, thiếu sáng
suốt. Ông vừa là dạng tha hoá, vừa là kết quả của sự tha hoá.
Nếu ông Quản ưa chứng tỏ quyền lực thì giám đốc Luận lại cậy quyền
lực để khinh người. Là giám đốc công ty xuất khẩu, Luận thường “ăn mặc
chải chuốt, tạo dáng dấp bệ vệ” [82, tr.108] trước mọi người. Dáng vẻ chải
chuốt của Luận khiến độc giả liên tưởng đến dáng vẻ bảnh bao của Mã Giám
Sinh lúc đến mua Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Đến nơi công tác, Luận
chỉ bắt tay và làm việc với người có chức vụ cao nhất của công ty. Còn những
người khác, anh lờ đi và nhìn họ với thái độ vô cảm, lạnh lùng và anh lấy đó
làm mãn nguyện. Cái bắt tay mà Luận dành cho đối tác cũng chỉ mang tính
thủ tục của người lãnh đạo. Luận tự biến mình thành thủ trưởng lạnh lùng,
khinh bạc. Luận điển hình cho sự tha hóa về nhân cách tha hóa con người
trong việc đối nhân xử thế trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Cũng tha hóa nhưng ông Tựu trong tiểu thuyết Trong sương hồng hiện
ra lại nhỏ nhen, giả dối và hám danh. Ba mươi tám tuổi ông đã là phó giám
đốc Công ty Xây dựng Đô thị. Ông nhận thêm trọng trách không phải vì tài
năng mà vì mục đích duy nhất là được chính thức công nhận danh hiệu “Anh
hùng lao động”. Căn chung cư A1 do ông chỉ đạo xây dựng và giám sát có
dấu hiệu bị hỏng ngay từ khi chưa hoàn thành vì ông đồng ý cho xây dựng
trên một vùng đất úng. Trong thâm tâm, ông luôn phấp phỏng chờ đợi một tai
họa, đúng hơn là ông mong cho đến khi được phong tặng danh hiệu, căn
chung cư sẽ không có rắc rối gì xảy ra. Ông run lên khi nghe tòa nhà bị lún
và ngược lại, ông “cứ lặng đi trong một niềm sung sướng đê mê. Ông nhắm
mắt, hình dung ra ngày mọi cố gắng, mọi sự phấn đấu của ông sẽ đạt kết
quả” [82, tr. 337]. Hơn hai mươi năm sau, căn chung cư bị sập và Tân chính
là một trong những nạn nhân của ông. Thói hám danh vọng đã biến ông trở
thành một con người nhẫn tâm, độc ác. Ông Tựu đại diện cho những kẻ mang

42
nặng tác phong quan liêu, óc địa vị, háo danh, vị kỷ, luôn đặt lợi ích cá nhân
của mình lên trên hết.
Cũng trong tiểu thuyết này, mẹ đẻ của Yến vừa là nhà cách mạng quên
mình lại vừa là một người tiến thân cơ hội và đầy toan tính. Mọi việc làm
của chị đều thể hiện mình là một con người thủ đoạn và cơ hội. Chị làm mọi
việc đều có mục đích và đều xuất phát từ lợi ích cá nhân chứ không phải vì
ai khác cho dù đó là chồng con của mình. Sinh trưởng trong một gia đình
luật sư, chị được học hết tú tài. Chị được giác ngộ cách mạng và là người
tuyên truyền có hạng. Tùy vào từng nội dung của vấn đề mà chị chọn giọng
điệu cho phù hợp. Chị “tìm thấy trong công việc một niềm kiêu hãnh ngấm
ngầm. Được nhấm nháp niềm hạnh phúc thấy mình đứng cao hơn người
khác” [82, tr.294]. Hòa bình trở lại, chị được về Hà Nội nhận công việc ở Sở
này hay Sở kia. Nhưng với tham vọng cá nhân, chị càng có ý thức tạo cho
mình một phong cách cứng rắn và đàng hoàng không thể trộn lẫn với những
nữ cán bộ còn nói ngọng hay đôi lúc để lộ những thói quen quê mùa. Chị
khinh thường tất cả những người đàn ông không có địa vị, không có sự
nghiệp và chị chẳng bao giờ mềm mỏng trước sự ve vãn của họ. Chị muốn
chồng mình phải là người có địa vị xã hội, muốn chồng mình phải tích cực
tham gia các hoạt động xã hội. Chị nhìn chồng với thái độ thương hại như sự
thương hại của “một người thuộc đẳng cấp trên, của một người đàn bà sắc
sảo trước những đấng nam nhi vô nghĩa, không công danh sự nghiệp” [82,
tr.295] khi anh chồng say mê công việc nghiên cứu, không say sưa với tham
vọng quyền lực. Chị buộc chồng phải trở về nhà bố mẹ đẻ để ở vì chồng là
người thiếu tham vọng, tuy rằng có lúc người đàn bà trong chị đã thắng chị
và chị lại cho phép chồng vào nhà và ngủ lại trên chiếc giường vợ chồng. Sự
thèm khát địa vị, danh tiến dẫn đến sự tha hóa của chị. Tham vọng quyền lực
đã biến chị thành một người nhẫn tâm, độc ác.

43
Trong SBC là săn băt chuột, ông Cốp điển hình cho sự tha hóa do ham
mê quyền lực. Ông là người thông minh, hát hay, múa giỏi lại hoạt bát, tính
cương quyết lại có ý chí. Ông là tấm gương điển hình trong thanh niên và
được bao người ngưỡng mộ khi ông say sưa với rừng và dũng cảm bảo vệ
rừng. Nhưng gian ngoan mới là bản tính đích thực của ông. Ông leo lên các
bậc thang danh vọng từ một cán bộ Đoàn. Ông khéo léo gạt bỏ đối thủ của
mình bằng những mưu mô và thủ đoạn. Với ông, chiến thắng bao giờ cũng
thuộc về người biết giữ mồm giữ miệng. Với ông “con ếch chết vì tiếng kêu.
Nó cứ ngồi im trong hang, nó ngậm mồm lại, nó đừng kêu thì ai biết nó ở đâu
mà đến bắt. Chim khôn chim hót. Người khôn người không để lộ mình bằng
câu nói. Tuyệt đối không để lộ bằng văn bản. Văn bản có thể lưu trữ làm bằng
chứng. Quan điểm lập trường, báo cáo chỉ thị, nhất nhất đều dùng lời. Lời nói
gió bay” [84, tr.194]. Nhưng người đọc thấy thấp thoáng đằng sau cuộc ẩu đả
để giành lấy vị trí của ông Cốp là những thế lực có thể nhân danh “bảo vệ uy
tín cán bộ”, bảo vệ “đoàn kết nội bộ” để giấu đi các đơn thư tố cáo ông.
Không những vậy, ông còn táng tận lương tâm khi lạnh lùng vô cảm trước
những người dân quê đội đơn quỳ xin công lí. Điểm qua con đường tiến thân
của ông Cốp, nhà văn đã phác họa một cách trọn vẹn chân dung của một kẻ
không những đầy cơ hội, gian hùng mà còn nhẫn tâm, tàn ác.
Nhân vật Đạo sư trong tiểu thuyết Đức phật, nàng Savitri và tôi là
người đại diện cho quyền lực của vua nhưng đạo sư lại điển hình cho kẻ cơ
hội và tiến thủ. Là đạo sư, đáng lẽ ông phải là người thông kim, bác cổ, đạo
cao, đức trọng. Nhưng ngược lại, đạo sư lại là người ngang ngược, ngạo mạn,
tham lam. Khi xác lập được vị thế trong triều đình thì “ từ tinh tướng ông trở
thành cao ngạo. Từ ranh ma ông trở nên quỷ quyệt. Ông tự cho mình là người
đứng đầu đất nước. Ông ngang nhiên nhồi nhét vào đầu môn sinh và con dân
tư tưởng giáo sĩ Bà La Môn là tối thượng. Thánh cũng phải nhờ đến thầy.
Cha mẹ chẳng bằng thầy” [80, tr.162]. Trong triều đình, quyền lực của đạo sư

44
là cao nhất, cao hơn cả vua. Việc triều chính bao giờ đạo sư cũng nhúng tay
vào. Vua nói một, đạo sư nói hai. Đạo sư có thừa mưu mô, thủ đoạn để xác
lập vị trí tối cao trong vương quốc, sự tham lam, tàn ác trong hành nghề. Ông
còn lợi dụng hủ tục người vợ phải bị thiêu sống để chết theo chồng ngầm nhổ
cái gai trong mắt là công chúa Savitri. Nhưng nhân nào quả đó, kẻ gieo gió ắt
sẽ gặp bão. Sự thật bị bại lộ, tràng hạt hết thiêng, hòn đá thần saglarama là
của giả, hai báu vật rởm không thể bảo vệ được danh dự cho quốc sư. Cuối
cùng, quốc sư đã phải trả giá. Ông bị lột mất tước bậc phẩm hàm, chỉ còn một
danh xưng là đạo sư. Ông bị giáng xuống làm thường dân và phải nhận cái
chết không thanh thản. Đạo sư chính là một sản phẩm cặn bã của sự tha hoá
trong giới quyền lực được tác giả tái hiện khá sinh động.
Cô đồng Si Trong sương hồng hiện ra là người đam mê quyền lực của
trò mê tín. Tham vọng của cô là được mọi người đề cao, kính phục. Thói mê
tín của cô đồng Si được nhen nhóm từ lúc lên tám tuổi khi đi ở cho nhà cô
đồng Nhỡ. Cô bé Si đã sùng kính cô Nhỡ sau mỗi lần nhập đồng. Nó ao ước
được trở thành người như cô đồng Nhỡ với cặp mắt sáng quắc, hô hét những
lời của thánh thần. Khi được xin về nhà do hoàn cảnh gia đình khá hơn nhưng
dư âm của những cuộc lên đồng không bị dập tắt mà càng rạo rực. Thỉnh
thoảng con bé trốn cha mẹ, rủ một lũ bạn choai choai ra góc vườn rồi “vận
vào người chiếc áo dài thườn thượt của mẹ, thắt ngang bụng một tấm khăn
rách, tay cầm cái gậy tre, nó réo rắt hát những lời đã nhập tâm: A à ới à, cô
đã về đây, bây giờ cô đã về đây, cô gieo phúc lộc, cô xây lầu vàng, tình tinh
tình tính tang tình” [82, tr.278]. Ông bố vốn là kẻ vô thần, lại sống bằng nghề
tranh cướp khách và chửi bới để đòi nợ nên cô bé Si bị đánh một trận thừa
sống thiếu chết. Ông bố quyết không để trong nhà có một đứa đồng bóng như
cô đồng Nhỡ. Lớn lên, cô Si lấy một anh Vệ quốc quân và tưởng rằng thói
đồng cốt trong cô Si tan biến. Nhưng thói đời, càng kìm nén thì máu cô đồng
trong cô Si lại vẫn âm ỉ một khát vọng, cái khát vọng trong một phút được

45
hóa thân đứng cao hơn người trần mắt thịt, làm kẻ thông ngôn giữa cõi âm và
dương thế. Một lần anh chồng bắt gặp vợ mình đang quay tít trong những vũ
điệu cuồng dại như nàng Xúy Vân đã không chịu được đã đùng đùng nổi cơn
điên “giật phắt mái chèo, giáng đánh bốp vào đầu vợ giữa lúc cô ta đang nói
lời của một người đã chết” [82, tr.279]. Sau hai lần “ăn đòn” cùng việc nhà
nước đang tuyên truyền bài trừ mê tín khỏi đời sống nhân dân tưởng rằng từ
đây cô sẽ “tiệt nọc” đồng cốt. Nhưng đó chỉ là bên ngoài, cô rút vào hoạt
động bí mật. Không hoạt động một mình, cô tìm cách thu phục đám người mê
tín như cô. Cơ hội tạo dựng tiếng tăm cho mình khi chồng cô được thăng chức
và hầu như không ngó ngàng đến việc gia đình và nhất là từ khi biết Tân là
người có khả năng đoán định hậu vận. Cô cảm thấy mình sắp nắm trong tay
cơ hội để thực hiện niềm ao ước mê muội bấy lâu nay và một dự tính sinh lợi
đang khuấy động trong đầu. Với thủ đoạn mê hoặc để chiếm đoạt tài sản cô
đồng Si đã âm mưu đẩy nạn nhân Khanh đến cuộc nhịn ăn để đến cõi cực lạc
nhằm thủ tiêu nạn nhân hòng che giấu tội lỗi của mình. Quyền lực của mê tín
đã biến cô Si thành người kẻ lừa lọc, dối trá. Cô Si bị bắt trong đợt truy quét
để loại trừ thói mê tín dị đoan ra khỏi đời sống là cái giá mà cô phải trả cho
đam mê quái đản của mình.
Trong Mười lẻ một đêm, sự tha hóa của chốn quan trường cũng được
tác giả khám phá. Tác phẩm đã phanh phui những cái đang tồn tại trong cuộc
sống. Những nhân vật Víp, chính khách với chuyên môn, năng lực yếu kém
nhưng lại được đặt vào vị trí rất quan trọng. Bản thân những nhân vật này lại
rất có ý thức vươn lên không khác gì nhân vật Xuân trong tiểu thuyết Số đỏ
của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Nhân vật ông Víp là điển hình trong giới ham
mê danh vọng, quyền lực. Ông đi lên từ cán bộ Đoàn. Vì anh hăng say hoạt
động nên anh được giữ lại trường, không phải để giảng dạy vì chuyên môn
năng lực yếu mà là làm cán bộ đoàn chuyên trách. Từ đây con đường hoan lộ
của ông thẳng tắp, chưa có con đường nào hanh thông hơn thế. Một thời gian

46
sau anh được nhấc lên thành đoàn, một thời gian nữa lên trung ương đoàn rồi
chuyển sang các Bộ, anh trở thành ông Víp. Con đường sự nghiệp của anh
khiến độc giả nghi ngờ vì nơi mà ba chục năm chiến tranh từ khi có nền dân
chủ cộng hòa thì chín mươi phần trăm trí thức đều nung qua lò lửa chiến tranh
thì ông Víp không một ngày đi lính. Nơi mà chín mươi phần trăm trí thức
khởi điểm từ đại học thì ông khởi điểm từ cao đẳng. Còn các vị quan bà núp
dưới bóng những ông chồng nên cũng rất biết cách kiếm chác từ đó. Hội các
phu nhân Vụ trưởng, phu nhân Thứ trưởng, phu nhân Bộ trưởng được nhắc
đến trong truyện là một ê kíp mua quan bán tước, mua đất kiếm lời đại tài và
đầy gian ngoan. Nhưng nét nhà quê, thô lậu, kệch cỡm trong căn tính của các
mệnh phụ thì không sao thay đổi được. Việc lấy trộm cái đĩa sứ trong bữa tiệc
do đại sứ quán nước ngoài chiêu đãi thể hiện rõ nhất căn tính đó của họ. Vẻ
bề ngoài là một bà mệnh phụ nhưng bản chất thì vẫn là một con ngỗng.
Những nhân vật Cốp, Kễnh với quyền lực bị tha hóa cũng được Hồ
Anh Thái khám phá trong tác phẩm mới nhất Những đứa con rải rác trên
đường. Bên cạnh những trí thức chân chính là một bộ phận trí thức rởm là
lãnh đạo cấp cao với những tấm bằng chuyên tu, tại chức. Tuy hàm thụ
chuyên tu, tại chức nhưng họ lại nắm những “vai trò chủ chốt trong mọi lĩnh
vực, chỉ đạo xuống dưới quyền mình cả một đống tiến sĩ thạc sĩ” [87, tr.281].
Những bậc lãnh đạo này viết chính tả còn sai be bét, công trình nghiên cứu
khoa học cấp nhà nước thì chép chỗ này một tí, cóp chỗ kia một tẹo. Tất cả
thể hiện sự nhố nhăng, lai tạp. Nhưng ngược lại, họ biết quy hoạch nhau, kết
bè kết đảng với nhau rồi đưa nhau lên và đặt nhau vào những vị trí quan
trọng. Đúng là khi quyền lực còn tỏa sáng, chẳng dễ gì thấy được những
mảng tối khuất lấp phía sau ánh hào quang công danh. Chỉ khi được phanh
phui, ta mới thấy được bản chất thật của nó.
Thế gian này đầy rẫy những hạng người truy cầu danh lợi. Kẻ truy cầu
danh lợi chính là nô lệ của danh vọng và đồng tiền. Họ không thể buông bỏ

47
hay chấp nhận bất kỳ tổn thất nào ảnh hưởng tới tiền tài và danh vọng của
mình. Tâm trí họ giống như mặt nước luôn dậy sóng và khuấy tung bùn đất từ
dưới đáy lên. Khi con người bị tiền tài và danh vọng che mắt, sẽ mất đi trí tuệ
để nhận biết được bản thân mình. Lạm dụng quyền lực, biến quyền lực công
thành ý chí cá nhân để trục lợi đang là hiện tượng diễn ra phổ biến hiện nay.
Viết về thế giới nhân vật đam mê quyền lực, tác giả cho độc giả thấy sự
xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức, nhân cách trong thời hiện đại.
2.2.2. Nhân vật say sƣa dục vọng.
Dục vọng là bản tính của con người, khai thác bản năng tính dục của
con người, nhà văn có cơ hội dẫn con người đến với những căn tính nằm sâu
trong bản chất con người trong cuộc sống. Có hai phương diện để khai thác
bản năng tính dục của con người. Hoặc là dục vọng mang lại niềm khát khao
hạnh phúc của con người, là lẽ sống của con người khi yêu và được yêu cả về
thể xác lẫn tinh thần. Vì thế khoái cảm, nhục cảm, sự giao hoan giữa đàn ông
và đàn bà là sự thăng hoa của cảm xúc. Đó chính là biểu hiện của khát vọng
chính đáng, của hạnh phúc đích thực của con người. Hoặc là dục vọng hạ thấp
con người, đẩy con người đến tha hóa khi không làm chủ được dục vong thấp
hèn trong bản thân mình. Hồ Anh Thái là tác giả khai thác dục vọng của con
người ở phương diện thứ hai này. Anh đưa vào tác phẩm của mình những
nhân vật bị tha hóa bởi dục tính. Nó không còn là sự thăng hoa của cảm xúc
mà nó là sự tha hóa trong bản chất con người. Khai thác đề tài này, Hồ Anh
Thái trực tiếp chỉ ra cho độc giả thấy những nhân vật chạy theo dục tính như
một con bệnh, một con bệnh vô phương cứu chữa.
Tường trong Người đàn bà trên đảo vốn là sinh viên trường Mĩ Thuật,
học giỏi lại khéo tay nhưng do dính líu vào việc tổ chức người đi nước ngoài
trái phép mà bị đuổi học. Tường tưởng như tìm lại được niềm vui sau một
thời gian đau khổ khi anh được nhận vào làm trong trại thí nghiệm Đồi Mồi ở
đảo Cát Bạc. Nhưng cách nơi Tường làm việc một sườn núi có đội nữ sản

48
xuất số Năm. Họ đều là những người từng vào sinh ra tử trong chiến tranh.
Nay trở về, những nữ thanh niên xung phong này đã quá lứa, lỡ thì. Họ đi
theo tiếng gọi của vùng kinh tế mới, nơi mà rất thưa dân và hiếm đàn ông. Họ
tìm đến Tường như nắng hạn gặp mưa và anh cũng rất ý thức được giá trị
giống đực của mình nên tận dụng mọi cơ hội, bày ra mọi thủ đoạn để biến
mình thành người “phối giống” cho tất cả những người đàn bà Đội Năm. Nó
khác hẳn với tình yêu đầu đời đầy trong sáng giữa anh với Chi. Ở Tường, ham
muốn bản năng đã đẩy anh đến bờ vực của sự suy đồi. Anh giúp họ thỏa mãn
khát khao làm mẹ nhưng cũng giúp anh giải tỏa cơn khát khao nhục dục.
Nhưng Tường vẫn chưa phải là người mất hết nhân cách, có lúc anh vẫn
ngoảnh lại xem cái “bản lai diện mục” của chính mình. Anh biết tự thẹn với
mình, tự thấy con người mình trở nên xấu xa, ê chề, thấy đạo đức của mình cứ
bị mài mỏng đi trong những cuộc tình lén lút. Nhưng dục vọng trong Tường
vẫn tồn tại bởi Tường vẫn còn luyến tiếc nó, chưa dứt khoát đoạn tuyệt được
với nó. Đọc tiểu thuyết này, độc giả có thể liên tưởng đến tác phẩm Họ đã trở
thành đàn ông của nhà văn Phạm Ngọc Tiến. Trong truyện, cô thanh niên
hỏa tuyến một thời xuân sắc, bị chiến tranh tàn khốc cướp đi tuổi trẻ. Cô
thương mình và thương những người lính đi vào chiến trận, chấp nhận sự hi
sinh cho lí tưởng độc lập tự do của tổ quốc. Với mong ước mang lại một chút
niềm vui, chia sẻ sự hi sinh cho đồng đội, cô đã đêm trái tim mình sưởi ấm
cho những chàng trai mà cô gặp trong cánh rừng mù mịt bom đạn và họ kịp
trở thành đàn ông trước khi họ ngã xuống. Còn cô thì thầm lặng chịu đựng
mọi lời dị nghị.
Đất nước Ấn Độ là nơi sản sinh ra cuốn Dục lạc kinh – một cuốn sách
viết về tình dục của con người. Và tình dục cũng là một nét văn hóa của dân
tộc này. Nhưng không vì thế mà nhân vật trong Đức phật, nàng Savitri và tôi
không phải là tha hóa do đam mê dục vọng. Vị tiểu vương sáu mươi tuổi,
chồng của công chúa Savitri có lòng dục vọng vô độ. Vị tiểu vương này sẵn

49
sàng bỏ các buổi thiết triều chỉ để thỏa mãn dục vọng đang đốt cháy thân thể.
Sự ham muốn dục vọng quá mức khiến vị tiểu vương phải trả giá. Ông không
thể đi đứng như người bình thường. Mỗi lần vị tiểu vương thiết triều “phải có
hai người xốc nách. Ông ngồi xuống là dính bết vào ngai vàng. Ông vung
quyền trượng lên theo nhịp câu lệnh thì chỉ có cây quyền trượng vung lên, còn
tay ông đã tuột ra khỏi quyền trượng, rơi trở xuống. Ông cất tiếng sang sảng
thì từng tiếng đứt đoạn văng ra trong hơi thở khò khè. Ông chống tay đứng
lên thì toàn bộ xương cốt rít lên kèn kẹt. Khô dầu. Hoàn toàn khô dầu ở các
đầu khớp tay khớp chân" [80, tr.128]. Dục lạc khiến ông ngày càng khô héo
cho nên vị tiểu vương phải nằm thiết triều vì không thể ngồi được nữa. Ngay
cả khi sắp gần đất xa trời, những cuộc hoan lạc bất tận vẫn không ngừng cắn
rứt và để lại trong ông những nuối tiếc vì đời còn bao nhiêu lạc thú và ông
muốn hưởng đến vô cùng tận. Cuối cùng, nhà vua đã băng hà trong một trận
mây mưa. Rõ ràng sự đam mê vượt ngưỡng đã đẩy vị tiểu vương đến chỗ tha
hóa, dục vọng thấp hèn đã đẩy đức vua vào một vòng xoáy của sự suy đồi.
Công chúa Savitri là một hình tượng độc đáo với cá tính mạnh mẽ luôn
muốn đạp tung bản chất phản động và suy đồi của đạo Bà La Môn nhưng
nàng cũng là hiện thân của sự ham muốn nhục dục. Ham muốn dục vọng của
công chúa Savitri được cụ thể hóa qua ham muốn xác thịt. Nhưng kiến thức
trong Dục lạc kinh đã trang bị cho công chúa đầy đủ kiến thức gối chăn, biến
cô thành kẻ chỉ biết chạy theo dục lạc:“Nào là rắn. Nào là ngựa. Nào là voi
là hươu, thậm chí là kiểu của ong đất. Những là naga, hadavaka, hastika,
harina, bhamara. Chúng ta quấn vào nhau triền miên không có điểm dừng”
[80, tr.118]; “Những là thắt nút. Những là chơi đu. Những là khuấy sữa.
Những là giã gạo. Là những bandhura, prenkha, dadhyataka, mausala” [80,
tr.119]. Trên hành trình sáu mươi năm đeo đuổi bóng hình Đức Phật, tham
vọng chiếm đoạt thân xác Phật ở Savitri không ngừng nghỉ. Và trong hành
trình đó, Savitri còn có vô số những cuộc tình chóng vánh để thỏa nỗi khát

50
khao nhục dục. Dục vọng trong Savitri không thể nào kìm nén và dừng lại
khiến nàng sống vội vàng, tham lam, gấp gáp, hưởng thụ. Thậm chí cho đến
già, nàng vẫn chỉ đuổi theo khoái lạc thân xác. Công chúa không còn thánh
thiện, trắng trong mà thay vào đó là một con người với dục vọng thấp hèn.
Dục vọng đã nhấn chìm đức hạnh của công chúa xuống hố sâu của sự suy đồi.
Đạo đức của công chúa bị vấy bẩn, nhân cách của công chúa bị xuống cấp,
phẩm chất của công chúa bị sa đọa. Cuối cùng, nàng vẫn chẳng có gì. Các bạn
tình lần lượt rời bỏ nàng ra đi, kẻ thì chết vì sắc dục quá độ, người thì trở
thành khất sĩ trong giáo đoàn của Đức Phật. Đến cuối đời, Savitri phải sống
trong cô đơn: “Lần lượt từng người đàn ông đến rồi đi. Đi hết. Rồi người đàn
bà duy nhất cũng bỏ đi nốt, khép trọn một cuộc đời cô độc”[80, tr.396].
Savitri của ngày hôm nay phải gánh chịu cái nghiệp của tiền kiếp. Chính hạt
nhân dục vọng mà Savitri tạo ra ở kiếp trước đã biến thành quả ở kiếp sau:
Savitri trở thành Nữ Thần Đồng Trinh. Mà Nữ Thần Đồng Trinh giải nghệ rồi
sẽ chẳng lấy được chồng, không ai dám cưới nàng vì các chàng trai đều sợ sẽ
chết bất đắc kỳ tử. Sự trừng phạt còn nâng lên mức kinh khủng hơn vì Savitri
không thể gần gũi những người đàn ông mình yêu thương. Trong phòng the,
Savitri cứ ì ra, lạnh đi, không đáp ứng, rồi bỗng bật cười không sao cưỡng
nổi: “Cười khanh khách. Cười lanh lảnh. Cười mãi đến phát ho. Sặc sụa. Như
ma cười”[80, tr. 282]. Tiếng cười như dội nước lạnh vào dục vọng cháy đùng
đùng của đám đàn ông.
Cô trưởng công an huyện trong SBC là săn băt chuột cũng đam mê
xác thịt một cách bừa bãi. Gần bốn mươi tuổi nhưng chưa chồng con nhưng
thấy hơi đàn ông thì cô như con hổ đói. Thuở còn hàn vi, Đại gia chính là nạn
nhân của cô trưởng công an này. Vì cứu chị khỏi tội buôn thuốc phiện mà Đại
gia phải chịu cơn bạo hành về tình dục của cô trưởng công an “Chị của em tội
nặng lắm em biết không? Gã chỉ còn biết vâng. Cô quật ngã gã như tội phạm.
Cô lục soát khắp người gã như tìm thuốc phiện. Cô khóa chân khóa tay gã

51
như bắt cướp. Tội chết chứ chẳng chơi. Vâng. Vâng, chị thương cho. Thương
gì, Ngón tay cô như vuốt hổ vuốt khắp cơ thể gã trai. Vuốt đi. Vuốt lại. Nhiều
ngày sau còn đỏ rát” [84, tr.117]. Cô săn đàn ông như hổ săn mồi cho nên đàn
ông nghe thấy cô thì sợ mất mật. Để rồi thằng con trai ra đời không biết bố
mình là ai. Ở nhân vật cô công an, mọi nghiêm khắc về pháp lí, lí tưởng về
đạo đức nghề nghiệp, chuẩn mục về tư cách đều bị gạt sang một bên, cán cân
công lí đều trở nên vô giá trị. Với cô, mọi lí lẽ, bằng chứng có thể được thay
thế bằng dục vọng thấp hèn.
Còn cô nhà báo trong tiểu thuyết cùng tên lại thích hẹn hò làm thơ trên
giường và trong chăn gối với suốt lượt các nhà ghép vần, ghép câu. Cũng như
nhân vật bà mẹ, cô nhà báo “gặp ai cũng rủ lên giường làm thơ” [84, tr.22].
Bản năng tính dục của cô nhà báo có vẻ hồn nhiên, hoang dại của một con cái
không bị xã hội người ràng buộc. Giữa một đám đàn ông có chủ trương “bông
hoa này là của chung” [84, tr.21] cho tất cả khiến người đọc thấy xót xa, lo
lắng cho một con bé mãi không trưởng thành dù cho cô có thể bước sang tuổi
làm cô làm bác.
Cũng trong tiểu thuyết này, Đại Gia khởi đầu là một người đói rách
nhưng nhờ buôn lậu và kinh doanh đất cát với ông Cốp mà trở thành đại gia.
Khi đã có điều kiện, Đại Gia bắt đầu làm từ thiện như xây trường cấp ba cho
xã, đầu tư xây bệnh viện cho huyện, xây nhà tình thương… tiếng thơm đồn
mãi. Nhưng thói đời, thừa tiền, thừa của lại rất dễ sa ngã, hư hỏng. Có tiền,
Đại Gia tìm cách thỏa mãn dục vọng của mình theo đúng kiểu đại gia. Đại
Gia mua tình bằng tiền và trả rất hào phóng theo đúng kiểu của con buôn.
Ngay lần đầu gặp gái Đại Gia đã “không thể nào cầm lòng đợi đến lần gặp
thứ hai. Ngay lần đầu. Gái nào cũng giằn ra ngay” [84, tr.129]. Đại Gia còn
lập kế hoạch tỉ mỉ cho tình nhân của mình. Chính vì thế mà các nhân tình của
ông sống cùng khu chung cư với nhau mà không cô nào biết cô nào. Trong
các tình nhân của Đại Gia có một cô rất đặc biệt. Đại Gia gặp cô khi cô còn là

52
học sinh tự nguyện đi thu nhặt bơm kim tiêm để tránh tai họa cho làng. Cảm
cái ơn cho ăn học, cô tự nguyện trở thành gái bao của Đại Gia. Đồng tiền và
dục vọng đã làm Đại gia đánh mất tính người, đánh mất giá trị của bản thân.
Trong Mƣời lẻ một đêm, vị giáo sư đáng kính tuy đã bảy mươi tuổi ta
nhưng vẫn không bỏ được cái dâm của mình. Móm mém rồi mà vẫn ham cầm
tay học trò nữ. Gọi học viên nữ đến nhà hướng dẫn luận văn mà tay cứ đặt lên
đùi em. Với thầy, văn chương cũng như chân tay bao giờ cũng phải lấy chữ
“nuột” làm đầu. Trong khi đó ai cũng biết văn thơ của thầy vừa đọc vừa phải
bịt mũi. Học viên xin phép về rồi mà vẫn không về được vì “nãy giờ thầy cho
em về mà tay thầy vẫn giữ đùi em” [88, tr.93]. Hành động của giáo sư Khỏa
bộc lộ rõ cái dâm của nhân vật. Ông đánh mất khả năng phân biệt đúng sai,
phải trái và vi phạm các chuẩn mực đạo đức mà không thấy bận lòng, vướng
tâm, không thấy lương tâm cắn rứt.
Ông Kễnh trong Những đức con rải rác trên đường ngoài việc là một
người quyền lực, ông cũng là một người mê gái tột độ. Ông ăn nằm với đầy
đủ kiểu người, hạng người từ cô giao liên, cô quân lương, cô xích líp, cô công
trường, cô trà nước, đến cô người mẫu, cô ca sĩ, cô giáo, cô tiến sĩ… và ngay
cả vợ của sếp. Từ lúc bắt đầu cuộc đời một anh lính trơn cho đến trở thành
ông Kễnh và biến mất khi làm thất thoát cả nghìn tỉ đồng, ông đã kịp có ba
mươi hai đứa con.
Trong số những nhân vật ham mê dục vọng thì bà mẹ trong Mười lẻ
một đêm mới là mẫu hình cho loại người ham hố nhục dục vô độ. Cái dâm
của bà mẹ được kéo dài trên trang sách, lệch chuẩn hoàn toàn với mẫu người
phụ nữa trong văn học truyền thống. Những cuộc phiêu lưu tình ái của bà có
thể viết được cả thiên tiểu thuyết. Phương châm sống của bà là chơi xuân kẻo
hết xuân đi. Đấy là phương châm sống của người đàn bà lấy chồng không biết
mệt này. Cho nên, dù đã năm mươi tám tuổi nhưng bà lại có trái tim của một
thiếu nữ và “thỏa mãn một người đàn ông chắc chắn là năng khiếu bẩm sinh

53
duy nhất của cô nàng. Nàng bao giờ cũng muốn biến cuộc sống của mình
thành bữa đại tiệc lạc thú triền miên” [88, tr.60]. Hễ thấy trai là bà liếc mắt
đưa tình rồi tìm cách tấn công, quyến rũ các chàng trai khiến họ không kịp đề
phòng mà lao vào những cuộc phiêu lưu tình ái.. Cái dâm của bà ta được thể
hiện qua lời nói: “Thôi về làm gì, ở lại đây mà ngủ cho vui” [88, tr.72]. Câu
nói đó được bà mẹ lặp đi lặp lại như câu nói của cụ Cố Hồng: “Biết rồi, khổ
lắm, nói mãi” trong tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Bà mẹ
như con thiêu thân lao vào tình trường mênh mông vô tận. Hành động dâm
đãng của bà được thực hiện với bất kì ai và ở bất cứ đâu. Đối với bà, tình dục
như chiếc chìa khóa để bà đến với những bữa đại tiệc lạc thú triền miên. Bà
có thể hành động trong phòng thư viện, trên bàn làm việc, dưới gầm bàn, bên
bể bơi, thậm chí ngay trước mặt con gái. Ham muốn tình dục vượt ngưỡng
khiến người mẹ trẻ này sẵn sàng gạt sang bên cái gọi là phẩm hạnh thiêng
liêng đối với một phụ nữ bình thường, đó là chăm lo, gìn giữ hình ảnh của
mình trong mắt của con cái. Bà không cần giấu giếm khi để cho đứa con gái
của mình phải “chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ” [88, tr.63].
Khi còn bé, nhiều khi đêm đông gió rét con bé phải cùng mẹ đi tìm người tình
cho bà. Năm lần lấy chồng và vô vàn cuộc tình khác đều diễn ra trước cặp mắt
ngây thơ, trong sáng của đứa con gái và đứa con gái đã “nhiều lần phải chứng
kiến bất đắc dĩ. Có khi nửa đêm tỉnh dậy nó còn nghe hai người lớn rên rỉ
như đau bụng dưới gầm bàn” [88, tr.66]. Bà đánh mất phẩm chất cốt yếu của
một phụ nữ truyền thống. Ở bà, mọi phẩm chất, đạo lí, đức hạnh đều không
còn giá trị. Bà không còn biết trọng liêm sỉ, không biết đến danh dự.
Cổ nhân có câu: “Tâm vi hình sở luy”, một người ham muốn càng nhiều
thì áp lực càng nặng nề hơn. Ôm giữ càng nhiều dục vọng thì càng bị ràng
buộc chặt. Khi đã rơi vào vực thẳm dục vọng thì con người không thể thoát ra
được. Dục vọng sẽ ăn mòn ý chí, làm tha hóa lương tri và hậu quả là biến
chúng ta thành nô lệ. Trên thực tế, có nhiều người đã hủy hoại sức khỏe, uy

54
tín và nhân cách của bản thân chỉ vì ham muốn, say sưa với dục vọng thấp
hèn. Khi tâm chứa đầy lợi ích và dục vọng cá nhân thì con người không thể có
một nhân cách tốt hay ý chí mạnh mẽ. Không biết cách kiềm chế dục vọng
của mình thì cả cuộc đời sẽ chỉ là một quá trình liên tục theo đuổi dục vọng.
Khai thác phương diện dục vọng, Hồ Anh Thái cho thấy sự xuống cấp của
đạo đức con người. Dục vọng đã hạ thấp con người, đẩy con người xa dần bến
bờ lương thiện, mất dần nhân tính.
2.2.3. Nhân vật tham lam của cải, vật chất.
Sống trong một xã hội mà thước đo giá trị đạo đức được tính bằng đồng
tiền thì sự băng hoại đạo đức của con người ngày càng lớn. Với sự nhạy bén
của một cây bút, Hồ Anh Thái đã phanh phui, lật tẩy bản tính tham lam của
con người khi chạy theo những giá trị vật chất vì tham lam cũng là căn tính
“thâm căn cố đế” của con người. Tham lam dễ khiến con người đánh mất lòng
thiện, con người trở nên tàn nhẫn và lạnh lùng.
Diệu trong Người và xe chạy dưới ánh trăng có chồng là trợ lí Bộ
trưởng, tiền không thiếu nhưng chị ta luôn là kẻ tham lam. Kẻ tham lam bao
giờ cũng đầy mưu ma trước quỷ còn cái thiện lại thường ngây thơ và cả tin.
Thói tham lam của Diệu thể hiện trong dùng lời lẽ ngon ngọt, cùng với đó là
lợi dụng lòng tốt và sự ngây thơ để âm mưu chiếm đoạt nửa căn phòng đã
mượn của Mỵ. Không những vậy, Diệu còn tham mua hàng rẻ, hàng ế, hàng
kém chất lượng để dùng. Cô ta thoăn thoắt chọn mua chanh héo, mua rau già
nói là để gội đầu và nuôi gà nhưng thật ra là để tống vào mồm chồng con. Nó
trái ngược hẳn với kiểu cách ăn mặc, phương tiện sang trọng và những ngón
tay móng son của nàng. Thói tham lam đã biến phu nhân của ông trợ lí Bộ
trưởng trở thành kẻ lừa lọc, dối trá, mất hết nhân cách, đạo đức và danh dự.
Ông Quách Tiến Đặng là giám đốc Công ty Lương thực Tháng Mười
trong tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo, lại lấy danh nghĩa là giám đốc mà tư
lợi cá nhân. Ông hai lần kí lệnh xuất hàng chục tấn gạo không đúng nguyên

55
tắc để bỏ vào túi riêng. Khi bị phát hiện, ông tìm cách dụ dỗ, mua chuộc rồi
diễn trò đạo đức giả để vu oan rồi thuê người thủ tiêu nhân chứng hòng che
đậy sự phạm pháp của mình. Vì tham lam mà giám đốc đánh mất nhân tính,
trở thành kẻ dối trá, độc ác, tàn nhẫn. Bị truy tố và tù tội là cái giá mà vị giám
đốc phải trả cho tội lỗi của mình.
Nhân vật bà mẹ trong Mười lẻ một đêm không chỉ ham hố nhục dục vô
độ, bà mẹ này còn là người tham lam của cải không khác gì thói dâm đãng.
Sự tham lam của bà mẹ không kém gì sự đòi hỏi của nhục dục: “Năm lần lấy
chồng, năm lần li dị, mỗi lần li dị được một cái nhà. Chồng đầu tiên được một
cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đôi căn phòng hai mươi sáu mét
vuông. Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được chín mét
vuông phố cổ. Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư
chất lượng cao” [88, tr.62]. Sự tham lam của bà mẹ khiến cô con gái phải thốt
lên: “Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được” [90, tr.68]. Nếu
nhục dục làm nhân cách, phẩm chất đạo đức của bà suy đồi thì tham lam của
cải biến nhân vật bà mẹ trở thành kẻ cơ hội, thực dụng.
Nhân vật Thế trong Cõi người rung chuông tận thế từng là cán bộ cao
cấp thời chiến nhưng khi xã hội chuyển sang nền kinh tế thị trường, sẵn có
tiền, Thế từ bỏ con đường chính trị và lao vào làm ăn bằng cách xây dựng
khách sạn và nhất quyết làm giàu. Từ đây, Thế thể hiện sự khôn ngoan lọc lõi
của một con cáo già trong việc làm ăn. Anh biết thao túng những thế lực có
máu mặt, có chức sắc, vì thế trong kinh doanh, anh có một mạng lưới hậu
thuẫn vô cùng vững chắc từ các vị phu nhân, những chính khách. Là một nhà
kinh doanh nên anh có cái đầu luôn tỉnh táo, khôn ngoan, nắm bắt được cơ
chế và sắp đặt mọi thứ theo ý cả mình. Vì thế “trong mọi tình huống nước sôi,
lửa bỏng. Thế luôn là người lạnh, bình tĩnh, sáng suốt. Đường đi nước bước,
cắt đặt công việc gọn. Xử sự đẹp” [78, tr. 29]. Cách hành xử của anh Thế

56
đúng là kiểu hành xử của một đại gia có máu mặt. Thế là kiểu nhân vật tha
hóa của con người trong cuộc sống hiện đại.
Đạo sư trong “Đức Phật, nàng Savitri và tôi”, là người có thừa mưu
mô, thủ đoạn để xác lập vị trí tối cao và có đầy đủ sự tham lam, tàn ác trong
hành nghề. Là quốc sư triều đình, ông ta không từ bỏ một cơ hội nào để bày
vẽ tế lễ vì tế lễ là dịp Đạo sư vơ vét tài sản của đất nước và con dân. Của cải
trong các cuộc tế lễ được Đạo sư đem về để “xây dựng một dinh thự nguy nga
ở gần hoàng cung(…). Thu nhập từ thuế má và những lễ tế tốn kém làm tăng
đàn gia súc của ông. Bò cừu dê của nhà ông ngốn sạch những cánh đồng cỏ
gần kinh thành” [80, tr.163]. Tham lam đã biến Đạo sư thành kẻ độc ác, tàn
nhẫn, thành kẻ táng tận lương tâm.
Anh chàng họa sĩ trong truyện ngắn Trại cá sấu (tập truyện Bốn lối
vào nhà cười) không chỉ có biệt tài biến tất cả những người đàn bà từng lên
giường với chàng thành họa sĩ cho dù trước đó họ là cô bán phở, cô kế toán,
cô y tá, cô ô sin mà anh còn rất biết cách kiếm tiền từ hội họa, biết làm cách
nào để khách hàng “móc hầu bao” mua tranh của anh. Tranh của những kẻ bất
tài nhân danh họa sĩ thì có thể được sản xuất theo dây chuyền và đem lại lợi
nhuận tức thì vì nó bắt mắt, dễ nhìn và nó là sự giao duyên của sự sắp đặt và
biểu diễn, trong khi đó tranh của những người thực tài thì úp vào tường chờ
sự phán xét của công chúng và thời gian. Với những gì được chứng kiến, độc
giả có thể thấy sự nhếch nhác, nhố nhăng của cái gọi là hội họa. Thứ hội họa
đó đã bị pha tạp bởi lối sống cơ hội, thực dụng, bị rẻ rúng bởi đồng tiền.
Tham lam tiền bạc và của cải nhất có lẽ phải kể đến nhân vật luật sư
trong SBC là săn bắt chuột. Anh không những là một kẻ đê tiện mà còn là
một kẻ khát tiền, thèm tiền và tham tiền đến bệnh hoạn. Anh chính là môn đệ
trung thành của đồng tiền. Anh không thích học thức, không mê công danh,
suốt đời anh chỉ mê hình ảnh Bác Hồ trên đồng tiền và mê gương mặt lãnh tụ,
gương mặt danh nhân nước Mỹ trên nền hoa văn đẹp như tiên trên nền đồng

57
đô la xanh. Anh thích tiền mới, thỉnh thoảng anh đóng cửa ngồi đếm tiền,
nghe loạt soạt vui tai. Anh “đếm chậm rãi. Đếm nhẩn nha. Đếm nhấm nháp
khoái cảm những đồng tiền chạy soàn soạt qua những ngón tay” [84, tr.251].
Thói tham tiền khiến anh nhẫn tâm đòi mẹ bằng hết khi mọi người đến thăm
mẹ nằm viện. Tiền mọi người mừng tuổi mẹ, mừng tuổi con anh cũng lột
không thiếu một xu. Lí do đơn giản là tất cả họ đều phải nhờ anh chứ họ
không quen biết gì bà nên tất cả phải là của anh. Người mẹ không thể trách
được người con nhẫn tâm vì anh thừa hưởng cái “gien” thích tiền từ bản thân
bà. Chính bà đã dạy anh thói tham lam tiền bạc ngay từ khi anh còn bé vì với
bà đời không cho không ai cái gì bao giờ. Cũng vì tiền mà anh lừa mẹ kí vào
tờ khai nhận huy hiệu năm mươi năn tuổi Đảng để lấy nhà rồi bán cho Đại
Gia. Vì tiền mà luật sư quên hết tình mẫu tử và bán mình cho qủy dữ. Vì tiền
mà mẹ con xâu xé lẫn nhau, tình cảm mẹ con bị vứt bỏ không thương tiếc.
Điều này chỉ có ở những con vật hoang dã. Với trái tim chưa từng dùng đến,
Luật Sư là bức chân dung biếm họa sâu sắc về sự táng tận lương tâm của con
người. Cõi người đã tận thế khi tình mẫu tử thiêng liêng được thay bằng công
nghệ làm giàu một cách có văn hóa.
Cổ nhân dạy rằng: “Người tham lam sẽ muốn ngày càng nhiều, giống
như con rắn muốn nuốt lấy cả con voi”. Con người nếu không biết bằng lòng
thì sẽ không bao giờ cảm thấy đủ kể cả khi đã có một tài sản khổng lồ. Của
cải thì hữu hạn, nhưng ham muốn giàu có của con người lại là vô hạn. Như
vậy lòng tham của con người như giếng sâu không đáy. Lòng tham khiến con
người bán rẻ lương tâm, mất dần nhân tính, mất lòng thiện và trở nên tha hóa.
Sức mạnh của của cải vật chất khiến con người ngày càng tàn nhẫn, lạnh lùng
và đang từng ngày giết chết con người.
2.2.4. Nhân vật sống sa đọa.
Hiện nay chúng ta đang phải chứng kiến một sự thực vô cùng nhức
nhối trong xã hội, đó là lối sống sa đoạ, buông thả, đi ngược lại với đạo đức

58
truyền thống của dân tộc. Hoà vào dòng chảy cuộc sống thời hiện đại, Hồ Anh
Thái đã bắt gặp hàng ngày những thói hư tật xấu, trái với thuần phong mỹ tục,
đạo đức của dân tộc. Tâm hồn con người giờ đây chỉ còn là những bóng ma,
quỷ dữ. Nó làm cho tâm hồn con người bị nhiễm độc. Nhà văn cũng truy tìm
trong cơ chế thị trường những nguyên nhân làm nảy sinh sự tha hóa trong đạo
đức lối sống của con người và của cả xã hội.
Trong sáng tác của mình, Hồ Anh Thái đã dựng lên một loạt những bức
chân dung nhân vật tha hóa do lối sống sa đọa. Đây là một trong những vấn
đề ít được đề cập đến trong văn học hiện nay. Một trong số đó là những nhân
vật mang danh trí thức.
Thường thì người trí thức là người có kiến thức, có đức cao, đạo trọng,
có lí tưởng và được coi là lương tri của thời đại. Họ là những người chân
chính, ngay thẳng, trọng danh dự, không tư lợi cá nhân, sống thanh cao và
luôn băn khoăn về thời thế. Họ chính là mẫu hình lí tưởng để người đời noi
theo. Giờ đây, người trí thức không còn được coi là người trong sạch, không
nhận được nhiều sự trọng vọng như trước. Người trí thức không còn là người
chỉ biết đọc sách thâu đêm, mà thay vào đó những vụ lợi, ích kỉ của bản thân
và ngoài xã hội khiến họ đang dần tha hóa.
Người trí thức đi vào trang văn từ thời kì văn học Trung đại nhưng phải
đến giai đoạn 1930 – 1945 thì người trí thức mới được khai thác nhiều trong
văn học, đặc biệt là trong sáng tác của Nam Cao… Nhưng sau năm 1945, do
hoàn cảnh lịch sử nên đề tài người trí thức bị thay thế bằng đề tài khác cần
thiết hơn. Đến đầu những năm 80 – 90 của thế kỉ XX, người trí thức đã trở lại
trong văn học với một diện mạo và tầm vóc mới. Người trí thức trong giai
đoạn này được xoáy sâu vào những bi kịch tinh thần trầm trọng và quy mô
hơn cả Sống mòn của Nam Cao. Nhà văn Ma Văn Kháng đã từng cay đắng
mà thốt lên rằng chưa có thời buổi nào trí thức lưu manh hóa nhiều như thời

59
nay. Còn Nguyễn Huy Thiệp thì phát biểu: “Quân trí thức bây giờ toàn
phường phàm phu tục tử” [61, tr. 45].
Nhân vật trí thức tha hóa trong sáng tác của Lê Minh Khuê là do quá
trình “nếm trải” hoàn cảnh mang tính thử thách, họ không thể hoặc chưa thể
vượt qua nên bị tha hóa. Người trí thức trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp,
thay vì định hướng cho xã hội, họ lại trở thành những người bất lực, yếm thế,
thậm chí, có trường hợp còn trở nên lưu manh. Trong sáng tác của Nguyễn
Đình Tú, tầng lớp trí thức chỉ thích phô diễn sex, phô diễn một lối sống vô
luân bệnh hoạn… Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, người trí thức tha hóa
trong vòng xoáy của cuộc đời, của xã hội.
Theo thang nấc thang giá trị, giáo sư là người đức độ, phẩm chất thanh
cao, như cây tùng cây bách, tầm hiểu biết sâu rộng. Nhưng trong tiểu thuyết,
SBC là săn bắt chuột, giáo sư lại là người vô đạo đức. Phát ngôn của giáo sư
sặc mùi háo danh, rỗng tuếch. Bức chân dung biếm họa của giáo sư đã lột tả
tận cùng sự đảo lộn mọi giá trị đạo đức. Giáo sư là người thích gió trời thông
thoáng, hoang dâm vô độ và không bỏ lỡ cơ hội nào để “lên giường” với các
cô gái. Họ có thể là sinh viên, là học viên cao học, là những nữ tiến sĩ hoặc là
người phụ nữ nơi vườn hoang mà giáo sư gặp. Bà vợ ghê tởm ông vì “hễ có
nữ sinh nào đến nhà là đều kết thúc trên chiếc giường hướng dẫn luận văn
của ông” [84, tr.283]. Giáo sư tự biến mình thành kẻ sa đọa, thành kẻ bị ghê
tởm. Cuối cùng giáo sư chết vì căn bệnh thế kỉ – si đa – do quan hệ tình dục
vô độ với hàng trăm phụ nữ.
Trong Mười lẻ một đêm, giáo sư Xí là một nhà văn hóa lớn, có khả
năng dùng tiếng Anh để giảng dạy nhưng giáo sư lại đi ngược lại với các
chuẩn mực văn hóa. Giáo sư thích “tè” bậy một cách đều đặn ngày hai lần vào
chân tượng đài công nông binh – một công trình văn hóa. Khi “tè” xong thì
giáo sư lấy làm khoan khoái và thỏa mãm. Giáo sư cũng không phải là đại
biểu của một hội nghị quốc tế nhưng ông vẫn đọc tham luận quá thời gian cho

60
phép, khiến ban tổ chức rơi vào tình thế khó xử. Ông ăn uống trong bữa tiệc
chiêu đãi như một anh mõ trong truyện Tư cách mõ của nhà văn Nam Cao.
Giáo sư đã tự biến mình thành trò bỉ ổi và lố bịch trong mắt người đọc. Đó
chính là sự tha hóa, biến chất của giới lao động trí thức.
Nhân vật luật sư trong SBC là săn bắt chuột là điển hình của sự tha
hóa trong giới luật sư. Trong cuộc sống, Luật sư có sở thích vô cùng kì quặc
và quái đản vì anh đặc biệt có ấn tượng với những đám tang. Hễ nghe nói đi
đám tang ai là lòng bỗng rạo rực hẳn lên. Ai rủ đi sinh nhật bạn bè hay đi đám
cưới cũng không bao giờ hào hứng đến thế. Ấy thế mà nghe nói có người chết
anh trở nên linh hoạt, năng động, tâm lý phấn chấn hẳn lên vì anh ta được
xem: “Người chết sẽ mặc gì. Sẽ tô son màu gì. Tím tươi hay tím trầm. Phấn
trắng đánh nhạt hay đánh dày, đánh dày thì mặt trắng lốp như tráng nước
gạo. Quan tài đỏ hay quan tài trắng. Hay quan tài đánh véc ni đen hoa văn
hay mạ vàng” [84, tr.239,240]. Sở thích quái đản này của luật sư ngay từ khi
còn bé, thích đến nỗi luật sư có thể trảm tất cả những con búp bê để làm đám
ma thổi kèn mồm rồi đem chôn. Luật sư chơi với những đám tang búp bê với
trạng thái tâm lý dạt dào hưng phấn. Đây là một kiểu tha hóa rất mới tạo nên
bức tranh biếm họa về nhân vật.
Họa sĩ chuối hột trong Mười lẻ một đêm là bức chân dung tha hóa
trong giới họa sĩ. Họa sĩ với “bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn tám mùa cởi
mở” [88, tr.19]. Ai anh cũng “cởi mở” xong là chán. Thời trang yêu thích nhất
của họa sĩ là “bộ cánh lúc lọt lòng” [88, tr.19]. Họa sĩ chuối hột có sở thích là
khỏa thân bất lúc nào và bất cứ ở đâu. Thuở còn bé, cứ học về tụt hết quần áo
rồi nhông nhông khắp nhà, nơi mà bà mẹ vẫn thắp hương niệm phật. Thích
nhông nhông ngoài đường, khỏa thân ở trường, khỏa thân ở bãi tắm, biến bãi
tắm thành nơi khỏa thân tập thể. Lớn lên, sở thích này vẫn không thay đổi.
Anh thích khỏa thân tập Yoga khi mà cửa nhà anh mở thông thống ra ngoài.
Sở thích của anh được tác giả phóng to đến cực đại khi anh “chống đầu xuống

61
đất hai chân dốc thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy, trắng lôm lốp như
thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở giữa lưng chừng trời” [88, tr.22].
Đây là sở thích có tính chất quái đản của họa sĩ.
Trong Cõi người rung chuông tận thế, độc giả bắt gặp cuộc sống sa
đọa của những thanh niên thời mở cửa, sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo
đức và nhân cách của lớp thanh niên với những âm mưu dục tính, những cuộc
trả thù, những cuộc ăn chơi sa đọa, những cuộc chơi bời trác táng của Cốc,
Phũ, Bóp và một phần của nhân vật Đông. Bộ ba Cố, Bóp, Phũ sống trong ốc
đảo của những đứa trẻ dư thừa tiền bạc nhưng không có gốc dễ của tri thức
khiến độc giả thấy hết sự độc ác của con người.
Nhân vật được tác giả nhìn thẳng vào đó là Cốc. Cốc có khuôn mặt của
một siêu sao điện ảnh nhưng thật ra lại là một con quỷ đội lốt người. Với
khuôn mặt ang ác, lạnh lùng và thói nhổ bọt vô tội vạ cùng với cái liếc xéo
của số phận mà Cốc trở thành diễn viên điện ảnh. Khi trở thành một diễn viên
có tiếng tăm, Cốc đã khiến hai đứa con gái cùng lớp phải đi nạo thai. Trong
lần diễn với số 12, Cốc đưa ra lời đề nghị một cách khiếm nhã, trắng trợn và
đầy tục tĩu: “Đêm nay em đừng về khách sạn, về nhà anh mà ngủ. Khiếp, nói
năng trắng trợn thế? Vậy phải nói thế đéo nào?” [78, tr.12]. Lời mời mọc
theo kiểu xã hội đen của Cốc khiến số 12 kinh hồn. Nàng không ngờ một siêu
sao điện ảnh, thanh lịch, cao quý đang được mọi người ngưỡng mộ lại phát
ngôn sặc mùi thô lỗ như thế. Hành động của Cốc với số 12 còn khủng khiếp
hơn, khiến nàng dựng tóc gáy vì “đột ngột cô ta thấy bàn tay Cốc đang nắm
tay mình nhẹ nhàng luồn váo đó một lưỡi dao cạo lành lạnh. Mày có muốn
tao rạch bộ đồ tắm này, một đường sau lưng, một đường đằng trước” [78,
tr.13]. Và dù phải chống cự nhưng số 12 không thể thoát khỏi con mắt săn
mồi của Cốc, vì đó là giọng nói của một kẻ dám giết người chứ không chỉ
rạch áo tắm. Đó là bản chất lạnh lùng đến mức tàn nhẫn của Cốc.

62
Còn Phũ, ngay từ lúc mới sinh Phũ đã không thèm cất tiếng khóc. Lớn
lên nó sẵn sàng hùng hổ chiếm đoạt các cô gái. Khi đi tham dự hội hè cùng
chú Đông, Phũ không để ý đến hội hè mà chủ yếu đi là để “bóp ngực, nắn eo”
những cô gái trong lúc các cô gái đang mắc kẹt giữa đám đông. Trong chín
năm làm đàn ông, với cuộc sống phóng đãng của mình, Phũ đã sưu tập được
101 chiếc quần lót của phụ nữ với đủ màu sắc: “Màu xanh thiên lý là cái đầu
tiên biến Phũ thành đàn ông. Màu nâu có một bộ ngực đồ sộ. Mầu hồng thì
vừa kéo Phũ vào vừa muốn đẩy nó ra. Màu da người thì làm nó đắm chìm
suốt một đêm trắng u mê đến mức không nhớ nổi bao nhiêu lần” [78, tr.77].
Mới hai mươi tư tuổi nhưng Phũ đã sống đủ cuộc đời của một trăm linh một
thằng đàn ông chung tình.
Với Cốc, Phũ, tác giả cho thấy sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức
và nhân cách con người. Đó là lối sống ích kỉ, cá nhân, hưởng lạc, sống bất
cần đời, không mục đích, không lí tưởng, sống buông thả theo dục vọng thú
tính ngày càng xa rời con người. Họ sẵn sàng lao vào những trò chơi vô bổ,
thú vui bệnh hoạn mà không hề tiếc tính mạng của mình. Họ phủ nhận đạo
đức truyền thống, coi thường dư luận dẫn đến hậu quả là sự sa ngã, tuột dốc
của chính bản thân. Những ham muốn bản năng, lối sống thực dụng đã làm
băng hoại giá trị đạo đức con người. Con người đang dần bị tha hóa và đang
dần trở thành loài thú lớn nhất. Đó cũng là lối sống của không ít con người
hiện nay.
Cõi người rung chuông tận thế còn là đời sống của ngư dân của một
bãi biển du lịch được tác giả lật tẩy ở góc nhìn đau đớn. Người đọc xót
thương cho những thân phận nhỏ bé không đủ sức chống chọi với sức mạnh
của đồng tiền. Đồng tiền đã đẩy con người tới lối sống sa đọa. Ban ngày họ là
những người lương thiện làm ăn nhưng khi màn đêm buông xuống họ lại làm
nghề buôn hương bán phấn: “Thực ra thì hương cũng chẳng có, phấn cũng
chẳng có. Phần nhiều là mùi mắm muối dân chài thất thu một vụ cá, mùi mồ

63
hôi gay gắt đồng quê hạn hán, thậm chí có cả mùi sữa vú em hoi hoi con ơi
con ở lại nhà. Tất cả đều được vụng về át đi bằng một thứ nước hoa rẻ tiền
đồng hạng” [78, tr.15]. Chính cái nghèo khổ đã làm cho một bộ phận không
nhỏ con người rơi vào tình trạng tha hoá. Hình ảnh những người đàn bà làm
nghề “bán trôn nuôi miệng” vừa là nạn nhân vừa là tội nhân của một môi
trường xã hội bị tha hóa.
Nhân vật Juhi trong tiểu thuyết Đức phật, nàng Savitri và tôi cũng
điển hình của sự sa đọa về dục tính. Juhi suốt đời chìm đắm trong mê cung
dục lạc. Nàng quan hệ tình dục với vô số những công tử, với hầu khắp những
chàng trai con nhà quyền quý, nhất là quan hệ tình dục với Yasa. Juhi tham
gia một cách tích cực trò chơi trốn tìm với các chàng trai mà phần thưởng cho
người thắng cuộc chính là bữa tiệc tình dục trên thân thể mình. Trong số các
chàng trai này thì phần lớn đều không sa lạ gì với Juhi vì Juhi “đã vào cuộc
mây mưa với hầu hết trong số họ từ lâu” [80, tr.207]. Dục vọng biến Juhi
thành kẻ sa đọa, mất hết nhân cách.
Nàng Yên Thanh – hoa hậu trường Hàng Hải – trong tiểu thuyết Cõi
người rung chuông tận thế là điển hình cho sự sa đọa. Không chịu học hành,
Yên Thanh chỉ lao vào những cuộc chơi bời trác táng. Ở Yên Thanh, mọi
chuẩn mực trong truyền thống đạo đức của con người đang bị chà đạp và méo
mó. Đạo đức của Yên Thanh đang xuống cấp. Lối sống của Yên Thanh đang
sa đọa. Nhân cách của Yên Thanh đang tha hóa. Yên Thanh là một con quỷ
đội lốt người không hơn không kém. Bề ngoài Yên Thanh có một gương mặt
đức mẹ đồng trinh không thể nào bắt bụi trần tục. Nhưng cũng với vẻ đẹp đó
nàng đã “chiến đấu cùng lúc với ba gã con trai trần trụi mà vẫn thừa ra hai
gã” [78, tr.110]. Vẻ đẹp của Yên Thanh chỉ là cái vỏ bề ngoài, còn chứa đựng
bên trong là một lối sống bệnh hoạn. Sau này, khi đã ở cùng Đông, cô nàng
vẫn không từ bỏ được thói nghiện đàn ông. Nàng vẫn nuôi trai trong ngôi nhà
của Đông khi chàng vẫn lênh đênh trên biển. Đông hiểu “Yên Thanh không

64
thể sống nổi một tháng mà không có đàn ông” [78, tr.116]. Qua nhân vật Yên
Thanh, tác giả cho thấy sự xuống cấp về đạo đức, nhân cách, phẩm chất của
con người. Lối sống bệnh hoạn đã đẩy con người đến sự suy đồi tầm trọng.
Hồ Anh Thái đau xót trước chuẩn mực đạo đức xã hội đang mất đi. Bên
cạnh nguy cơ gây biến dạng nhân cách con người, làm cho con người tha hóa,
tác giả không quên nhắc tới những chuẩn mực trong truyền thống đạo đức
đang bị dày xéo và trở nên méo mó. Rõ ràng, khi con người không làm chủ
được mình, không chế ngự được bản năng của mình, để cho bản năng tung
hoành thì con người chỉ là một con thú không hơn không kém.
2.2.5. Nhân vật sống nhẫn tâm, độc ác.
Với ý thức viết về cái ác cũng là một sự thức tỉnh nhân tính, Hồ Anh
Thái đã nhìn thẳng vào “những điều trông thấy” để nói lên tiếng lòng của một
nhà văn. Qua đó báo động khẩn thiết về sự gia tăng cái ác đang xuất hiện ở
khắp nơi. Đưa bản tính độc ác, tàn nhẫn của con người lên trang văn, nhà văn
đã khắc vào tâm trí độc giả về sự khô kiệt nhân tính của con người trong xã
hội hiện nay.
Trong “Người và xe chạy dưới ánh trăng” đó là sự độc ác của
Khuynh. Anh không những là một cán bộ tha hóa mà anh còn là một người
chồng vô lương tâm, vô trách nhiệm. Thời thanh niên, Khuynh là người lãng
mạn, thích ôm đàn đi hát “Thiên thai”, “Suối mơ” và tán tỉnh các cô gái. Anh
thường chú ý đến những “cô gái ngon lành như trái hồng chín” [83, tr.122],
sẵn sàng “ngứa nọc châm hoa rồi chạy làng” [83, tr.138]. Con người lạnh
lùng, nhẫn tâm, độc ác, thiếu tình người của Khuynh được tác giả đẩy lên
trong mối quan hệ với người vợ cũ. Suốt những năm tháng vào trong tuyến
lửa, Khuynh không một lần nhớ đến vợ con. Thậm chí khi có người hỏi,
Khuynh cũng không nhớ đứa con gái năm nay bao nhiêu tuổi. Khi biết tin vợ
con chết trong một trận bom, mọi người an ủi, chia buồn, nhưng thực ra họ đã
nhầm. Sự thật tàn nhẫn được tác giả phơi ra trần trụi: “Anh Chín tưởng

65
Khuynh đau đớn về vợ con? Không đâu, khi đơn vị chuyển đi, Khuynh cảm
thấy như trút được gánh nặng, và đã để vợ con ở lại. Cũng là trong suốt mấy
năm ở tuyến lửa, Khuynh ít nghĩ tới họ” [83, tr.129]. Khi từ tuyến lửa trở về,
nghe tin vợ con bị bom chết, Khuynh vẫn dửng dưng vì cái chết của vợ con đã
giải thoát cho anh những day dứt, bất an về vợ con vì anh đâu có yêu người
đàn bà kia. Không ai hiểu được Khuynh ngoại trừ bà mẹ, bà biết: “Con bà nếu
làm chồng làm cha sẽ là một người chồng người cha dửng dưng, lạnh lẽo.
Nếu là một người yêu sẽ là một người yêu ích kỷ, không bao giờ yêu hết mình,
ngoại trừ nỗi đam mê xác thịt cuồng bạo” [83, tr.131]. Khuynh sống ích kỉ và
trống rỗng tình người. Hơn ai hết, anh là người nhận ra điều đó. Cái ác trong
người Khuynh đang sưng tấy như một khối u ác tính.
Sau những mất mất của cuộc sống khi bị vợ thứ hai hành hạ, bị con
khinh bạc, bị mất công việc, Khuynh ấm ức, hận đời và tìm cách báo thù.
Khuynh càng trở nên lạnh lùng tàn nhẫn đáng sợ. Khuynh muốn huỷ diệt
những mầm mống gây ra nỗi đau cho cuộc sống của mình. Khuynh đã bắn
chết con chim sáo, con chim sâm cầm khi tưởng tượng đến người vợ ghê gớm
của mình là một hành động mất tính người. Thế nhưng, báo thù được rồi, bắn
được con chim, Khuynh không cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm. Có lẽ bao
nhiêu năm Khuynh đã bắn nhầm mục tiêu, đã giết oan những sinh vật vô tội.
Cái chết của con chim chứng minh sự tê liệt bản tính người, sự độc ác trong
con người Khuynh. Những giọt nước mắt của anh ở cuối truyện không khác
gì những giọt nước mắt của nhân vật ông “cậu” trong truyện Nước mắt đàn
ông của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ. Cả hai đều bất lực trước gia đình,
trước người vợ đanh ác và người con hư hỏng.
Trong truyện còn là sự độc ác của Diệu, người vợ thứ hai của Khuynh.
Ngay từ bé Diệu đã theo bon trẻ con trong phố vào bến xe bán nước. Nó sẵn
sàng làm cẩu thả, làm bố láo để bán cho khách hay sẵn sàng rằn mặt đứa nào
dám tranh cướp khách với mình. Lớn lên, thói chua ngoa, đanh đá, độc địa

66
của Diệu lặn vào trong, hóa thành thói độc địa thâm trầm khiến người đời khó
phát hiện, đôi khi người ta nhầm tưởng con bé nết na, dịu dàng. Diệu ý thức
được sự thua kém của mình về hình thức với bạn bè nên Diệu ghét cay ghét
đắng những anh chàng đẹp mã. Ghét nhưng lại thầm yêu. Ý thức được sự thua
thiệt đã biến thành nỗi hận thù, thành ý chí để Diệu dựng lên một lớp kịch mà
trong đó mình vừa là đạo diễn vừa là diễn viên chính. Với thủ đoạn thô sơ
nhưng với những giọt nước mắt cay đắng đã trở thành một thứ vũ khí hữu
hiệu đánh lừa được Khuynh – một kẻ lão luyện tình ái, một tay bợm già, một
kẻ dạn dày yêu đương. Những lời đối thoại với Khuynh không phải của một
đứa trẻ mà là của một kể đầy mưu mô, toan tính, xảo quyệt là lời nói của một
người đàn bà quái nhân, sẵn sàng làm mọi chuyện khuynh đảo. Suốt mười
tám năm chung sống với nhau, Diệu đầu độc chồng bằng những cơn ghen có
chu kì, lại hay ghen bóng ghen gió. Mỗi lần như vậy, Diệu lại hành hạ chồng
bằng những móng vuốt vằn ngang vằn dọc trên lưng, trên ngực chồng. Những
vằn ngang, vằn dọc mà Diệu để lại trở thành tác phẩm hội họa có một không
hai trên lưng và ngực Khuynh. Khuynh căm phẫn bỏ đến nhà người bạn thì
mấy ngày sau Diệu lại tìm đến và xoen xoét: “em nhỡ mồm, chỉ hơi nặng lời
một chút, anh ấy bỏ đi ngay. Đàn ông mà tự ái với một việc cỏn con. Thế nào,
hết giận em rồi chứ, ra đèo em về nào” [83, tr.144] rồi khoác tay chồng ra
khỏi nhà bạn như một cặp vợ chồng hạnh phúc. Những lời nói của Diệu khiến
những người xung quanh nhầm tưởng rằng đây là một gia đình hòa thuận và
cô ta là một người vợ hiền lành, nhân hậu. Nhưng khi vừa về đến nhà “Diệu
lập tức đóng cửa lại. Một trận mưa móng tay kèm theo những tiếng rít qua kẽ
răng tái diễn” [83, tr.144]. Những vết cào cấu trên lưng chồng chính là tác
phẩm hội họa tuyệt vời mà Diệu vẽ lên tấm lưng khốn khổ của Khuynh sau
cơn cảm hứng nghệ thuật hết mình của Diệu. Nhưng đối với con, Diệu lại
luông chiều quá mức, không những bắt chồng đi xin cho con không phải đi bộ
đội mà ngay cả con phạm tội thuê người rạch mặt nhân tình của chồng, Diệu

67
cũng đồng tình: “Sa ơi, thế là con đã giúp mẹ, đã trả thù cho mẹ” [83,
tr.256]. Diệu tìm đủ mọi cách cho con lấn trốn khỏi sự truy bắt của công
an. Nuôi dạy con không đúng cách, chính là liều thuốc độc giết con và giết
chính bản thân mình.
Khác với cung cách chiều con vô bờ bến của Diệu, nhân vật Tường
trong cùng tiểu thuyết lại là một người cha độc ác. Tường tự cho mình cái
quyền được dùng vũ lực để giáo dục con cái. Con anh rất sợ những hành động
dã man của anh. Cứ nhắc đến ông bố là nó vô cùng sợ hãi vì mỗi lần đánh
con, Tường đều lấy dao ra dọa chặt chân, chặt tay con. Lợi nói với em nó
rằng: “ông này ác lắm, mình có mọc được chân tay, cũng không đủ cho ông
ấy chặt đâu” [83, tr.94]. Mỗi lần nhắc đến Tường, thằng Đức cháu anh luôn
hằn chứa một vết nhức và hình dung ra bộ mặt dữ tợn của bác Tường và nó sợ
“vì thái độ giông bão, vì tiếng gầm thét của bác Tường” [83, tr.95]. Những
trận đòn mà bác Tường dành cho anh Lợi đã gieo vào lòng Đức một cảm xúc
u ám. Tâm hồn trong sáng của Đức đã bị che nặng bởi những trận đòn kinh
khủng mà anh Lợi phải gánh chịu.
Người đàn bà trên đảo là câu chuyện về đội nữ sản xuất số Năm trên
đảo Cát Bạc. Những cô gái trên đảo không có chồng đã là một sự mất mát, bất
hạnh lớn lao cho những người có thiên chức làm mẹ. Nhưng người có chồng
như Thắm thì có kém gì sự bất hạnh của những người không có chồng. Không
có chồng thì khổ nhục, nhưng có chồng mà không có con lại càng khổ nhục, ê
chề hơn. Chồng Thắm, có dáng người vừa lùn vừa lẻo khẻo, yếu bóng vía,
ngay từ nhỏ đã ốm đau quặt quẹo, tiêu tan mất khí lực của người đàn ông chỉ
cần sả vào mặt là đã quay cuồng đầu óc dứng không vững. Bản thân Thắm đã
chịu khổ nhục như vậy nhưng mẹ chồng Thắm lại là người vô lương tâm. Bà
không những không thông cảm cho người con dâu chịu bao nhiêu thiệt thòi,
trái lại bà lại rất cay nghiệt. Sau một thời gian lấy chồng, Thắm không có hiện
tượng gì của thai nghén hay có con, bà mẹ chồng biến mình thành một người

68
mẹ chồng cay nghiệt. Ban đầu bà chỉ ấm ức, bực bõ, chì chiết con dâu: “Cây
không trái, gái không con là giống điếc mù điếc tịt, là quân ăn hại đái nát”
[82, tr.21]. Bà rêu rao trong lâm trường bộ có bao nhiêu cô gái muốn lấy con
bà, thế mà con bà lại đâm đầu lấy cái thứ diều tha quạ mổ về làm vợ. Sau hai
năm, bà chửi vỗ mặt cô con dâu một cách thậm tệ và độc ác: “từ dạo rước cái
con điếc đặc ấy về nhà phải mua mấy cái cóng nước giải rồi. Nó chỉ đái vỡ
cóng, chứ có đẻ nổi đâu” [82, tr.159]. Không chỉ chửi để cho con dâu nghe
thấy mà đi đâu bà cũng chỉ nói chuyện ấy. Bà còn độc ác khi trắng trợn bảo
con trai bỏ vợ để lấy một cô vợ khác giống tốt, cứ dẫn về ở trong ngôi nhà
này. Nếu không được thì gửi một đứa con. Bà còn nhắm sẵn cho con bà một
cô gái khác. Những lời nói của mẹ chồng sắc nhọn như những mũi kim găm
vào đầu cô, đâm nhức nhối trong lòng cô con dâu. Cô con dâu bị o ép, bị dồn
tới tận cùng của sự tuyệt vọng. Chính mẹ chồng đã đẩy cô con dâu đến những
ý nghĩ dại dột hoặc là đâm đầu xuống sườn Tây tự tử hoặc là phải chứng minh
cho mẹ chồng thấy mình có khả năng mang thai, có khả năng sinh nở và làm
mẹ. Không chỉ bà mẹ nhẫn tâm, độc ác mà bà còn đẩy cô con dâu vốn hiền
lành vào vòng xoáy tội lỗi khi trốn nhà, trốn chồng ra sườn Tây gặp Tường để
chứng minh mình có khả năng làm mẹ.
Trong sương hồng hiện ra là sự độc ác của anh chồng mang tên Tạ.
Với mã cao lớn và đầy vẻ trí thức nhưng cả đời chưa đọc hết một cuốn sách,
Tạ đã lừa và lấy được Hồng. Khi lấy nhau xong, mã bề ngoài của anh chồng
tan biến. Thay vào đó là anh chồng không nghề nghiệp lại say mê đánh bạc,
đánh đề và be bét rượu chè và “có lần Tạ thua đề, anh phải gán trả ti-vi, tủ
lạnh, phải trèo lên mái nhà, dỡ hết ngói để bán. Vợ chồng con cái chui rúc
vào trái nhà chỉ chừng sáu mét vuông, bên cạnh một nền nhà đá hoa trống
hoác” [82, tr.284,285]. Không những vậy, anh còn thường xuyên đánh đập,
hành hạ vợ. Có hôm “chị vừa hét lên, thì anh ta giật phăng cái ghế băng, làm
hai ông khách uống nước ngã dúi vào góc quán, rồi ném cái ghế vào chân chị

69
đang bỏ chạy. Chân bị gãy, chị phải bó bột, nằm liệt hơn một tháng trời” [82,
tr.285]. Không chịu được người chồng vũ phu, vô nhân tính, chị toan thắt cổ
tự tử. Anh chồng cắt dây cứu vợ bằng chính con dao đã chém vợ sượt qua vai.
Hành động dã man, vô nhân tính của anh đối với vợ và những bi kịch gia đình
đau lòng sau những vụ bạo hành ấy là hồi chuông cảnh tỉnh mà tác giả gửi
gắm trong tác phẩm.
Mẹ của Yến trong tác phẩm cùng tên lại là kiểu tha hóa khi đối xử vô
tâm, tàn nhẫn và lạnh lùng với chồng con. Chị cố tạo dựng cho mình một
phong cách cố định, một chuẩn mực bất biến, một đường hướng duy nhất, rồi
kiên quyết không đi chệch. Chị sẵn sàng li thân với chồng vì chồng là người
thiếu tham vọng. Đối với con, chị bắt chúng phải vào khuôn khổ do chị sắp
đặt. Lên năm tuổi, chị bắt con gái phải ngủ riêng trên một chiếc giường cá
nhân, mặc dù con bé vô cùng sợ bóng đêm “con bé thút thít, biết mẹ đang ở
không xa nó, nhưng không dám gào khóc vì sợ mẹ hơn cả sợ bóng đêm” [82,
tr.297]. Lớn lên, con gái đem lòng yêu Đô, chị cũng tìm đủ mọi cách để ngăn
chặn tình yêu đó. Nếu chị không sắp đặt gọn gàng việc của con gái thì nó sẽ là
tấm gương cho hai thằng em tung rào, phá lưới, thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng
của chị. Chị “muốn được hưởng niềm vui thấy mình là người sắp đặt đường
hướng cho mọi người” [82, tr.294]. Đối với thằng Hải, con trai út, chị cũng có
quan điểm giáo dục cứng nhắc. Nó bị cảm, nhờ mẹ xin cô giáo cho nghỉ học.
Chị sờ chán con, cho uống thuốc rồi cho ăn phở nóng toát mồ hôi. Thằng bé
đang hỉ hửng vì được ăn ngon thì mẹ nó đã nghiêm khắc cho nó vào khuôn
khổ: “Bây giờ thì con tự tới trường” [82, tr.297]. Sau niềm vui ngắn ngủi,
thằng bé lại tủi thân quay trở về lấy sách vở đi học vì mẹ không thông cảm
cho mình. Với chị, như thế con cái sẽ cứng rắn hơn, biết chế ngự chỗ mền yếu
của bản thân.
Hoàng tử Ahimsaka (nghĩa là không sát sinh, không bạo lực) trong tiểu
thuyết Đức phật, nàng Savitri và tôi là người trí tuệ, thông thái. Chỉ vì lòng

70
đố kỵ của đám bạn học, sự không công tâm của thầy dạy, sự khước từ của
người cha và gia đình, thái độ ruồng rẫy của người yêu là nguyên nhân đẩy
Ahimsaka vào biển thù hận và ngày càng xa cách loài người. Và Ahimsaka
không thể vượt qua hoàn cảnh của bản thân mặc dù yêu thương và hận thù có
khi chỉ cách nhau trong gang tấc. Ahimsaka trở thành tên sát thủ kinh hoàng
Anguli Mala. Tướng cướp Anguli Mala chuyên giết người cướp của khét
tiếng ở Kosala. Mỗi lần cướp của, Ahimsaka đều giết hết không chừa một ai
sống sót, rồi chặt ngón tay út của nạn nhân để xâu thành vòng cổ. Những xác
chết được dọn dẹp bởi bầy chim kền kền làm bạn của anh. Người ta gọi anh là
Anguli Mala vì Mala là tràng hạt, Anguli là ngón tay út và Anguli Mala là kẻ
sát nhân có cái tràng hạt làm bằng một nghìn lẻ một ngón tay út.
Luật sư trong SBC là săn bắt chuột là người táng tận lương tâm khi lừa
mẹ kí vào tờ khai nhận huy hiệu năm mươi năn tuổi Đảng để lấy nhà rồi bán
cho Đại Gia. Anh ta mong mẹ chết không khác gì nhân vật Đoài mong bố
chết để bớt đi gắng nặng, để không phải chăm lo khi ông ốm đau trong Không
có vua của Nguyễn Huy Thiệp. Luật sư nhẫn tâm chà đạp mẹ già đến chết rồi
làm cho mẹ một đám tang thật to, rồi vẽ chân dung, làm thơ nhớ mẹ. Đây là
một bức biếm họa mà Hồ Anh Thái đã vẽ về đám tang mẹ của Luật Sư: “Đám
ma to thật là to, ò e í e ò. Cán sự sáu bằng gỗ loại tốt. Com lê đỏ phủ vải điều
thêu chim công. Đội kèn thuê từ Sài Gòn ra. Mẹ già như chuối chín cây. Bọn
hàng xóm xuyên tạc bài hát. Mẹ già như chuối chín cây. Gió lay mẹ rụng lăn
quay ra vườn” [84, tr.260]. Anh làm cho mẹ một đám tang hoành tráng nhưng
đó lại là một đám tang không niềm thương xót. Nếu Vũ Trọng Phụng cho
thấy cái chết của cụ cố Hồng mang lại niềm hân hoan cho người thân và
những người đưa tiễn thì cái chết của bà mẹ mang lại niềm vui lớn cho luật
sư. Cái chết của bà đã hóa giải được mọi xung đột giữa hai người vốn tồn tại
từ lâu. Với trái tim vô cảm, lạnh lùng, luật sư là một chân dung biếm họa sâu
sắc về sự tán tận lương tâm con người.

71
Nhẫn tâm và độc ác nhất phải kể đến nhân vật Bóp trong Cõi người
rung chuông tận thế Bóp có sở thích bóp cổ các con vật để tìm khoái cảm
cho mình. Nó không thèm giằng co, vật lộn lôi thôi với con vật, Bóp “siết
chặt hai bàn tay quanh cổ con khỉ. Nấc ằng ặc. Giãy đành đạch. Lưỡi thè lè
sùi bọt. Thằng Bóp trừng trừng nhìn con vật trong cơn giãy chết. Tay vẫn siết
mạnh. Đầu con vật ngật sang một bên cũng là lúc thằng Bóp bỗng rung giật
toàn thân. Cặp mắt Bóp bỗng chuyển sang lờ đờ khoái cảm” [78, tr.46]. Khi
đã xong công việc, Bóp như sung sướng nhận ra một kẻ thù đã chết, như hả
hê vì đã trả được hận. Với những kẻ mà phần bản năng thú tính lấn át phần
nhân tính thì khả năng gây ra cái ác càng có nguy cơ thành hiện thực.
Như vậy, bản chất lạnh nhạt, độc ác, tàn nhẫn của một số người là một
phần trong cuộc sống của chúng ta. Viết về sự nhẫn tâm, độc ác của con
người, Hồ Anh Thái cảnh tỉnh về sự khô kiệt nhân tính của con người trong
cuộc sống hiện đại.
2.2.6. Nhân vật biến dạng.
Một trong những vấn đề được văn xuôi Việt Nam sau đổi mới 1986
quan tâm là tình trạng cô đơn của con người. Nó nằm trong mạch cảm hứng
khám phá số phận con người của mỗi nhà văn. Từ góc độ khoa học nhân văn,
cô đơn là một trạng thái đáng thương của con người, đồng thời cũng là ý thức
đặc biệt về giá trị của mỗi cá nhân. Với cảm quan hậu hiện đại, Hồ Anh Thái
cũng quan tâm đến con người cô đơn.
Cái cô đơn mà Nguyễn Huy Thiệp nói đến chủ yếu là cái cô đơn bản
thể luận. Cái cô đơn của Phan Thị Vàng Anh là cô đơn vì không có điểm tựa
tinh thần. Đối với họ cuộc sống lúc nào cũng đơn điệu, buồn chán, nhạt nhẽo.
Cái cô đơn của Phạm Thị Hoài nói đến là cái cô đơn gắn liền với ấn tượng về
một thế giới khủng hoảng, con người tha hoá, vong bản, mất khả năng giao
tiếp. Ở đó khuôn mặt riêng của mỗi người bị xoá nhoà, đó là những con người

72
không có mặt. Còn cái cô đơn trong sáng tác của Hồ Anh Thái gắn với nhân
vật “biến dạng” vì biến dạng được coi là biểu trưng của tha hóa.
Trên thế giới, nhân vật biến dạng từng xuất hiện trong văn học. Nhân
vật chào hàng Grêgor Xamxa biến thành con côn trùng khổng lồ trong Biến
dạng của Franz Kafka, hay cả thành phố biến thành tê giác trong vở kịch phi
lí Tê giác của nhà văn Pháp gốc Rumani là Eugène Ionesco.
Trong văn học Việt Nam, việc xây dựng nhân vật biến dạng chưa phổ
biến. Ta mới chỉ bắt gặp kiểu nhân vật biến dạng trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu trong Phiên chợ Giát, nhưng với hình thức khác, đó là lão Khúng
mơ thấy mình biến thành con bò Khoang Đen.
Nếu trong văn học dân gian, nhân vật biến hoá chủ yếu do sự tác động
của phép màu bên ngoài thì trong sáng tác của Hồ Anh Thái, sự biến dạng của
nhân vật lại bắt nguồn từ những nguyên nhân nội tại của chính bản thân nhân
vật. Cho nên nhân vật biến dạng của anh thường cô đơn giữa cuộc đời và cô
đơn với chính mình.
Mười lẻ một đêm là sự biến dạng của nhân vật người cá, con trai riêng
của ông Víp. Sở dĩ nó có tên là người cá là bởi vì ngay từ lúc nó được sinh ra
đã bị tật nguyền “đôi chân của nó dính làm một từ trên xuống đến tận mắt cá.
Chỉ có hai bàn chân là tách rời. Hai chân mà là một” [88, tr. 293,294]. Ông
bố thì choáng váng, bà mẹ kinh hãi đã bỏ đi biệt tăm. Nó chỉ còn lại hai người
thân trên đời: bố và mẹ kế. Nhưng ông bố lại bị cuốn theo bởi những cuộc
ngoại giao của bậc Cốp, Víp còn mẹ kế lại bị xoáy vào cuộc tình của “mười lẻ
một đêm”, người ta quên rằng nó vẫn đang sống và nó hoàn toàn bị bỏ rơi.
Cuộc sống của người cá chỉ gói gọn trong bốn bức tường nên người cá nhân
vật cô đơn. Người cá bị bỏ quên và cô đơn ở chính ngôi nhà của mình. Làm
bạn và hiểu được nó có lẽ chỉ có con chó của người hàng xóm. Đó là cái cô
đơn, xa lạ của con người ngay trong đời sống thường nhật. Cảm giác cô đơn
của con người về thế giới còn được tác giả đẩy lên một mức cao hơn, đó là cô

73
đơn với chính mình. Cô đơn quá nên nó cố bò ra ngoài và rơi xuống bể bơi.
Người cá chết vì gặp nước, chết trong sự cô đơn và vô tình của người đời.
Nhưng đó vẫn chưa phải là bi kịch, mà bi kịch lớn nhất của người cá là ở chỗ:
thể xác một nửa là vật nhưng tinh thần của người cá vẫn còn là người, đó mới
là bi kịch thảm khốc của người cá. Sự bi đát không phải vì người cá là một
con vật. Cái bi đát của người cá là vì người cá không phải hoàn toàn là con
vật mà cũng không phải hoàn toàn là con người. Người cá ở chính giữa nửa
người nửa vật và không biết mình thuộc về đâu.
Truyện ngắn Món tái dê (tập truyện Mảnh vỡ của đàn ông) là sự kiện
giám đốc Diên biến thành dê khi đang xem phim khiêu dâm. Ông nghiêm
nghị, răn đe mọi người không nên xem những bộ phim khêu gợi nhưng bản
thân ông lại thích “loại phim cởi mở, có gì thì cởi hết ra, mở hết ra. Trải đời
rồi, vững vàng rồi, có xem loại phim cởi mở cũng chẳng hư được” [81,
tr.301]. Một lần đến nhà cấp dưới của mình để xem phim khiêu dâm, giám
đốc bỗng biến thành một con dê và phải sống cô đơn trong chuồng lợn bỏ
không ở sau nhà cấp dưới. Người vợ giám đốc nhận ra chồng mình không khó
khăn gì vì hơn hai chục năm chung sống, bà luôn nhìn thấy ông ấy như bây
giờ, như trong cái chuồng lợn này và ông ta luôn là “một con dê dạn dĩ, không
biết sợ người với chòm râu quằm quặp” [81. tr.308]. Từ nhân vật giám đốc
biến thành dê, Hồ Anh Thái cho thấy sự đồi trụy, sự thoái hóa biến chất của
một bộ phận giới lãnh đạo.
Trong Vẫn tin vào chuyện thần tiên (tập truyện Tự sự 265 ngày) là
chuyện “biến dạng” của anh chàng Khoa. Anh sang Mĩ thực tập sáu tháng và
một buổi sáng thức dậy, anh hoảng hốt khi thấy mình biến thành người Mĩ,
cũng mắt xanh mũi lõ như Tây. Chính tình huống dở khóc dở cười này khiến
anh phải cô đơn ngay giữa một gia đình người Việt muốn giữ bản sắc dân tộc.
Anh tan tành dự định lấy vợ vì gia đình cô người yêu chỉ chấp nhận cho con
cháu lấy một anh chàng người Việt chính gốc chứ nhất định không cho pha
tạp vì đã có gương nhỡn tiền. Thất vọng, anh trở về nước và lại cô đơn ngay

74
chính trên quê hương mình. Với vẻ bề ngoài, mọi người tưởng anh là Tây
chính gốc nên những người bán hàng rong ở bờ Hồ đã bám theo mời chào
khiến anh phải chạy trốn. Sau khi cứu người kiến trúc sư, anh trở thành
chuyên gia kiến trúc người Pháp để đánh giá những công trình kiến trúc pha
tạp đủ Đông, Tây, kim, cổ. Nhưng cũng từ đây vợ con của người kiến trúc sư
mà anh cứu đã săn đuổi, quyến rũ anh bằng được để sang Tây và anh một lần
nữa anh lại phải chạy trốn. Từ nhân vật Khoa, người đọc có thể liên hệ đến
nhân vật Grêgor Xamxa trong tác phẩm Biến dạng của Franz Kafka. Tuy
nhiên mỗi thời kì khác nhau nên mỗi nhà văn có một thông điệp khác nhau.
Thời đại Kafka sống là thời đại mà hiểm họa chiến tranh đang rình rập,
nền kỹ trị đã tha hóa nhân phẩm và xóa dấu lương tri. Con người sống trong
thời đại ấy, cảm thấy mình đã đánh mất chiếc chìa khóa để mở cánh cửa cuộc
đời. Con người trở nên bơ vơ, lạc lõng, không phương phướng, không nơi bấu
víu. Họ lạc vào nỗi lo âu và sự tha hóa, của trạng thái phi lí toát lên từ lời kêu
cứu của con người và sự lặng im của đời sống.
Thời đại mà Hồ Anh Thái sống là thời đại của văn minh vật chất. Con
người bị cuốn vào vòng xoáy vô tình của cuộc đời và cuộc sống với những
biến thái đã ảnh hưởng tới mỗi con người. Vật chất đã làm đạo đức con người
suy thoái. Trong tốc độ của sự tha hóa đó, con người cũng biến dạng, không
còn là chính mình. Cho nên sự biến dạng này là hình ảnh đầy chất huyền
thoại, kì ảo phản ánh sự tha hóa của con người trong xã hội hiện đại.
Chính vì thế, chu kì hóa thân của Grêgor Xamxa khác hẳn chu kì hóa
thân của nhân vật Khoa. Chu kì của con bọ Grêgor Xamxa là khép kín, vô
vọng: từ con người thành con bọ rồi cái chết. Còn nhân vật Khoa của Hồ Anh
Thái vẫn hi vọng. Anh hi vọng một ngày kia sự thần kì nào đó sẽ đưa anh trở
lại làm người.
Tiểu kết: Hồ Anh Thái nói nhiều đến cái ác, cái bản năng thú tính của
con người. Những ham muốn bản năng, lối sống thực dụng đã làm băng hoại
giá trị đạo đức con người, khiến con người đánh mất lương tri. Tâm hồn con

75
người đã biến thành những bóng ma, quỷ dữ, đang dần trở thành loài thú lớn
nhất. Sự tha hóa của con người đã trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội
và cộng đồng.
Tác giả vạch ra mặt trái của con người hiện tại: sự xuống cấp về nhân
cách, đạo đức của nhiều lớp người, lối sống buông thả của những kẻ có tiền,
sự thiếu trách nhiệm của con người, sự dung túng của xã hội, những bất công
trong cuộc sống và đặc biệt là thói dâm ô, dục tính của con người được tác giả
khai thác như là nguyên nhân của cái ác, cái xấu. Tác giả không ngần ngại
phê phán những con người bất chấp tất cả luân thường, đạo lí để thỏa mãn
nhu cầu thấp hèn của mình.
Cái đẹp, cái thiện đang dần vắng bóng, thay vào đó là cái xấu, cái ác,
cái phi đạo đức… Với thiên chức của người cầm bút, Hồ Anh Thái không thể
đứng ngoài cuộc và nhìn với thái độ dửng dưng trước suy thoái của đạo đức.
Trang viết của Hồ Anh Thái đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh trước sự
xuống cấp của nhân cách con người. Đồng thời, nhà văn giúp độc giả nhìn rõ
hơn thực tế cuộc sống của xã hội Việt Nam trong thời đổi mới. Con người
phải luôn cảnh giác và tránh xa cái phi đạo đức, phi nhân cách, đồng thời lên
án, phê phán những hiện tượng xấu xa, bỉ ổi, những việc làm sai trái.
Dựng lên các chân dung biếm họa, tác giả cho thấy nhãn quan sắc bén
và sự nhạy cảm về cái ác, cái xấu, sự giả dối của con người. Cái xấu ngự trị
trong hầu khắp phạm vi đời sống xã hội. Có thể nói, xã hội Việt Nam hôm
nay được Hồ Anh Thái miêu tả một cách khách quan và trung thực.
Song song với việc dựng lên chân dung cái ác, cái xấu, cái phi đạo đức
nhà văn giúp độc giả nhìn rõ hơn thực tế cuộc sống của xã hội Việt Nam trong
thời kì đổi mới, hội nhập. Bên cạnh việc phát triển nền kinh tế, chúng ta cần
quan tâm nhiều hơn nữa đến việc phát triển con người toàn năng vừa có tài
vừa có đức.

76
Chƣơng 3.
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT THA HÓA TRONG
SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI
Ðối tượng chung của văn học là đời sống nhưng trong đó con người
luôn giữ vị trí trung tâm. Khi miêu tả về con người, người viết cần phải biết
cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định. Điều này tạo ra tính
độc đáo và chiều sâu của hình tượng con người trong văn học. Quan niệm
nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm nhận về con người đã
được hóa thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người
trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân
vật trong đó.
Một tác phẩm văn chương hậu hiện đại trước hết phải chuyên chở cảm
quan hậu hiện đại. Cảm quan này được chuyển hóa vào trong văn học với
những quan niệm nghệ thuật mới về con người và những cách nhìn mới về
hiện thực. Nếu văn học hiện đại đề cao lí trí con người thì trong văn học hậu
hiện đại, các nhà văn lại đi vào khám phá chiều sâu vô thức, bản năng tính
dục của con người. Tương ứng với những cách nhìn mới về con người, văn
học hậu hiện đại còn có những cách nhìn mới để phát hiện bản chất của hiện
thực cuộc sống.
Chủ nghĩa hậu hiện đại là trào lưu tư tưởng – văn hoá – triết học và
nghệ thuật nổi lên ở phương Tây từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đỉnh cao
của văn học hậu hiện đại là những năm 70, 80 của thế kỉ XX, với hàng loạt
các kỹ thuật sáng tác và tư tưởng văn nghệ mới để phản ứng lại các quy chuẩn
của văn học hiện đại, trong khi đó cũng phát triển thêm các kỹ thuật và giả
định cơ bản của văn học hiện đại. Văn học hậu hiện đại đã trở thành một trào
lưu có mặt hầu khắp các nền văn học thế giới, không riêng gì ở Mĩ và châu
Âu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chủ nghĩa hậu hiện đại nói chung và văn học hậu
hiện đại nói riêng vẫn còn là một điều mới mẻ và có phần xa lạ.

77
Từ nửa sau thế kỉ XX, văn học thế giới chuyển qua giai đoạn hậu hiện
đại. Văn học Việt Nam, tuy là hơi muộn so với nhiều nước trên thế giới,
nhưng không thể tránh khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Các
khuynh hướng tiếp nhận ảnh hưởng chủ nghĩa hậu hiện đại trong nền văn học
Việt Nam đương đại khá đa dạng. Các tác giả sáng tác có chủ đích viết theo
những cảm thức, sử dụng có dụng công các thủ pháp nghệ thuật của chủ nghĩa
hậu hiện đại, nhưng cũng có thể do ảnh hưởng gián tiếp qua đời sống văn hoá
cộng đồng trong thời kỳ hội nhập mà các thủ pháp nghệ thuật hậu hiện đại đã
thẩm thấu tự nhiên vào tác phẩm của các tác giả dưới dạng một vài yếu tố.
Trên văn đàn, công chúng đều thấy dấu vết hậu hiện đại có ở hầu hết
các thể loại. Hoặc đã trở thành những thủ pháp nghệ thuật sử dụng quen
thuộc, góp phần tạo nên phong cách, hoặc chỉ dừng lại như những yếu tố hậu
hiện đại. Cho đến nay đã có hàng trăm tác giả và tác phẩm chịu ảnh hưởng
của khuynh hướng này. Chưa thể khẳng định một cách chắc chắn rằng đã có
một trào lưu văn học hậu hiện đại với đầy đủ ý nghĩa của khái niệm này trong
văn học Việt Nam, nhưng có thể tìm thấy những dấu hiệu, những yếu tố của
nó trong sáng tác của nhiều cây bút như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn
Ngọc Tư, Võ Thị Xuân Hà… và Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn
tiêu biểu.
Đọc Hồ Anh Thái, độc giả có thể thấy nghệ thuật xây dựng nhân vật tha
hóa của Hồ Anh Thái theo kiểu truyền thống nhưng đó là truyền thống đã
được cách tân cho phù hợp với văn học hậu hiện đại. Trong Chiêm nghiệm
chắt lắng từ những chuyến đi, Nguyễn Đăng Điệp đã khẳng định: “Cũng
như nhiều nhà văn khác, Hồ Anh Thái đang cuốn mình vào quá trình đổi mới
văn chương bằng việc nỗ lực thoát khỏi lối tự sự đơn điệu, kể lể dài dòng,
nhạt nhẽo. Độ sắc trong trang viết của Hồ Anh Thái bộc lộ ra ở chỗ anh dám
nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ nó bằng

78
cái nhìn trung thực, táo bạo (…) Sức hút của văn phong Hồ Anh Thái còn
nằm ở chỗ anh biết phủ lên thế giới nghệ thuật của mình những màu sắc
tượng trưng, siêu thực và gắn với nó là khả năng tổ chức nhiều kiểu giọng
điệu khác nhau: khi hài hước châm biếm, khi lạnh lùng soi xét, khi u uất trĩu
buồn” [85, tr.272,273].
Với những cách tân nghệ thuật cho phù hợp với văn học hậu hiện đại,
những góc khuất của đời sống được nhà văn lật tẩy, những vấn đề thẳm sâu
trong tâm thức của con người cũng được khám phá và mổ xẻ. Cũng như một
số nhà văn khác, tác phẩm Hồ Anh Thái cũng mang dấu hiệu của chủ nghĩa
hậu hiện đại. Để chuyên chở, thể hiện thái độ hậu hiện đại, Hồ Anh Thái đã
vận dụng một số thủ pháp của văn chương hậu hiện đại để xây dựng nhân vật
tha hóa như: Bút pháp mờ hóa nhân vật; Phương thức đặt tên nhân vật; Xây
dựng nhân vật bản năng; Giọng điệu chủ yếu là giễu nhại… Đi tìm các biện
pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái là
góp phần tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong toàn bộ sáng tác của
nhà văn nói riêng và những dấu hiệu hậu hiện đại trong việc xây dựng nhân
vật của văn học Việt Nam nói chung.
3.1. Nghệ thuật mờ hóa nhân vật.
3.1.1. Không lai lịch.
Sau 1975, nhất là từ sau đổi mới 1986, với quan niệm mới về con người
và hiện thực, văn học đã tìm đến những lối viết khác với truyền thống. Thủ
pháp phi điển hình hóa được coi là một cách thức làm mới của văn xuôi. Qua
khảo sát tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, chúng tôi nhận thấy, mờ hóa lai lịch,
ngoại hình là một trong những thủ pháp quan trọng trong việc miêu tả nhân
vật tha hóa của nhà văn gốc Nghệ này.
Lai lịch là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính
cách, chi phối đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai
trong bản “sơ yếu lí lịch” chính là tên tuổi, quê quán, hoàn cảnh sống, thành

79
phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình… Tuy nhiên, không phải nhà văn nào
cũng chú ý đến việc xây dựng lai lịch của nhân vật. Nhân vật có lai lịch hay
không có lai lịch, tất cả tùy thuộc vào dụng ý của nhà văn trong việc khắc họa
số phận và tính cách của nhân vật.
Hồ Anh Thái có biệt tài trong việc sử dụng các chất liệu dân gian để xây
dựng nhân vật. Nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái thường không
có lai lịch hệt như trong truyện cổ. Cái “giấy khai sinh” mà tác giả bạ cho nhân
vật cũng không đủ để cho độc giả hình dung một cách đầy đủ nguồn gốc, gia
đình, thân phận… của một nhân vật. Nhân vật trong tác phẩm của Hồ Anh Thái
được “thiết kế” khá đơn giản chứ không đậm đặc sự kiện trong cuộc đời.
Xét trong tất cả các nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái,
chúng ta thấy chỉ có cô đồng Si trong Trong sương hồng hiện ra được tác giả
bạ cho một phần lại lịch “Bà Si là con thứ sáu trong một gia đình có bố là phu
xe thời Pháp thuộc. Mẹ là nặc nô đi đòi nợ thuê” [82, tr.276] và khi lên tám
tuổi “bố mẹ đưa nó đến ở đợ cho cô đồng Nhỡ” [82, tr.277]. Nhưng từng đó
không đủ để xây dựng cho nhân vật một lí lịch rõ ràng. Dường như tác giả cố
ý giản lược đến mức tối đa lai lịch nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên mang
tính khái quát. Tác giả thường dựng chân dung nhân vật bằng kĩ xảo làm mờ,
làm nhòe, tẩy trắng mọi đường viền lịch sử, lai lịch nhân vật. Không có nhân
vật tha hóa nào được tác giả bạ cho một “sơ yếu lí lịch” đầy đủ như nhà văn
Nam Cao bạ cho Chí Phèo. Nhân vật đôi khi không được giới thiệu một cách
cụ thể, không được mô tả kĩ càng nên rất dễ tan biến, buộc người đọc phải
thận trọng theo dõi để tránh sự nhầm lẫn. Họ xuất hiện khá đột ngột và không
xuất xứ. Họ như vô tình bị ném ra giữa cuộc đời. Chính vì thế mà ai cũng có
thể thấy một phần nào của mình trong đó.
Với thủ pháp này, độc giả thấy con người đang có nguy cơ bị nhòe mờ,
bị tẩy trắng, bị mờ mờ nhân ảnh trong vòng xoáy gấp gáp của cuộc sống hiện
đại là một dấu hiệu tha hóa đáng báo động đối với mỗi chúng ta.

80
3.1.2. Không ngoại hình.
Bên cạnh việc mờ hóa lai lịch thì ngoại hình nhân vật tha hóa cũng
được tác giả giản lược đến mức tối đa. Không miêu tả ngoại hình cũng là một
biện pháp xây dựng nhân vật tha hóa của Hồ Anh Thái. Ðây là yếu tố quan
trọng góp phần cá tính hóa nhân vật.
Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ,
tác phong, dáng vẻ... Trong mỗi thời đại, ở mỗi phương pháp sáng tác, ngoại
hình nhân vật được miêu tả bằng những cách thức khác nhau. Trong văn học
dân gian, các tác giả dân gian khi xây dựng nhân vật thường ít chú ý nhiều
đến ngoại hình. Trong văn học Trung đại, ngoại hình nhân vật thường mang
tính chất ước lệ, công thức tiêu biểu cho từng tầng lớp người trong xã hội.
Đến văn học hiện đại, ngoại hình nhân vật thường được các nhà văn xây dựng
với nhiều dáng vẻ khác nhau, chân thực và cụ thể hơn.
Khi xây dựng ngoại hình nhân vật, nhà văn cần thể hiện những nét
riêng biệt, cụ thể của nhân vật nhưng qua đó, người đọc có thể nắm bắt được
những đặc điểm chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng lớp, thời
đại... Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà
văn bao giờ cũng chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa
nhân vật.
Trong văn học, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật để cá thể hóa nhân
vật, để nhân vật không thể lẫn với các nhân vật khác và qua vẻ bề ngoài mà
phần nào hé mở tính cách, bản chất của nhân vật ấy. Một nhà văn có tài
thường chỉ qua một số nét khắc họa, vài nét chấm phá có thể giúp người đọc
hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của một nhân vật
Nếu tiểu thuyết truyền thống thiên về mô tả kĩ lưỡng các chi tiết mặt
mũi đầu tóc thì tiểu thuyết sau 1975 lại không coi trọng việc miêu tả nhân
dạng nhân vật. Các nhân vật như cái bào thai trong Thiên thần sám hối, con
cú trong Thoạt kỳ thủy, cô gái điên, hắn trong Đi tìm nhân vật, bốn người

81
đàn ông trên chiếc xe trâu trong Những đứa trẻ chết già, những hồn ma trong
Người đi vắng, Kim trong Ngồi … đa số hiện diện trong hình hài của kí ức,
không diện mạo, không lai lịch, thậm chí có nhân vật giữ vị trí quan trọng
trong tác phẩm.
Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, độc giả thấy, anh không chú trọng
đến việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Điều này không có nghĩa là Hồ Anh
Thái không xem trọng việc miêu tả ngoại hình nhân vật vì có miêu tả ngoại
hình nhân vật hay không phụ thuộc vào quan điểm, mục đích sáng tác của nhà
văn. Cố ý xóa bỏ dấu hiệu nhận biết trong việc tái tạo diện mạo nhân vật cũng
là một biện pháp nghệ thuật trong việc xây dựng nhân vật tha hóa của nhà văn
Hồ Anh Thái.
Trong sáng tác, nhân vật của Hồ Anh Thái dường như không có ngoại
hình, không diện mạo, không dáng điệu, không trang phục cụ thể… Nhân vật
của anh về ngoại hình gần như “nhẵn như chùi”. Không có khuôn mặt như
một con vật lạ của Chí Phèo, không có cái mặt mỉa mai của hóa công như Thị
Nở trong Chí Phèo, không có cái mặt đầy thịt như của Nhi trong Nửa đêm,
không béo tròn béo trục, mặt rỗ như tổ ong, mắt trắng, môi thâm như mụ Lợi
trong Lang giận.
Một số ít nhân vật trong sáng tác của Hồ Anh Thái có diện mạo cụ thể.
Có “một bộ mặt tầm thường, một hình dáng khô khẳng” [83, tr.141] của Diệu
trong Người và xe chạy dưới ánh trăng. Dáng vóc “cao một mét bảy lăm.
Gương mặt trái xoan nhẹ nhõm, cặp mắt bồ câu to sáng và hàng mi đen rợp”
[82, tr.23] của Tường trong Người đàn bà trên đảo. Gương mặt mê hồn và
đều “cao trên dưới mét thước tám, tràn đày dục vọng, tràn đầy sức sống” [78,
tr.97] của bộ ba Cốc, Bóp, Phũ trong Cõi người rung chuông tận thế…
Nhưng đó cũng chỉ là những nét phác thảo đơn giản của nhà văn về nhân vật.
Từng đó chưa đủ để vẽ ra diện mạo một nhân vật cụ thể, không đủ sức mạnh
để nhấn sâu vào tâm thức độc giả ấn tượng về ngoại hình nhân vật, ngược lại

82
nhân vật hiện lên chung chung, mờ mờ. Với cách viết như vậy, nhân vật luôn
lưu lại trong lòng độc giả ấn tượng về nhân vật như những mảnh vỡ và thiếu
màu sắc nổi trội của cá tính. Phải chăng con người đang bị xóa mờ đi trước
tốc độ phát triển chóng mặt của khoa học kĩ thuật. Phản ánh điều này, độc giả
có thể thấy nguy cơ đánh mất cái tôi, nhòe mờ nhân vị của con người thời hậu
hiện đại.
3.1.3. Không đời sống nội tâm.
Tâm lí là khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc
cuộc sống bên trong của nhân vật. Ðó là những tâm trạng, những suy nghĩ,
những phản ứng tâm lí, cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ... của nhân vật
trước những cảnh ngộ, những tình huống mà nó gặp phải trong cuộc đời.
Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc nội tâm nhân vật góp phần rất lớn tạo
nên sức sống của nhân vật. Một nghệ sĩ tài năng thường là một bậc thầy trong
việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống
nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ nhà văn. Ðể làm được điều đó, nhà
văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống, con người, nắm bắt được những biểu hiện và
diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật. Theo L. Tônxtôi
thì mục đích chính của nghệ thuật là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói
lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường.
Trái ngược với quan niệm của L. Tônxtôi là quan niệm của Pôspêlôv.
Trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học, Pôspêlôv cho rằng các nhà văn
hài hước và các nhà văn châm biếm hầu như không thể hiện thế giới nội tâm
nhân vật hoặc chỉ thể hiện ở một mức ít ỏi. Như vậy, việc miêu tả hay không
miêu tả tâm lí nhân vật phụ thuộc vào quan điểm của nhà văn về nhân vật.
Hồ Anh Thái được xếp vào kiểu nhà văn xây dựng nhân vật tha hóa
không có đời sống nội tâm. Chính cách xây dựng này lại làm nên sự đa dạng
trong thế giới nhân vật của Hồ Anh Thái. Có lẽ hệ thống nhân vật tha hóa
trong sáng tác cuả Hồ Anh Thái chỉ có vợ chồng Khuynh – Diệu trong Người

83
và xe chạy dưới ánh trăng và Tường trong Người đàn bà trên đảo là có chút
ít đời sống nội tâm. Có nghĩa là có biểu hiện của đời sống nội tâm. Tác giả để
cho Diệu suy tính về những mưu mô, để cho Khuynh tự nhìn nhận lại cuộc
sống trỗng rỗng và bế tắc của mình. Để cho Tường ý thức về sự tha hóa của
mình. Còn những nhân vật tha hóa khác, không một nhân vật nào có đời sống
nội tâm.
Xóa bỏ tính cách tâm lý nhân vật trước hết nhà văn chặt đứt mọi mối
liên hệ của nhân vật, tẩy trắng giọng điệu người kể chuyện. Với cách xây
dựng nhân vật như vậy, các nhà tiểu thuyết hậu hiện đại xé nát mọi đường
viền tính cách, tâm lý của nhân vật. Nhân vật ở đây không chịu sự quy định
của những quy luật tâm lý hay những quyết định luận xã hội như trong tiểu
thuyết cổ điển. Thay vì miêu tả tâm lý nhân vật, tiểu thuyết hiện đại thiên về
gợi mở tâm lý ở bạn đọc, di chuyển trọng tâm của tiểu thuyết từ nhân vật sang
bạn đọc.
Với thủ pháp này, Hồ Anh Thái để cho nhân vật của mình tự bộ lộ bản
chất của mình qua ngôn ngữ, hành động. Nhân vật không cần giấu giếm,
không phải che đậy bản tính thật của mình trước mọi người. Nhờ đó mà bản
chất của nhân vật hiện lên rõ ràng và chân thật nhất.
3.2. Nghệ thuật đặt tên nhân vật.
Ngay từ khi được sinh ra ai cũng có một tên riêng cho mình. Tên dù
đẹp, dù xấu, dù dài, dù ngắn… thì đó vẫn là một cái tên dùng để nhận dạng
một con người cụ thể. Trong tác phẩm văn học thì tên gọi của nhân vật còn
mang ý nghĩ và chức năng khác nhau. Tên gọi là một trong những yếu tố tạo
nên hình tượng nhân vật, trong đó thể hiện những đặc điểm, tính cách nhân
vật. Tên nhân vật thường phản ánh phong cách nhà văn và không khí của tác
phẩm. Nghĩ ra một cái tên cho nhân vật là một công việc vừa vất vả, vừa thú
vị của nghề văn. Khi nhà văn đặt tên cho nhân vật tức là nhà văn đã ý thức, có
quan niệm về con người. Cho nên các nhà văn đều cũng ít nhiều trăn trở với

84
việc đặt tên nhân vật của mình. Chúng là kết quả của sự lựa chọn có chủ ý, là
một trong những biểu hiện nhất quán nằm trong thi pháp riêng của mỗi nhà
văn. Tuy nhiên, không phải tất cả các tên gọi của nhân vật đều trực tiếp gửi
gắm quan niệm của nhà văn. Nhưng đa phần tên gọi nhân vật đều thể hiện rõ
dụng ý nghệ thuật, quan điểm, thái độ, tư tưởng của tác giả.
Trên thế giới, một số nhà văn đã sử dụng kí hiệu để đặt tên cho nhân
vật của mình như nhân vật Josep K trong Lâu đài, nhân vật K trong Vụ án
của nhà văn Franz Kafka; nhân vật AQ trong AQ chính truyện của văn hào
Lỗ Tấn.
Trong văn học Việt Nam, một số nhà văn có ý thức khi đặt tên nhân
vật. Về nhân vật Trạch Văn Đoành trong truyện ngắn Đôi móng giò, Nam
Cao đã đánh giá: “Ngay cái tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột, hay
là Hạ, là Đông. Là gì cũng còn dễ nghe. Nhưng hắn ta lại là Trạch Văn
Đoành. Nghe như súng thần công. Nó chọc vào lỗ tai” [60, tr. 132, tập 1].
Đúng là một cái tên vô tiền khoáng hậu. Cái tên Bá Kiến, Lí Cường trong Chí
Phèo cũng vậy. Bá Kiến phải chăng thể hiện cái “cao kiến” của một kẻ thống
trị nhà nghề, còn Lí Cường thì tác giả ngầm chỉ cho độc giả tính chất “hữu
dũng vô mưu” của hắn: Cường nghĩa là sức mạnh?
Thế giới nhân vật trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, ta cũng rất ấn
tượng với những cái tên lố lăng, quái dị hay rởm đời: Xuân tóc đỏ, Típ – phờ
– nờ (TYPN), Văn Minh, Phó Đoan, cậu Tú Tân, cảnh sát Min – đơ, Min –
toa, ông Phán mọc sừng, lang Tỳ, lang Phế... Ông TYPN là biệt danh, là tên
viết tắt của „tôi yêu phụ nữ”. Nhưng tên gọi TYPN vừa chỉ đặc điểm dễ nhận
ra, dễ ghi nhớ vừa kèm theo thái độ trào phúng, giễu cợt của tác giả. Bà Phó
Đoan là tên gọi mang ý nghĩa đoan chính nhưng thực ra bà không đoan chính
và sống buông thả.
Nhưng có lẽ trong giới nhà văn, Nguyễn Minh Châu là nhà văn chi chút
tên các nhân vật của mình nhất. Trong Mảnh trăng cuối rừng, có những cái

85
tên đọc lên thấy rất ấn tượng. Chị của nhân vật Lãm là Tính, cái tên đã ngụ ý
những sắp đặt tính toán mai mối. Anh lính tên Lãm có nghĩa là ngắm nhìn là
thưởng lãm. Cô gái mà người chị mai mối có tên là Nguyệt nghĩa là trăng, lại
chính là cô gái đi nhờ xe đang ngồi bên Lãm, trong một đêm trăng đường
rừng, mà anh chưa thể nhận ra. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, tên các nhân
vật cũng được Nguyễn Minh Châu gia công, thiết kế một cách rất tỉ mỉ như
Phùng, Đẩu, Phác: Phùng nghĩa là gặp gỡ, kết quả của sự kiếm tìm cái đẹp,
chân lý nghệ thuật và chân lý cuộc sống. Đẩu có một nghĩa là cái đấu để đong
thóc gạo, phải chăng thể hiện vai trò “cầm cân nẩy mực” trong cán cân công
lý vì anh ta là chánh án tòa án huyện, còn Phác nghĩa là mộc mạc, chất phác –
những phẩm chất của người dân quê.
Tất nhiên, có nhiều nhân vật có những cái tên có vẻ ngẫu nhiên, song
chính đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật, để phản ánh cuộc sống như nó vốn
có. Đây cũng là thủ pháp được sử dụng khá phổ biến trong văn học hiện đại.
Khác với nhà văn cùng thời, Hồ Anh Thái vận dụng thành công thủ
pháp đặt tên nhân vật tha hóa. Với những nỗ lực tìm tòi, đổi mới, nhà văn đã
khoác cho nhân vật của mình khả năng tự biểu hiện. Từ những cái tên này,
người đọc có thể hình dung được bản chất, đặc điểm về tính cách, lối sống
của nhân vật mà chưa cần đi sâu vào tìm hiểu lời nói, hành động của nhân vật.
Dấu hiệu về tên nhân vật của Hồ Anh Thái được nhen nhóm từ năm
1990 trong tập truyện Lũ con hoang với tên nhân vật nam giới là Mèo Đực
(ám chỉ hay đi tán tỉnh phụ nữ). Từ năm 1996 trở lại đây nghệ thuật đặt tên
nhân vật của Hồ Anh Thái thực sự đậm nét qua tiểu thuyết Cõi người rung
chuông tận thế, tiểu thuyết Mười lẻ một đêm tập truyện ngắn Tự sự 265
ngày, tập truyện ngắn Bốn lối vào nhà cười, và một số truyện ngắn gần đây.
Cách đặt tên nhân vật thường đem đến những nhân vật độc đáo cho
người đọc. Những nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái thường

86
mang những vần “trắc”, ngay cả những nhân vật không tên cũng được gọi
bằng những từ nhân xưng mang vần trắc như: gã, hắn, nó, thị…
Tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế, bản chất, đặc điểm của
nhân vật hiện lên qua tên gọi như: Cốc, Phũ, Bóp. Chỉ bằng cái tên, người đọc
có thể hình dung ra cái xấu xa của các nhân vật này. Cốc được tác giả giải
thích: “Nó tên là Công. Lũ bạn gọi nó là Cốc. Cốc đọc chệch đi thì được một
cái tên Mỹ - Cock. Cock là con gà trống, vừa có ý nghĩa là cái vật ngọ nguậy
giữa đôi chân một gã trai. Cả hai nghĩa đều đúng với thằng Cốc” [78, tr.8].
Còn Bóp thì chỉ qua cái tên người đọc cũng thấy cái tên mang tính chất lập dị.
Người đọc vừa ghê, vừa sợ với tính lập dị của Bóp khi tác giả miêu tả hành
động của Bóp với con dê: “ Nó buông cặp sừng trên đầu con dê, luồn đôi bàn
tay quanh cái cổ đen nhánh. Thoạt đầu có vẻ giống như một cử chỉ âu yếm.
Thình lình con dê giật nảy lên. Bốn chân khua khoắng. Thế là thằng Bóp đã
bắt đầu bóp. Thằng Bóp đang bóp. Thằng Bóp đã bóp xong” [78, tr.47,48].
Còn Phũ thì có gì đó rất phũ phàng. Hành động của Phũ đối với ông thầy bói
và mụ Tì trong nhà chứa và hành động trả thù cho hai thằng bạn khiến độc giả
thấy tính người trong Phũ là một con số không tròn trịa.
Trong Mười lẻ một đêm ta bắt gặp nhân vật: Họa sĩ Chuối hột, Giáo sư
Khỏa và giáo sư Xí. Được gọi là Họa sĩ Chuối Hột vì họa sĩ có sở thích quái
đản là khỏa thân trồng chuối. Còn giáo sư Khỏa thì có bệnh cười vô tiền
khoáng hậu. Từ cái tật ấy, tác giả còn cho đọc giả thấy sự đê tiện nữa của giáo
sư khi hướng dẫn luận văn cho nữ sinh viên. Khi cô sinh viên ra về phải khẩn
khoản xin lại thầy cái chân. Còn giáo sư Xí thì thích tè bậy vào chân một công
trình văn hóa ngày ngày hai lần và bao giờ cũng khoan khoái, thỏa mãn.
Không chỉ đặt tên hiểu theo nghĩa xuôi, hồ Anh Thái còn đặt tên nhân
vật theo cách ngược nghĩa với tên gọi. Trong Đức phật, nàng Savitri và tôi,
Savitri có nghĩa là “nữ thần đồng trinh” nhưng nàng là hiện thân của sự ham
muốn dục vọng. Ham muốn đó được cụ thể hóa qua ham muốn xác thịt.

87
Ngoài vị tiểu vương già và Raja, Savitri còn vô số người tình thoáng qua.
Thậm chí cho đến già, nàng vẫn chỉ đuổi theo khoái lạc thân xác.
Cũng trong tiểu thuyết này, nhân vật Ahimsaka có nghĩa là “không sát
sinh” nhưng Ahimsaka lại là kẻ độc ác, giết người không ghê tay. Chuỗi tràng
hạt trên cổ làm bằng một nghìn lẻ một ngón tay út của nạn nhân là minh
chứng rõ nhất cho sự độc ác của Ahimsaka. Vì thế người ta gọi Ahimsaka là
Anguli Mala vì Mala là tràng hạt, Anguli là ngón tay út.
Ngoài nghệ thuật đặt tên nhân vật như vậy, Hồ Anh Thái còn đặt tên
nhân vật theo nghề nghiệp, chức vụ. Những nhân vật giàu có, tác giả gọi là
Đại Gia, nhân vật quyền lực gọi là ông Víp, ông Cốp, ông Kễnh hoặc đặt tên
theo nghề nghiệp như: anh họa sĩ, cô nhà báo, anh luật sư, anh thư kí, anh nhà
thơ, ông giáo sư, ông nghị viện, bà viện sĩ, nghiên cứu một, nghiên cứu hai…
Hoặc có những nhân vật được tác giả gọi bằng cái tên chung chung như:
chàng, anh, nàng, người đàn bà, bà mẹ… Với cái tên như vậy, độc giả có thể
hình dung ra nhân vật với đủ mọi tật xấu khiến nhân vật trở nên dị hợm, méo
mó và tức cười.
Nguyên nhân sâu xa của những cái tên đầy ấn tượng mà Hồ Anh Thái
sáng tạo là sự ý thức về hiện thực xã hội, thời đại. Khả năng tự biểu hiện của
những cái tên này rất lớn, người đọc đã có thể hình dung được bản chất, đặc
điểm nổi bật về tính cách, lối sống mà chưa cần đi sâu vào tìm hiểu nhân vật.
Hồ Anh Thái đã có dụng ý xây dựng nhân vật có tính chất đại diện cho một
loại người nào đấy trong xã hội.
Cuộc sống hiện đại với vô vàn những công việc khác nhau, con người
không đủ thời gian để quan tâm và nhớ đến cả cái tên của một người cụ thể.
Việc ghi nhớ cái tên cũng mang tính thực dụng. Vì thế tên gọi không có giá
trị. Con người chỉ có giá trị khi gắn với vị trí nào đó và người khác chỉ nhớ
đến họ qua vị trí của họ. Sự xóa nhòa tên gọi như một cách định danh chung
cho con người trong thời đại mới.

88
Cách đặt tên nhân vật như vậy có tác động lớn bởi nó thực sự đã động
chạm đến nhiều con người trong xã hội, đến nhiều người đọc vì có thể thấy
bóng dáng mình trong đó. Với tầm bao quát rộng lớn về đời sống, với kiểu gọi
tên nhân vật độc đáo đã đem lại một ấn tượng như thật. Dường như nhà văn
muốn xóa nhòa cá tính của từng nhân vật để chỉ ra đặc tính chung của một
loại người. Từ đó nhà văn dẫn người đọc đi tới nhận thức về cuộc sống. Đây
là một thủ pháp độc đáo được Hồ Anh Thái sử dụng thành công. Đó là những
con người thiếu bản sắc, sống hời hợt, nhợt nhạt, dễ hòa tan, thể hiện sự nhố
nhăng lai tạp, nhiều thói xấu của đời sống hiện đại. Cách đặt tên nhân vật
trong sáng tác của Hồ Anh Thái thể hiện bước chuyển về mặt bút pháp và xu
hướng tiếp cận với tiểu thuyết thế giới hiện đại.
3.3. Nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ nhân vật.
Khái niệm ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ những lời nói của nhân vật
trong tác phẩm. Lời nói đó phản ánh kinh nghiệm sống, t nh độ văn hóa, tư
tưởng, tâm lí, thị hiếu... của cá nhân. Trong cuộc sống không thể có những
người nói hoàn toàn giống nhau, không thể có những hành động, những câu
nói mà đằng sau lại không có một lịch sử riêng. Vì vậy nhà văn cần phát hiện
những nét riêng của ngôn ngữ nhân vật để thể hiện trong tác phẩm.
Trong các trào lưu văn học hiện thực, việc cá thể hóa nhân vật qua
ngôn ngữ nhân vật được nhà văn đặc biệt quan tâm và thể hiện bằng nhiều
cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà văn có thể để cho nhân vật lặp đi lặp lại
nhiều lần một số từ hoặc một số câu mà nhân vật thích, hoặc có thể để nhân
vật sử dụng một số từ địa phương, từ nước ngoài, cách phát âm sai... Nhưng
dù sử dụng cách nào thì ngôn ngữ của nhân vật cũng phải có sự chọn lọc
nhằm đạt đến sự thống nhất giữa cá thể hóa và khái quát hóa, đồng thời cũng
phải phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của nhân vật. Ở cấp độ nhân vật, qua
lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta có thể
nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tính cách của con người ấy. Ngôn ngữ

89
của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là
mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với
nhiều nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ.
Trong các tác phẩm tự sự nói chung, lời nói của nhân vật thường chiếm
tỉ lệ ít hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện
sinh động và khêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của
nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật là một trong những yếu tố góp phần bộc lộ tính
cách con người. Trong sáng tác văn học, ngôn ngữ nhân vật trở thành phương
diện quan trọng trong việc biểu đạt tính cách và cá thể hóa nhân vật. Nhân vật
tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái là tương đối nhiều nên anh rất chú ý
đến việc cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật.
Diệu trong Người và xe chạy dưới ánh trăng vừa có thứ ngôn ngữ
ngọt nhạt. Trước những người bạn của chồng, Diệu tỏ ra là thùy mị nết na khi
ăn nói đúng chừng mực. Những lời nói ngon ngọt này khiến người ngoài
tưởng rằng đây là một gia đình hòa thuận, hạnh phúc và Diệu được tiếng là
một người vợ hiền lành, nhân hậu. Nhưng khi một mình đối diện với chồng,
con quỷ trong Diệu xuất hiện: “Muốn li dị à? Không thoát khỏi tay con này
đâu. Đang giữ chức trưởng phòng có muốn lên cấp vụ hay thôi mà kiếm
chuyện bỏ vợ? Tôi chỉ nói một câu với tổ chức là anh nghỉ chơi xơi nước
ngay” [83, tr.144].
Mẹ đẻ của Yếu trong Trong sương hồng hiện ra lại có thứ ngôn ngữ
lạnh lùng, vô cảm. Đối với Đô, bà có thứ ngôn ngữ khô khan đến mức tàn
nhẫn. Bà hỏi Đô với những câu rất ngắn gọn và rõ nghĩa. Những câu hỏi đại
loại “Anh Đô công tác ở đâu?”, “Thuyền trưởng ư?” hay “Chỉ có sáu thôi
sao?” hoặc “Anh Đô đấy ư?” [82, tr.254,255,256]. Những câu hỏi hết sức
khách sáo, thiếu thiện cảm đó khiến người trong cuộc thiếu tự chủ, bối rối và
trở nên bé nhỏ. Thấy con gái đi chơi với Đô, người mẹ giận dữ thét lên, như
một nữ tướng đột ngột nổi cơn thịnh nộ giữa ba quân. Đó là giọng nói của

90
một người quyền uy, muốn người khác phục tùng ý đồ của mình. Nhưng liền
sau đó, người mẹ lại hạ giọng thương cảm “con vẫn khờ dại lắm, đâu đã phân
biệt được người tốt kẻ xấu. Yêu ai và lấy ai phải do mẹ chọn lựa và sắp đặt”
[82, tr.292]. Ngôn ngữ của bà tuy đã thay đổi nhưng đó vẫn là thứ ngôn ngữ
của một người ra lệnh và rất cương quyết. Khi mẹ Đô đến gặp bà để xin làm
lễ ăn hỏi và định ngày cưới cho đôi trẻ, bà không thèm nhìn mà chỉ buông ra
những lời lạnh lùng: “Cô ấy không còn là con tôi nữa. Tôi không có trách
nhiệm gì trong việc này” [82, tr.321]. Đây là bản tính của một con người cứng
rắn đến cứng nhắc. Thứ đứng hàng đầu trong con người này không phải là
tình cảm mà là những mệnh lệnh, những phục tùng, những khuôn phép để bắt
người khác phải thực hiện.
Cốc trong Cõi người rung chuông tận thế có thứ ngôn ngữ bợm trợn
khiến đối phương tá hỏa khi mời số mời số 12 một cách đê tiện: “Đêm nay
em đừng về khách sạn, về nhà anh mà ngủ. Khiếp nói năng trắng trợn thế?
Vậy phải nói thế đéo nào?(…) Có hay không, nói ngay? Một luồng hơi nước
cáu kỉnh ập vào mặt số 12” [78, tr. 12]. Ngôn ngữ của nhân vật cho độc giả
thấy đây là thứ ngôn ngữ của một kẻ đầu đường xó chợ chứ không phải của
một siêu sao thanh lịch và cao quý trên màn bạc. Đó là thứ ngôn ngữ của
một kẻ dám giết người chứ không chỉ đơn thuần là rạch áo tắm của một ngôi
sao điện ảnh.
Phũ trong tác phẩm cùng tên cũng có thứ ngôn ngữ của một kẻ đầu
đường xó chợ. Trước cái chết của Cốc, Thằng Phũ chửi rồi nghiến răng: “Mẹ
nó. Đúng là nó” [78, tr.32]. Hay Phũ nói chuyện với ông thầy bói “Cái đồ
thầy bói nói mò, tao không giết ai thì thôi nhá đứa nào giết được tao” [80,
tr.69]. Hoặc với cô Tì chủ nhà chứa “ định lừa bố mày à, bố mày đi làm một
quả để thi cuối năm cho son mà mày dám đưa sọt thủng” [78, tr.79].

91
Còn nhân vật bà mẹ trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, cái dâm của bà
được thể hiện qua lời nói. Câu nói đó được bà mẹ lặp đi lặp lại với các chàng
trai là “Thôi về làm gì, ở lại đây mà ngủ cho vui” [88, tr.72].
Nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái rất kiệm lời. Sự kiệm
lời đó là dụng công của tác giả. Chỉ cần nhân vật nói vài ba câu, độc giả cũng
có thể cảm nhận được bản chất thật của nhân vật.
3.4. Nghệ thuật miêu tả hành động nhân vật.
Hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật
trong quá trình ứng xử với các nhân vật khác và trong những tình huống khác
nhau của đời sống. Ðây là phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính
cách nhân vật vì việc làm của mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa
quyết định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm
thuộc về thế giới tinh thần của nhân vật. Trong các tác phẩm tự sự, tính cách
nhân vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành
động có tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách. Thông qua hành
động của nhân vật trong những tình huống khác nhau, người đọc có thể xác
định được những đặc điểm, bản chất của nhân vật.
Trong khi xây dựng nhân vật tha hóa, Hồ Anh Thái chú ý xây dựng
hành động của nhân vật. Hành động của nhân vật thường diễn ra rất nhanh.
Chính vì thế vì bản chất của nhân vật được bộc lộ một cách chân xác và đầy
đủ nhất.
Tường trong Người đàn bà trên đảo có những hành động bộc lộ rõ bản
chất thèm khát xác thịt đến mức cuồng dại của mình. Nhiều người đàn bà đã
từng qua tay Tường, nhưng chỉ cần hành động của Tường với Xuyến và
Luyến, độc giả nhận ra ngay bản chất thật trong con người Tường. Tường
“như một con diều hâu, Tường chồm dậy, tung hai cánh tay quắp chặt lấy
thân người Xuyến. Cô hoảng hốt giãy giụa, nhưng không kịp” [82, tr.53],
hoặc Tường “vồ lấy Luyến, bóp nghẹt ngay những phản ứng bản năng nữ

92
giới” [82, tr.84]. Đây là những hành động của một con thú săn mồi. Với
những hành động như vậy, con mồi sẽ khó thoát khỏi nanh vuốt của con thú.
Diệu trong Người và xe chạy dưới ánh trăng có những hành động bộc
lộ rõ bản chất của một người mất hết nhân tính. Đó là hành động giật cốc
nước để tranh khách với một con bé bán hàng khác, hành động đá xô nước
của một thằng dám chen ngang. Đặc biệt là hành động cào cấu chồng khi
ghen bóng ghen gió.
Cốc, Bóp, Phũ trong Cõi người rung chuông tận thế, đều có những
hành động tượng trưng cho bản chất của mình. Đó là hành động giẫm lên
chân, luồn lưỡi dao vào người số 12 của Cốc. Hành động của Cốc khiến cô
nàng hoảng sợ vì đây là hành động của kẻ đê tiện chứ không phải là hành
động của một diễn viên, một siêu sao đang được ngưỡng mộ, là hành động
theo đúng bản chất của một tên lưu manh sẵn sàng giết người chứ không phải
chỉ là hành động hay lời nói suông Và dù cố gắng chống cự nhưng số 12
không thể thoát khỏi con mắt săn mồi của Cốc. Đó là hành động“ siết chặt cô
gái vào bên sườn trong một cơn cảm khoái tột độ” [78, tr.19] khi gặp cô gái
không quen biết ngoài đường. Nếu không có cơn đau đột ngột xảy ra, chắc
chắn cô gái kia sẽ không thể cưỡng lại sức mạnh của một con đực mê gái.
Gặp một cô gái tắm biển, Cốc tiến đến quặp chặt cô gái lại và nhanh chóng
tụt“chiếc quần bơi của cô gái xuống ngang đầu gối” [78, tr.23] và “đôi bàn
tay nó đang thao tác ở nơi sẽ biến phần thân dưới của cô gái thành nàng
Êva” [78, tr.23]. Chỉ từng ấy hành động, độc giả cũng đủ thấy bản chất vừa
lưu manh vừa dâm dục của một con đực sống buông thả, không coi pháp luật
ra gì.
Bạn Cốc là Bóp cũng có hành động không kém cạnh. Bóp thường dùng
hành động bóp cổ thay cho lời nói. Có thể nói, hành động bóp cổ là một khoái
cảm ở nhân vật này. Đó là hành động bóp cổ người yêu, bóp cổ các con vật.
Ngay trong việc giết cô gái Mai Trừng để trả thù cho bạn, Bóp cũng đưa ra

93
phương án thực hiện bằng hành động chứ không hề giải thích hay giảng giải
để những người tham gia cuộc trả thù biết. Người tham gia phải từ hành động
đó mà tự hiểu Bóp nói gì. “Thằng Bóp mở cái túi đựng vợt tennit, lấy ra một
đôi găng tay mỏng màu da người. Một bình xịt thuốc mê và một cuộn dây. Có
nghĩa nó chọn hình thức xử lí như là đã làm với con dê” [78, tr.49].
Phũ cũng vậy. Khi xem bói, nghe ông thầy phán, nó liền “thoi ngay một
quả đấm vào giữa mặt ông thầy bói” [80, tr.69], rồi mới dùng đến lời nói. Phũ
dẫn chú vào động gái, nó cũng dùng hành động thay lời nói. Qua lời của nhân
vật Đông ta thấy Phũ chỉ dùng hành động: “thằng Phũ không thèm mặc cả, ra
hiệu dẫn mối vào. Nó nắm vai đứa con gái quay đằng trước, hất đằng sau,
bóp cằm cho nó ngửa lên để nhìn vào cặp mắt như cái cân tiểu li” [78, tr.78]
của nó. Là hành động “túm tóc Yên Thanh dúi mặt cô ta vào bát canh măng to
tướng” [78, tr.128]. Đó là những hành động của kẻ dám giết người chứ không
chỉ là dọa nạt. Ở đây, phần con vật đang lấn át phần người trong con người.
Hành động ăn của giáo sư Xí trong Mười lẻ một đêm được tác giả miêu
tả sắc nét trong cuộc hội thảo mà giáo sư không được mời: “Nhà văn hóa lớn
đang vục đầu vào ăn. Nhai chòm chọp chèm chẹp. Những cái đĩa lớn đựng
thức ăn chung cho bao nhiêu người giờ đây chỉ có một mình ông vung vẩy
công phá” [88, tr.214]. Hành động đó của giáo sư đúng theo kiểu “tư cách
mõ” của một kẻ vô văn hóa, của một người thiếu ý thức, một kẻ vô học chứ
không phải của một vị được coi là đại trí thức trong xã hội.
Hành động của nhân vật đã thể hiện rõ con người với tất cả những xấu
xa, đê hèn, đốn mạt, bần tiện và với tất cả những ham mê cuồng loạn, bệnh
hoạn nhiều lúc trở thành thú vật. Miêu tả hành động nhân vật vừa sống động,
vừa chân thực như thế cho thấy khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo của Hồ Anh
Thái. Anh nắm bắt được cái thần, bắt trúng vào huyệt của nhân vật để nhân
vật hiện lên đúng với bản chất của mình.

94
3.5. Giọng điệu giễu nhại.
Tiếng cười trong văn học thế giới xuất hiện gắn với tên tuổi của
Giovanni Boccaccio (1313 –1375), François Rabelais (1494 –1553), Miguel
de Cervantes (1547 – 1616) thời Phực hưng ở phương Tây. Đó là những tiếng
cười giòn giã thể hiện sự tan rã và kết thúc của một xã hội.
Mấy thế kỉ sau, tiếng cười này mới xuất hiện trong nền văn học phương
Đông và ở Việt Nam vì sự tan rã của những nền tảng phong kiến Trung cổ
phải chờ đến cuối thế kỉ VIII trước khi có cuộc xâm lăng của chủ nghĩa thực
dân phương Tây. Tuy nhiên, bất cứ lúc nào tiếng cười cũng tiềm tàng trong
đời sống nhân dân qua ca dao, dân ca, các loại truyện kể. Tuy có muộn nhưng
vẫn thể hiện được quy luật chung trong hành trình xã hội và hành trình tinh
thần của con người.
Tiếng cười trong văn học Việt Nam xuất hiện từ nửa sau thế kỉ VIII,
gắn với tên tuổi nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Đó là cái cười thâm thúy và nanh
nọc. Đồng thời với tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương là cái cười tiềm tàng,
đầy đặn trong truyện tiếu lâm và truyện trạng.
Bẵng đi một thế kỉ trong những cảm xúc trang nghiêm, cuối thế kỉ XIX,
đầu thế kỉ XX, tiếng cười chế giễu, nhạo báng, khôi hài thành một dòng chảy
từ Yên Đổ, Tú Xương đến Tú Mỡ, Đỗ Phồn rồi bị đứt đoạn từ sau 1945.
Cái cười, nhu cầu cười, không chỉ cái cười nghiêm trang của sự đả kích
mọi loại kẻ thù mà còn là cười vui, cười nghịch, cười chế giễu.. lúc nào cũng
đòi quyền tồn tại như là một lẽ tự nhiên. Nếu thiếu tiếng cười, cuộc sống mất
đi cái thi vị vốn có của nó. Vì thế, sự xuất hiện trở lại của tiếng cười trong văn
học dường như đã diễn ra vào thập niên cuối của thế kỉ XX, tính từ công cuộc
đổi mới. Sự mở rộng các phạm trù thẩm mĩ khiến tiểu thuyết gần với đời
thường hơn. Khi những chuẩn mực bị lệch dần thì cái hài xuất hiện. Cái nhìn
giễu nhại của chất tiểu thuyết đã quy định một giọng điệu riêng của tiểu
thuyết đương đại. La Khắc Hòa khẳng định: “Văn học thời kì đổi mới không

95
thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lí, phi lí, chất văn xuôi và vẻ đẹp của đời
sống phồn tạp chỉ có thể hóa thân vào tiếng cười trào tiếu, giễu nhại để văn
học thực sự biến thành tiếng nói nghệ thuật. Kể từ sau Cách mạng tháng Tám,
chưa bao giờ câu đối, thơ trào tiếu và truyện cười giễu nhại dân gian lại xuất
hiện nhiều như những năm 80 của thế kỉ trước. Hình như giễu nhại lại đã trở
thành kiểu quan hệ đời sống mang phong cách thời đại” [50, tr. 66].
Sự xuất hiện của bút pháp trào lộng ngày càng nhiều trong tiểu thuyết
đương đại. Đó là một nhu cầu giải tỏa áp lực của đời sống hiện đại. Điều này
đã phá vỡ sự trang nghiêm trong văn học sau một thời gian dài, đồng thời thể
hiện tinh thần dân chủ hóa trong văn học đã được đề ra. Tuy nhiên, chúng ta
không nên hiểu đơn giản là giễu nhại chỉ nhằm tới một mục đích giải thiêng
mà cần hiểu sâu hơn, đó là hình thức tiếp cận các giá trị đời sống một cách
dân chủ, phi quy phạm.
Giọng điệu giễu nhại là sự nhắc lại, mô phỏng, bắt chước một lời nói,
một cử chỉ hay nét phong cách, giọng điệu của đối tượng nhại nhằm làm bật
lên cái đáng cười, xấu xa, kệch cỡm đáng phê phán của chúng. Trong giễu
nhại luôn có sự bắt chước, mô phỏng các đặc điểm của đối tượng giễu nhại
nhằm tạo ra sù đối lập giữa bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức,
bên trong và bên ngoài… nhằm hướng độc giả nhận thức được cái khiếm
khuyết, cái lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ… của đời sống xã hội và trong bản
thân con người để cùng nhau nhận thức lại, hoàn thiện bản thân và thúc đẩy
tiến bộ xã hội.
Hình thức giễu nhại chính là một trong những đặc trưng nổi bật của
phong cách sáng tác hậu hiện đại. Giễu nhại đang càng ngày càng phổ biến
trong đời sống văn học Việt Nam thời đổi mới. Độc giả có thể nghe thấy tiếng
cười giễu nhại thấm đẫm cảm hứng trào lộng trong nhiều truyện ngắn, tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm
Thị Hoài… nhưng hấp dẫn nhất vẫn là tiếng cười trào phúng, giễu nhại trong

96
sáng tác của Hồ Anh Thái. Đọc Hồ Anh Thái, độc giả sẽ thấy, mỗi truyện của
anh đều ít nhiều chứa đựng sự giễu nhại. Trong Cái mà văn chương ta còn
thiếu, nhà văn Ma Văn Kháng cũng khẳng định: “Tôi thích giọng văn của Hồ
Anh Thái. Nó có cái thông minh, hóm hỉnh vừa sâu sắc vừa có tính truyền
thống. Hơn nữa, cái này mới thật thích đây: chất trào phúng, giễu nhại, cay
chua mà thân thiện, chất này văn chương ta thiếu quá” [78, tr.314]. Trong Hồ
Anh Thái, người mê chơi cấu trúc, Nguyễn Đăng Điệp đã khẳng định:
“Cùng với thời gian, Hồ Anh Thái nhận ra cái hài có mặt khắp nơi, thậm chí
cả những nơi sang trọng, cái hài vẫn xuất hiện dưới trạng thái che giấu,
nhưng càng giấu thì chất hài lại càng rõ” [78, tr.395].
Điểm tập trung nhất trong những đánh giá của Hồ Anh Thái là cái nhìn
giễu nhại đối với những góc khuất trong đời sống công chức, trí thức và những
tiêu cực từ việc thăng quan tiến chức đến những thủ đoạn làm tiền, những trò vô
bổ và những thói xấu của con người; giễu nhại những công trình khoa học vô
giá trị, những nhà ngụy khoa học, bằng cấp rởm, những hội thảo khoa học.
Giáo dục trong nước thì dạy chay, học chay; dốt nát, hư hỏng là cho đi du
học. Học hành có gì là quan trọng bởi cơ chế thị trường, thói thực dụng đã chi
phối quan hệ thầy trò. Nếu không được đào tạo chính quy thì còn có những
con đường khác như chuyên tu, tại chức, chiếu cố… Có người sáng tác thơ
văn khiến người khác “vừa đọc vừa bịt mũi”. Có người sợ vì bị dọa đọc thơ
cho nghe, có người bị đuổi việc vì chót mê thơ… Nhưng cũng có người bằng
mọi giá để có được cái danh nhà thơ, nhà văn cho dù chẳng để làm gì nhưng
vẫn cứ thích. Trong văn học còn đầy dẫy sự nhỏ nhen, ganh ghét đố kỵ. Còn
có những nhà văn trở thành những kẻ đào mỏ chuyên nghiệp mất tư cách. Đây
chính là sự xuống cấp về đạo đức nghề nghiệp của người cầm bút.
Đặc điểm nào đó của nhân vật cũng trở thành đề tài để tác giả giễu
nhại. Trong Mười lẻ một đêm, tác giả giễu nhại việc ăn của giáo sư Xí – một
đại trí thức: “Nhà văn hóa lớn đang vục đầu vào ăn. Nhai chòm chọp chèm

97
chẹp. Những cái đĩa lớn đựng thức ăn chung cho bao nhiêu người giờ đây chỉ
có một mình ông vung vẩy công phá” [88, tr.214].
Hoặc cái tên cũng là một sự giễu nhại rất thú vị, giàu sức liên tưởng
như Khỏa, Xí trong Mười lẻ một đêm qua tình huống: có một lần giáo sư Xí
đến gọi giáo sư Khỏa đi họp đột xuất. Không gặp. Ông Xí lấy phấn trắng viết
lên cửa nhà ông Khỏa một lời nhắn: “Khỏa thân đến nhà Xí họp. Nhớ mang
theo giấy” [88, tr.204]. Chỉ qua hai cái tên tưởng chừng như đơn giản với một
tình huống rất đời thường đã tạo nên một chi tiết rất hài hước, đầy châm biếm.
Tiếng cười có tính chất bao quát mọi mặt trong cuộc sống. Tất cả
được thể hiện qua giọng nhại "vỡ Gia Lâm chạy về Thái Hà lập căn cứ địa
mới, vỡ Thái Hà chạy về Hoàng Quốc Việt lập lại chiến khu” [88, tr.9] hay ở
sự nhầm lẫn của ngôn từ "Tìm cho tớ xem ông trồng chuối hột ở đâu? Nộm
hoa chuối à, tớ biết một nơi nhậu có nộm hoa chuối đậm đà khó quên, đến
nhà hàng ở Láng Hạ nhé" [88, tr.28], hay là sự hiểu nhầm ngon không? “chỉ
tay vào đĩa thịt chó. Hồng Kông hiểu ngay. Ô gút gút. Bốn ông Việt Nam rộ
lên theo gút gút. Đấy hiểu nhau rồi, dễ thế. Hồng Kông khen thêm một tiếng
ngon đilisớt. Nó bảo sốt sốt cái gì? Thịt chó không chấm sốt, đồ ngu. Có thế
mà thông ngôn không đầu sỏ vẫn vui” [88, tr.41,42]. Mỗi người theo đuổi
một suy nghĩ riêng, cách hiểu riêng và đến cuối cùng họ không hiểu được
nhau. Chính sự hiểu nhầm này đã gây ra tiểng cười mỉa mai. Vì thế, giọng
mỉa mai châm biếm là một cung bậc cao hơn của giọng cười cợt, thể hiện rõ
thái độ của tác giả.
Bằng giọng giễu nhại, Hồ Anh Thái đã công khai bày tỏ thái độ của
mình đối với những bất công, phi lý trong cuộc sống. Nhà văn rất tinh tường
khi phát hiện ra cái kệch cỡm trong cuộc sống thực tại và anh khai thác đến
cùng phương diện gây cười của chúng để đưa vào tuyến vận động của cốt
truyện. Châm biếm, mỉa mai, trào lộng, hài hước là những nhân tố tạo nên sắc
thái giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Anh dám nhìn thẳng vào cái

98
xấu xa, lỗi thời của cuộc sống trước, sau đổi mới và thể hiện nó bằng một thứ
ngôn ngữ tương xứng để giễu nhại. Chính phương diện này đã bộc lộ sở
trường, phong cách độc đáo và tạo ra cái gọi là cảm quan hậu hiện đại trong
tác phẩm của anh. Từ cái nhìn giễu nhại độc giả phải trăn trở, suy nghĩ về
những mặt trái của cuộc sống hiện tại.
3.6. Nghệ thuật xây dựng nhân vật bản năng.
Hầu hết chúng ta đều cho rằng những hành động của ta đều có chủ ý,
đều xuất phát từ ý muốn của ta. Còn bản năng là khi ta thực hiện một cách
hoàn hảo, tự nhiên, không cần học tập, không cần suy nghĩ. Hành vi do bản
năng được thực hiện do một sự thúc đẩy tự nhiên từ chính nhu cầu bên trong
của mình.
Bản năng là khuynh hướng vốn có của một sinh vật đáp lại một tác
động hay điều kiện cụ thể. Đối với loài người, bản năng dễ thấy nhất khi quan
sát những hành vi về thân thể, xúc cảm hoặc giới tính, bởi chúng đã được xác
định rõ ràng về mặt sinh học. Vì thế khi nói đến bản năng, trước hết phải nói
đến bản năng tính dục của con người. Con người bản năng từng xuất hiện
trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao. Trong đó, con người bản năng
trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng gắn với cái dâm của con người. Nếu như
xây dựng con người bản năng trong văn học giai đoạn 1930 – 1945 phải chịu
khá nhiều sức ép từ dư luận thì trong thời kì đổi mới, con người bản năng
bước vào văn học một cách đường hoàng nhất. Nhà văn không chỉ khám phá
phần đẹp đẽ ở con người mà còn đi sâu vào khám phá những ham muốn dục
vọng, những góc tối trong con người bấy lâu còn khuất lấp.
Văn học thời kì đổi mới đã xuất hiện con người bản năng trong sáng tác
của Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thế Hùng… Hồ Anh Thái cũng góp phần làm
nên phong cách nghệ thuật này khi xây dựng thành công kiểu nhân vật tha
hóa do bản năng dục tính của mình. Chính kiểu nhân vật bản năng đã giúp Hồ
Anh Thái thể hiện được rõ hơn những góc khuất của tâm hồn con người, từ đó

99
góp phần nâng tầm nghệ thuật cho mỗi tác phẩm của mình. Trong không ít
sáng tác của mình, ngoài việc trân trọng những bản năng tự nhiên, chính đáng
của con người, Hồ Anh Thái còn miêu tả tính dục như là thứ bản năng xấu,
khiến con người sa vào những hành vi tội lỗi hoặc gặp phải những bi kịch.
Tường trong Người đàn bà trên đảo phải sống trong khung cảnh cô
quạnh đã làm sống lại bản năng dục vọng trong con người Tường. Anh không
chỉ ươm giống đồi mồi trên đảo Cát Bạc mà anh còn trở thành người “gieo
giống” cho những người đàn bà trong Đội Năm ở gần đó. Ham muốn bản
năng đã đẩy Tường đến bờ vực của sự suy đồi.
Tiểu thuyết Đức phật, nàng Savitri và tôi, nàng Savitri với cá tính
mạnh mẽ luôn muốn tháo cũi sổ lồng để thoát ra khỏi những khuôn phép và
đối lập với các giáo điều của Bà la môn đã trở nên lạc hậu. Con người nàng
đầy sức sống, đầy bản năng, đầy đam mê nhục cảm và đầy khao khát dục lạc.
Thậm chí, Savitri còn theo đuổi dục lạc đến già.
Bộ ba Cốc, bóp, Phũ trong Cõi người rung chuông tận thế cũng là
những nhân vật sống theo bản năng. Sống dư giả tiền bạc khiến bản năng thấp
hèn của những nhân vật này càng có điều kiện bộc lộ. Cốc là bản năng nhục
dục thấp hèn, Bóp lại tìm khoái cảm trong việc bóp cổ các con vật và nhìn
những con vật trong con giãy chết. Còn Phũ thì trong hơn hai mươi năm của
cuộc đời đã sống cuộc sống của một trăm linh một thằng đàn ông đạo đức
suốt đời chỉ biết có một người đàn bà. Đó là bản năng thú tính của ba nhân
vật. Ham muốn bản năng đã đẩy bộ ba này thành những con quỷ chuyên gieo
rắc tội ác cho con người.
Nhân vật bà mẹ trong Mười lẻ một đêm cũng là bản năng ham mê dục
vọng. Với cách sống có phần “hoang dã”, bà sống buông thả bản năng dục
vọng thấp hèn của mình. Chàng trai nào bà cũng rủ rê rồi tìm cách chiếm
đoạt, không kể đó là người nhiều tuổi hay ít tuổi, nghề nghiệp miễn là bà
được thỏa mãn. Bà và người tình có thể hành động ở bất cứ chỗ nào, miễn là

100
bà được đáp ứng về dục vọng. Bản năng thấp hèn của một con cái được tác
giả phơi bày bằng câu nói đầy sắc dục của bà mẹ: “Thôi về làm gì, ở lại đây
mà ngủ cho vui” [88, tr.72]. Lời nói này cho thấy bản năng hoang dâm vô độ
của nhân vật bà mẹ nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lí đồi bại của mình.
Có thể nói Hồ Anh Thái đã dựa trên tư tưởng nhân bản rất sâu sắc khi
đề cập đến vấn đề con người bản năng. Nhà văn tỏ ra rất thông cảm, thậm
chí là trân trọng những khát khao tự nhiên nhưng chính đáng của con người.
Tuy nhiên, ngòi bút của Hồ Anh Thái cũng không ngần ngại phê phán những
con người bất chấp tất cả luân lí, đạo đức để thỏa mãn nhu cầu dục vọng
thấp hèn của mình.
Cách xây dựng nhân vật bản năng của Hồ Anh Thái có ảnh hưởng của
chủ nghĩa hiện sinh vì theo thuyết hiện sinh, tiền đề cho con người bản năng
chính là quyền tự do lựa chọn theo cách riêng của mình, không theo bất cứ
một khuôn mẫu sẵn có nào, do vậy, con người phải chịu trách nhiệm về tương
lai của mình. Cái chỉ đạo, dẫn dắt sự lựa chọn của cá nhân chính là yếu tố bản
năng trong con người. Bản năng ấy thúc đẩy và dẫn dắt con người hành động.
Chỉ có hành động dựa vào bản năng mới tạo nên sự tự do tuyệt đối cho con
người. Chủ nghĩa hiện sinh chối bỏ quan điểm về khuôn mẫu lý tưởng của
Con Người viết hoa, hoặc của nhân loại, trong đó mỗi người chỉ là một hình
ảnh của con người phổ quát.
3.7. Nghệ thuật xây dựng nhân vật biến dạng.
Ngoài những thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu trên, Hồ Anh Thái còn sử
dụng thủ pháp biến dạng để xây dựng nhân vật tha hóa,. Đây là thủ pháp
mới mẻ và trong văn học Việt Nam rất ít nhà văn sử dụng thủ pháp nghệ
thuật này. Hồ Anh Thái là nhà văn đi đầu trong việc đưa nhân vật biến
dạng vào văn chương.
Nhân vật Khoa trong Vẫn tin vào chuyện thần tiên, một sớm thức dậy
thấy mình biến thành một gã mắt xanh mũi lõ, nhân vật anh chàng người Việt

101
đã hoang mang cực độ, rồi trở nên cô độc và đau khổ ngay trên chính quê
hương mình. Mọi sự nỗ lực của anh nhằm làm cho mọi người hiểu mình chỉ
làm anh thất vọng. Hiện tượng biến dạng này đã phơi bày rõ cái tâm lý vụ lợi,
sùng ngoại một cách mù quáng của không ít người. Đó chính là hệ quả của lối
sống bắt chước Tây, giống Tây, mê Tây.
Sự kiện giám đốc Diên biến thành dê trong truyện Món tái dê, lại phản
ánh một tình trạng tha hoá khác của con người thời hiện tại. Ở đó, giám đốc
Diên tỏ ra bình tĩnh chấp nhận sự biến dạng của mình. Cái nhìn ấy cho thấy
sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức, nhân cách của không ít người, đồng
thời bộc lộ thái độ châm biếm sâu cay của nhà văn.
Trong Mười lẻ một đêm, thì đứa trẻ vừa được sinh ra cơ thể nó đã biến
dạng. Hai chân của nó dính vào nhau như đuôi cá. Truyện đã xây dựng được
một hình tượng đầy ám ảnh về thân phận con người. Con người phải sống
kiếp cô đơn, lạc loài ngay trong ngôi nhà của mình. Cảm giác xa lạ của con
người về thế giới còn được đẩy lên một mức cao hơn, đó là sự xa lạ với chính
mình. Hình tượng người cá chính là biểu tượng bi đát về sự tha hoá, lạ hoá
của con người.
Trong sáng tác của mình, tác giả miêu tả sự biến dạng của con người
như là một phương tiện nghệ thuật để phản ánh hiện thực. Tác phẩm thể hiện
sự chán ghét, khinh bạc của nhà văn đối với thế giới mà nhà văn gọi là tha
hóa, đồng thời thể hiện sự mất niềm tin của nhà văn vào sự tồn tại của con
người. Đó là cách thể hiện quan niệm của tác giả về con người. Con người là
thực thể cô đơn nhỏ bé giữa một xã hội đầy phi lí.
Tiểu kết: Xây dựng nhân vật đòi hỏi một hành trình tìm tòi và sáng tạo.
Mỗi nhà văn đều có những thủ pháp xây dựng nhân vật mang đậm cá tính
sáng tạo của mình. Tiếp cận và vận dụng các thủ pháp văn chương hậu hiện
đại để làm mới ngòi bút là xu hướng chung của các tác giả trưởng thành trong
thời kỳ sau đổi mới. Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn như thế. Để

102
xây dựng nhân vật tha hóa, Hồ Anh Thái đã mạnh dạn thể nghiệm những kĩ
thuật mới của văn học hậu hiện đại. Sự cách tân này đem đến luồng gió mới
táo bạo cho nền văn chương đương đại.
Với dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh, nhà văn đã để thể hiện sâu sắc nỗi
lo âu, khắc khoải về số phận con người trong thời đại mới. Sử dụng kĩ thuật
mờ hóa nhân vật khiến nhân vật dễ bị hòa tan trong cuộc sống và ai cũng thấy
phần mình trong đó. Sử dụng ngôn ngữ và hành động của nhân vật để nhân
vật tự bộc lộ mình, lột tả được một phần bản chất có thật của đối tượng, đồng
thời là sự khám phá mới về chiều sâu tâm hồn con người. Sử dụng ngôn ngữ
và hành động để lật tẩy bản chất thật của nhân vật mà không cần phải miêu tả
tâm lí. Cách đặt tên nhân vật thể hiện quyền lực của nhà văn trong quan niệm
về con người, đồng thời hé lộ cho độc giả thấy phần nào tính cách, số phận
nhân vật. Giọng giễu nhại giúp nhà văn lật tẩy những chuyện hài hước, lố
bịch, kệch cỡm đang tồn tại trong cuộc sống, đồng thời không chỉ thể hiện sự
hoài nghi về các giá trị của đời sống mà còn là sự nghi ngờ chính những khả
năng, sứ mệnh mà người ta thường đặt ra cho nó. Xây dựng con người biến
dạng, nhà văn muốn thể hiện sự cô đơn của con người trong xã hội mà văn
minh vật chất đang ngày càng thủ tiêu nhân tính con người.

103
C. PHẦN KẾT LUẬN.
1. Hồ Anh Thái không phải là nhà văn nổi bật ngay từ những sáng tác
đầu tiên nhưng anh đã tạo được cho mình một phong cách vô cùng độc đáo.
Bằng tài năng của mình, Hồ Anh Thái đã để lại cho văn học Việt Nam những
tác phẩm có giá trị với một cách viết mới mẻ và một văn phong không thể
trộn lẫn. Sau hơn 30 năm sáng tác, Hồ Anh Thái đã có những đóng góp đáng
kể cho tiến trình đổi mới của nền văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau
thời kì đổi mới 1986. Anh là người có nhiều tìm tòi, có ý thức cách tân trong
nghệ thuật nhằm tạo sự phù hợp, hiệu quả trong cách thể hiện con người theo
quan điểm riêng của mình. Anh đặc biệt có tài trong việc nắm bắt hiện thực
khi đã khái quát được gần như toàn bộ những tầng lớp trong xã hội Việt Nam.
Thế giới nhân vật phong phú, đa dạng, được nhà văn xây dựng bằng những
phương tiện nghệ thuật đắc hiệu. Anh đã bền bỉ đi một mình một hướng để
tạo nên một dòng chảy riêng giữa nguồn chung văn chương Việt Nam. Điều
đó tạo nên những giá trị to lớn trong những sáng tác của Hồ Anh Thái. Anh là
một nhà văn có vị trí danh dự trên văn đàn Việt Nam đương đại.
2. Qua những sáng tác của Hồ Anh Thái, chúng ta thấy anh có cái nhìn
đa diện về cuộc sống vì thế anh nhận ra nhiều kiểu con người đang tồn tại.
Tác phẩm của anh không chỉ ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cái cao cả, bản tính
lương thiện mà còn đề cập đến những tiêu cực, cái ác, xấu xa, bỉ ổi, cái phi
đạo đức, phi nhân tính của con người. Tác phẩm của anh đã tái hiện nhiều
kiếp người, trong nhiều thời điểm, nhiều tình huống để qua đó nói lên cảm
nhận về nhân sinh.
Chính quan niệm nghệ thuật về con người và ý thức, trách nhiệm về
nghề văn đã chi phối nghệ thuật sáng tác của Hồ Anh Thái. Những ảnh hưởng
từ thi pháp văn học truyền thống kết hợp với những cách tân, sáng tạo của Hồ
Anh Thái tạo cho tác phẩm của mình sức hấp dẫn, lôi cuốn. Bên cạnh việc sử
dụng các thủ pháp nghệ thuật truyền thống, nhà văn đã khai thác hiệu quả yếu

104
tố văn học hậu hiện đại để sáng tạo nên một thế giới nhân vật đa dạng với
cách nhìn độc đáo. Những trăn trở của nhà văn về con người, những suy tư
của anh về thiện và ác, sáng và tối, cao thượng và thấp hèn, người và quỷ…
bên trong con người giúp độc giả nhận thức rõ hơn về mặt trái của con người
và xã hội. Hồ Anh Thái sử dụng bút pháp hiện thực để lách vào tận đáy sâu sự
thật cuộc sống rồi phanh phui, lật tẩy những phần tối tăm nhất trong con
người như sự tàn nhẫn, mù quáng, ngu muội, độc ác, đểu giả... Tuy nhiên
đằng sau cái hiện bề bộn ấy là cái nhìn nghiêm túc, sắc sảo của nhà văn về cái
xấu xa, tàn ác. Anh dám dấn thân, hoà nhập với những thân phận đang chìm
dưới đáy sâu của xã hội, nhìn thẳng vào nỗi đau, niềm nhức nhối của con
người để rung lên hồi chuông khẩn thiết về sự khô kiệt nhân tính đang xuất
hiện ở khắp nơi. Qua việc khắc hoạ nhân vật tha hóa, Hồ Anh Thái muốn đặt
ra vấn đề về sự tồn tại của con người cá nhân. Mỗi cá nhân cần được quan
tâm một cách đúng mức, đồng thời chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, sự thờ ơ của
người đời cần phải lên án.
Mặc dù viết về những con người biến chất xấu xa, Hồ Anh Thái vẫn
chắt chiu những hạt mầm thiên lương còn ẩn náu trong tâm hồn con người.
Xuất phát từ tấm lòng nhân đạo, từ niềm cảm thông sâu sắc với số phận của
con người, từ kỳ vọng về sự bền vững của cái đẹp, cái thiện chế ngự cái xấu
cái ác, những trang văn của Hồ Anh Thái bên cạnh sự lạnh lùng, khách quan
còn thấm đượm niềm trắc ẩn, xót xa về nỗi đau nhân tình. Đây chính là tinh
thần nhân bản được toát ra từ tác phẩm của anh.
Tác phẩm của anh còn là sự cảnh tỉnh con người trước những cám dỗ
của cuộc sống hiện tại, góp phần chống lại những sự việc tiêu cực, phi nhân
bản, trái với lí tưởng cao đẹp của dân tộc. Để hoàn thiện bản thân, con người
phải vượt qua được thử thách, sự cám dỗ và chống lại quá trình tha hóa đang
diễn ra âm thầm nhưng khốc liệt trong cuộc sống thường nhật.

105
3. Tuy nhiên, trong khi xây dựng nhân vật tha hóa, Hồ Anh Thái còn
bộc lộ những hạn chế nhất định. Nhân vật của anh còn thiếu tính phức tạp
trong những quan điểm, suy tư trong quá trình đấu tranh tư tưởng, chưa có sự
giằng xé trong đời sống nội tâm. Vì thế tác phẩm của anh thiếu đi chiều sâu
nội dung tư tưởng. Nhân vật của anh vẫn là kiểu nhân vật thiện – ác phân
minh, khiến độc giả liên tưởng đến kiểu nhân vật của truyện Nôm truyền
thống. Điều này làm cho tiểu thuyết của anh không đạt đến tính đa thanh đích
thực. Mặc dù còn vài hạn chế trong khi xây dựng nhân vật nhưng về cơ bản
và trên hết, Hồ Anh Thái đã vẽ lại một bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt
Nam với cảm hứng giễu nhại, phê phán, tố cáo. Chúng ta không thể phủ nhận
tài năng của tác giả khi xây dựng thành công nhân vật tha hóa. Đây là loại
nhân vật được anh xây dựng một cách công phu, chuyên nghiệp, thể hiện
những tìm tòi trong phương pháp tiếp cận và phản ánh hiện thực. Đó là một
nỗ lực đáng được được ghi nhận.
Từ những nghiên cứu trên cho chúng tôi thấy được những giá trị thẩm
mĩ đậm chất nhân văn cũng như những nét độc đáo trong nghệ thuật văn
chương của một nhà văn còn đi dài với văn chương.

106
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Lan Anh (2013) – Cõi người cũng bao dung lắm… Cõi người
rung chuông tận thế, tr. 249-256.
2. Phan Lan Anh (2005).– Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết
của Hồ Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
3. Thái Phan Vàng Anh – Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn
hậu hiện đại, nguồn: http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id= 1052.
4. Đào Tuấn Ảnh (2005) – Quan niệm thực tại và con người trong văn
học hậu hiện đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 8, tr. 43-59.
5. Đào Tuấn Ảnh (2007) – Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt
Nam qua so sánh với văn xuôi Nga, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 12, tr. 39-57.
6. Lê Huy Bắc (2012) – Khuynh hướng cực hạn trong văn hóa hậu hiện
đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 8, tr. 22-27.
7. Lê Huy Bắc (2013) – Lí thuyết phê bình hậu hiện đại như một siêu
ngữ, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 4, tr. 17-25.
8. Nguyễn Thị Bình ( 2007) – Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 – một cái
nhìn khái quát, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 2, tr. 49-54.
9. Nguyễn Thị Bình (2005) – Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết
Việt Nam gần đây, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 11, tr. 61-66.
10. Nguyễn Thị Bình (2003) – Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực
trong văn xuôi nước ta từ sau 1975, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 4, tr. 21-25.
11. Anh Chi (2009) – Hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái, Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 8 , tr. 47-56.
12. Trương Đăng Dung (1996) – Tác phẩm văn học như là quá trình,
Tạp chí văn học, số 12 , tr. 19-27.
13. Trương Đăng Dung (2002) – Phương thức tồn tại của tác phẩm văn
học, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 7, tr.36-47 và số 8, tr. 7-18.

107
14. Trương Đăng Dung (2011) – Khoa học văn học hiện đại, hậu hiện
đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 8 , tr. 12-25.
15. Phan Cự Đệ (2004) (chủ biên) – Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB
Giáo dục, HN
16. Nguyễn Đăng Điệp (2013) – Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc,
Cõi người rung chuông tận thế, tr. 384-405.
17. Hà Minh Đức (2003) (chủ biên) – Lí luận văn học, NXB Giáo dục, HN.
18. Hà Minh Đức (2002) – Vũ Trong Phụng và xã hội thời hiện đại,
Tạp chí nghiên cứu văn học, số 11, tr. 10-17.
19. Hà Minh Đức (2008) – Hưởng thụ văn hóa và văn hóa hưởng thụ,
Tạp chí nghiên cứu văn học, số 10, tr. 38-47.
20. Hà Minh Đức (2009) – Nền kinh tế thị trường và những ảnh hưởng đến
các hoạt động tinh thần của xã hội, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 2, tr. 3-12.
21. Hoàng Cẩm Giang (2010) – Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Nam đầu thế kỉ XXI, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 4, tr. 90-104.
22. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995) – Quan niệm nghệ thuật
về con người trong văn xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng Tám. Chương
trình KHCN cấp nhà nước KX – 07, Đề tài KX – 07 – 01.
23. Nguyễn Thị Ngọc Hà (2008) – Kết cấu tiểu thuyết hiện đại qua tiểu
thuyết Hồ Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
24. Phạm Thị Ngọc Hà (2009) – Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác
của Hồ Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHKHXH và NV Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Hạnh (2011) – Văn chương trước hết và cuối cùng là
chuyện về con người, về sự sống, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 7, tr. 111-116.
26. Đào Duy Hiệp (2008) – Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại,
NXB Giáo dục, Quảng Nam.

108
27. Nguyễn Thị Minh Hoa (2010) – Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu
thuyết “Mười lẻ một đêm” của Hồ Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư
phạm Hà Nội.
28. Lê Thị Hoa (2011) – Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh qua thế giới
nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH
sư phạm Hà Nội.
29. Tô Hoài (1977) – Sổ tay viết văn – NXB Tác phẩm mới, HN.
30. Nguyễn Chí Hoan (2014) – Truyện: không là truyện, nhân vật:
không là nhân vật, ấy là truyện, Bốn lối vào nhà cười, tr. 259-266.
31. Nguyễn Công Hoan (1971) – Đời viết văn của tôi, NXB Văn học.
32. Cao Hồng – Nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hóa trong truyện ngắn
Lê Minh Khuê, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, số 2, tr.75-82.
33. Nguyễn Thị Thu Huệ (2001) – 21 truyện ngắn Thu Huệ, NXB Hội
nhà văn, HN.
34. Nguyễn Thị Thu Huệ (2012) – Thành phố đi vắng, NXB Trẻ, HCM.
35. Nguyễn Nhật Huy (2011) – Liên văn bản trong tiểu thuyết Hồ Anh
Thái (qua tiểu thuyết Đức phật, nàng Savitri và tôi), Luận văn thạc sĩ, Trường
ĐH sư phạm Hà Nội.
36. Lê Thị Thu Hương (2007) – Nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Hồ
Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
37. Lê Thị Thu Hương (2007) – Nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Hồ
Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
38. Lê Minh Khuê (2013) – Người còn đi dài với văn chương, Cõi
người rung chuông tận thế, 264-275.
39. Phùng Ngọc Kiếm – Nhân vật vô danh trong “Tự sự 265 ngày” – từ
cái nhìn so sánh với văn học phi lí – Tự sự 265 ngày, tr. 252-276.
40. Phùng Kiên (2010) – Phiên chợ Giát từ góc nhìn hiện đại, Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 9, tr. 94-106.

109
41. Ngọc Lan (2006) – Nhà văn đích thực phải là người tử tế, Mười lẻ
một đêm, tr. 339-344.
42. Tôn Phương Lan (2014) – Người luôn làm mới mình, Bốn lối vào
nhà cười, tr. 267-274.
43. Lê Hồng Lâm (2001) – Phong cách không phải là cái vỏ ngoài bất
biến và ngoan cố, Tự sự 265 ngày, tr. 222-229.
44. Lê Hồng Lâm (2002) – Người đi qua bóng mình, Cõi người rung
chuông tận thế, tr. 257-263.
45. Phong Lê (2005) – Tiểu thuyết Việt Nam mở đầu thế kỉ XXI trong
tiến trình văn học Việt Nam từ tháng Tám – 1945, Tạp chí nghiên cứu văn
học, số 9, tr. 13-28.
46. Phong Lê (2010) – Vài nét tiếp cận lịch sử và giá trịn văn xuôi Việt
Nam hiện đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 3, tr. 3-12.
47. Phạm Thị Phương Loan (2013) – Sự tha hóa của con người trong
“Giông tố” và “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Tây Bắc.
48. Nguyễn Văn Long – Lê Thị Thu Hằng (2012) – Những cách tân
nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI nguồn: http://vannghe
quandoi.com.vn/802/ news-detail/391352/phe-binh-van-nghe/nhung-cach-tan-
nghe-thuat-cua-tieu-thuyet-viet-nam-dau-the-ki-xxi.html, 23/10/2012.
49. Nguyễn Văn Long (2001) – Văn học Việt Nam trong thời đại mới,
NXB Giáo dục, HN.
50. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006) – Văn
học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo
Dục, HN.
51. Phương Lựu (chủ biên) (2003) – Lí luận văn học, NXB Giáo Dục, HN.
52. Phương Lựu (2010) – Khái quát và tranh luận trực tiếp về văn hóa
hậu hiện đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 8, tr. 3-16.

110
53. Tôn Thảo Miên (2013) – Thị hiếu thẩm mĩ của công chúng – nhìn từ
đời sống văn học Việt Nam đương đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 2, tr. 76-84
54. Hà Minh (2006) – Suy nghĩ về một vài hướng tìm tòi đổi mới trong
văn học, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 4, tr. 21-28.
55. Hoài Nam (2009) – Chất hài hước, nghịch dị trong Mười lẻ một
đêm, Mười lẻ một đêm, tr. 370-380.
56. Hoài Nam – Hồ Anh Thái – người lúc nào cũng đang viết, nguồn:
http:// giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/ho-anh-thai-nguoi-luc-nao-
cung-dang-viet-1973009.html, 25/1/2008.
57. Lê Thanh Nga (2006) – Thân phận con người trong sáng tác của
Franz Kafka, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 3, tr. 107-117.
58. Lã Nguyên (2007) – Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Tạp chí văn học, số 12, tr. 12-38.
59. Nhà xuất bản hội nhà văn (2005) – Nguyễn Huy Thiệp – truyện
ngắn, HN.
60. Nhà xuất bản văn học (2005) – Tuyển tập Nam Cao, tập 1, 2, HN.
61. Vương Trí Nhàn – Bảy bước tới tha hóa, nguồn: http://
vuongtrinhan. blogspot. com/2013/11/bay-buoc-toi-tha-hoa.html, 4/11/2013.
62. Trần Thị Mai Nhân – (2006) – Kiểu nhân vật “tha hóa” trong tiểu
thuyết về chiến tranh sau 1975, Tạp chí Khoa học Đại học sư phạm TP HCM,
số 9, tr.91-103.
63. Nhiều tác giả (2004) – Từ điển văn học, NXB Thế giới.
64. Nhiều tác giả (2004) – Văn học phương Tây, NXB Giáo dục, HN.
65. Đỗ Hải Ninh (2011) – Mối quan hệ giữa tự truyện – tiểu thuyết và
một số dạng thức tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại, Tạp chí nghiên
cứu văn học, số 8, tr. 113-122.

111
66. Hà Quảng – Văn xuôi hậu hiện đại Việt, đôi điều trao đổi… nguồn:
http://vanvn.net/news/16/3363-van-xuoi-hau-hien-dai-viet--doi-dieu-trao-
doi.html, 13/4/2013.
67. Nghiêm Xuân Sơn (chủ biên) – Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1,2,
NXB văn học, HN.
68. Trần Đăng Suyền (2002) – Về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm văn
học, Tạp chí văn học, số 9, tr. 12-18.
69. Trần Đăng Suyền (2002) – Cá tính sáng tạo và đặc điểm tiểu thuyết
hiện thực Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 10, tr. 22-28.
70. Trần Đăng Suyền (2004) – Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB
khoa học xã hội.
71. Trần Đình Sử (2009) – Thi pháp học hiện đại trong nghiên cứu văn
học ở Việt Nam thế kỉ XX, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 2, tr. 13-25.
72. Trần Đình Sử (2013) – Sáu mươi năm đồng hành cùng tiến trình
văn học Việt Nam đương đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 11, tr. 13-16.
73. Nguyễn Thanh Tâm (2011) – Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Hồ
Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHKHXH và NV Hà Nội.
74. Nguyễn Hữu Tâm (2006) – Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết
Hồ Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
75. Nguyễn Bá Thạc (2007) – Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của
Hồ Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
76. Đỗ Ngọc Thạch (2010-2011) – Vài đặc điểm văn xuôi hiện đại Việt
Nam, nguồn: http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=1583.
77. Hồ Anh Thái (2014) – Bốn lối vào nhà cười, NXB Trẻ, HCM.
78. Hồ Anh Thái (2013) – Cõi người rung chuông tận thế, NXB Trẻ, HCM.
79. Hồ Anh Thái (2012) – Dấu về gió xóa, NXB Trẻ, HCM.
80. Hồ Anh Thái (2010) – Đức Phật, nàng Savitri và tôi, NXB Thanh
niên, HN

112
81. Hồ Anh Thái ( 2014) – Mảnh vỡ của đàn ông, NXB Trẻ, HCM.
82. Hồ Anh Thái (2003) – Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng
hiện ra, NXB Phụ nữ, HN.
83. Hồ Anh Thái (1987) – Người và xe chạy dưới ánh trăng, NXB Tác
phẩm mới, HN.
84. Hồ Anh Thái (2012) – SBC là săn bắt chuột, NXB Trẻ. HCM
85. Hồ Anh Thái (2014) – Tiếng thở dài qua rừng kim tước, NXB Trẻ, HCM.
86. Hồ Anh Thái (2014) – Tự sự 265 ngày, NXB Trẻ, HCM.
87. Hồ Anh Thái (2014) – Những đứa con rải rác trên đường, NXB
Trẻ, HCM.
88. Hồ Anh Thái (2009) – Mười lẻ một đêm, NXB Lao động, HN
89. Nguyễn Thị Minh Thái – Mười lẻ một đêm, cái nhìn hắt sáng từ
phía sau, Mười lẻ một đêm, tr. 360-369
90. Nguyễn Thị Kim Thanh (2012) – Văn hóa Ấn Độ trong sáng tác
của Hồ Anh Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHKHXH và NV Hà Nội.
91. Phạm Thị Bích Thảo (2006) – Thế giới nhân vật tha hóa trong hai
tác phẩm Ơgiêni Grăngđê và Lão Gôriô của Balzăc, Khóa luận tốt nghiệp đại
học, Trường Đại học Vinh
92. Nguyễn Thị Thắng (2011) – Nhân vật trong tác phẩm Franz Kafka,
Luận án tiến sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
93. Phùng Gia Thế (2012) – Tính bất khả tín, hàm hồ trong thế giới
nghệ thuật văn xuôi Việt Nam đương đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 12,
tr.60-71.
94. Phùng Gia Thế - Điều kiện hậu hiện đại của văn học Vệt Nam,
nguồn: http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/phe-binh/5140-dieu-
kien-hau-hien-dai-cua-van-hoc-viet-nam.html.

113
95. Nguyễn Thành Thi – Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, nguồn: http://phongdiep.net/default.asp?action=article &ID=
11059, 2010.
96. Lã Nhâm Thìn (2002) – Đặc trưng quan niệm nghệ thuật về con
người của Nguyễn Trãi, Tạp chí văn học, số 10 tr. 45-48.
97. Trần Nho Thìn (2002) – Tính hệ thống của tiến trình lịch sử văn
học Việt Nam, Tạp chí văn học, số 7, tr. 58-67.
98. Võ Thị Thoa – Vấn đề tình dục trong văn học Việt Nam sau 1975,
nguồn: http://tapchivan.com/tin-van-hoc-viet-nam-van-de-tinh-duc-trong-
van-hoc-viet-nam-sau-1975-(vo-thi-thoa)-657.html, 4/8/2013.
99. Lưu Khánh Thơ (2005) – Từ quan niệm về thơ đến lí luận về tiểu
thuyết – bước tiến trên con đường hiện đại hóa văn học dân tộc, Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 4, tr. 71-80
100. Lưu Khánh Thơ (2010) – Một hướng tiếp cận văn học Việt Nam
hiện đại, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 8, tr. 113-118.
101. Bích Thu (2006) – Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì
đổi mới, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 11, tr. 15-30.
102. Lí Hoài Thu – Hoàng Cẩm Giang (2011) – Một cách nhìn về tiểu
thuyết hậu hiện đại ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 6, tr. 74-88.
103. Lí Hoài Thu – Hoàng Cẩm Giang – Tiểu thuyết hậu hiện đại ở Việt Nam
một cái nhìn lịch đại trên bình diện đồng đại, nguồn: https://www.facebook.com/
TrangVan HocDaiHocTayBac/posts/318244074962073, 11/2013.
104. Phạm Thị Thu – Vài nét so sánh về nhân vật tha hóa trong truyện
ngắn của Akutagawa (Nhật Bản) và của Nam Cao (Việt Nam), nguồn: http://
www.inas. gov.vn/506-vai-net-so-sanh-ve-nhan-vat-tha-hoa-trong-truyen-
ngan-cua-akutagawa-nhat-ban-va-cua-nam-cao-viet-nam.html, 2/11/2014

114
105. Hỏa Diệu Thúy – Cái lạ trong truyện ngắn Hồ Anh Thái, nguồn:
http://hoanh thai.vn/Tac-Pham/Cai-la-trong-truyen-ngan-Ho-Anh-Thai-Ky-1-
81.html.
106. Hoàng Thu Thủy (2009) – Điểm nhìn trong tiểu thuyết Hồ Anh
Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
107. Hoàng Vũ Thuật – Con người tha hóa cô đơn và khát vọng,
nguồn: http://hoangvuthuat.vnweblogs.com/post/2752/401636, 7/11/2005.
108. Lê Ngọc Trà (2007) – Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới,
Tạp chí nghiên cứu văn học, số 1, tr. 35-51.
109. Bùi Thanh Truyền, Lê Biên Thùy – Hồ Anh Thái và dấu ấn hậu
hiện đại, nguồn:http://tapchivan.com/tin-van-hoc-viet-nam-ho-anh-thai-va-
dau-an-hau-hien-dai-625.html, 30/3/2013.
110. Nguyễn Thị Vân (2005) – Nghệ thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái,
Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
111. Hoàng Thị Xuân (2008) – Hồ Anh Thái và những nỗ lực cách tân
tiểu thuyết, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Hà Nội.
112. E. Mounier (1970) ( dịch giả Thụ Nhân) – Những chủ đề triết hiện
sinh, NXB Nhị Nùng, Sài Gòn.
113. Jacques Colette (2011) ( dịch giả Hoàng Thạch) – Chủ nghĩa hiện
sinh, NXB Thế giới, HN.

115

You might also like